Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010

Trần Mạnh Hảo – Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước

Về mối quan hệ giữa Tự Đức và Nguyễn Du, hay là vấn đề muôn thuở của tự do sáng tác

(Tham luận của nhà văn Trần Mạnh Hảo tại Đại Hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII. Đọc tại Hội trường Ba Đình – Hà Nội chiều ngày 23-4-2005)

Kính thưa quý vị đồng nghiệp tôn quý,

Kính thưa quý vị lãnh đạo và quan khách

Trần Mạnh Hảo tôi tuy 70 ký nhưng thực ra chỉ là một con sâu, nói đúng hơn, là một con sâu ăn lá dâu internet, nghĩa là mới đốc ra mê các tờ báo mạng, dù sáng nào cũng phải vượt qua bức tường lửa mới đọc được cái gì mình thích đọc, mà không cần ai chọn món ăn tinh thần giùm cho mình như bà bảo mẫu chọn cháo, hay thực đơn sữa cho trẻ nhỏ. Sáng sớm 21-4-2005, tôi đang đọc báo mạng, thì nhà thơ Hữu Thỉnh gọi vào bảo: Ông viết tham luận chưa, gửi bằng email ra ngay để đăng ký đọc sớm. Tôi bảo: thôi anh Thỉnh ạ, tôi xin im lặng ngồi nghe là quý cho Đại hội bội phần rồi, cho tôi lên tiếng là hơi bị mệt đấy. Anh Thỉnh bảo: ông cứ viết đi, viết cho hay vào! Tôi ra điều kiện: tôi sẽ viết tham luận, nhưng viết thật lòng những suy nghĩ của mình về nghề văn, cả điều vui và nỗi buồn, mong được sự “đối thoại” lại của đồng nghiệp, thậm chí của sự giải thích từ cấp trên, nếu cấp trên “hạ cố” đối thoại cùng văn nghệ. Anh Thỉnh khuyến khích: thì có ai cấm ông nói thật đâu. Vâng, được lời như cởi tấm lòng, tôi xin thành thật đây, mặc dù biết: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Bài tham luận này của tôi, vì sự thật đôi lúc rất khó nghe, có làm mất lòng ai đó thì xin làm ơn bỏ quá cho, cũng đừng vỗ tay đuổi xuống mà lớp trẻ nó lại cười cho rằng các bố già không biết “đối thoại”, ai nói hơi trái tai một tí là “Phong Lai mặt đỏ phừng phừng”. Vâng, vì tương lai của nền văn học, hơn nữa là tương lai của văn hóa Việt Nam mà chúng ta có mặt ở đây, trong Hội trường Ba Đình lịch sử này, không chỉ để hoan hỉ chén chú chén anh đặng bầu bán nhau lên chấp hành chấp tỏi, mà thiết yếu là bàn xem, làm cách nào có được tác phẩm lớn như nghị quyết đảng từng nhiều lần yêu cầu chúng ta.

Tương truyền, vua Tự Đức là người rất mê Truyện Kiều, như mê “Đập cổ kính ra tìm lấy bóng / Xếp tàn y lại để dành hơi”. Nhưng khi đọc đến câu thơ Nguyễn Du viết về Từ Hải : “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”, nhà vua đập bàn quát: “Bắt ngay Nguyễn Tiên Điền vào đây cho ta, quất cho 20 roi để gã biết trên đầu còn có ai hay không?”. Quan hầu thưa: “Muôn tâu Hoàng thượng, Nguyễn Tiên Điền tịch đã khí lâu rồi thưa Hoàng thượng!”. Nhà vua không thể rút lệnh đánh roi Nguyễn Du về được, bèn phán: “Treo cái án 20 roi ta ban cho Nguyễn Du lên giữa giời, để bọn văn nhân thi sĩ đời sau nhìn thấy gương tày liếp này mà liệu liệu cái thân phận bút nghiên thấp cổ bé họng thi với phú cứ thích chơi trèo!”. Hai trăm năm qua rồi, hậu thế vẫn còn mừng cho Nguyễn Du không bị vua nọc ra đánh toét đít, bởi vì cái chết đã cứu ông! Cũng may vô cùng cho hậu thế, may vô cùng cho văn hóa Việt Nam, đội ơn vua Tự Đức bội phần. Ngài đã không vì một câu thơ “khi quân” của Truyện Kiều mà ra lệnh đốt hết sách Nguyễn Tiên Điền hay bỏ Đoạn trường tân thanh vào cối giã để lấy giấy tái chế như hôm nay. Ngài đã hy sinh cái “sĩ diện thiên tử” bị xúc phạm đi, như nuốt một mối nhục lớn, để dâng hiến cho ngàn sau dân tộc một kiệt tác vĩ đại nhất là Truyện Kiều mà Ngài từng rung đùi thưởng ngoạn cùng trăng thanh gió mát nơi Khiêm Lăng tuyệt mỹ. Ôi, giá mà thời nay có được vài ông vua như vua Tự Đức thì mấy cuốn sách “hiền như bụt” kiểu: Thượng Đế thì cười của Nguyễn Khải, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh… dù lục lọi mỏi tay, tìm bới mỏi mắt cũng chẳng thấy một câu văn khi quân nào, đã không phải ném vào máy nghiền để thành bột giấy! Than ôi, thời Nguyễn Du, thời vua Tự Đức làm gì đã có pháp lệnh: “ TỰ DO SÁNG TÁC” như hôm nay. Nhưng cái món roi vọt kia vốn là món sở trường vua chúa Trung Hoa dành cho văn thi sĩ, tuy chưa kịp quất vào thân xác Nguyễn Du, thì nó vẫn còn hằn đầy ra đấy trong Truyện Kiều. Mỗi câu lục bát nổi lên như một vết lươn không chỉ của lằn roi định mệnh quất nỗi đau lên trang giấy xưa, mà là đòn roi hiện thực Tú Bà quất vào thân xác Thuý Kiều, hiện thành thơ rơm rơm máu, xót xa lòng mai hậu nỗi kêu thương đoạn trường muôn thuở. Về mối quan hệ giữa roi vọt và thi ca, tôi đã viết bài tứ tuyệt có nhan đề : Tú Bà định hướng Thúy Kiều như sau : “Này tấm lòng trinh bạch / Bà đánh chừa nghe con / Thúy Kiều đâu trang sách / Để câu thơ chịu đòn”…

Để truyền nỗi đoạn trường của thời đại mình lại cho hậu thế, cũng chính là nỗi buồn đau muôn thuở kiếp người một cách đệ nhất tài tình, đệ nhất rung động nhường ấy, tôi đồ rằng, khi ngồi viết Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết với tâm thức tự do sáng tác tuyệt đối. Nghĩa là trong thế giới sáng tạo của bút nghiên, thi sĩ chính là Thượng Đế, là ông chủ của vũ trụ thi hứng, phải ứng xử như đấng toàn năng với nguyên tắc bất di bất dịch: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!”. Vâng, tự do sáng tác là khi ngồi trước trang giấy, nhà nghệ sĩ là Chúa Trời sáng thế. Anh tuyệt nhiên không được phép để một ám ảnh sợ hãi nào quấy nhiễu mình. Ví như anh còn phải day dứt viết thế này, viết thế nọ mới được duyệt in; rằng đang có bao nhiêu đôi mắt soi mói vô hình kiểm duyệt anh từ xa ví như viết xong một câu văn là cứ phải mắc bệnh tương tư, nhớ đến anh Khổng Minh Dụ [1], anh Đỗ Kim Cuông [2], anh Trịnh Đình Khôi [3], anh Nguyễn Đình Nhã [4], anh Vũ Duy Thông [5], nhớ mấy anh canh cửa phê bình, nhớ anh giám đốc duyệt bài, anh biên tập viên cầm hai tay hai cái kéo, nhớ anh duyệt lưu chiểu hồi này với máy dò câu chữ nghe đồn còn kỹ hơn máy dò hành lý hải quan; thì than ôi, bằng ấy cơ chế kiểm duyệt đè nặng lên tâm lý sáng tạo của anh, nên “vừa viết vừa run” như thế; nghĩa là anh vừa viết vừa tự thiến đứa con tinh thần của mình, cho khi ra đời nó không được có cơ hội cuồng lên vì phát dục, xóa hết bản năng sinh tồn bùng sôi của nó đi, đẽo gọt chân nó sao cho vừa với đôi giày “chính trị” đi, thì nhà văn ơi, tự do sáng tác ơi, ta chào mi, vì mi quá nhiêu khê, quá rách việc, quá nhiều cơ quan và nhiều cá nhân quyết định việc sống còn của ngòi bút mi theo kiểu nhiều cha con khó lấy chồng. Quá nhiều người gác cửa, có thể bất cứ lúc nào vui thì cho anh qua, buồn thì giữ anh lại khám xét, lục vấn, xử lý cấm cản tùy tiện vô nguyên tắc như từng thô bạo xử lý bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu tác phẩm chết oan vì vừa ra đời đã bị bóp mũi.

Với cơ chế luật pháp lằng nhằng, cấm thì bảo cấm, thu hồi thì bảo thu hồi, kiểm duyệt thì bảo kiểm duyệt y như thời Tây đi một nhẽ thì nhà văn sẽ mừng vô cùng. Nhưng Đảng ta bảo, chế độ ta tự do báo chí, tự do sáng tác, không kiểm duyệt mà khi thực hiện thì than ôi, ai có qua cầu mới biết, gò bó cấm cản muôn phương. Thời Tây, nước ta mất, dân ta nhục, Tây nó bảo tao không cho chúng mày tự do sáng tác, tự do báo chí, tao kiểm duyệt rõ ràng đây này; luật nó khiếp hãi, gian ác là vậy mà dân ta rón ra rón rén đến cười cười nói nói giả lả làm quen, thử xin nó ra báo tư, xuất bản tư xem thằng Tây này mày nô lệ các quan đến hồi nào mới thôi đây! Tây xem giấy phép tí tẹo xong, cho liền anh này ra báo tư, anh kia xuất bản tư, mừng quá! Thời Mặt trận Bình dân nó còn cho cả báo chí, xuất bản của đảng cộng sản ra công khai, mới có hàng loạt tiểu thuyết lớn xuất hiện, tố cáo chính chế độ gian ác, phản tự do, phản dân chủ của nó;mà thằng Tây gian ác cũng lạ, sách ra, có nhẽ nó cóc đọc được tiếng Việt nên nó cóc có cấm, cóc có Ban tư tưởng, cóc có A 25, có hàng chục cơ quan, hàng trăm người có thể thò tay thò chân vào nắn nắn từng con chữ như chế độ độc lập tự do bây giờ. Trong thời Tây nô lệ muôn vàn, gian ác muôn vàn, không hiểu các bố nhà văn ta hồi ấy lấy tự do sáng tác ở đâu ra mà sinh ra bao nhiêu kiệt tác: Số đỏ, Chí Phèo, Tắt đèn, Kép Tư Bền, Bỉ vỏ, Vang bóng một thời, “Thơ Mới” 1932-1945… truyền tới hôm nay! Viết báo viết văn chống Tây, công bằng nó cũng bắt, cũng bắn, cũng bỏ tù một mớ, nhưng thường thì nó chép miệng bảo: chuyện vặt, cho chúng mày chửi, coi như tao xả xú bắp cho dân chúng An Nam mít chúng mày, ăn thua mẹ gì, xưa nay trong lịch sử nhân loại có thấy bọn văn sĩ nhát như cáy miệng hùm gan sứa kia đưa tiểu thuyết, thi ca ấm ớ ra mà lật đổ được triều đại nào bao giờ?

