Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2011

Máu Đổ Biển Đông

- Máu Đổ Biển Đông
 Trần Khải
Súng đã nổ, máu đã chảy. Trên vùng biển quê nhà, ngư dân Việt đang bị côn đồ biển truy bức; và trong khi hữu sự, không ai thấy Hải Quân VN và Dân Quân Biển nơi đâu gần đó để can thiệp.
Ngày 18-5-2011 (có tin khác đưa ra là ngày 16-5?), đã có 2 ngư dân Việt trên tài QNg-90360 bị các thủy thủ vũ trang từ một “tàu lạ” bắn bị thương; có tin đưa ra rằng đó là Hải Quân Phi Luật Tân bắn, nhưng chính phủ Phi Luật Tân nói là không hề có chuyện đó, mà phải từ “nước lạ” nào đó.
Ngày 19-5-2011, một tàu khác của ngư dân Việt, mang số QNg-66101-TS bị Hải Quân Trung Quốc chận bắt,cướp nhiều tài sản và dầu.

Những chuyện đó xảy ra chỉ vài ngày sau khi Trung Quốc ra lệnh cấm đánh cá vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa, lấn cả Biển Đông của VN; và cùng lúc là một hội nghị ASEAN đang họp tuần này ở Jakarta, Indonesia về hợp tác khu vực, trong đó có đề tài Biển Đông.
Bản tin trên baó Pháp Luật ngày 20-5-2011 viết:
“Ngư dân báo bị hải quân Trung Quốc thu tài sản
(PL)- Ngày 19-5, theo người nhà ngư dân Lê Hớn (ngụ xã An Hải, huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi), ngày 9-5, tại quần đảo Hoàng Sa, tàu QNG-66101-TS của ông Hớn đã bị hải quân Trung Quốc bắt giữ và thu nhiều tài sản gồm: 3,5 tấn cá, 450 lít dầu.
Tổng trị giá thiệt hại khoảng 160 triệu đồng. Sau đó, tàu QNG-66101-TS đã vào đất liền lấy nhiên liệu và tiếp tục quay ra quần đảo Hoàng Sa đánh cá. Hiện bộ đội biên phòng đang xác minh làm rõ vụ việc.
Rạng sáng 19-5, khi đang đánh bắt trên vùng biển Hoàng Sa, tàu cá QNg-92308 của ông Lê Minh Hùng (ngụ xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, Quảng Ngãi) bị gãy lắp, trên tàu có 10 ngư dân. Bộ đội Biên phòng Quảng Ngãi đang giữ liên lạc với tàu cá này và kêu gọi một số tàu đánh bắt gần đó khẩn trương đến cứu hộ tàu bị nạn.
Liên quan đến vụ hai ngư dân Việt Nam đi trên tàu cá QNg-90360 bị hải quân nước ngoài bắn ngày 16-5, khi đang đánh bắt trên biển thuộc khu vực quần đảo Trường Sa, UBND xã Bình Châu (huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi) đã báo cáo sự việc lên cấp trên, đề nghị can thiệp giúp đỡ ngư dân bị nạn.”(hết trích)
Biển Đông dậy sóng... Đúng vậy. Các nước ASEAN đều biết, và cũng đang họp.
Một bản tin AFP hôm Thứ Sáu 20-5-2011 có bản tin cho biết rằng khối ASEAN đồng ý về một mạng lưới mới để gìn giữ hòa bình.
Bản tin nói, các Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN đã họp ở Jakarta để bàn  về hợp tác khu vực, hướng về mục tiêu thành lập cộng đồng ASEAN vào năm 2015 và hy vọng tăng kết thân quốc phòng.
