Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

Đơn tố cáo lãnh đạo Tp.HCM của công dân quận 9

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TP.HCM, ngày 10 tháng 01 năm 2014
ĐƠN TỐ CÁO
V/v : Tố cáo lãnh đạo Tp.HCM cùng nhóm lợi ích thu hồi đất tại dự án công nghệ cao Tp.HCM từ 872ha do Chính phủ phê duyệt đã thu hồi lên 1174 ha xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân .



Kính gửi : - Ông Nguyễn Phú Trọng . Tổng bí thư Đảng CSVN –
Trưởng ban chỉ đạo trung ương về PCTN
- Ông Trương Tấn Sang . Chủ tịch Nước CHXHCNVN
- Ông Nguyễn Tấn Dũng . Thủ tướng Chính phủ
- Ông Ngô Văn DụChủ nhiệm UB kiểm tra TW Đảng
- Ông Nguyễn Bá ThanhTrưởng ban nội chính TW
- Ông Trần Đại QuangBộ trưởng Bộ công an
I/- Người tố cáo :
Căn cứ Điều 19 Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011 .
Chúng tôi những hộ dân bị thu hồi đất cho Dự án công nghệ cao (DA CNC), gần Mười năm qua đã liên tục gửi nhiều đơn tố cáo đến Thủ tướng Chính phủ và các Cơ quan hữu trách thuộc Chính phủ và Trung ương. Nội dung phản ảnh việc “Tham nhũng đất đai” về thu hồi đất tại DA ĐT Khu công nghệ cao (KCNC) quận 9 Tp.HCM, nhưng vẫn chưa được giải quyết, để các nhóm lợi ích xâm phạm vào quyền và lợi ích hợp pháp của công dân .
Chúng tôi khẩn thiết đề nghị Quý cấp Lãnh đạo Quốc Hội, Ban chỉ đạo TW về PCTN, BCH TW Đảng, Chính Phủ không nên Vô tâm với nỗi khổ của người dân chúng tôi.
Chúng tôi đồng ý cử đại diện :
1. Ông : Hoàng Đức Quý 67 tuổi - Cựu chiến binh
CMND số : 025475947 do CA Tp.HCM cấp
Địa chỉ : 14/194A tổ 2 , Kp4 , phường Tăng Nhơn Phú A, Q.9, Tp.HCM .
2 Ông : Trần Lực 62 tuổi
CMND số : 023663054 do CA Tp.HCM cấp
Địa chỉ : 31/40/12A, Ung Văn Khiêm, phường 25, q. Bình Thạnh, Tp.HCM
Là đại diện cho chúng tôi đồng tố cáo :

