Thứ Ba, 3 tháng 5, 2011

Các quốc gia Đông Á có thể hợp tác với nhau không?

- -Các quốc gia Đông Á có thể hợp tác với nhau không? anhbasam
Ngày 28 thắng 4-2011
SEOUL – Trong khi Trung Hoa cứ liên tục phát triển, dân chúng khắp vùng Đông Á tự hỏi các quốc gia của họ liệu có khi nào có những mối quan hệ bình ổn và hòa bình như ở các nước châu Âu hiện nay không. Căn cứ vào sự xuất hiện đều đặn các đụng độ ngoại giao nghiêm trọng  – do bất kỳ chuyện gì, từ những hòn đảo chìm bé tí ở vùng Biển Nam Hải (Biển Đông) cho tới di sản của Thế Chiến II – tất cả cứ như một cơn mơ mà mọi người đều muốn lảng tránh. Thế nhưng, với chủ nghĩa dân tộc dâng cao cùng với ngân quỹ quốc phòng cũng gia tăng, việc thực hiện sự bình ổn bằng đồng thuận đã trở thành mệnh lệnh cho toàn vùng. Liệu điều đó có thực hiện nổi không?
Quan điểm “tự do” về các mối quan hệ quốc tế thì khuyến cáo nên thực hiện ba điều: chính trị dân chủ hóa, kinh tế độc lập sâu hơn nữa, và có những thiết chế để qua đó các quốc gia Đông Á có thể giải quyết các công việc của họ theo hình thức đa phương. Bởi vì, như Immanuel Kant đã chỉ rõ từ lâu rồi, các quốc gia có thể chế dân chủ thì có xu thế không đấu đá lẫn nhau, nên cần khuyến khích dân chủ để bảo đàm hòa bình.

Đeo đuổi một nền Pax Democratia (“dân chủ hòa bình”) là điều từ lâu đã gắn bó chặt chẽ với việc xây dựng chính sách đối ngoại của Mỹ. Và kể từ năm 1945, các quốc gia châu Âu đã lấy nguyên lý dân chủ làm nhân tố cốt lõi cho sự hội nhập của họ. Nhưng hệ thống các chế độ chính trị rất khác nhau ở Đông Á làm cho sự đồng thuận dân chủ dường như khó mà thực hiện nổi ở đây, ít ra là trong lúc này.
Mặt khác, sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia Đông Á càng ngày càng sâu sắc thêm. Trong vòng 30 năm, các nước Đông Á đã nhận được vô số phần thưởng từ cách nhìn sáng tỏ của Adam Smith cho rằng thương mại tự do làm lợi cho các quốc gia tham dự vào công cuộc đó. Ngày nay, các nhà làm chính sách trong vùng đều không muốn rơi vào nguy cơ bị mất đi khả năng tiến bộ đó nếu họ chọn cách hành xử gây hận thù với nhau.
Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ở Đông Á tạo ra cơ hội lớn cho các nước này tiếp sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998. Nhưng các mâu thuẫn giữa Hoa Kỳ và Trung Hoa, Hoa Kỳ và Nhật Bản, và giữa Trung Hoa và Nhật Bản mấy năm qua đã khiến nhiều người tự hỏi liệu chỉ riêng sự phụ thuộc nhau về kinh tế có đủ không để đem lại những mối quan hệ bình ổn trong vùng.
Con đường tự do thứ ba để đi tới hòa bình – xây dựng các thiết chế cho các quan hệ quốc tế – nhằm điều hòa cách hành xử của các quốc gia thông qua một hệ thống chuẩn mực và luật lệ, từ đó mà tạo ra trật tự (và hòa bình) để tránh khỏi hiện tượng gần như là vô chính phủ. Một tư duy như thế đã là động lực cho mong ước của tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson xây dựng Hội Quốc Liên sau Thế Chiến thứ nhất, và nó cũng là cơ sở cho tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt thúc đẩy việc thành lập Liên Hợp Quốc và các thiết chế (quản lý tài chính quốc tế) Bretton Woods sau Thế Chiến II.