Purnomo Yusgiantoro, Bộ Trưởng Quốc Phòng Indonesia, công bố một hiệp định mới từ nhóm 10 quốc gia này để thiết lập mạng lưới gìn giữ hòa bình, theo đó sẽ lập kế hoạch, huấn luyện và trao đổi kinh nghiệm cho các chiến dịch gìn giữ hòa bình. Hội nghị 2 ngày cũng sẽ bàn về chuyện biên giới Thái Lan và Cam Bốt, và chuyện Biển Đông.
Trong khi đó, bản tin AP nói rằng các bộ trưởng 10 nước ASEAN nói hôm Thứ Năm là họ đã sẵn sàng làm việc chung nhau để lập ra một công nghiệp quốc phòng khu vực, trong đó sẽ chia sẻ kỹ thuật và có thể sẽ cùng nhau thiết kế phi đạn.
Nhờ làm việc chung nhau, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mã Lai Ahmad Zahid Hamidi nói, họ có thể sẽ giảm nhập cảng tới phân nửa.
Bộ Trưởng Quốc Phòng Nam Dương Purnomo Yusgiantoro nói rằng các nước ASEAN cùng nhau sẽ xài 25 tỉ đô/năm về hệ thống vũ khí và khí cụ quân sự, phần nhiều trong đó là nhập từ Tây Phương. Các nguồn nhập khác là từ TQ, Nga và Nam Hàn.
Yusgiantoro nói, rằng ASEAN thấy nhu cầu thực là phải thiết lập hòa bình và ổn định ở Biển Đông, ghi nhận rằng 2/3 diện tích khu vực là biển và do vậy những gì xảy ra trên biển sẽ là chìa khóa phát triển kinh tế.
Bản tin không nêu quan ngại naò về Trung Quốc, nhưng có thể là ASEAN đã có họp mật để bàn về TQ hay không? Thực tế, nếu không bàn mới là chuyện lạ.
Trên mạng Bauxitevn ngày 19-5-2011, có đăng lại một bài từ blog Nguyễn Xuân Diện, nhan đề “Vì sao Trung Quốc chưa dùng vũ lực với Việt Nam?” do ông Dương Danh Dy dịch ra Việt ngữ từ mạng Hỗ Liên Võng của Trung Quốc. Nguyên văn, theo dịch giả họ Dương, dài tới 20 trang giấy khổ A4, và được dịch ra vài trang quan trọng.
Muốn biết Trung Quốc suy nghĩ gì về Việt Nam, và cả Biển Đông, thì đây là một dấu chỉ quan trọng để suy nghĩ. Trích vài đoạn như sau:
“Nếu quân đội Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết tranh chấp Biển Đông (mà Trung Quốc gọi là Nam Hải), cần làm một cuộc điều tra ý dân vấn đề “đánh ai trước” thì trên 80% dân chúng Trung Quốc đều sẽ hô lên một cái tên Việt Nam, nhất là tiếng nói cháy bỏng của họ muốn đánh Việt Nam đã một thời được bàn luận xôn xao, dân chúng căm phẫn hô hào phải tiêu diệt, bởi vì Việt Nam xâm chiếm chủ quyền đảo bãi của Trung Quốc nhiều nhất, từ bên ngoài thấy là điên cuồng nhất, mà trong 5 nước xâm chiếm đảo bãi của Trung Quốc ở Biển Đông thì sức mạnh tổng hợp quốc gia của Việt Nam là yếu nhất, khả năng điều khiển chiến tranh kém nhất, căn cứ vào lực lượng so sánh hiện nay giữa Trung Quốc và Việt Nam có thể nói không một chút hoài nghi rằng nếu như Trung Quốc khai chiến với Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, quân đội Việt Nam chỉ có sức ngăn cản chứ không có lực đánh trả, cuối cùng là thất bại thảm hại, khẳng định quân đội Trung Quốc sẽ chiến thắng triệt để sạch sẽ, về điểm này chẳng có ai nghi ngờ.