II. Người bị tố cáo :
- Ông Lê Thanh Hải nguyên Chủ tịch UBND Tp.HCM cùng nhóm lợi ích

- Ông Nguyễn Văn Đua nguyên phó Chủ tịch UBND Tp.HCM
- Ông Lê Hoàng Quân đương nhiệm Chủ tịch UBND Tp.HCM
III/- NỘI DUNG TỐ CÁO :
1 - Nội dung tố cáo 1 :
Nguyên Chủ tịch Lê Thanh Hải chỉ đạo Chủ tịch UBND Q.9 thu hồi đất không chấp hành phê duyệt của Chính phủ thu hồi vượt từ 872ha lên 1174, ha .
Bằng chứng :
a/ Chính phủ phê duyệt Quyết định số 95 ngày 13/05/2003 do phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm ký thu hồi 804ha
b/ Chính phủ phê duyệt Quyết định số 458 ngày 18/4/2007 do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký thu hồi 913ha
c/ Chính phủ phê duyệt Quyết định số 24 ngày 06/01/2010 do phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải ký thu hồi khoảng : 872ha
Song nguyên Chủ tịch Lê Thanh Hải đã ban hành Quyết định thu hồi đất số 2666 ngày 27/6/2002. Trước thời điểm Chính phủ thành lập KCNC tại Quyết định 145 ngày 24/10/2002.
Ngoài ra nguyên Chủ tịch Lê Thanh Hải còn tự ý ban hành hàng loạt quyết định thu hồi đất do nguyên phó Chủ tịch Nguyễn Văn Đua ký thay để mở rộng KCNC trong khi Chính phủ không phê duyệt , cụ thể :
a - Quyết định số 2717 ngày 18/7/2003 thu hồi : 6,94ha
b - Quyết định số 3788 ngày 11/9/2003 thu hồi cách KCNC hàng 1000m : 17,15ha
c - Cùng ngày Quyết định 3789 ngày 11/9/2003 thu hồi : 3,50ha
d - Quyết định 4652 ngày 29/10/2003 thu hồi : 3,05ha
e - Quyết định 2122 ngày 17/5 2004 thu hồi : 100,20ha
f - Quyết định 2193 ngày 19/5/2004 thu hồi : 102,23ha
g - Cùng ngày Quyết định 2195 ngày 19/5/2004 thu hồi : 24,60ha
h - Quyết định 2310 ngày 21/5/2004 thu hồi : 2,50ha
i - Cùng ngày thu hồi ấp Cầu xây : 1,00ha
Tổng cộng :261,17ha
Thực tế đã và đang tiến hành thu hồi : 913ha + 261ha = 1174,ha
Thu hồi vượt lên so với quyết định 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 của Chính phủ phê duyệt 872 ha là : 1174 ha - 872 ha = 302 ha
Đây là con số tham nhũng đất đai của nhóm lợi ích đứng đầu là nguyên Chủ tịch Lê Thanh Hải. Thử làm một bàn toán nhẩm ?
2 - Nội dung tố cáo 2 :
Tước quyền người dân không được hưởng quyền lợi Luật ĐĐ 2003 tại thời điểm thu hồi đất. Thậm chí tước luôn quyền lợi Luật ĐĐ 93, 98, 2001 hết hiệu lực cũng không được hưởng, cụ thể: về trình tự, thủ tục về thu hồi đất .
Bằng chứng :
1/ Cấp thẩm quyền thu hồi đất không có bản đồ do Thủ tướng phê duyệt (vì KCNC là dự án cấp Quốc gia).
2/ Cấp thẩm quyền thu hồi đất không có phương án bồi thường.
3/ Cấp thẩm quyền thu hồi đất không cóquyết định thu hồi đất đến từng hộ dân .
4/ Cấp thẩm quyền thu hồi đất không phát tờ kê khai cho dân .
Ban hành ngoài quyết định “Công bố gia trị bồi thường” một cách áp đặt là quyết định “Kiểm kê bắt buộc” – là quyết định “cưỡng chế hành chính” để thu hồi đất. Trong quyết định không căn cứ Luật Đất đai, nếu có căn cứ Luật ĐĐ 2003 thì lại không áp dụng mà áp dụng Luật ĐĐ 93, 98, 2001 đã hết hiệu lực thi hành, rồi lại dùng Nghị định 22 trên cơ sở quyết định 05/1995 để đền bù giá rẻ mạt .
Các chế độ chính sách – Người có công Cách mạng hầu như không áp dụng, không trả tái định cư để tạo quyền được sống cho người dân .
Hai đoàn Thanh tra liên ngành của Chính phủ do ông Đinh Thế Nghiệp và ông Vũ Huy Tác Trưởng đoàn vào thanh tra khu CNC tại quận 9 TP.HCM có kết luận 256 và 3595 báo cáo Thủ Tướng xem xét kết luận đã có hiệu lực pháp luật là thiếu trung thực, tạo tiền đề cho lãnh đạo TPHCM và CQQ9 ( gồm quận ủy và UBNDQ9 ) tham nhũng lớn đất và tiền của Nhà nước và của dân.