Tương tự như vậy, các quốc gia châu Âu chấp nhận những chuẩn mực và luật lệ chung của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu (Organization for Security and Cooperation in Europe – OSCE), và bao giờ họ cũng gần như được chuẩn bị để được điều hành bởi những chuẩn mực và luật lệ đó. Thật vật, Hội đồng châu Âu là kết quả của nỗ lực lâu bền tăng cường các chuẩn mực và luật lệ chung cho các quốc gia chây Âu.
Trái hẳn lại với châu Âu, Đông Á bao gồm các quốc gia hoàn toàn khác về kích cỡ, về trình độ phát triển, và về các hệ thống chính trị-kinh tế. Các nhà làm chính sách của các nước Đông Á biết rõ họ ít có khả năng hành động để làm thay đổi đôi chút các hệ thống chính trị của các nước láng giềng của mình. Và họ cũng chẳng làm gì nhiều theo cung cách chính thức để trong khoảng thời gian ngắn có thể củng cố sâu sắc hơn sự phục thuộc lẫn nhau về kinh tế của họ.
Cho nên, lẽ tự nhiên đối với các nhà làm chính sách trong vùng, họ muốn tập trung nhiểu hơn vào việc tạo ra các thiết chế, thông qua những cuộc thảo luận sinh động đều kỳ của những “chùm sao” đang hình thành: ASEAN+3, Thượng đỉnh Đông Á, Cộng đồng Đông Á, Hợp tác Kinh tế Á châu-Thái Bình Dương, Cộng đồng Á châu-Thái Bình Dương, vv …
Thế nhưng tiến trình này đã bị chính trị hóa và thao túng bởi sự tranh giành ảnh hưởng ở hậu trường rất quyết liệt giữa các cường quốc. Thật vậy, Đông Á dường như thiếu hẳn những kiến trúc sư Âu châu cỡ như Jean Monnet và Robert Schuman – những con người nhìn xa trông rộng có tầm cỡ và được ủng hộ mạnh mẽ về chính trị, những con người cần thiết để khởi công xây dựng một bộ khung cho nền hòa bình trong khu vực vào thời điểm đổi thay ghê gớm như ngày nay.
Vì vậy giờ đây các nước Đông Á cần phải hết sức thực dụng khi thiết chế hóa các vấn đề khu vực. Thay vì tốn công tốn sức xây dựng các thiết chế quy mô lớn cho toàn vùng, tốt hơn là nên tập trung nhiều nữa cho các thiết chế nhỏ hơn và có định hướng rõ rệt.
Chẳng hạn, bước đi hiệu quả đầu tiên tiến tới hợp tác kinh tế trong khu vực ở Đông Á là Sáng kiến Chiang Mai về trao đổi tiền tệ quốc tế được xây dựng sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997-1998. Tương tự như vậy, các cuộc Thương thảo Sáu bên về phi hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên, dù chưa có kết quả lớn, song cho tới nay vẫn là cơ chế hữu ích duy nhất để giải quyết vấn đề một cách tập thể.
Thảm họa hạt nhân Fukushima Nhật Bản có thẻ tạo ra một thiết chế khu vực khác lần này tập trung vào giải quyết vấn đề an toàn hạt nhân. Với các nước láng giềng của Nhật Bản, tổ chức Năng lượng Hạt nhân Quốc tế (International Atomic Energy Agency – IAEA) là chưa đủ; họ lo lắng cấp thiết đến việc tạo ra áp lực xây dựng bộ máy khu vực cho vấn đề đó. Cuộc hội nghị thượng đỉnh sắp tới giữa Nam Triều Tiên, Trung Hoa và Nhật Bản vào ngày 21-22 tháng năm 2011 tại Tokyo chẳng hạn sẽ tập trung vào vấn đề an toàn hạt nhân và chuẩn bị một thể chế cho sự hợp tác chặt chẽ hơn trong khu vực.
Với 88 nhà máy điện hạt nhân đang hoạt động ở Nam Triều Tiên, Trung Hoa và Nhật Bản, đây là sáng kiến thật quan trọng. Sẽ xảy ra chuyện gì nếu như bất kỳ lò phản ững nào của họ để xảy ra chuyện tương tự như chuyện đã xảy ra ở Fukushima? Hơn nữa, Bắc Triều Tiên đã cho chạy nhà máy điện hạt nhân Yongbyon mà không được quốc tế thanh sát. Theo lời vợ một người Bắc Triều Tiên đào tẩu, người này đã làm việc 20 năm trong tư cách khoa học gia hạt nhân tại Yongbyon, thì các tiêu chuẩn an toàn ở đây lỏng lẻo một cách nguy hiểm.