Thế nhưng quân đội Trung Quốc đánh Việt Nam đầu tiên tại Biển Đông thì kẻ hèn này, một người Trung Quốc sẽ thấy không có lợi cho Trung Quốc, vì việc Trung Quốc đánh Việt Nam đầu tiên có thể là điều chính quyền Trung Quốc bị mắc mưu mà người Mỹ rất vui lòng nhìn thấy. Liệu có khả năng đó hay không? Từ những tư liệu tham khảo nội bộ của quân Giải phóng mà người viết tiếp xúc được thấy, nguyên nhân khiến hải quân Trung Quốc chần chừ không sử dụng vũ lực với Việt Nam là vì Mỹ, Nhật và các nước Biển Đông đã từng bàn bạc bí mật, nếu hải quân Trung Quốc gây xung đột với các nước Trường Sa thì sẽ cùng ngăn chặn Trung Quốc. Vì vậy trước khi tiến hành phân hóa thành công, Trung Quốc cũng sẽ không đánh trộm ở Biển Đông bao gồm cả việc ra tay với Việt Nam.
Vì vậy trong vấn đề chính phủ Trung Quốc và quân đội Trung Quốc dùng vũ lực giải quyết Biển Đông thì việc đánh Việt Nam đầu tiên là sự lựa chọn không sáng suốt. Căn cứ vào sức mạnh đất nước và thực lực quân sự của Việt Nam hiện nay thấy trong khoảng thời gian tương đối dài trong tương lai chúng không có đầy đủ khả năng chiến tranh đối đầu với Trung Quốc, trong thời gian ngắn không tạo thành sự đe dọa an ninh quốc gia với Trung Quốc, thế nhưng do lục địa và vùng biển của Việt Nam và Trung Quốc nối liền chặt chẽ với nhau, vị trí địa lý của chúng đúng là rất quan trọng đối với an ninh quốc gia và con đường vận chuyển năng lượng của Trung Quốc, quan hệ hai nước lại có không gian phát triển theo hướng tốt, vì thế đối với những tranh chấp biên giới và tranh chấp đảo bãi giữa hai nước Trung, Việt, phương thức tốt nhất của Trung Quốc là thông qua hiệp thương hòa bình giải quyết là thượng sách, không được tùy tiện sử dụng vũ lực...”(hết trích)
Như thế, nếu lý luận kia là đúng, có nghĩa là Trung Quốc sẽ không dàn trận quy mô tấn công như thời 1979 đưa biển người chiếm 6 tỉnh phía bắc Việt Nam.
Nhưng nếu không tấn công quy mô, mà cứ quấy rối ngư dân Việt thì sao? Và không chỉ quấy rối đơn thuần, mà còn cấm biển, tịch thu dầu và cá, thậm chí còn đưa súng ra bắn ngư dân Việt  trọng thương.
Vậy đó, rồi nhà nước Hà Nội làm gì? Vậy đó, rồi ASEAN làm gì?
Hãy đọc lại bản văn do ông Dương Danh Dy dịch, trong đó nói rằng, “trước khi tiến hành phân hóa thành công, Trung Quốc cũng sẽ không đánh trộm ở Biển Đông...”
Thực tế, Trung Quốc không hề đánh trộm. Cấm biển là công khai cấm. Tàu tuần tra là công khai tuần tra. Cả thế giới đều biết.
Việt Nam đang rơi vào một trận cờ thế, thấy rõ là tiến thoái lưỡng nan. Nhưng thê thảm trước tiên vẫn là đồng bào ngư dân của chúng ta.