Bản đồ 18426 không được Thủ tướng phê duyệt là thiếu cơ sở pháp lý để thu hồi đất của dân. Đã công nhận 10 nội dung tố cáo thì có 9 nội dung tố cáo đúng. Đặc biệt nội dung tố cáo 8 : ”Cưỡng chế thu hồi đất sai quy định, cưỡng chế khi chưa bố trí tái định cư, cưỡng chế thu hồi đất cả phần diện tích đất nằm ngoài ranh giới thu hồi và giao đất cho KCNC”.
Người dân cứ thắc mắc 2 đoàn thanh tra có bị nhóm lợi ích “mua chuộc” hay không mà lại tiếp tay cho nhóm lợi ích đã làm sai càng lún sâu trầm trọng, cụ thể 256 đưa ra kết luận :
1 - Theo Luật ĐĐ 93, 98, 2001 và các văn bản hướng dẫn không quy định phải có quyết định thu hồi đất đến từng hộ dân. Thật là đối ngược Điều 21 Luật ĐĐ 93, 98, 2001 của Quốc Hội – Điều 32 Nghị định 22 của Chính phủ. Đối ngược với khẳng định của ông Chu Phạm Ngọc Hiển Thứ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường : “Quyết định thu hồi đất là quyết định hành chính không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên phải tống đạt đến đối
tượng thi hành. Việc người dân không nhận được quyết định là lỗi của chính quyền địa phương” .
2 – Kết luận 256 đã nêu rõ : 2 quyết định 2666 – 2193 là quyết định hành chính giao nhiệm vụ cho các Ban, Ngành dưới quyền và UBQ9 là “Vượt thẩm quyền – Trái trình tự” thì chỉ có dừng và hủy. Vậy mà Thanh tra còn kiến nghị Thủ tướng giữ nguyên 2 quyết định thu hồi đất vì phù hợp chủ trương. Công dân không muốn nhắc lại điều này vì có bao giờ CẦN CHỦ TRƯƠNG mà không CẦN LUẬT PHÁP .
Hai đoàn thanh tra không kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ phải có biện pháp cụ thể xử lý triệt để nghiêm minh, thanh loại những cá nhân của tổ chức làm trái quy định của pháp luật. Thành thử thanh tra ra về, nhóm lợi ích lại hoành hành vẫn đâu đóng đấy, người dân vẫn không được hưởng quyền lợi từ 02 bản kết luận của thanh tra này.
Người dân kiện ra Tòa, các Thẩm phán Tòa sơ thẩm quận 9 100% bác đơn khởi kiện và nhất là quyết định “cưỡng chế hành chính” để thu hồi đất, thẩm phán Tòa phúc thẩm thành phố Hồ Chí Minh 100% bác đơn khởi kiện .
Người dân cho rằng nhóm lợi ích do nguyên Chủ tịch Lê Thanh Hải đã chỉ đạo Tòa để dồn người dân vào chân tường .
Bằng đơn này chúng tôi đề nghị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước :
1/ Kiểm tra số lượng diện tích KCNC mà công dân đã tố cáo để có kết luận chính xác về tham nhũng đất đai của nhóm lợi ích. Đồng thời phải công khai minh bạch bản đồ 1/2000 đã được Hội đồng thẩm định Nhà Nước thẩm định – Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký phê duyệt, phải có tham gia chứng kiến của những người dân tố cáo.
2/ Chỉ đạo việc thực hiện thu hồi đất người dân phải được hưởng quyền lợi của Luật Đất Đai hiện hành là Luật ĐĐ 2003 và các Nghị định hướng dẫn, đồng thời phải áp dụng chính sách dành cho người có công, phải có tái định cư để người dân tạo cuộc sống.
3/ Thanh loại những cá nhân của tổ chức, nhóm lợi ích tham nhũng đã làm mất lòng tin của dân với Đảng, Nhà nước - Chính quyền nhân dân các cấp không chấp hành chỉ đạo của Chính phủ và xem xét “Cơ quan hành pháp có chỉ đạo ngành Tư pháp” hay không ?!!!
Những bằng chứng trên đây là sự thật, chúng tôi chịu trách nhiệm trước pháp luật và xin được thông báo theo điểm b , c khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo 2011 .
Trân trọng kính
Danh sách những người đồng tố cáo
Đại diện 1    Đại diện 2