Rộng hơn nữa, chỉ thông qua việc tổ chức ra những thiết chế bớt tham vọng đi, tầm cỡ nhỏ hơn, và hoạt động với chức năng có định hướng, thì mới có cơ hội tổ chức được một thiết chế hòa bình trong khu vực. Suy cho cùng thì Rome đâu có xây  nên trong một ngày, và Cộng đồng Châu Âu – gốc gác chỉ là Cộng đồng Than và Thép châu Âu – đã bắt đầu với những bước đi nhỏ như vậy hướng đến hội nhập toàn diện.
Yoon Young-kwan, thứ trưởng ngoại giao Nam Triều Tiên năm 2003-2004, hiện là giáo sư quan hệ quốc tế đại học quốc gia Seoul.
Người dịch: Đại Phúc
Bn tiếng Vit © Ba Sàm 2011


-Người Trung Quốc đang tới! anhbasam

Ngày 1 tháng 5-2011
Chuyện đang ồn ào về lực lượng quân sự Trung Hoa làm ta nhớ lại những nỗi sợ đối với nước Nga thời Chiến tranh Lạnh. Thế mà Hoa Kỳ lại chẳng có phản ứng gì quá đáng khi có những tin tức về con tày sân bay mới của Trung Quốc.
Năm 1966, Hollywood cho ra mắt một bộ phim hài về Chiến tranh Lạnh kể chuyện chiếc tàu ngầm Nga bị mắc cạn tại một thành phố nhỏ của bang New England. Phim hay và khéo léo chộp được đúng cái cơn điên vô lối của thời kỳ đó về những ý đồ quân sự của Liên Xô. Bộ phim tên là Người Nga kia kìa! Người Nga kia kìa! Tôi khuyên bạn nếu có thể thì hãy kiếm một cái đĩa sao phim đó mà coi.
Còn bây giờ, xin bạn hãy sẵn sàng xem chuyện mới về người Trung Quốc: không xem phim, mà xem cái cơn điên đã sống lại. Trung Quốc đang sắp sửa hạ thủy đưa vào hoạt động con tàu sân bay đầu tiên của họ, nghe đồn nó có tên Shi Lang, theo tên ông đô đốc đã chiếm được đảo Đài Loan hồi thế kỷ thứ 17. Đồn rằng trước đó nó có tên là Varyag khi con tàu đang đóng cho Hải quân Liên Xô, về sau thì cho Hải quân Ukraina, và đến năm 1998 thì vào tay Trung Quốc khi con tàu vẫn chưa đóng xong, mua đấu giá 20 triệu USD.
Vẫn chưa có các thiết bị điện tử và hệ thống đẩy, đồn rằng con tàu ban đầu định mua về để làm sòng bạc nổi ở Macao, nhưng sau một hành trình chuyên chở về từ Ukraina và đi vòng quanh châu Phi, nó dừng lại ở Đại Liên tại vùng Đông-Bắc trung Hoa, tại đây nó được đưa vào xưởng đóng và sửa chữa tàu và được sơn màu xám thành con tàu của Quân Giải phóng Nhân dân. Như vậy là, cùng với việc sơn phết cũng là việc lắp đặt cho nó phần điện tử và hệ thống đẩy còn chưa có.
Chính thức ra thì Trung Hoa không cởi mở về các ý đồ của họ đối với việc có tàu sân bay. Các nguồn tin Trung Hoa nói rằng có những cuộc thảo luận vô hồi kỳ trận về những mối nguy và mối lợi một khi có được một hoặc hai chiếc tàu sân bay. Về mối lợi, thì đó là uy tín và cái cảm giác đã “thành đạt” với tư cách một cường quốc. Thực dụng hơn nữa, trước khi quyết định tổng chi phí, phải tính toán đến việc nếu dùng thử một con tàu sân bay thì  Quân Giải phóng nhân dân phải chi phí chính xác hơn là bao nhiêu, cách huấn luyện sẽ như thế nào, và những điều chỉnh cần thiết trong tác chiến sẽ là những gì. Một số người cho rằng tàu sân bay làm giảm khó khăn trong việc bảo vệ những đòi hỏi mở rông lãnh thổ Trung Hoa  tại vùng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông).