TRUNG QUỐC VỚI VẤN ĐỀ BIỂN ĐẢO
(Báo “Hải quân nhân dân” Trung Quốc)

Tài liệu tham khảo đặc biệt

Thứ Tư, ngày 4/5/2011
TTXVN (Bắc Kinh 28/4)

Từng hòn đảo ngoài khơi tàng trữ nguồn nước, nguồn thuỷ sản, khoáng sản và nguồn lực du lịch, là sự đảm bảo quan trọng để kinh tế và xã hội Trung Quốc phát triển bền vững. Hải đảo với tư cách là trận địa quốc phòng tiền duyên, thông tới tiền đồn ở ngoài khơi như những cứ điểm tiến công, là tiêu chí được công nhận về điểm xuất phát cơ sở…, đó là điểm giữ tiền tiêu để bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, ý nghĩa chiến lược của đảo ngày càng bộc lộ rõ. Tuy nhiên, không biết từ khi nào, chúng ta đã bỏ qua việc bảo vệ hải đảo.

I – Khai thác tranh cướp, phá hoại nghiêm trọng: Hải đảo trở thành “vật hy sinh” cho phát triển kinh tế.


Theo con số thống kê của Cục hải dương và nghề các tỉnh Quảng Đông, năm 1990 toàn tỉnh có tất cả 1.431 hòn đảo lớn nhỏ, đến nay đã giảm xuống còn hơn 1.100 đảo. Không chỉ có thế, hiện tượng mất đảo đã trở thành vấn đề chung của các tỉnh ven biển: Tỉnh Liêu Ninh đã mất 48 đảo, số lượng các đảo bị mất đã chiếm tới 18% tổng số đảo ban đầu; Tỉnh Hà Bắc đã mất 60 đảo, giảm 46%; Tỉnh Phúc Kiến mất 83 đảo, giảm 6%; Tỉnh Hải Nam mất 51 đảo, giảm 22%….

Đối với những cư dân sinh sống ở gần đảo, hiện tượng mất đảo quy mô lớn đã không còn là việc hiếm thấy: Mỗi ngày có rất nhiều tàu liên tục ra khai thác cát ở ngoài biển, những đường dẫn lớn ra tới vùng nước sâu để chở cát vào đất liền, giống như nhiều cánh tay dài vươn ra cướp lấy từng đảo. Đảo cứ nhỏ dần mỗi ngày rồi mất hẳn, nhưng không có bất cứ sự ghi chép nào về thực tế này.

Nguyên nhân mất đảo có rất nhiều, các đảo dạng như bãi cát không có nham thạch cố định, dễ bị các nhân tố tự nhiên như sóng, gió làm cho mất đi, nhưng nhiều đảo hơn mbị mất là do lấp biển, các công trình như đê biển, cầu cống biến thành bán đảo, chuỗi đảo hoặc thành đất liền, mất đi tính chất vốn có của đảo; Nghiêm trọng nhất là do phát triển không có trật tự đã tạo nên sự phá hoại do bàn tay con người, đê đập, du lịch, nuôi trồng, cửa biển và các công trình phối hợp đồng bộ, khai thác dầu trên biển, đảo quặng và lấp biển, tất cả đều đem lại tai hại chưa từng có.

Các ngành nghề biển ở Trung Quốc phát triển theo lối quảng canh chỉ chú trọg số lượng chủ yếu còn là do quan niệm sai lệch. Từ thời cổ xưa rất nhiều đảo không có người ở là các nhà tù thiên nhiên để đi đày, giam giữ và tàn sát tù nhân. Hiện nay còn rất nhiều người vẫn chưa nhận rõ được tính chất quan trọng của đảo, nhất là các đảo không có người ở, luôn cho rằng chẳng qua chỉ có vài cây mọc, một số bãi san hô, dù sao cũng không thể ở được, khai thác cát, đánh bắt, nuôi trồng cũng chẳng có gì lãng phí. Chính do quan niệm sai lầm chỉ quan tâm lợi ích trước mắt như vậy nên đã dẫn đến tình trạng phá hoại mà không cách nào xoay chuyển nổi, không chỉ phá hoại bản thân các đảo mà nguồn rừng sú vẹt cũng bị đe doạ nghiêm trọng.