Khi đưa nhân vật cô gái lầu xanh Thúy Kiều ra làm nguyên mẫu cho cái đẹp, nâng cô gái phạm húy, phạm phong, phạm pháp kia lên thành nguyên lý CHÂN THIỆN MỸ CỦA THỜI ĐẠI, Nguyễn Du đã vượt qua mặt chế độ phong kiến dã man, vỗ cái đốp vào mặt chế độ nó nảy đom đóm mắt ra như thế mà nó tha chết cho thì kể cũng là một sự thậm hay và thậm lạ! Rồi Nguyễn Du lội qua chế độ phong kiến chưa có đảng ta lãnh đạo ấy mà tiến thẳng tới thời đại tự do dân chủ định hướng xã hội chủ nghĩa hôm nay, chính nhờ có nguyên tắc sáng tạo: “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!” đấy. Cái mà thời nay ta gắn cho nhà văn một thiên chức vô cùng tốt đẹp, vô cùng cao quý là: “Nhà văn là người hướng dẫn tinh thần thời đại”.Thời đó, Việt Nam ta chưa có chủ nghĩa Marx, chỉ có Nho giáo là tư tưởng chính thống của thời đại. Mà Nho giáo thì cương cường nghiêm chỉnh, khắc khổ, tu thân: “trai thì trung hiều làm đầu/ Gái thì tiết hạnh là câu trau mình”; Nho giáo chúa là ghét chuyện ong bướm, chuyện lả lơi trai trên gái dưới gần như là chuyện phản động, thế mà Nguyễn Du lại đưa một cô gái lầu xanh ra từ nhà thổ để thông qua chữ hiếu của nàng, thông qua vẻ đẹp thân xác và tâm hồn của nàng mà xóa sổ những giáo điều giả dối phong kiến, đưa cô gái bị xã hội cho là thập thành ấy lên thành BÀ CHÚA CỦA CÁI ĐẸP thì “tội” ấy còn ghê hơn cả tội khi quân !

Thế mới biết quan niệm thẩm mỹ về văn học của ông cha ta thoáng vô cùng! Nguyễn Du tất nhiên là thoáng vô cùng, mà Tự Đức cũng vô cùng thoáng, không thì làm gì chúng ta có được Truyện Kiều trên tay.Hy vọng, những nhà quản lý văn học nghệ thuật của chúng ta hôm nay cần phải học được lối ứng xử với nhà văn không hơn được thì ít ra cũng bằng với ông cha, mới hy vọng có tác phẩm lớn. Xin thực hiện đúng cương lĩnh ‘TỰ DO SÁNG TÁC’ của Đảng và Nhà nước vẫn ban hành, xin bơn bớt giùm đi các cấp trung gian, quan tâm tới nhà văn vượt mức các chỉ tiêu trên giao thì quý hóa biết là chừng nào. Xin chư vị Bắc Đẩu Nam Tào chứng giám, nếu NÓI và LÀM đượp khớp với nhau đẹp đôi như Nguyễn Du – Thúy Kiều (nhà văn và nhân vật) thì cánh viết lách chúng em đây cứ là mở cờ trong bụng như lúa chiêm tháng Tư này đang ngấp nghé đầu bờ, chờ tiếng sấm mưa móc tự do của Đảng, hồn vía lúa sẽ phừng phừng phọt lên mà phất đòng đòng sáng tác, báo hiệu vụ chiêm văn học bội thu chứ chẳng chơi; rồi thì chúng em rúc rích họp cho hết đại hội VII nhà văn xong là lại tưng bừng, phấn khởi chuẩn bị họp tiếp đại hội VIII ạ! Chúng em sẽ túc tắc bảo nhau mà viết ra tác phẩm xứng đáng với thời đại, với dân tộc Việt Nam; một dân tộc mà số phận đã dành cho nó một khung cửa hẹp vào thiên đường độc lập tự do qua hàng triệu hy sinh xương máu, để cho quyền làm người được có cơ tồn tại dưới mặt trời, như chính Nguyễn Du, và Thúy Kiều từng khát vọng.

Hình như, trong kỳ họp Đại hội nhà văn lần thứ VII này, tôi đã manh nha thấy cái tinh thần cha ông xưa, cái quan hệ giữa chính trị và văn nghệ vừa cương vừa nhu, vừa thương khó, vừa phục sinh, vừa thủy vừa hỏa tương khắc mà thực ra là tương hỗ . Truyện Kiều sở dĩ có được là bởi nó biết cách thai nghén, giáng sinh trong hang Betlem bò lừa của tự do sáng tác, nơi lãnh đạo chính trị và văn nghệ quan hệ với nhau theo nguyên mẫu cặp bài trùng kỳ ảo giữa Tự Đức và Nguyễn Du, rất nên được tham chiếu hôm nay. Chừng như mối quan hệ ấy đang ẩn hiện thấp thoáng đâu đây như khói như sương, giục giã chúng ta cùng tiễn đưa những rào cản đi khỏi nỗi sợ hãi của nhà văn, như xưa nàng Kiều từng tiễn đưa Thúc Sinh (hay tiễn đưa chính cái chuyện tình dấm dúi bán chính thức nhá nhem tối sáng của mình lên đường, đi tìm danh chính ngôn thuận dưới mặt trời). Đoạn, cùng nhau mà lảy Kiều, rằng: “ Người lên ngựa, kẻ chia bào / Rừng văn nghe sắp nhuốm màu rưng rưng” ( Xin cụ Nguyễn Du tha lỗi) và xin chấm hết ở đây./.

Sài Gòn 22-4-2005

TMH

CHÚ THÍCH:

[1] Khổng Minh Dụ: Thiếu tướng công an – Cục trưởng Cục Bảo vệ tư tưởng văn hóa (A 25) Bộ Công an

[2] Đỗ Kim Cuông: Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương

[3] Trịnh Đình Khôi: chuyên viên cao cấp Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương phụ trách theo dõi Hội Nhà văn VN

{4]Nguyễn Đình Nhã: Cục trưởng Cục xuất bản – Bộ Văn hoá Thông tin

[5] Vũ Duy Thông : Cục trưởng Cục Báo chí Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương

(Sau khi bài đã được đọc một ngày, chiều 24-4-2005 Thiếu tướng Khổng Minh Dụ – Cục trưởng Cục Bảo vệ tư tưởng văn hóa Bộ Công an có lên diễn đàn phản ứng tham luận này của Trần Mạnh Hảo).

Nguồn: tác giả trực tiếp gửi cho BVN

HT Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Sự thật và giải phóng

VOA: Thưa nhà văn Trần Mạnh Hảo, tại sao ông nói Việt Nam có nguy cơ tiêu vong?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Nguy cơ tiêu vong hiển hiện rất rõ vì trước hết là do ngoại bang xâm lược. Bởi vì mục đích nghìn đời của các vương triều phương Bắc là sáp nhập Việt Nam – tức An Nam cũ, Giao Chỉ cũ – vào với Trung Hoa. Thời nào cũng thế, mục đích của họ là như thế. Thời nay cũng vậy, mục đích của họ là sáp nhập Việt Nam và Đông Dương này vào nước Trung Hoa của họ; mà những bước đi của họ đã nhìn thấy nhãn tiền rồi. Tôi nghĩ cứ đã này thì có thể 100 năm nữa Việt Nam không còn.

VOA: Ngoài nguy cơ tiêu vong do Trung Quốc còn nguy cơ nào khác, thưa ông?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Còn nguy cơ gọi là nội xâm, tức là giặc ở tự bên trong. Nội xâm này là sự tham nhũng quá lớn của chính quyền, rồi sự tha hóa về đạo đức, con người với con người đối xử với nhau tàn bạo dã man; bởi vì nó là cái thuyết đấu tranh giai cấp, thuyết đó nó dẫn người ta đến cái ác, làm cho người ta đối xử với nhau bằng cái ác thôi, phải tiêu diệt nhau, làm cho con người không còn văn hóa, không còn yếu tố bên trong. Những thứ đó cũng có thể triệt tiêu dân tộc Việt Nam.

VOA: Thưa ông, tại sao ông nói khẩu hiệu “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm” là một khẩu hiệu hết sức duy tâm, và hoàn toàn chống lại thuyết Mác-xít?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Cái đó nó rõ ràng rồi. Bởi vì muôn năm là mãi mãi, mà ông Các Mác đã giải thích sở dĩ loài người đau khổ vì còn phân chia giai cấp, cho nên mục đích của ông là xóa giai cấp đi, không còn giai cấp tư sản, không còn giai cấp vô sản; tức là đảng của giai cấp vô sản, tức là đảng Cộng sản cũng bị xóa đi. Đến khi đảng cộng sản bị xóa đi, giai cấp vô sản không còn, giai cấp tư sản không còn, mà loài người theo ông rất sung sướng thì lúc đó không còn đảng, không còn giai cấp thì đảng cộng sản cũng mất đi rồi thì mới tiến lên thế giới đại đồng được. Còn đằng này các ông ấy hô lên là đảng của các ông ấy muôn năm, muôn năm tức là mãi mãi. Thế thì các ông ấy chống lại Mác chứ, giống như bây giờ nói “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”, tức là hoàn toàn ngược lại, chống lại, treo cổ chủ nghĩa Mác. Cái đó nó không chính danh.

VOA: Vì sao ông nói kiếp người ở Việt Nam “tủi hổ hơn là kiếp bò”?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo:
Đó là cái mà anh bạn tôi nói. Bởi vì cứ 5 người ra đường mà đi chung với nhau là bị bắt, cái lệnh ông Phan Văn Khải ký không được đi quá 5 người ra đường mà tụ tập đi hàng dọc là bị bắt, không cho phép 5 người ra ngoài đường đi với nhau, hay là tụ tập ngoài đường hay tụ tập bất cứ nơi công cộng nào. Thế thì ông bạn tôi ông ấy thấy những đàn bò đi đầy trên đường số 1, đi vài chục con chẳng có bị bắt gì cả. Ở các đường làng, ở các thành phố nhỏ, trâu bò mấy chục con vẫn đi ung dung ra đường, chẳng thấy nhà nước công an bắt gì cả. Ông ấy thấy vậy thì ông tủi quá, người đi ra đường 5 người thì nó bắt, bò với trâu mấy chục con đi ung dung tự do. Cho nên ông bảo đảng và nhà nước tử tế với trâu bò nhưng không tử tế với người, thế thôi.

VOA: Tại sao ông nói nếu Các Mác có sống lại và xuất hiện ngay giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay thì chắc chắn ông ấy sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay lập tức?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Chắc chắn là như vậy. Nếu ông Các Mác tự nhiên lại xuất hiện với bộ com-lê, giày bóng loáng, bộ râu tóc trắng xóa như thế thì chắc chắc bị bắt vì ông Mác chống lại kiểm duyệt báo chí và độc tài trong báo chí. Ông ấy cực kỳ lên án báo chí kiểm duyệt của vua Phổ, ông ấy ca ngợi sự tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Không có tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản, không có tự do xuất bản của tư bản thì không có chủ nghĩa Mác. Cho nên ông ấy là người chống lại kiểm duyệt báo chí, chống lại sự độc tôn độc quyền trong báo chí, và ông ấy là người quảng bá cho tự do ngôn luận, cho các thứ tự do của con người. Thế thì ông ấy xuất hiện ở đây mà thấy những tự do này bị cấm cản thì ông sẽ chửi ầm lên và sẽ bị bắt thôi.