Về các mối nguy, một số người Trung Hoa lập luận rằng dùng các con tàu sân bay là không thông minh về mặt kinh tế hoặc về chiến lược trong một thời đại có những đe dọa cũ nhưng đã được nâng cao chống lại cách tác chiến với nhóm chiến hạm có tàu sân bay. Chưa kể là, khi đã có một nhóm tàu chiến có tàu sân bay sẽ càng tăng cường mối nghi ngại của các nước láng giềng đối với ý đồ hiếu chiến của Trung Quốc.
Hiện nay, rõ ràng là Trung Quốc đang dần dần đưa ra các tin tức chính thức trong các Tuyên bố và các bản tin nói rằng phe ủng hộ tàu sân bay đã thắng trong cuộc tranh luận (về chính sách này), ít ra thì cúng là thắng tạm thời. Bắc Kinh đã đưa tin nhỏ giọt và bóng gió rằng con tàu sân bay đang hoàn thành, có thể điều đó nằm ngoài mối quan tâm về các phản ứng của các nước láng giềng, kể cả việc các láng giềng cũng tăng cường trang bị quân sự chống lại mối đe dọa đã rành rành. Lý ra khôn ngoan hơn thì Bắc Kinh cũng nên thận trọng trong cả việc nói quá nhiều về sự phát triển của mình do có những thách thức vô cùng to lớn đặt ra cho Quân Giải phóng Nhân dân trong việc học cách sử dụng các tính năng của con tàu sân bay.
Các sĩ quan Hải quân cao cấp Hoa Kỳ và nhiều đồng nghiệp của họ trong Hải quân các nước châu Á coi tàu sân bay (của Trung Quốc) như là một mối đe dọa có thể dàn xếp được ngay cả khi Bắc Kinh đã biết cách triển khai tàu sân bay. Thật vậy, có những lời nói đùa cho rằng họ hy vọng Trung Quốc sẽ có năm nhóm tàu chiến có tàu sân bay và tiêu phí thêm tiền của lẽ ra có thể dồn cho những hệ thống khác ít mang tính chất đe dọa hơn. Tất cả bọn họ đều cho rằng trong năm nay họ đang theo dõi chặt chẽ những nỗ lực của Trung Hoa thực thi kế hoạch tàu sân bay của mình.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo Bloomberg, Đô đốc tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Robert Willard mới đây đã không coi tác động của tàu sân bay (Trung Hoa) như là hết sức “có tính biểu trưng”, nhưng ông thêm rằng, “dựa trên tin tức chúng tôi nhận được từ các đối tác và đồng minh ở vùng Thái Bình Dương,  tôi nghĩ rằng sự thay đổi quan niệm trong vùng là rất quan trọng”.
Trong nhiều thập niên, các quốc gia trong vùng thân thiện với Hoa Kỳ và nghi ngại Trung Hoa vẫn coi các tàu sân bay Hoa Kỳ như là biểu trưng tin cậy của khả năng ngăn chặn hành vi hiếu chiến của Trung Hoa chống lại họ. Điều này càng được tăng cường vào năm 1996 khi cựu Tổng thống Bill Clinton triển khai hai nhóm tàu chiến vào vùng biển gần Đài Loan để phản ứng lại những cuộc “tập trận” có dùng tên lửa của Trung Hoa nhằm đe dọa Đài Bắc.
Nếu Bắc Kinh xem chừng như cuối cùng sẽ chọn dùng tàu sân bay tác chiến ở vùng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), là nơi Hoa Kỳ tuyên bố có vai trò bảo đảm tự do giao thương nhưng không phải là nước đòi hỏi lãnh thổ ở đó, thì một số quốc gia đang đòi hỏi lãnh thổ ở đây sẽ cảm thấy sức mạnh quân sự của Trung Hoa mạnh mẽ hơn nhiều so với các thế kỷ trước đây.