II- Đường cơ sở lãnh hải, nguồn sinh tồn: Nâng cao ý nghĩa quốc gia trong bảo vệ biển đảo

Trung Quốc có tới 6.921 đảo có diện tích trên 500 mét vuông, số đảo và bãi đá dưới 500 mét vuông cũng có gần 10 nghìn đảo bãi. Theo quy định trong “Công ước Liên hợp quốc về luật biển”, mỗi quốc gia lãnh hải có thể coi các đảo ven biển của nước mình là các điểm xuất phát cơ sở, nối các đảo, cũng là các điểm xuất phát cơ sở này lại với nhau sẽ tạo thành một đường cơ sở, có thể lấy đường cơ sở này làm ranh giới để hoạch định vùng lãnh hải 12 hải lý là vùng nước thuộc phạm vi quản lý chủ quyền của nước đó, bên ngoài lãnh hải 12 hải lý là vùng giáp ranh, lại tiếp tục hướng ra ngoài là vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý. Trong số 77 điểm xuất phát cơ sở để xác định lãnh hải mà Trung Quốc đã công bố (năm 1996), có 67 điểm là thuộc các đảo không người ở. Nếu các đảo không người ở này bị phá hoại hoặc bị mất đi thì các điểm xuất phát cơ sở và đường cơ sở cũng mất đi, đồng thời cũng tự động để mất đi từng ấy quyền lợi được ưu đãi.

Khi một đảo mất đi cũng có nghĩa là tất cả mọi nguồn nước và nguồn tài nguyên khoáng sản dưới đảo đó đều sẽ mất đi. Nhật Bản ngay từ rất sớm đã ý thức được vấn đề này. Bãi đá Okinotori (Okinotori reef) khi nước triều lên chỉ có 5 mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước, chưa bao giờ được người Nhật chú ý, nhưng sau khi “Công ước Liên hợp quốc về luật biển” được công bố, Nhật Bản đã lập tức gia công củng cố cho tư cách “đảo” của Okinotori reef. Năm 1987, Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng phương thức “Hội thảo đặc biệt về đối sách ứng cấp đảo Okinotori”, từ năm đó bắt đầu xây dựng công trình đê bọc xung quanh để ngăn cho đảo khỏi bị phong hoá và khỏi bị ngập. Từ tháng 4/1988 đến tháng 10/1989, Nhật Bản đã chi tổng cộng 28,5 tỉ yên, đặt ghép 9.900 tảng chắn sóng được làm bằng sắt ở xung quanh các mỏm đá Okinotori Bắc và Okinotori Đông, phun tưới xi măng lên toàn bộ bề mặt mỏm đá làm lớp bảo hộ. Sau khi hoàn thành công trình, Chính phủ Nhật Bản lại đầu tư 5 tỉ yên để tiếp tục gia cố, năm 2006 đầu tư khoản lớn đến 7,55 triệu USD nuôi trồng san hô với ý đồ sử dụng san hô để làm cho đảo Okinotori “sinh trưởng”. Có chuyên gia phân tích nếu Okinotori được xác nhận là đảo thì không những có được khu đặc quyền kinh tế rộng 400 nghìn km vuông, mà sẽ còn được quyền xây dựng cơ sở quân sự mới ở trên đảo. Nếu được như vậy thì pham vi tuần tra của tàu và máy bay Nhật Bản có thể được mở rộng ra hơn 2.000 km, mà vùng biển như vậy chính là tuyến đường tất yếu để Trung Quốc tiến ra Thái Bình Dương ở phía Đông, Mỹ tiến vào Đông Á từ phía Tây và Nga đi xuống phía Nam.

Biển là nguồn của cải vô giá và là không gian phía sau để các nước trên thế giới phát triển kinh tế – xã hội. Biển vừa là cơ sở tài nguyên chiến lược quan trọng về năng lượng, khoáng vật, thực vật và kim loại quý hiếm quan trọng, lại cũng là bộ phận cấu thành cơ bản của hệ thống nâng đỡ sự sống của toàn cầu, là kho báu về tài nguyên và cỗ máy điều tế quan trọng về môi trường. Đảo với tư cách là bộ phận cấu thành quan trọng của hải dương, trong khi khai thác sử dụng, con người cũng đồng thời phải coi biển là hệ thống nâng đỡ sự sống để quan tâm bảo vệ.