VOA: Thưa ông, tại sao ông nói cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào khái niệm “kinh tế thị trường” của nhà nước Việt Nam là một cái đuôi giả?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Tôi muốn nói cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” là một cái đuôi bằng nhựa, và được chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Bởi vì kinh tế thị trường tức là kinh tế tư bản, mà kinh tế tư bản lại gắn một cái đuôi giả, là “định hướng xã hội chủ nghĩa”, vậy thì định hướng là sao? Định hướng là người ta xác định phương hướng, xác định được cụ thể điểm đến. Chứ còn Xã hội chủ nghĩa nó còn mông lung lắm, đã có ai xác định được điểm đến đâu, nó là một xã hội không có thật. Có bao giờ người ta lại định hướng đến một cõi không có thật không? Cho nên đó là một cách nói để câu giờ, một cách nói để các ông ấy ngồi đấy các ông ấy cầm quyền, lãnh đạo; chứ thực ra nó là một yếu tố ảo, nó là phi lô-gic và phản khoa học, nó nói bậy bạ, một chuyện nực cười, không ra cái gì cả!

VOA: Tại sao ông nói khẩu hiệu “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là một khẩu hiệu hết sức buồn cười?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Chủ nghĩa xã hội như tôi định nghĩa là món không có thật, thế thì ông yêu nước là ông yêu Việt Nam có thật, thì ông cứ yêu nước Việt Nam chứ việc gì phải yêu chủ nghĩa xã hội. Như vậy nếu ta theo khẩu hiệu đó thì yêu nước có nghĩa là yêu một xã hội không có thật.

VOA: Tại sao ông nói khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh, thưa ông?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Xưa nay có một đám người nào mà dám tiêu diệt trí thức đâu, bởi vì trí thức là đầu tàu của xã hội, không có trí thức thì xã hội không thể tiến lên được. Từ khi con người có văn minh thì con người tôn trọng kẻ sĩ, tức là người trí thức dẫn đường cho nhân loại. Không có trí thức thì nhân loại coi như không tồn tại được. Vậy ông tiêu diệt trí thức thì ông tiêu diệt chính cái tinh thần của nhân loại, đầu tàu của nhân loại.

Rồi những người làm giàu ông cũng tiêu diệt nốt thì té ra ai làm giàu cho xã hội ăn, ai sản xuất ra của cải vật chất để nuôi sống xã hội? Chỉ có những người biết làm ra của cải là những phú hào ở nông thôn, hay ở thành phố có những người chủ lập ra xưởng thợ thì họ mới sản xuất ra; chứ còn mấy ông tiêu diệt hết những người biết làm giầu thì xã hội loài người lấy gì mà sống?

VOA: Chúng tôi cũng hiểu bài tham luận của ông là để động viên mọi người nói ra sự thực, nhưng có nhiều người, nhất là những người đang cầm quyền, họ nói rằng nói ra sự thực lúc này là không có lợi. Ông nghĩ thế nào?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Nếu chỉ nghĩ đến cái lợi mà không nghĩ đến lẽ phải và chân lý thì không phải là con người, bởi vì con người có lương tri, con người có lẽ phải và có chân lý. Con người khác con vật ở chỗ con vật chỉ nghĩ đến miếng ăn thôi. Lợi là miếng ăn mà. Cho nên không dám nói ra sự thật bởi vì nói ra sự thật không có lợi thì cũng chả khác gì con vật. Con người khác con vật là ở chỗ đó, con người biết lẽ phải, biết lương tri, biết cái gì là tốt xấu, cái đẹp, cái thiện cái ác; chứ không phải là cứ cắm đầu nói dối hết đời ông đến đời cha, đến đời con, đến đời cháu, đến đời chắt nói dối hoài như thế được. Một dân tộc, một xã hội cứ nói dối hoài như vậy sẽ bị diệt vong. Chắc chắn như thế.

VOA: Bài tham luận của ông có tựa là “Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước”. Cái tựa này nó tương tự như một câu nói trong Kinh Thánh của người Công giáo, “chỉ có sự thực mới giải thoát các con”. Ông có sợ sẽ bị khép vào tội tuyên truyền cho đạo Công giáo không?

Nhà văn Trần Mạnh Hảo: Chính tôi là người Công giáo, tôi không thể nói dối được. Tôi bây giờ đã sáu tư sáu nhăm tuổi rồi nên tôi phải nói thật, nếu không sẽ bị Chúa buộc tội. Tôi chẳng tuyên truyền gì cho Công giáo mà tôi cũng chẳng tuyên truyền gì cho ai, bởi vì đã làm người thì phải nói ra sự thật, nói mãi sự dối trá thì không phải con người, tôi chỉ nói ra sự thật, đó là thiên chức của người cầm bút; chứ tôi không chống các ông ấy, bởi vì tôi như con kiến còn các ông ấy như núi Thái Sơn. Tôi không chống ai cả, tôi chỉ nói ra sự thật, dù nó tàn nhẫn hay kinh khủng thì đấy là sự thật. Nếu các ông bảo cái đó không phải là sự thật thì các ông nên tranh luận với tôi; việc gì các ông đe dọa bắt bớ hay bắn tôi, chuyện đó nó phi lý.

———–

Tâm tình với nhà văn Trần Mạnh Hảo

Ông Trần Mạnh Hảo thân,

Mặc cho thiên hạ đang mổ bò nhân sự. Còn chưa đi họp, ông quá bộ vào xó Đà Lạt này tâm tình với tôi một lúc.

Mấy hôm trước, tôi đã định viết một bài nhan đề “Một dân tộc bắt đầu tập nói”, mô tả một dân tộc lâu ngày nói dối đã quen, sắp bị diệt vong vì tật nói dối, bỗng hoảng hồn bừng tỉnh bên bờ vực thẳm, vội bảo nhau học lại ngôn ngữ nói thật của cha ông để tự cứu, nhưng vất vả mãi cũng chỉ mới bập bẹ phát ra được mấy câu nói thật vỡ lòng thôi.

Dự định ấy của tôi bị cắt ngang vì bài tham luận vừa rồi của ông . Vì nói thật như ông cỡ này thì coi như “tốt nghiệp phổ thông” rồi, ý nghĩ bi quan kia của tôi e có phần lạc hậu trước tiến triển của thực tế (chắc ông không tự ái, vì Đại học nói thật của nước mình bây giờ chắc gì đã bằng Trung cấp nói thật của người ta!).

Cái đoạn ông vạch trần một cách toàn diện sự thật rằng “Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay” (để đừng có suốt ngày vui cười hơn hớn) thì nhiều người cũng đã làm được, và dù có nhắc đi nhắc lại mãi cũng chưa chắc đã vào được tai những anh ù lì.

Ông đã nói được nhiều, nhất là vạch ra cái đại bản doanh của những kẻ đã gây “nguy cơ tiêu vong dân tộc” ấy nằm ở đâu, nó lớn cỡ nào, khiến ta “phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù”, đây cũng là một nét mới so với mấy vị trước kia.

*

Thật vậy, trung tâm ấy phải lớn cỡ nào mới có thể làm cho “một DÂN TỘC nói dối “lộng giả thành chân, làm nên một HIẾN PHÁPsinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp”, lập nên một “QUỐC HỘI giả hiệu”, làm cho “kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò”…

Giặc nội xâm phải ở tầm cỡ nào mới tạo được một “nhà ngục có tên là dối trá”, nó làm cho “người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo”, khiến cho “những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra”, nó đã “ném những quả bom B52” vào chính dân tộc mình, nó đã “tung những quả đấm thép đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam” , đã “tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước”…?

Và TMH đã chỉ đích danh : “Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, Chính quyền! Ấy chính là “một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên Châu Âu” , là một “chế độ” với những quả bom tự ném vào mình, là một đảng đã “bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp…” nên tổng quát lại mọi mặt đều “không chính danh”, làm hại cả một dân tộc…

*

Nhưng tất cả những luận điểm dẫu đanh thép ấy đều là chuyện nhỏ trước cảnh tượng xã hội ta đang có một vị “Hoàng đế cởi truồng” đi giữa bàn dân thiên hạ, như trong câu chuyện thiếu nhi của Andersen. Bởi vì, khi trước mặt mọi người đã là một gã vua cởi truồng ràng rành, mà những kẻ chẳng biết mù thật hay thong manh giả cứ nhắm mắt khen bộ y phục của Hoàng đế là đẹp nhất thế gian, thì mọi ngôn ngữ trở thành thừa hết! Chẳng lẽ lại phải vận dụng thiên kinh vạn quyển, triết học nọ triết học kia để tìm xem định nghĩa của thời đại thế nào là “cởi truồng” à? Lại cãi nhau về một môn “cởi truồng học” đậm đà màu sắc nước Vệ ư?

Càng lý luận dài dòng là càng sa vào bẫy của hai tên bợm, kẻ đã tạo ra bộ quần áo bằng không khí cho Hoàng đế, với cái “khóa” rất đểu là: chỉ ai có khối óc và trái tim chân chính mới nhìn thấy, ai nói khác đều là bọn thù địch mù quáng, phản dân hại nước, tất nhiên phải cho vào tù!

Bộ “y phục đểu” kia sở dĩ không bị xé toang vì nó đã khoác được lên vai một Hoàng đế. Hoàng đế trót mặc vào thì phải dối trá để tự vệ. Hắn tự vệ được nhờ có binh quyền. Lý lẽ dối trá một khi gắn được vào quyền lực tuyệt đối lập tức biến thành liên minh ma quỷ, không trị được nữa. Chiến công của Sự thánh thiện (mà biểu tượng là đứa trẻ, một nhân tố chưa mắc vào vòng trầm luân) tuy có làm thỏa lòng giới nhân sĩ đang bị câm miệng nơi nghị trường, nhưng “thiên sứ” ấy cũng phải biến đi ngay. Làm thế nào để chân lý được lan tỏa thành sức mạnh xã hội vẫn còn nguyên là chặng đường rất xa trước mặt.

Từ 1988 tới nay, tôi cũng từng là một người đã lý luận đến tận gốc. Việc lấy hình ảnh ông vua cởi truồng trong “bộ quần áo của Hoàng đế” tượng trưng cho xã hội ta cũng đã từng xuất hiện trên một vài trang Blog cá nhân. Mặc dù vậy, tiếng nói của nhà văn TMH khét tiếng bộc trực hôm nay giữa nơi văn đàn quốc nội vẫn có nét riêng và có tác dụng riêng rất đặc biệt. Tôi chia sẻ với ông điều này. Cuộc chạy tiếp sức còn dài.

Nhưng nước mình có điều lạ: Chuyện nhỏ thì cãi nhau đến cùng, mà việc đại sự, khi cần tìm cho đến ngọn nguồn lạch sông thì cứ nửa đường dừng lại. Định tìm con vi trùng để diệt mà chỉ đi nửa chừng, sắp chạm trán với vi trùng là cài số lùi để dĩ hòa vi quý.