Tất cả những điều này cho thấy rằng Washington và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương cần triển khai một chiến lược bảo đảm cho toàn vùng một khi Trung Hoa triển khai tàu sân bay của họ. Một yếu tố trong chiến lược này là sử dụng các diễn đàn công khai lắng nghe tường trình để cho thấy rõ rằng tàu sân bay của Trung Hoa có thể nhận những phản đòn đã có sẵn trong tay Hoa Kỳ và các đồng minh của Hoa Kỳ tại đây. Một yếu tố thứ hai sẽ là nền ngoại giao đều kỳ và công khai kể cả ở cấp cao đồng thời với việc triển khai tập trận của Hoa Kỳ trong vùng.
Sự làm sống lại chính sách Á châu của chính quyền Obama là một cơ sở tốt và nó sẽ được tăng cường thêm nếu chính quyền Obama thành công trong việc thoát ra khỏi Iraq và Afghanistan và “cân bằng lại” một cách hữu hiệu sự chú ý của Mỹ trong vùng châu Á và Thái Bình Dương — một công việc vẫn đang được tiến hành.
Ta trông đợi Trung Hoa sẽ thận trọng như họ vẫn tỏ ra như vậy cho tới hiện nay khi họ công bố khả năng mới của mình trong hy vọng giảm thiểu chống đối và thu được sự đồng thuận về một thể chế mới cho Quân Giải phóng Nhân dân. Những cuộc mang tàu sân bay đi thăm viếng các bến cảng trong vùng và mời các nước trong vùng tới tham quan con tàu sân bay cuối cùng sẽ nâng cao vị thế một nước Trung Hoa cho tới nay vẫn nổi tiếng là cư xử tàn bạo với chính sách minh bạch về quân sự của họ.
Nhưng Bắc Kinh cũng vẫn thèm thuồng chuyện mang tàu sân bay của họ tới gần Việt Nam và có khi tới gần cả các nước khác nữa trong vùng nhằm gửi một thông điệp rắn tới những nước láng giềng vẫn cho rằng họ quá bé nhỏ để có thể ngang ngạnh với Trung Quốc. Ngược lại, những nước láng giềng này cũng sẽ có sự lựa chọn giữa việc họ nên liên kết sâu hơn “nông” hơn với Hoa Kỳ.  Còn Washington thì có thể chọn lựa những quốc gia nào Mỹ muốn có liên kết sâu hơn.
Nói tất cả những điều đó để thấy là cuối cùng thì không nên phản ứng thái quá trước ý đồ của Trung Hoa mong muốn có được cái khả năng mà nhiều nước đã có trong tay, thậm chí là những khả năng chiến tranh đã cũ rồi. Song, đồng thời, cũng là điều cần thiết phải xử lý khoảng cách nhận thức về khả năng quốc phòng chuyên nghiệp giữa các nhà  lãnh đạo và công chúng trong khi vẫn cứ phải suy nghĩ tính toán giữa nhiều khả năng để mà chọn lựa. Khi đó, có thể lại có một bộ phim ra đời chưa biết chừng.
Douglas H. Paal là phó chủ tích bộ phận phụ trách các công trình nghiên cứu của tổ chức Carnegie Endowment for International Peace.  Trước đó ông là phó chủ tịch tổ chức JPMorgan Chase International và là đại diện không chính thức của Hoa Kỳ tại Đài Loan trong viện American Institute tại đây. Bài này đã được biên tập lại từ một bài được công bố trước đó, xem tại đây.
Người dịch:  Đại Phúc
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011 




--Trung Quốc - Biển Đông: China risks clash with rivals over energy grab (Canberra Times 2-5-11) -- Michael Richardson - Trung Quốc - Đông Nam Á: Limits of Chinese Power in Southeast Asia (Yale Global 26-4-11) TQ tăng cường hoạt động trên biển(BBC).  - Trung Quốc gia tăng thêm tàu tuần tra bảo vệ lãnh hải  —  (RFA).  - Các nước ASEAN vẫn chưa có một lập trường chung trên vấn đề Biển Đông  —  (RFI).  – Kathrin Hille: Trung Quốc lẳng lặng “đe” láng giềng bằng tàu sân bay (TVN/FT). - China risks clash with rivals over energy grab (The Canberra Times)

Tổng số lượt xem trang