III- Nắm rõ thực tình, lập pháp chuyên ngành: Tạo ra “thần hộ mệnh” bảo vệ đảo

Năm 2005, có 908 cuộc điều tra chuyên ngành về khu vực bờ biển hải đảo được triển khai toàn diện ở Trung Quốc đã hoàn thành, bản “Danh sách hải đảo Trung Quốc” cũng sẽ được công bố chính thức. Trên cơ sở điều tra thực địa, lần đầu tiên các nhân viên công tác đã áp dụng kỹ thuật vệ tinh dao cảm có độ phân giải cao và kỹ thuật rađa quét tia lade ba chiều (LiDAR) tiên tiến trên thế giới được áp dụng trong ngành hàng không; đã điều tra rõ các số liệu cơ sở về vị trí khu vực bờ biển của các hải đảo, loại hình hải đảo, chiều dài đường bò biển và loại hình, diện tích, phân bổ và đặc trưng khu vực ngập thấp giữa các đảo, nắm vững một cách có hệ thống hiện trạng và tiềm lực nguồn tài nguyên môi trường bờ biển các hải đảo Trung Quốc, cung cấp những căn cứ khoa học cho việc quản lý tổng hợp và phát triển kinh tế biển bền vững như phát triển sử dụng biển, bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống và làm giảm thiên tai, đã làm mới lại toàn diện các số liệu về vùng bờ biển hải đảo Trung Quốc.

Đồng thời, ngày 26/12/2009, “Luật bảo vệ hải đảo Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa” đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 11 thông qua, và bắt đầu thi hành từ ngày 1/3/2010. Bộ luật nói trên là quy định pháp luật chuyên ngành đầu tiên của Trung Quốc về hải đảo, đã lấp lại khoảng trống trong làm luật về hải đảo của Trung Quốc. Luật nói trên được ban bố thực thi đã làm cho nghìn vạn hải đảo của Trung Quốc có được vị “thần hộ mệnh”.

“Luật bảo vệ hải đảo” đã thể hiện rõ công việc bảo hộ sinh thái của hải đảo, tạo ra thể chế quản lý hải đảo, xác lập cục diện mới về bảo vệ phát triển hải đảo, có ý nghĩa chiến lược quan trọng đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật biển của Trung Quốc, xác định rõ địa vịi pháp lý của hải đảo, bảo vệ tài nguyên, hệ thống sinh thái đảo và thúc đẩy phát triển sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên biển đảo.

Trung Quốc cũng đồng thời tăng cường công tác phê duyệt và quản lý các công trình sử dụng biển có liên quan đến đảo, quy định chặt chẽ trong phê duyệt xây dựng các công trình kiến trúc hoặc cơ sở thiết bị ở các bãi cát trên đảo có người ở, hạn chế các hành vi làm thay đổi đường biên giới các đảo có người ở như khai thác cát, vây lấp biển…. cấm xây dựng các công trình mới nối liền các đảo bằng các đê đập thực tế. Đối với các đảo trọng điểm khôi phục đã được xác định trong quy hoạch bảo vệ, cần tổ chức triển khai bảo vệ hệ thống sinh thái ở các đảo có người ở và khu vực biển xung quanh các đảo đó.

Kinh tế cần phát triển nhưng tuyệt đối không thể trả giá bằng cách phá hoại moi trường sinh thái biển. Trung ương Đảng, Chính phủ đã hết sức coi trọng phát triển và bảo vệ biển, yêu cầu phải “chỉnh đốn lại trật tự, kiểm soát quy mô, sử dụng hợp lý”, đặc biệt là trong “Quy hoạch 5 năm lần thứ 12” đã đề ra yêu cầu cao hơn về việc “có kế hoạch phát triển đều cả đất liền và biển khơi”, “nâng cao năng lực tổng hợp về phát triển, kiểm soát và quản lý biển”.