Thú thật, khi đọc đến đoạn “Bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế…”

là tôi không nín được cười , bỗng thương cho “đồng chí” Nguyễn Trường Tô, chỉ mặc “áo Hoàng đế “ với các cháu gái nhỏ một lúc trong phòng thôi mà bị thiên hạ xỉa xói, bất công quá xá. Còn “Cả đàn đang lông nhông ngoài phố” thì sao để “đồng chí” ấy chịu riêng oan một mình?

Cuối cùng, trước khi ông lên đường phó hội với các nhà văn tôi tiễn đưa bằng mấy dòng thơ viết từ năm 1987, và lúc ấy còn đăng được trên báo Tư pháp Lâm Đồng:

Tìm con Quỷ sứ

Con Quỷ nằm giữa đống rơm
Một đoàn đốt đuốc lom khom đi tìm

Đuốc soi sáng cả lỗ kim
Mà con Quỷ sứ vẫn tìm chẳng ra?!
Miệng người lớn tiếng hò la
Tay người như chớp nhặt quà Quỷ ban
Con Quỷ hở một ngón chân
Chục anh xúm lại rút rơm che liền
Thính tai, nghe Đống Rơm truyền:
-“Để rơm bén lửa thì phiền với ông!”

HSP

(Đã đăng báo Tư pháp LĐ tháng 10-1987 và báo Doanh nghiệp tháng 11-1993)

http://www.hasiphu.com/images/SangTrang1.pdf

Trần Mạnh Hảo – Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước (1)

(Tham luận của Trần Mạnh Hảo trong Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, soạn theo thư “mời viết tham luận” của nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, nhờ nhà thơ Trần Đăng Khoa đọc giùm – cám ơn!)

“Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”

K. Marx

Kính thưa quý đồng nghiệp cầm bút,

Thưa quý vị quan khách và quý vị lãnh đạo,

Thói thường, con người sợ món gì nhất? Sợ ma quỷ ư? Không! Sợ vợ ư? Không! Sợ công an ư? Không! Sợ kẻ cầm quyền ư? Không! Sợ chết ư? Không!

Theo chúng tôi, con người trên mặt đất này sợ nhất sự thật! Vì vậy, ngạn ngữ Việt Nam từng nói: “Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Người Trung Hoa từ thượng cổ đã nói: “Trung ngôn nghịch nhĩ”. Người Ba Tư cổ khuyên: “Nếu nói ra sự thật, anh sẽ chết”. Người Ai Cập xưa cảnh cáo: “Khi sự thật bị bỏ quên quá lâu, một hôm nó thức dậy thành ngày tận thế”. Ngạn ngữ Tây Tạng tiền Phật giáo khuyên: “Mày chỉ được phép nói ra sự thật, nếu mày làm vua”. Thổ dân Úc bảo: “Ai nhìn thẳng vào sự thật sẽ bị mù mắt”. Lịch sử nhân loại đã ghi nhận hàng triệu con người từng dám cả gan nói lên sự thật mà bị mất mạng, bị tù tội hay bị quản thúc tại gia.

Đã có bao nhiêu lý thuyết chính trị thề bồi giải phóng con người, bao nhiêu cuộc lật đổ, cuộc cách mạng tuyên thệ giải phóng con người, giúp con người hoàn toàn tự do, sau khi đã giết hàng triệu triệu sinh mạng. Rút cuộc, con người hình như vẫn chưa được hoàn toàn giải phóng, chưa hoàn toàn được tự do, con người vẫn còn sợ hãi vì bị sự dối trá thống trị? Một số đất nước, một số dân tộc trên hành tinh vẫn còn bị nhốt trong nhà ngục có tên là dối trá. Cần phải làm một cuộc cách mạng của sự thật mới mong giải thoát cho nhân dân khỏi ngục tù kia.

Chìa khóa cuối cùng giúp con người được giải phóng, được hoàn toàn tự do, chính là sự thật, một sự thật không còn bị giấu như loài mèo giấu của quý. Karl Marx đã tôn vinh sự thật lên tột cùng của nhận thức luận và phương pháp luận: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý”: không có sự thật đi kèm, mọi kết luận, mọi lý thuyết, mọi khế ước, mọi hội kín, mọi cuộc cách mạng đều chỉ là ngụy lý, ngụy tạo, là lừa bịp. Cố Tổng thống Ba Lan Lech Kaczyński (1949-2010) người vừa bị tử nạn trong vụ rơi máy bay trên đường bay đến rừng Katyn tham dự lễ kỷ niệm 22.440 người con ưu tú của dân tộc Ba Lan bị Hồng quân Liên Xô chôn sống hồi đầu chiến tranh thế giới thứ hai; trong bài diễn văn viết sẵn mà ông không còn cơ hội để đọc, có đoạn viết như sau: “Sự thật, kể cả sự thật đau đớn nhất luôn luôn giải phóng cho con người. Sự thật gắn kết. Sự thật mang lại sự công bằng. Sự thật chỉ ra con đường hòa hợp.

Lấy ý tưởng từ câu cách ngôn kinh điển của K. Marx và lời trăn trối thiêng liêng thống thiết lớn lao của ngài cố Tổng thống Ba Lan trên, chúng tôi viết bản tham luận theo yêu cầu của Hội Nhà văn Việt Nam này.

Dostoyevsky, nhà văn vĩ đại nhất của chủ nghĩa hiện thực Nga và thế giới, từng tuyên ngôn rất hoa mỹ, rằng: “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Chúng tôi thêm: “Sự thật sẽ cứu chuộc thế giới”. Sự thật sẽ cứu chuộc nền văn học của chúng ta, cứu chuộc Tổ quốc ta, nếu chúng ta cả gan một lần cùng nhau: “Gọi sự vật bằng tên của nó” theo cách ngôn của phương Tây.

Nếu Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam thử một lần hợp tác với đất nước, với dân tộc Việt Nam mở HỘI NGHỊ DIÊN HỒNG CHỐNG GIẶC NÓI DỐI để tìm ra con đường cứu nguy dân tộc đang trên đà suy vong, thì công này của quý vị rất lớn. Ông cha chúng ta đã đánh thắng giặc Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh… để bảo tồn đất nước. Tất cả các thứ giặc trên cộng lại cũng không ghê gớm bằng giặc nói dối đang tàn phá Tổ quốc ta, giống nòi ta. Lần này, nếu nhân dân ta không vùng lên đáng tan BỌN GIẶC CÓ TÊN LÀ DỐI TRÁ, chắc chắn đất nước ta sẽ bị kẻ thù phương Bắc nuốt chửng, như mấy nghìn năm trước chúng đã nuốt chửng toàn bộ các dân tộc Bách Việt từng định cư lâu dài phía nam sông Dương Tử.

Chúng tôi viết bản tham luận này cũng để nhằm hưởng ứng cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực đất nước hôm nay” do Ban Tuyên giáo Trung ương vừa tổ chức tại Đà Lạt trong hai ngày 12-13/7/2010 với hơn hai trăm văn nghệ sĩ và các nhà lý luận phê bình hàng đầu Việt Nam tham dự. Cuộc hội thảo dũng cảm kêu gọi văn nghệ sĩ từ trên mây tỉnh giấc, quay về với hiện tình đất nước, do GS.TS. Phùng Hữu Phú (Ủy viên Trung ương Đảng, phó trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình Trung ương), chỉ đạo. Theo Đại từ điển tiếng Việt trang 803, từ “hiện thực” có nghĩa như sau: “Cái có thật, tồn tại trong thực tế” (Bộ Giáo dục & Đào tạo–Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam-NXB Văn hóa Thông tin xuất bản 1998). Như vậy, khái niệm “hiện thực” chính là sự thật đã và đang xảy ra trong thực tại trên đất nước ta. Cuộc hội thảo của Ban Tuyên giáo Trung ương vừa qua có thể được gọi bằng một cách khác: “Văn học nghệ thuật phản ánh sự thật của đất nước hôm nay”. Muốn phản ánh được sự thật của đất nước hôm nay, việc trước tiên của chúng ta là phải nhìn ra sự thật, gọi đúng tên sự vật, không phải sự thật tô hồng hay sự thật bôi đen, mà sự thật đúng như nó đang tồn tại khách quan quanh ta.

Lâu nay, vẫn nghe dân gian xì xào nửa hư nửa thực rằng: “Các thế lực thù địch (xin lỗi, tiên sư nó) nói cái gì hình như cũng đung sắc đúng, Ban Tuyên giáo Trung ương (xin lỗi) nói cái gì hình như cũng sờ ai sai…” thì quả là chưa chắc; bằng chứng là trong hoàn cảnh đất nước mà sự thật trốn biệt như hôm nay, thì việc Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn chúng ta hãy mở mắt, từ bỏ giấc nam kha vô tích sự quá dài để nhìn vào sự thật, nói lên sự thật đất nước, là một việc làm quá đúng.

Tất nhiên, sự thật mà Ban Tuyên giáo Trung ương kêu gọi nhà văn nhìn nhận được nhìn bằng mắt thường, chứ không phải sự thật bịt mắt bắt dê, hay sự thật được nhìn bằng mắt kẻ khác, nhìn bằng những thấu kính ảo, kính lồi, kính lõm, hay chiếc gương chiếu yêu, chiếu bóng… Thâm ý của Ban Tuyên giáo Trung ương hình như muốn chúng ta tìm lại phong trào “Nói thẳng, nói thật” thời kỳ Đổi mới năm 1986 -1987 do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh phát động?

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, trong cuộc gặp mặt văn nghệ sĩ năm 1987, đã làm gương nói thẳng nói thật, khi ông đặt vấn đề rốt ráo cho văn học nghệ thuật là nhà nghệ sĩ phải có tự do sáng tác; ông nói: “Cởi trói như thế nào, cởi trói nói ở đây trước hết là Đảng phải cởi trói cho các đồng chí… Tôi cho rằng khi những sợi dây ràng buộc được cắt đi, sẽ làm cho văn học nghệ thuật như con chim tung cánh bay lên trời xanh…”.

Rõ ràng, qua lời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Đảng đã thừa nhận từng trói văn nghệ sĩ và trí thức rất nhiều năm. Lần này, Ban Tuyên giáo Trung ương, thông qua cuộc hội thảo cấp nhà nước “Văn học nghệ thuật hướng vào sự thật của đất nước” đã khuyến khích kẻ hèn này là chúng tôi nói lên sự thật, toàn là những sự thật chết người, sự thật mà chính quyền cố tình giấu diếm vì món lợi của quyền lực, với sự ngụy biện chống lại lẽ phải, chống lại chân lý: “Nói ra sự thật lúc này không có lợi”. Chả lẽ vì cái lợi, vì miếng ăn mà chúng ta đành phải nói dối hết đời ông đến đời cha, hết đời con đến đời cháu hay sao? Vậy chừng nào nhà nước Việt Nam mới cho người dân chúng tôi công khai nói ra sự thật đây? Chúng tôi đành lấy lời dạy của K. Marx làm bùa hộ mệnh: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để một lần cuối cùng nói ra sự thật của đất nước chúng ta, dẫu có bị bị làm phiền, thậm chí bị tù đầy cũng mặc. Một kẻ nói dối, một dân tộc nói dối “lộng giả thành chân”, là một kẻ, một dân tộc không có tự do, không có độc lập, không có dân chủ, không có chân lý và lẽ phải… Khi một kẻ, một dân tộc phải núp vào sự dối trá để tồn tại, kẻ đó, dân tộc đó là một kẻ yếu, một dân tộc yếu đang trên đường suy vong. Chỉ có kẻ mạnh, kẻ tự tin, kẻ có liêm sỉ, có đạo đức mới không sợ sự thật, dù là sự thật đau đớn nhất, khủng khiếp nhất mà thôi.