-
Mời độc giả xem những hình ảnh người dân nhiều năm lặn lội vác đơn ra Hà Nội kêu cứu









******************************
----



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
                                                                     Quận 9, ngày 04  tháng 12 năm 2013

         ĐƠN TỐ CÁO
                Ông Lê Hoàng Quân, Ủy viên TW Đảng, Chủ tịch UBNDTPHCM.
                               Trưởng Ban phòng chống tham nhũng TPHCM

          Kính gửi  -  ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CSVN,
                             ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - TRƯỞNG BAN CHỈ ĐẠOTRUNG ƯƠNG
                             VỀ PHÒNG CHỐNG TAM NHŨNG
                        - ÔNG NGUYỄN BÁ THANH - TRƯỞNG BAN NỘI CHÍNH
                            TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CSVN

Người tố cáo:   Nguyễn Xuân Ngữ - 71 tuổi,    CCB, CBHT, GĐ liệt sĩ.
chủ quyền nhà, đất hợp pháp số 166/6 khu phố Mỹ Thành, P.Long Thạnh Mỹ, quận 9.
CMND số 023030668 CATPHCM cấp ngày 13/9/2004.
ĐT: 0913777040. Email :xuanngu@ymail.com .

        Hiện bị chính quyền Q9 phá hết nhà cửa, cướp hết tài sản, đất đai, trang trại, dồn ép vào khu phòng trọ ( tạm cư trá hình), phòng C9, nhà số 41, Tăng Nhơn Phú, P.Phước Long B, Q.9, Tp.HCM - Theo mô hình “khu dồn dân – khu trù mật”   do  chính quyền quận 9 và UBNDTPHCM dựng lên.

Người bị tố cáo : Ông Lê Hoàng Quân , UVTW Đảng , CTUBNDTP,
      Trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng TP HCM
             Địa chỉ : 86 Lê Thánh Tôn, Quận 1, TPHCM.

  Cơ sở pháp lý để tố cáo :
Căn cứ khoản 1,2,3 - Điều 2 ; Điều 19, Luật tố cáo số 3 QH 13

                                                NỘI DUNG TỐ CÁO

1.Chủ tịch UBNDTPHCM cưỡng ép, sai pháp luật, mất dân chủ. Cụ thể:
 Ông Lê Thành Hải, tiếp sau là ông Lê Hòang Quân không tống đạt quyết định thu hồi đất đến tôi ( QĐ 2666/QĐ-UB ngày 26/7/2002 ) mà buộc tôi phải thi hành, mặc dù trong rất nhiều đơn, tôi đã nhiều lần yêu cầu tống đạt quyết định 2666/QĐ-UBND đến tôi, nhưng CTUBNDTP không thực hiện. Đây là việc mất dân chủ và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Ông Tổng Bí thư và Ông Trưởng Ban Nội chính hãy trả lời là tôi có phải thi hành QĐ 2666 này không? Nếu phải thi hành, thì các ông phải chỉ rõ là căn cứ vào điểm nào của QĐ 2666 cũng như của các quy định của pháp luật? Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, việc gì cũng phải rõ ràng minh bạch trên cơ sở pháp luật.

2.Ông Lê Hoàng Quân, buông lỏng quản lý, để Ông Nguyễn Thành Tài, phó Chủ tịch UBNDTP lộng quyền, chỉ đạo Chủ tịch UBNDQ9 cưỡng chế sai pháp luật, bằng cách ban hành công văn 9928/VP-ĐTMT ngày 14/12/2008 của VP HĐND&UBND TP có nội dung:
“…Qua xem xét, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân thành phố Nguyễn Thành Tài có ý kiến giải quyết như sau:
      Chấp thuận cho Ủy ban nhân dân quận 9 áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính đối với 22 hộ dân để thu hồi đất do không chấp hành bàn giao mặt bằng ….”. Việc cưỡng chế 22 hộ dân này là trái quy định của pháp luật vì họ chưa nhận được quyết định thu hồi đất theo Điều 21 (LĐĐ 1993, 1998, 2001) và Điều 32 ( LĐĐ 2003 ). Giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác. Nội dung điều luật này là:
“Việc quyết định giao đất, cho thuê đất đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau khi có quyết định thu hồi đất đó”.
Đ39, Đ40, Đ44 LĐĐ 2003 cũng bắt buộc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ra QĐ thu hồi đất đối với tổ chức, cá nhân đang sử dụng đất.
3.Chủ tịch UBNDTPHCM, buông lỏng quản lý để cấp phó ngang ngược ra lệnh không tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo của tôi một cách tùy tiện, theo kiểu luật rừng.
      Tôi không đồng ý QĐ giải quyết khiếu nại của UBNDQ9, từ năm 2005 tôi liên tiếp gửi đơn khiếu nại tiếp lên chủ tịch UBNDTP theo luật định, nhưng đến nay tôi vẫn chưa nhận được  quyết định giải quyết khiếu nại của CT UBNDTPHCM.
       Tôi tiếp tục tố cáo việc làm sai trái của lãnh đạo quận 9. Ngày 19/01/2011 Chủ tịch UBNDTP ban hành công văn 227/UBND-PCNC về việc giải quyết tố cáo do ông Nguyễn Thành Tài, phó Chủ tịch thường trực ký thay, sau khi bênh vực một cách trắng trợn, mà không đưa ra được chứng lý biện minh cho các quan chức đảng và nhà nước quận 9 không sai phạm, CV 227 còn có đoạn rất trịch thượng: “UBNDTP trả lời cho ông rõ và thông báo chấm dứt tiếp nhận để xử lý, xem xét các nội dung tương tự như trên”, trong khi đó Chủ tịch UBNDTPHCM chưa một lần ra QĐ giải quyết khiếu nại cho tôi theo luật Khiếu nại tố cáo kể cả khi VPCP có văn bản truyền đạt ý kiến Thủ tướng Chính phủ yêu cầu CT UBNDTPHCM giải quyết khiếu nại cho tôi theo quy định của pháp luật.
 Hành xử của Chủ tịch UBNDTPHCM như thế là vi phạm Luật Đất đai, luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật cán bộ, công chức, vi phạm Quy định số 94/QĐ-TW ngày 15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm ( trường hợp này  phải xử lý!!!), vi phạm Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008 của Bộ Chính trị… và coi thường Thủ tướng CP. Hành vi này tôi đề nghị cơ quan có thẩm quyền phải nghiêm túc xem xét,và phải công khai kết luận từng nội dung vi phạm.