IV- Đi đầu gương mẫu, mở rộng tuyên truyền: Lực lượng hải quân trở thành nòng cốt bảo vệ hải đảo

Hải đảo là bốt tiền tiêu để bảo vệ quyền lợi và lợi ích biển, là tiền đồn trấn thủ cửa ngõ quốc gia, phòng vệ kẻ thù xâm nhập, địa vị đặc biệt của cán bộ chiến sĩ hải quân trong bảo vệ biển đảo được cả xã hội quan tâm.

Để làm thay đổi ý thức truyền thống coi trọng đất liền coi nhẹ biển của cư dân trên các hải đảo, cũng giống như cách làm của Hạm đội Đông Hải ở khu vực quần đảo Châu Sơn, Chiết Giang đã chủ động có biện pháp cứu đảo, cán bộ chiến sĩ kho xăng dầu thuộc Ban hậu cần, cảnh vệ mặt nước hải quân thuộc Hạm đội Nam Hải phụ trách các đảo khu vực phía Đông tỉnh Quảng Đông đã phổ biến rộng rãi kiến thức bằng các hình thức như nói chuyện chuyên đề về “Luật bảo vệ hải đảo”, tuyên truyền kiến thức biển…. triển khai các hoạt động như làm sạch hải đảo, cùng bắt tay bảo vệ quê hương, hướng dẫn cư dân hình thành quan niệm giá trị về biển, quan niệm về lãnh thổ ngoài khơi. Trên cơ sở đó đã ra báo tường cỡ lớn với chủ đề “yêu biển bảo vệ biển”, hăng hái tích cực tạo ra trận địa dư luận tuyên truyền kiến thức, văn hoá biển.

Hàng ngày trong khi thi hành nhiệm vụ, đội tàu hộ vệ của Ban hậu cần nói trên đã tự thể hiện chức trách bảo vệ hải đảo, trong huấn luyện, diễn tập đã thường xuyên cảnh báo, nhắc nhở các tàu lấy cát, chặn đuổi cá ngư dân đánh bắt cá bằng thuốc nổ. Chính uỷ đội tàu Phù Hiến Văn cho biết khi mới bắt đầu, các cán bộ chiến sĩ không hiểu hết ý nghĩa, cho rằng đó là chuyện làm thừa thãi, nhưng sau đó đã nhận thức rõ vấn đề, tất cả đều thay đổi cách thi hành mệnh lệnh bị động trước đây thành chủ động tìm biện pháp. Đến nay bảo vệ hải đảo đã trở thành ý thức tự giác của các cán bộ chiến sĩ.

Về bảo vệ môi trường sinh thái biển, có không biết bao nhiêu chuyện kể về những cán bộ chiến sĩ bảo vệ Nam Sa (Trường Sa). Những người giữ đảo ở đây đã gắn trách nhiệm bảo vệ môi trường biển đảo với cương vị chức trách của mình, hàng ngày thi hành nhiệm vụ cho đến khi nước triều xuống, những ai không trực bạn thì ra biển làm vệ sinh dọn sạch rác biển. Những người ở Trường Sa còn trồng cây, trông hoa trong các bồn để bảo vệ và cải thiện môi trường./.

Chưa tìm thấy 2 ngư dân mất tích (Tuổi trẻ).- Thuỷ triều “nuốt chửng” 400 hécta đảo Lý Sơn (Lao động). - Vài cảm nghĩ về cuộc triễn lãm ảnh “Hoàng Sa – Nhìn từ Lý Sơn” (Trần Minh Quân)- “ĐẶC NHIỆM” Ở TRƯỜNG SA (Mai Thanh Hải). -- Tháng tư Trường Sa và những ấn tượng khó phai(GD&TĐ). - Cuộc gọi từ DK1 (Lao động).  – Những hậu duệ lính Hoàng Sa: Vua lặn (Dân Việt). – Gặp “đội binh khuyển” Trường Sa (Bee).  – 10 nhà giàn DK1 hoàn thành công tác bầu cử (VOV).

Tổng số lượt xem trang