Được lời như cởi tấm lòng, chúng tôi xin kể ra SỰ THẬT ĐẤT NƯỚC qua mắt mình, cái mà nền văn học của chúng ta lâu nay lảng tránh, làm ngơ, mặc “quốc gia hưng vong”, “ thất phu” thay vì “ hữu trách” thì hầu như cánh “thất phu” nhà văn thảy đều “tắc trách”… Chúng tôi mong 700 tờ báo của lề phải, tức báo của Đảng và nhà nước, hãy hạ cố chỉ ra những sự thật mà chúng tôi gọi tên trong bài tham luận này đúng hay sai. Còn nếu quý vị dùng công an hay nhà tù để đối thoại với chúng tôi thì quý vị đã mặc nhiên thừa nhận chúng tôi nói đúng; chỉ vì đuối lý mà quý vị mới phải dùng hạ sách là làm phiền chúng tôi, đe dọa chúng tôi thì quý vị đã không chính danh quân tử, dùng nền chính trị bá đạo ứng xử với người dân, khi người dân dám nói lên sự thật để hi vọng trên đất nước đau thương và cam chịu này le lói một nền chính trị vương đạo, dựa vào sự thật, lương tri và lẽ phải. Trong hàng trăm sự thật nhãn tiền của đất nước, chúng tôi chỉ xin kể ra ba sự thật mà thôi.

SỰ THẬT MỘT

Chưa bao giờ số phận dân tộc ta, đất nước ta có nguy cơ tiêu vong như hôm nay: nước nhà đang bị giặc ngoại bang xâm lấn bằng cuộc chiến tranh ngọt ngào, chiến tranh ôm hôn thắm thiết và tặng hoa, tặng quà anh anh chú chú, bằng cách chiếm dần hai quần đảo chiến lược Hoàng Sa và Trường Sa, lấn chiếm dần dần biên giới đất liền và hải đảo, khiến nguồn lợi biển vô cùng tận của ta rồi sẽ mất hết, dân tộc ta không còn đường ra đại dương, coi như tiêu. Ngoại bang dùng chiêu bài “ý thức hệ” và “16 chữ vàng” làm dây trói vô hình, trói buộc Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam phải nhân nhượng kẻ xâm lược hết điều này đến điều khác. Trên đất liền, ngoại bang dùng con bài khai thác bauxite, mua đất thời hạn 100 năm của 18 tỉnh lấy cớ trồng rừng, thực chất là công cuộc chiếm đất di dân theo kiểu vết dầu loang, theo kiểu “nở hoa trong lòng địch”. Đến nỗi, khi giặc chiếm Hoàng Sa rồi đặt tên quận huyện cho quần đảo này, sinh viên thanh niên biểu tình chống giặc lại bị nhà nước Việt Nam bắt. Vậy, nhà nước chúng ta hiện nay đứng về phía ngoại bang xâm lược hay đứng về phía nhân dân ta? Cũng chưa bao giờ như hôm nay, thiên nhiên và môi trường sống trên nước ta lại bị phá hoại khủng khiếp như thế: rừng bị triệt phá gần hết, sông ngòi đồng ruộng cạn kiệt nguồn nước, lụt lội kinh hoàng, khí trời bị ô nhiễm tới mức cuối cùng, nước mặn xâm hại phá hủy các đồng bằng. Chỉ cần một trận mưa lớn là Hà Nội, Sài Gòn biến thành sông do quy hoạch xây dựng phản khoa học. Hạt lúa, củ khoai, mớ rau, tôm cá, thịt gia súc, gia cầm cũng đang bị các chất hóa học độc hại chứa trong thức ăn, các chất tăng trưởng, chất bảo quản độc hại ám sát, khiến sinh tồn của giống nòi có cơ biến dạng…

Đạo đức xã hội tha hóa tới mức cuối cùng, con người hầu như không còn biết tới liêm sỉ và lẽ phải… Một ông Chủ tịch tỉnh Nguyễn Trường Tô và rất nhiều quan chức cao cấp trong tỉnh Hà Giang chơi gái vị thành niên do ông hiệu trưởng trường trung học Sầm Đức Xương bắt các cháu nữ sinh là học sinh trong trường làm điếm, nhằm cống nạp cho các quan đầu tỉnh. Nghe nói ông Nguyễn Trường Tô, ông Sầm Đức Xương từng là những người nhiều năm liền được bằng khen vì thành tích học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh. Một sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa từng là đoàn viên thanh niên cộng sản ưu tú, đã ra tay giết và cướp của chính người yêu cũ của mình một cách man rợ, không phải là cá biệt trong một xã hội con giết cha, vợ giết chồng, anh em giết nhau được đưa tin đầy tràn trên các trang báo lề phải. Lối sống vô đạo đức, hành vi vô luân, con người ứng xử với con người man rợ hơn dã thú đang là vấn nạn quốc gia, có thể đưa một dân tộc vốn có văn hóa, văn hiến bốn nghìn năm tới chỗ diệt vong… Không nhìn ra những nguy cơ chết người này, liệu 100 năm nữa Tổ quốc Việt Nam chúng ta còn tồn tại không? Dòng giống con Lạc cháu Hồng còn tồn tại không?

Nền giáo dục Việt Nam hôm nay là một nền giáo dục thiếu trung thực, đúng như ý kiến của ông Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã công nhận. Đạo đức trong giáo dục Việt Nam hôm nay đồng nghĩa với dối trá: thày dối trá thày, trò dối trá trò, quản lý giáo dục báo cáo láo cốt lấy thành tích, nạn mua bán bằng, bán đề thi, mua quan bán tước đang là đại họa của nền giáo dục. Hầu hết sách giáo trình, sách giáo khoa… là sách đạo văn. Cán bộ có chức có quyền đua nhau làm thạc sĩ, tiến sĩ… lấy bằng thật nhưng học giả. Nạn dùng tiền mua bằng cấp, mua học hàm học vị đang diễn ra công khai trong cái chợ trời giáo dục Việt Nam. Việc Hà Nội vừa qua đưa chỉ tiêu “xóa mù tiến sĩ” cho cán bộ công nhân viên nhà nước đã nói lên học vị tiến sĩ chẳng còn giá trị gì cả. Có lẽ trong vài năm tới, sau việc Bộ Giáo dục ra chỉ tiêu đào tạo thêm 23.000 tiến sĩ, sẽ dẫn tới chiến dịch xóa mù tiến sĩ trên phạm vi toàn dân. Nhiều ông cán bộ cấp cao có học vị tiến sĩ nhưng chưa có bằng tốt nghiệp đại học, thậm chí có vị chưa có bằng tốt nghiệp cấp 2 vẫn lấy được học vị tiến sĩ. Việc chính trị hóa môn văn, môn lịch sử, môn triết học, chính trị hóa nền giáo dục… đã tạo cơ sở cho sự dối trá làm bá chủ đất nước. Giáo dục như thế sao có thể đào tạo ra những công dân chân chính? Đây là dấu hiệu suy vong lớn nhất của dân tộc do nền giáo dục thiếu tính nhân văn, thiếu tính chân thật gây ra. Những quả bom B52 tinh thần là nền giáo dục đi chệch hướng chân thiện mỹ đang rải thảm lên tinh thần dân tộc, thì ai là người phải chịu trách nhiệm trước lịch sử đây?

Than ôi, sau những quả bom tinh thần có tên là giáo dục mà chế độ tự ném vào mình, chỉ cần ngoại bang ném bồi thêm mấy quả bom thật vào hai đập thủy điện Sơn La và Hòa Bình là đồng bằng Bắc Bộ và cả Hà Nội sẽ biến mất, dân tộc sẽ biến mất… Hai đập thủy điện khổng lồ trên nghe đâu lại nằm trên vết nứt động đất… mới hãi hùng làm sao? Đầu nguồn sông Hồng, đầu nguồn sông Mê Kông, Trung Quốc đã và đang xây hàng trăm đập thủy điện, khiến hai con sông chính của đất nước khô cạn dần, không còn đủ nguồn nước tưới cho hai đồng bằng chính nuôi sống dân tộc. Cách Móng Cái 60 km, tại Phòng Thành, Trung Quốc đang xây nhà máy điện hạt nhân rất lớn; nếu có sự cố kiểu Chernobyl vào mùa gió bấc, Hà Nội và dân đồng bằng Bắc Bộ có thể sẽ chết hết vì nhiễm phóng xạ hạt nhân…

SỰ THẬT HAI

Chưa bao giờ như hôm nay, trên đất nước ta, giặc nội xâm có tên là tham nhũng lại hoành hành ngang nhiên, kinh hãi như dịch hạch đến thế. Dân có tham nhũng không? Không! Thế thì ai là giặc nội xâm, là giặc tham nhũng? Thưa, chính quyền! Chỉ kẻ có chức có quyền mới tham nhũng được mà thôi. Vụ tham nhũng mới nhất như một đòn hiểm ác đánh một cú chí tử vào đất nước là tập đoàn Vinashin – một nấm đấm thép của chính phủ – đã cướp đi của nhân dân số tiền khổng lồ là 80.000 tỷ đồng. Cứ thử làm tròn dân số nước ta là 90 triệu người (thực ra dân số Việt Nam mới chỉ trên 85 triệu dân), vị chi mỗi người dân vừa bị tập đoàn quốc doanh Vinashin cướp đi gần 9.000.000 đ. Chín triệu đồng với người nông dân là một nguồn vốn lớn: một gia đình nông dân có bốn nhân khẩu chẳng hạn, đã vừa bị Vinashin cướp đi nhãn tiền 36.000.000 đ. Đã có bao nhiêu tập đoàn Vinashin cướp hết tiền của nhân dân trong quá khứ, trong hiện tại chưa bị phát hiện? Những nấm đấm thép của chính phủ như các tập đoàn kinh tế: tập đoàn Than, tập đoàn Điện, tập đoàn Khoáng sản… đã và đang đấm chí tử vào hầu bao dân nghèo Việt Nam. Theo kiểm toán nhà nước, năm 2008, các tập đoàn kinh tế – nắm đấp thép – đã làm thất thoát 10 tỷ đô la. Năm 2009, số thất thoát (đổ tội cho lỗ vốn) cũng không nhỏ hơn số 10 tỷ đô la năm trước. Các tập đoàn kinh tế quốc doanh, các công ty quốc doanh đang là đại họa cho quốc gia; chứng tỏ thành phần kinh tế rường cột của mô hình xã hội chủ nghĩa này đã hoàn toàn thất bại. Về quốc nạn tham nhũng, bà Phạm Chi Lan, chuyên viên kinh tế cao cấp của chính phủ đã phải cay đắng thừa nhận “bọn nắm đấm thép – chúng nó ăn hết tiền của dân rồi” như sau: “Một khi vẫn còn các ông lớn chủ đạo vẫn ngốn hết nguồn lực của đất nước và thâu tóm hết quyền thiết kế chính sách có lợi cho mình, thì làm sao thằng nhỏ động lực kinh tế tăng tốc được” (Tuần Việt Nam 22/07/2010).