4.Ông Nguyễn Văn Thành , phó Chủ tịch UBNDQ9 có dấu hiệu gian trá, lừa dân, kiểu chợ trời, xã hội đen… mà Chủ tịch UBNDTP vẫn bao che cho là đúng pháp luật! Cụ thể:
- QĐ 3144, ban hành 12/2005, QĐ 13, ban hành 2009, nêu căn cứ Luật đất đai 2003 (  nhưng chỉ là lừa bịp, thực tế Quận 9 không thực hiện ( bị vạch mặt, ông Thành  phải công nhận tại cv 690).
-QĐ cưỡng chế số 13/UBND), nêu căn cứ QĐ 422/QĐ-UBND-TTr v/v giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBNDTP cũng chỉ là lừa bịp. Vì QĐ 422 mới chỉ là QĐ giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBNDQ9 (sáu tháng sau UBNDQ9 phải “ đính chính” bằng QĐ 95, khi việc cưỡng chế đã thực hiện xong!? ).
-Khi trả lời cho tôi tại CV 690 ngày 20/05/2009 UBNDQ9 nêu: “…ngày 29/5/2008, UBNDQ9 đã tổ chức công bố quy hoạch chi tiết 1/2000 Khu Công nghệ cao tại Nhà Thiếu nhi quận”. Câu trả lời này cũng chỉ là bịp bợm. Xin mời quý ông xem thư mời và bài báo để thấy ông Nguyễn Văn Thành gian manh đến cỡ nào?
       Thư mời VPHĐND và UBND Q9 ghi rõ “ …công bố quy hoạch chung xây dựng tỉ lệ 1/5.000 Khu Công nghệ cao của UBND thành phố” ( làm gì có công bố bản đồ 1/2000 ). Tiếp theo bài “ Đẩy nhanh tiến độ dự án Khu Công nghệ cao TPHCM” số ra ngày 8/6/2009 trên báo Sài gòn giải phóng, thì: “ dự kiến đến tháng 6-2009 KCNC mới có phê duyệt quy hoạch xây dựng chi tiết 1/2000”. Đúng là một tên bịp trắng trợn phải không các vị?

5. UBNDQ9 áp dụng các quy định pháp luật đã hết hiệu lực
      -Theo thừa nhận của UBNDQ9 tại CV 690 : 12/2005 ( QĐ 3144) UBNDQ9 áp dụng theo LĐĐ 1993, 1998, 2001. Trong khi Điều 145 ( LĐĐ 2003), đã công bố luật ĐĐ 1993. 1998, 2001 hết hiệu lực từ 01/07/2004. Đó là điều không thể chấp nhận.
      -Tháng 12 năm 2005 mà UBNDQ9 tính giá đất bồi thường theo QĐ 121 của UBNDTP ban hành 1998 ( theo NĐ 22/1998 đã hết hiệu lực năm 2005, do khoản 2 Điều 50 NĐ 197/2004 ), đồng thời là sai với khoản a Điều 9 NĐ 197/2004:
“a) Bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà giá đất tại thời điểm bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”;
       Các ông trả lời cho tôi biết đặt trong hoàn cảnh của các ông, các ông có chấp nhận chính quyền của một nhà nước pháp quyền mà thi hành pháp luật một cách tùy tiện như vậy không? Còn tôi thì không thể chấp nhận trong chính quyền của dân, vì dân, do dân… mà tôi và gia đình tôi đã chiến đấu góp phần dựng nên lại có một nhóm người nhân danh nhà nước mà hành xử với dân, với cựu chiến binh có những hành vi thủ đoạn, đểu cáng như vậy!