Tại sao nhà nước ta hiện nay vốn có hai chính quyền cồng kềnh, chồng chéo nhau, giẫm đạp lên nhau: một chính quyền theo hệ Đảng và một chính quyền theo hệ nhà nước với hàng vạn ban thanh tra, hàng vạn chi bộ bốn năm sáu tốt, với hầu hết mấy triệu đảng viên gương mẫu đều đã học tập tốt đạo đức Bác Hồ, mà giặc tham nhũng lại ngang nhiên hoành hành trắng trợn từ vi mô đến vĩ mô đến như vậy? Quan tham nhìn từ xã trở lên không thấy lao động chân tay, không thấy lao động trí óc, chỉ sử dụng một thứ lao động có tên là LAO ĐỘNG LÃNH ĐẠO mà ai ai cũng giàu có hơn dân thường hàng trăm, hàng nghìn, hàng vạn, hàng triệu, hàng tỉ lần là sao? Chung quy lại, có phải là do thể chế sai, mô hình chính trị sai: VỪA ĐÁ BÓNG VỪA THỔI CÒI, VỪA ĐI THI, CHẤM GIẢI VỪA PHÁT GIẢI VỪA ĐƯỢC LÃNH GIẢI. NHÀ NƯỚC – ĐẢNG MỘT MÌNH MỘT CHỢ: VỪA THAM NHŨNG VỪA CHỐNG THAM NHŨNG? Xin hỏi: tay phải tham nhũng, liệu tay trái có dám cầm dao chặt được tay phải hay không?

Linh hồn triết học duy vật biện chứng Marxism nằm ở câu kinh mà đảng viên cộng sản nào cũng phải thuộc làu làu: “Mọi sự vật đều được cấu thành bởi các mặt đối lập thống nhất”. Chỉ trừ nền chính trị của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam không hề nằm trong quy luật vận động này của Marx, vì nó triệt tiêu đối lập chính trị!

Nền chính trị độc đảng, độc quyền của nước ta hôm nay đang chống lại biện chứng pháp Marxism. Trong phép biện chứng do Hegel sáng tạo, Marx tiếp thu, có ba nhịp như sau: xuất đề, phản đề và tổng đề. Phản đề hay đối lập chính là linh hồn của biện chứng pháp Marxism. Chối bỏ đối lập, triệt để cấm phản đề, cấm đối lập chính trị, nền chính trị của nước ta ngày nay đang chống lại chính cái lý thuyết chủ nghĩa cộng sản mà nó thề nguyền đi theo, thành ra một nền chính trị thoái bộ, rất giống với các nền chính trị thần quyền thời Trung cổ bên châu Âu.

Hãy xem khẩu hiện rất duy tâm, hoàn toàn chống lại thuyết Marxism của Đảng cầm quyền: “Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh MUÔN NĂM”. Marx từng giải thích tại sao loài người thống khổ: vì loài người còn phân chia giai cấp. Mục đích của Marx là làm cho nhân loại tiến đến đại đồng, tức tiến đến thiên đường cộng sản. Muốn đến thế giới cộng sản, phải xóa bỏ các giai cấp: xóa bỏ giai cấp tư sản, xóa bỏ giai cấp vô sản, xóa bỏ nhà nước, xóa bỏ công an, quân đội, tất nhiên phải xóa bỏ cả Đảng Cộng sản, vì Đảng Cộng sản là đảng của giai cấp vô sản. Mà khi xóa bỏ giai cấp, thì đảng của giai cấp cũng không còn. Hô “Đảng Cộng sản Việt Nam MUÔN NĂM” cầm bằng như hô: “Xã hội loài người có giai cấp muôn năm”! Rõ ràng hô như vậy là treo cổ chủ nghĩa Marx, là không chính danh, là tự xóa bỏ tính mục đích của Đảng Cộng sản.

(còn 1 kì)

© 2010 Trần Mạnh Hảo

© 2010 talawas

Trần Mạnh Hảo – Chỉ có sự thật mới giải phóng con người, giải phóng văn học và đất nước (2)

SỰ THẬT THỨ BA: NÓI MỘT ĐÀNG, LÀM MỘT NẺO, HAY LÀ DANH KHÔNG CHÍNH THÌ NGÔN KHÔNG THUẬN

Đảng, Nhà nước Việt Nam nói thì rất hay, nhưng làm thường ngược lại. Những nguyên tắc, nguyên lý, luật pháp, chính sách, đường lối của Đảng cầm quyền và nhà nước Việt Nam hiện nay hầu hết đều không chính danh.

Xin chứng minh

Trong Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam người dân được hưởng tất cả các quyền: quyền sống, quyền làm người, quyền hoạt động chính trị, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, lập đảng phái, quyền biểu tình, tự do tôn giáo, tự do cư trú, tự do đi lại, tự do đủ thứ…

Chính sách hộ khẩu đã cấm tự do cư trú.

Quyền được biểu tình của dân bị cấm chỉ bởi một nghị định (do Thủ tướng Phan Văn Khải ký): cấm từ năm người trở lên tụ tập hay đi hàng dọc ngoài đường, ngoài phố. Anh bạn chúng tôi có 5 đứa con, cộng hai vợ chồng là 7 người, mỗi sáng Chủ nhật anh chị dẫn bầy con đi tập thể dục tại công viên cách nhà hơn cây số . Đoàn rồng rắn tí hon của anh chị không thể đi thành một hàng, mà phải bí mật xé lẻ thành hai tốp, anh dẫn 3 đứa con, chị dẫn 2 đứa con giả vờ không quen biết nhau, đi vào hai lề đường khác nhau, sợ đi chung sẽ bị công an bắt… Anh bạn này tâm sự: ra Quốc lộ số 1, qua một số đường phố ở các thành phố nhỏ, thấy trâu bò được ung dung đi thành bầy đàn hàng mấy chục con trên đường mà không bị công an bắt? Sao kiếp người ở Việt Nam lại tủi hổ hơn kiếp bò: con bò còn được tự do tụ tập, tự do nghênh ngang rồng rắn trên đường, được Đảng và nhà nước đối xử tử tế hơn hẳn con người… là sao hở các ông trời con?

Tự do tôn giáo bị cái rọ tôn giáo quốc doanh cấm cản. Hàng trăm sư sãi, chùa chiền vốn theo một hệ phái Phật giáo riêng từ trước năm 1975 tại miền Nam Việt Nam đã bị cấm hoạt động, bắt phải vào Phật giáo quốc doanh, nếu không chịu quốc doanh hóa Phật giáo sẽ bị bắt. Công giáo cũng phải thành Công giáo quốc doanh. Cao Đài, Hòa Hảo, Tin Lành… cũng phải vào quốc doanh thì sao gọi là tự do tôn giáo? Ở một đất nước không có TÔN GIÁO TƯ NHÂN, chỉ có TÔN GIÁO QUỐC DOANH mà cứ xưng xưng toe toét: Việt Nam có tự do tôn giáo.

Điều 4 trong Hiến pháp cho phép chỉ một mình Đảng Cộng sản được nắm quyền lãnh đạo mãi mãi, đã cấm mọi công dân tự do hoạt động chính trị, trong khi quyền người dân được tự do hoạt động chính trị ghi rõ ràng trong Hiến pháp. Điều 4 của Hiến pháp là điều không chính danh.

Đảng và Nhà nước có trên 700 tờ báo giấy báo viết báo hình. Xã hội tự xưng là “nhân dân làm chủ: của dân, do dân, vì dân”, “cán bộ là đày tớ nhân dân”. Tai ngược thay, chính anh đầy tớ này được độc quyền ra báo, lại cấm ông chủ ra báo là sao? Marx – sinh thời từng ca ngợi nền tự do báo chí của chủ nghĩa tư bản. Marx lên án cay độc nhà vua Phổ kiểm duyệt báo chí theo kiểu nhà nước Việt Nam hôm nay lùa tất cả nền báo chí nước nhà vào cái rọ lề phải, đánh sập hơn ba trăm blog và website cá nhân trên Internet như lời khoe khoang của ông tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, trung tướng Vũ Hải Triều… Không có nền tự do báo chí tư sản, nền xuất bản tự do tư sản, không thể xuất hiện chủ nghĩa Marx. Nếu Karl Marx tái sinh xuất hiện giữa lòng Hà Nội hay Sài Gòn hôm nay, chắc chắn cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản sẽ bị lính của ông Vũ Hải Triều bắt ngay tắp lự.

Khi người dân không có quyền ra báo tư, lập nhà xuất bản tư… cũng có nghĩa người dân Việt Nam hiện nay không có quyền tự do ngôn luận.

Khi Hiến pháp đã cho công dân cái quyền thì người dân không phải đi xin. Hiến pháp bảo công dân có quyền sống, quyền làm người, vậy chả lẽ khi sống là phải thở, phải ăn, phải mặc, phải yêu vợ… thì cứ mỗi lần thở, mỗi lần ăn, mỗi lần mặc, mỗi lần yêu vợ… lại phải làm đơn xin phép công an à?

Hiến pháp của các nước dân chủ văn minh sinh ra để bảo vệ người dân, đảm bảo nhân quyền, dân quyền và mọi quyền tự do của dân, cốt yếu để ràng buộc kẻ cầm quyền. Hiến pháp nước ta hiện nay sinh ra hầu như để chỉ trói buộc người dân và tạo hàng nghìn kẽ hở cỡ lỗ thủng con voi chui lọt cho kẻ cầm quyền tự do đánh tráo Hiến pháp, tự tung tự tác, làm ngược lại Hiến pháp mà không bị luật pháp ràng buộc là sao?

Quốc hiệu nước ta hiện nay xưng là: Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực ra có đúng không? Thưa không! Vì nền kinh tế nước ta từ năm 1986 đến nay là nền kinh tế thị trường, tức nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, một chủ nghĩa tư bản hoang dã. Vậy quốc hiệu nước ta muốn sát với “sự thật của đất nước” như gợi ý của Ban Tuyên giáo, phải đặt lại là: “Cộng hòa Tư bản Chủ nghĩa Việt Nam” mới chính danh.

Chủ nghĩa xã hội nói cho cùng là một mô hình ảo, hoàn toàn không có thật. Hồi chúng tôi theo học tại Học viện Gorky bên Liên Xô năm 1988, thường nghe dân Liên Xô định nghĩa về chủ nghĩa xã hội theo mô hình Lenin-Stalin như sau: “Chủ nghĩa xã hội là con đường vòng vèo nhất, đầy máu và nước mắt nhất, khốn nạn nhất để đi lên tư bản chủ nghĩa”. Liên Xô, với mô hình xã hội chủ nghĩa trại lính (hay trại tập trung) đã phải mất 74 năm đi vòng vèo trong máu xương, ngục tù, trong đày đọa của những quần đảo Gulag hắc ám, man rợ… để năm 1991 mới tới được nền kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa. Quốc hiệu của nước ta như vậy là không chính danh.

Cái đuôi “Định hướng xã hội chủ nghĩa” được gắn vào đít khái niệm kinh tế thị trường của nhà nước ta hiện nay là một cái đuôi giả, một cái đuôi nhựa chạy bằng cục pin sắp thối của Trung Quốc. Theo nghĩa từ điển: “định hướng” có nghĩa là xác định phương hướng, mà điểm tới đã được xác định cụ thể. Ví dụ ông A hẹn ông B qua điện thoại, rằng mai ta gặp nhau ở Hồ Con Rùa, tập kết tại đó ăn sáng, uống café, định hướng Buôn Ma Thuột mà tới Plây-ku nhé! “Xã hội chủ nghĩa” là khái niệm ảo trên giấy, chưa có thật trên đời và sẽ không thể có thật vì nó dựa trên những nguyên lý ảo tưởng, bịa đặt, phi khoa học.

Đưa đất nước đi vào chỗ không có thật, định hướng tới cõi không có thật mà đến thì than ôi, thà giết đất nước đi còn hơn! Nên khẩu hiệu “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” in trên đầu tờ Văn nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam, nếu theo tiêu chí “hướng về sự thật” của Ban Tuyên giáo chỉ dẫn, phải đặt tên lại cho đúng với thực chất ngữ nghĩa của từ điển là: “Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa không có thật” mới đúng. Không có sự thật đi kèm, mọi lý thuyết, mọi mô hình xã hội, mọi lời hứa đều là sai trái, ảo tưởng, hứa hão, đúng như K. Marx đã nói.

Đồng nghĩa Đảng Cộng sản là đất nước, đồng nghĩa chủ nghĩa xã hội là Tổ quốc là không chính danh. Đảng Cộng sản mới chỉ có 5 triệu đảng viên, còn nhân dân Việt Nam ngoài Đảng chiếm đa số tới hơn 80 triệu dân, có phù phép kiểu gì, Đảng Cộng sản cũng không thể biến thành đất nước Việt Nam được. Đảng nghĩa là phe phái, là một nhóm người. Một nhóm người sao có thể biến thành tất cả được, nên danh từ ĐẢNG TA dùng để gọi Đảng Cộng sản là không chính danh. Liên Xô đã bỏ ra 74 năm để tìm mà không thấy chủ nghĩa xã hội đâu, chỉ thấy trại tập trung, thấy nhà tù nhiều hơn trường học. Lenin, Stalin, Mao… đã biến nhân dân các nước Nga, Tàu, Cuba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam, Campuchia, hàng chục nước Đông Âu… thành hàng tỉ con chuột bạch cho cuộc thí nghiệm máu cộng sản chủ nghĩa bằng bạo lực, bằng cải tạo áp đặt, bằng thuyết đấu tranh giai cấp tàn bạo nhưng đã thất bại hoàn toàn. Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, Đông Âu giờ đã đi theo tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là một khái niệm ảo, nên khẩu hiện “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” là rất buồn cười, giống như nói “Yêu nước là yêu cái không có thật” vậy…

Quốc hội nước CHXHCN VN được Đảng Cộng sản và nhà nước phong cho là cơ quan lập pháp cao nhất của nhân dân Việt Nam là không chính danh. Vì thực tế, Quốc hội này chỉ là cơ quan ngoại vi của Đảng, do Đảng lãnh đạo; Quốc hội mà 98% dân biểu là đảng viên của một đảng duy nhất thì việc gọi Quốc hội này của dân là một trò hề, là không chính danh; Quốc hội này của Đảng, dân nào có quyền bính gì trong Quốc hội giả hiệu này?

Việc một nhóm người không ai khiến, tự nhiên nhảy phóc ra đấu trường xã hội ngót trăm năm nay, hung hãn cầm mác cầm lê cầm búa cầm liềm cấm cản những nhóm người khác lập phe đảng là không chính danh, không logic, không công bằng, không có luật hay chỉ là luật rừng?

Đảng Cộng sản Việt Nam không do nhân dân Việt Nam bầu ra, nên sự tồn tại của Đảng để tuyệt đối cầm quyền là không chính danh. Đúng như Mao nói rằng chế độ chuyên chính vô sản của ông ta là do súng đẻ ra: “Súng đẻ ra chính quyền”, tức là SÚNG BẦU RA CHÍNH QUYỀN… Mấy chục năm nay, người ta đã cố tình gọi nhầm SÚNG là DÂN: “súng bầu lên chính quyền thì lại nói dối là dân bầu”… Cũng giống như (giả dụ thôi, hi vọng đừng biến thành sự thật!) sau bài viết này, công an gọi tên Trần Mạnh Hảo lên… dọa bắn; Hảo ta vốn là một con cáy 64 tuổi biết cầm bút, thấy súng há mồm sắp đối thoại với mình, sợ vãi đái, nghĩ mình miệng hùm gan sứa, sức đâu cãi lại miệng súng, đành phải ký vào giấy cung khai rằng: báo cáo các anh, em đã nói sai, đã nói dối, vì Đảng ta và nhà nước ta từ xưa tới nay thật thà hơn đếm, có biết nói dối là gì đâu. Thế rồi báo An ninh hôm sau hí hửng: trước lý lẽ sắc bén và thực tế sáng ngời chính nghĩa của nhân dân, tên Hảo đã không đủ lý lẽ đối thoại, đã ăn năn hối lỗi vì dám vu cáo cho Đảng ta nói dối…

Việc Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời năm 1930 theo thuyết Marxism là không chính danh.

Marx bảo: chủ nghĩa tư bản xuất hiện với đại công nghiệp. Marx lại bảo phương thức kinh tế châu Á không nằm trong chủ nghĩa Marx. Marx phán: giai cấp vô sản là hệ quả của giai cấp tư bản. Nghĩa là tư bản đẻ ra vô sản. Trung Hoa, Việt Nam và cả châu Á, thế giới Ảrập, Ấn Độ, Mỹ Latinh, Phi Châu… trong thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 chưa hề có chủ nghĩa tư bản. Năm 1930, Việt Nam chưa có ông bố tư bản, sao lại có đứa con tên là vô sản ra đời? Bịa ra một giai cấp vô sản ảo để thành lập ra đảng của giai cấp vô sản là Đảng Cộng sản Đông Dương là không chính danh, là trái với thuyết Marxism, là xây nhà trước, xây nền nhà sau.

Sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Đông Dương nêu khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào đào tận gốc trốc tận rễ” là không chính danh. Diệt trí thức là diệt đi hai ông đại trí thức Marx-Engels ư? Trí thức là linh hồn của xã hội, diệt trí thức cũng có nghĩa là diệt luôn xã hội loài người.

Năm 1958 – 1960 Bắc Việt Nam (năm 1975 là cả nước) tuyên bố tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội với “mo cơm và quả cà”, không thông qua con đường tư bản chủ nghĩa theo sự xúi dại của Lenin là không chính danh. Theo Marx, linh hồn của xã hội chủ nghĩa là đại công nghiệp; chỉ có nền nông nghiệp lạc hậu mà dám thí mạng cùi tiến lên xã hội chủ nghĩa là tiến lên toàn dân cùng chết đói, hay tiến lên công xã kiểu diệt chủng như Khmer Đỏ, tiến lên “đại nhảy vọt” kiểu Mao khiến mấy chục triệu người chết đói, dân chúng phải ăn thịt cả con mình như cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội do Thông tấn xã Việt Nam vừa phát hành đã kể.

Năm 1986, theo gương Trung Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì chôn chủ nghĩa tư bản (như Marx-Engels dạy) đã quay ngược lại chôn chính học thuyết cộng sản, bằng cách xây dựng nền kinh tế tự do đa thành phần tư bản chủ nghĩa, đưa nhân dân Việt Nam thoát khỏi chết đói. Theo Marx dạy: kinh tế nào, chính trị ấy: hạ tầng cơ sở kinh tế quyết định thượng tầng kiến trúc chính trị. Nay, kinh tế Việt Nam là tư bản tự do mà chính trị vẫn giữ nền chính trị độc tài xã hội chủ nghĩa là sai quy luật, là không chính danh, là đầu chuột đuôi voi, là ông nói gà bà nói thóc lép, là hồn Trương Ba, da hàng thịt…

Marx–Engels từng công khai tuyên bố trong trước tác của mình: “Chúng tôi không có ý định đoán định tương lai một cách giáo điều mà mong muốn dùng phương pháp phê phán thế giới cũ để tìm được một thế giới mới… Việc kiến tạo và tuyên bố một lần và mãi mãi những giải đáp cho các vấn đề của mai sau không phải là việc của chúng tôi…”. Rõ ràng, chính Marx và Engels đã coi học thuyết của mình chỉ là những giả thuyết, những phép thử, những phỏng định về tương lai, tuyệt nhiên không giáo điều cho lý thuyết của mình là chân lý vĩnh hằng. Những ai đã, đang coi học thuyết Marx là chân lý bất biến là đang chống Marx, là muốn dùng Marx giả, Marx dỏm bịt mắt trí thức và nhân dân để quyết câu giờ giữ quyền lực là không chính danh.

Theo định đề: “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” của Marx, chúng ta thấy thực tế đã không chấp nhận cuộc thí nghiệm XÓA TƯ HỮU hãi hùng nhất trong lịch sử loài người của Marx-Engels-Lenin với tham vọng “XÓA TƯ HỮU, XÓA CÁ NHÂN, XÓA NHÀ NƯỚC, XÓA MÂU THUẪN, XÓA ĐẢNG CỘNG SẢN, XÓA CÁC GIAI CẤP VÀ ĐẢNG CỦA NÓ, XÓA CHÍNH BIỆN CHỨNG PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG MỘT XÃ HỘI CỘNG SẢN ÁO TƯỞNG PHI BIỆN CHỨNG – NƠI KHÔNG CÓ CÁI DỐI TRÁ, KHÔNG CÓ CÁI ÁC ĐỘC VÀ CÁI XẤU XA, NƠI TUYỆT ĐỐI TỰ GIÁC, TUYỆT ĐỐI TỰ DO, TUYỆT ĐỐI GIÀU CÓ, TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ NGOẠI TÌNH, KHÔNG CÒN HÔN NHÂN, KHÔNG CÒN GIA ĐÌNH KIỂU CŨ, KHÔNG CÒN NGÂN HÀNG, KHÔNG CÒN TIỀN TỆ…”. Đó là một xã hội bịa đặt không có thật: vì không có cái ác thì cái thiện cũng bị triệt tiêu, không có cái ngụy thì cái chân cũng biến mất, không có cái xấu thì cái đẹp cũng chẳng còn…

Một trăm sáu mươi hai năm từ khi “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” của Marx–Engels ra đời đến nay, hàng trăm triệu sinh mạng đã bị giết, hàng tỉ người bị tù đầy, bị ngược đãi để “các vị lãnh tụ kính yêu” làm cuộc thí nghiệm đẫm máu cải tạo thế giới từ TƯ HỮU sang CÔNG HỮU, từ TƯ BẢN sang VÔ SẢN, từ CÁ NHÂN sang TẬP THỂ, XÓA QUỐC GIA chỉ còn QUỐC TẾ, XÓA HOÀN TOÀN THẾ GIỚI CŨ, NHÂN LOẠI CŨ chỉ còn MỘT THẾ GIỚI MỚI TINH, NHÂN LOẠI MỚI TINH KHÔNG CÒN TRUYỀN THỐNG, KHÔNG CÒN LỊCH SỬ, KHÔNG CÒN QUÁ KHỨ, KHÔNG CÒN TÔN GIÁO… Chao ôi, khi một con người không còn quá khứ, một dân tộc không còn lịch sử, con người ấy, dân tộc ấy sẽ biến thành tinh tinh, xã hội tinh tinh hay thành những cục bột biết ca hát?… Rút cục, cuộc thí nghiệm cộng sản kinh hồn trên phạm vi toàn thế giới đã hoàn toàn thất bại. Những nước cộng sản cứng đầu nhất như Bắc Triều Tiên, Cuba hiện nay cũng đang rục rịch thí nghiệm mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tập toẹ học lại những bước đi làm giàu vỡ lòng nhân loại đã có từ trước khi Marx ra đời. Đây là sự thật không thể nào chối cãi, dù cãi cối cãi chày bằng còng số tám hay nhà tù, họng súng v.v…

Cám ơn Marx, đã cho chúng tôi đề bài “Sự thật là tiêu chuẩn của chân lý” để làm một bài tập làm văn về sự thật này. Cám ơn ngài cố Tổng thống nước Ba Lan tự do Lech Kaczyński đã cho chúng tôi ý tưởng rất hay: chỉ có sự thật mới giải phóng con người, làm chủ đề bài tham luận. Chúng tôi cũng xin cám ơn tiêu đề của cuộc hội thảo “Văn học nghệ thuật hướng về sự thật đất nước” của Ban Tuyên giáo Trung ương đã gợi ý, khích lệ chúng tôi dám liều mạng nói lên những sự thật cay đắng nhất, khủng khiếp nhất của đất nước chúng ta hiện nay, những sự thật chết người, ai ai cũng biết mà vì sợ tù tội nên không ai dám nói ra.