6. UBND Quận 9 áp dụng không đúng pháp luật.
         Trong QĐ cưỡng chế hành chính số 13/UBND ngày 03/04/2009 của UBNDQ9, có nêu căn cứ nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/07/2007 của chính phủ. Nhưng gần như toàn bộ các quy định bắt buộc từ điều 49 đến điều 59 (NĐ 84/2007) trước khi cưỡng chế UBNDQ9 không thực hiện . Cụ thể:
          Điều 49. Xác định và công bố chủ trương thu hồi đất ( cán bộ phường công bố miệng , không có QĐ, bản đồ quy hoạch được duyệt, không đúng theo quy định. Đến nay Chính phủ có 3 QĐ: QĐ 95/2003/QĐ-TTg ngày 13/05/2003 quy mô 804 ha; QĐ 458/QĐ-TTg ngày 18/04/2007 quy mô 913,1633 ha; QĐ 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 quy mô 872 ha. Theo luật hành chính, quyết định của cùng một cấp, quyết định sau phủ định quyết định trước và phủ định quyết định của cấp dưới về một nội dung. Vậy chúng tôi kính đề nghị quý ông yêu cầu cơ quan chức năng cung cấp cho chúng tôi bản đồ được duyệt KCNC 872 ha và bản đồ KCNC 913,1633ha để chúng tôi đối chiếu xem đất của chúng tôi có nằm ngoài KCNC được duyệt sau cùng hay không? Luật Đất đai và Luật phòng chống tham nhũng
 bắt buộc phải công khai thông tin này cho người dân ).
Điều 50. Chuẩn bị hồ sơ địa chính cho khu đất bị thu hồi ( đến 25.8.2008 vẫn chưa có bản đồ 1/2000, như trên đã nêu ).
Điều 51. Lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ( có/không ?,  chưa thấy công bố ).
Điều 52. Thông báo về việc thu hồi đất ( không làm ).
Điều 53. Quyết định thu hồi đất ( Chưa có/chưa tống đạt, lấy gì làm căn cứ để tôi thực hiện hoặc khiếu nại ? ).
Điều 54. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất ( không có QĐ thu hồi đất nên dân không biết căn cứ vào đâu để khiếu nại ).
Điều 55. Kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất đai ( không công khai minh bạch, chỉnh sửa nhiều lần vẫn không đúng ).
Điều 56. Lập, thẩm định và xét duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
( theo quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và Nghị định số 17/2006/NĐ-CP.  Nhưng Quận 9, TPHCM không thực hiện 197/2004/NĐ-CP, 17/2006/NĐ-CP mà thực hiện theo NĐ 22/1998/NĐ-CP) !
Điều 57. Công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ( không thực hiện ).
Điều 58. Thực hiện chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư ( lập lờ việc bồi thường, chưa trả đủ tiền, chưa có chỗ tái định cư, nói có quyết định phân nền, nhưng đến giờ này tôi chưa thấy, chỉ nêu trong công văn trả lời và báo cáo )!
Điều 59. Thời điểm bàn giao đất đã bị thu hồi ( chưa có QĐ thu hồi đất nên dân không biết thời điểm nào thu hồi để giao ) .
Điều 60. Cưỡng chế thu hồi đất
1. Việc cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 39 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại các Điều 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58 và 59 Nghị định này;
 Theo điểm a) này bắt buộc chính quyền phải thực hiện đầy đủ từ Điều 49 đến Điều 59 mới được cưỡng chế. Nhưng quận 9 TPHCM không thực hiện mà đem công lực đến cưỡng chế phá nhà lấy đất dân.
Thế mà Chủ tịch UBNDTPHCM nói UBNDQ9 là đúng theo pháp luật?