Viết đến đây, chúng tôi chợt nhớ đến truyện “Bộ long bào của vị hoàng đế” của văn hào Andersen. Thằng bé trong thiên truyện đã liều mạng xé toang bộ long bào hoang tưởng của vị hoàng đế kia bằng cách hét thật to: ông vua cởi truồng! Tiếng kêu thất thanh của chân lý ấy có làm đám đông đang bị quyền lực hôn mê, luôn miệng tung hô vị hoàng đế mặc bộ long bào đẹp nhất tỉnh ra hay không? Nhưng hình như ngay sau khi gọi sự vật bằng tên của nó, thằng bé do sự thật, do tự do phái đến đã biến mất. Do đó, mới còn biết bao nhiêu ông vua triết học cởi truồng, vua chính trị cởi truồng, vua cách mạng cởi truồng, vua chủ nghĩa cởi truồng… đang đi nhông nhông ngoài xã hội, ngoài phố xá, đã và đang được những đám đông giả vờ cuồng tín hòng trục lợi xúm vào vạn tuế, ca ngợi các ngài khoác những bộ long bào tuyệt vời của trần gian…

Sự thật giản dị nhường ấy, sao bị cả đám đông lờ đi? Mới hay sự cám dỗ của dối trá có bùa ngải quỷ sứ, mê hoặc con người trong bóng tối, trong đe dọa, trong hấp lực của củ cà rốt treo trước miệng con lừa… Sự thật chỉ có thể tồn tại công khai dưới ánh sáng mặt trời. Xã hội của những hội kín vây bủa con người trong lừa mị, trong sợ hãi u u minh minh, luôn xua đuổi và cầm tù sự thật. Chối bỏ sự thật, những xã hội do băng đảng hội kín cầm quyền hầu như không bao giờ đi cùng đường với lẽ phải và công lý.

Chúng tôi không dám làm thằng bé trong thiên truyện kia của Andersen; làm vị thiên sứ của sự thật này, coi chừng khả năng biến mất là điều có thể xảy ra. Hãi quá!

Chúng tôi chỉ xin kể ra ba vị nhà văn Việt Nam hình như cũng đang thử đóng vai trò của thằng bé ấy, vai trò thiên sứ của sự thật, của tự do.

Đây là lời của nhà văn Đỗ Chu bùi ngùi, chua xót, khi ông nói về sự lãnh đạo của Đảng với nhà văn; sao nhà văn giống chú cún con ve vẩy đuôi theo ông chủ trong sân nhà thế: “Tớ yêu Đảng như yêu vợ. Vợ còn sống thì tớ nghe vợ. Vợ chết thì tớ lập bàn thờ khấn vái cho đến chết. Đảng cũng là vợ của tớ. Đảng bẩn thì tớ mua xà phòng cho Đảng tắm. Mua nước hoa cho Đảng thơm. Đảng nói thì không được cãi. Đảng bảo ăn là ăn. Đảng bảo uống là uống. Đảng bảo nằm là nằm. Đảng bảo lên giường là lên gường. Đảng bảo ra đường là ra đường…” (Trích bài “Nhà văn Đỗ Chu yêu Đảng như yêu vợ” của Nguyễn Trọng Tạo ngày 13/7/2010). Về việc này, mới thấy Nguyễn Vĩ xưa thánh thật, khi ông viết: “nhà văn An Nam khổ như chó!”.

Đây là mấy câu thơ của nhà văn, nhà thơ Nguyễn Đình Chính (con trai cố nhà văn Nguyễn Đình Thi, người rất nhiều năm trước và sau 1975 từng làm Tổng Thư ký – ngày nay gọi là Chủ tịch – Hội Nhà văn Việt Nam): “Mấy thằng bạn văn nghệ chửi đổng hát hay / Cổ họng rắn hổ mang trơn tuột liếm mồi trong các HỘI ĐOÀN / hót hít chính trị như chó hít hóng cứt…” (Trích trong bài thơ “Đêm Sài Gòn” in trong tập thơ Chẹc chẹc của Nguyễn Đình Chính, do Tân Hình thức Publishing Club ấn hành trên mạng 2010).

Đây là nhà văn đại tá công an Mai Vũ, trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ XIII, đã lên tiếng đòi tự do sáng tác, mặc dù từ năm 1987, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã cởi trói cho các nhà văn:

“Đây là vấn đề nhạy cảm mà không phải ai cũng có dũng khí dám nói thật. Nhằm thiết lập một trật tự xã hội tư duy đồng chiều, chúng ta đã chính trị hóa mọi đời sống xã hội. Điều đó thật tai hại, nó làm khô héo tinh thần dân tộc. Chính trị hóa khoa học đã dẫn đến phủ nhận chân lý khách quan, làm méo mó khoa học. Trong lịch sử Xô Viết trước kia, đã có thời người làm vườn Lưxenkô – Mitsurin được tôn vinh như những nhà cải cách vĩ đại, còn Mooc găng, Menđen là những kẻ phục vụ chủ nghĩa tư bản vì thuyết gen di truyền. Kết quả, nhà di truyền học thiên tài Vavilôp đã phải tự sát, còn nền di truyền học nước Nga thì lụn bại, để lại một vết nhơ đau đớn trong đời sống khoa học xã hội Xô Viết. Đó là vụ ngụy khoa học lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Chính trị hóa giáo dục cũng chỉ đẻ ra những chiến binh đánh bom tự sát, chứ không đẻ ra những công dân xây dựng tương lai.
Hội Nhà văn không phải là dàn hợp xướng để hát theo cái gậy chỉ huy của người nhạc trưởng. Nó là lãnh địa của những tư duy và sáng tạo cá nhân, nó là một tổ chức xã hội nghề nghiệp tự nguyện của các nhà văn lấy sứ mạng phục vụ Tổ quốc và nhân dân trên hết.
Nhà văn viết theo mệnh lệnh của trái tim, mà trái tim nhà văn thuộc về Tổ quốc và nhân dân. Anh ta là tội đồ và đáng nguyền rủa nếu thóa mạ Tổ quốc và dân tộc. Còn khuynh hướng chính trị tùy thuộc quyền lựa chọn của mỗi nhà văn. Hãy để con ngựa Văn tung vó trên cánh đồng bát ngát của tự do” (“Về Hội nhà văn của chúng ta” của Mai Vũ, in trên website Trần Nhương ngày 11-7-2010)

Tiếp nối ba nhà văn trên, chúng tôi xin mời quý vị đọc lại bài thơ “Bài ca sự thật” của chúng tôi (Trần Mạnh Hảo) đã in trên báo Tuổi trẻ số tất niên ngày 24- 01-1987

BÀI CA SỰ THẬT

Sự thật của tôi
Sự thật của anh
Sự thật của chúng ta
Sự thật của mọi người?

Nhân loại có bao thời
Sự dối trá làm quan toà phán xử
Bru-nô ơi trái đất vẫn tròn
Mà chân lý nghìn sau còn trả giá

Nhưng đất nước vẫn đi tìm sự thật
Trong câu hát có mồ hôi nước mắt
Có con nghê đá đầu đình cười cợt các triều vua
Có thằng Bờm chẳng tin lời hứa hão
Cái quạt mo không để phú ông lừa
Vua Hùng ơi Người đi tìm sự thật
Bằng cách ngày đầu năm xuống ruộng cày bừa

Bao triều đại xưa đổ vì ưa nói dối
“Muốn nói gian làm quan mà nói”
Sự thật giấu trong nhà dân đen
Sự thật từng vật vờ đi như ăn mày đầu đường xó chợ
Sự thật làm anh hề, chú mõ
Sự thật như nàng Thị Kính oan khiên
Sự thật trốn vào ngụ ngôn, ngạn ngữ sấm truyền
Sự thật có khi mượn Xuý Vân mà giả dại
Sự thật chiếc lá đa bay qua bao thời đại
Bay về đây trời nổi can qua
Con vua thất thế quét chùa sãi ơi!

Vĩnh biệt chú Cuội
Vĩnh biệt thành tích ma, báo cáo láo thành thần
Bệnh hình thức gọi sai tên sự vật
Người đói phải nói lời no
Vị đắng sao lại kêu là mật?
Ngục tù mang nhãn hiệu tự do!

Vĩnh biệt khái niệm quét vôi và từ ngữ nước sơn
Đạo đức dính trên đầu môi chót lưỡi
Vĩnh biệt những bóng ma cơ hội
Những cái đầu già cỗi tự bên trong
Những con mắt nhìn người bằng bóng tối
Có nhận ra tia nắng mới trong lòng ?

Tôi là người tập yêu sự thật
Tập nghe nên có lúc ù tai
Tập nhìn nên chói mắt
Đất nước đổi thay
Cơn đau đẻ những dòng sông quằn quại!

Hạt thóc và hạt máu có bao giờ nói dối?
Bốn nghìn năm dân tộc tôi
Đi từ bờ bên kia
Đến bờ bên này của sự thật
Để mỗi con người hôm nay trên mặt đất
Được cầm trong tay một tia nắng mặt trời…

Sài Gòn ngày 15-1-1987
Trần Mạnh Hảo

_____________

Để kết thúc bản tham luận, xin kính mời quý vị cùng chúng tôi hô 3 khẩu hiệu sau:

Khẩu hiệu một:

KHÔNG CÓ SỰ THẬT, KHÔNG CÓ LẼ PHẢI VÀ CHÂN LÝ
(xin hô ba lần: không có, không có, không có)

Khẩu hiệu hai:

CHỈ CÓ SỰ THẬT MỚI GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI

(xin hô ba lần: chỉ có, chỉ có, chỉ có)

Khẩu hiệu thứ ba:

SỰ THẬT LÀ TIÊU CHUẨN CỦA CHÂN LÝ

(xin hô ba lần: tiêu chuẩn, tiêu chuẩn, tiêu chuẩn)

Xin cám ơn quý vị.

Viết tại Sài Gòn 26-08-2010

© 2010 Trần Mạnh Hảo

© 2010 talawas

Tổng số lượt xem trang