6.Lập lờ việc giải quyết khiếu nại và tố cáo, báo cáo không trung thực với cấp trên và công luận.
- Theo luật định giải quyết khiếu nại ( bằng quyết định ), là nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, công chức nhà nước khi người dân khiếu nại quyết định hành chính của mình.
     Thế nhưng Chủ tịch UBNDQ9 chưa ra quyết định giải quyết khiếu nại của tôi đối với quyết định cưỡng chế số 13/QĐ-UBND ngày 03/04/2009 nhưng tại công văn 338/UBND-BBT ngày 17/03/2010 của UBNDQ9 có đoạn: “ Bằng văn bản này, UBNDQ9 kết thúc thụ lý đơn kiến nghị của hộ ông Nguyễn Xuân Ngữ. Nếu hộ ông Ngữ tiếp tục nộp đơn kiến nghị với các nội dung như trên thì UBNDQ9 sẽ xử lý lưu tham khảo theo quy định”. Rõ ràng UBNDQ9 đứng trên luật pháp.Văn bản nào cho phép UBND quận ra quyết định cưỡng chế mà không cho dân khiếu nại?
- Ngày 19/01/2011 tại công văn 227/UBND-PC của Chủ tịch UBNDTP về việc giải quyết tố cáo, do ông Nguyễn Thành Tài, phó Chủ tịch thường trực ký thay,  cũng có đoạn: “UBNDTP trả lời cho ông rõ và thông báo chấm dứt tiếp nhận để xử lý, xem xét các nội dung tương tự như trên”, (phần trên đã nêu ).
 Xin nói rõ hơn, CV 227 là văn bản giải quyết tố cáo  ( không phải quyết định giải quyết khiếu nại ). Nhưng bằng các văn bản lập lờ này UBND quận 9 và UBNDTP chỉ đạo cho các cơ quan chức năng là vụ việc của tôi quận và thành phố đã giải quyết xong, không nhận đơn khiếu nại của tôi nữa.
-Tiếp theo, ngày 27/03/2013, trước khi lên làm phó Ban Nội chính Trung ương Lê Minh Trí, phó Chủ tịch UBNDTPHCM còn kịp ký Thông báo 73/TB-UBND Về chấm dứt thụ lý giải quyết vụ việc tố cáo của ông Nguyễn Xuân Ngữ, quận 9.
    Bằng các văn bản này UBNDTP báo với các  đoàn thanh tra, kiểm tra của Trung ương là vụ khiếu nại của tôi thành phố đã giải quyết xong, từ đó Trung ương cũng bị thành phố qua mặt từ đó mà bỏ qua vụ việc khiếu nại của tôi.Thực tế vụ việc khiếu nại của tôn UBNDTPHCM chưa có quyết định giải quyết khiếu nại và tôi vẫn tiếp tục gửi đơn khiếu nại, thì làm sao gọi là đã giải quyết xong vụ việc của tôi?
     Kính thưa ông Tổng Bí thư và ông Trưởng Ban Nội chính Trung ương, ngày 22/04/2013  vừa qua 65 hộ dân ( trong đó có tôi )  bị lấy đất xây Khu Công Nghệ cao TPHCM  Tố cáo Lê Thanh Hải và Nguyễn Văn Đua ( xem tại
http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/04/cong-dan-quan-9-to-cao-le-thanh-hai.html ; hoặc tại http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/11/cac-cong-dan-quan-9-sai-gon-to-cao_6865.html        và tại http://caunhattan.wordpress.com/2013/04/21/dan-quan-9-tp-hcm-to-cao-uy-vien-bo-chinh-tri/ ). Chúng tôi ký đơn có ghi địa chỉ, số CMND, nghĩa là chúng tôi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung chúng tôi nêu ra. Đơn tố cáo gửi bưu điện bằng thư phát chuyển nhanh có hồi báo, các trang mạng cũng đã đăng… Thế mà từ đó đến nay không một ai đối thoại với chúng tôi để xem xét, xử lý sai trái, tiêu cực… Điều mà tôi không biết lý giải như thế nào về “quyết tâm” chống tham nhũng của Trung ương, chúng tôi chỉ có thể suy đoán chỉ có lý do là: “  các vị ở Trung ương chắc cũng được chia
 chác, nhúng chàm nên ém luôn” mà thôi.
      Tôi hy vọng là suy đoán của chúng tôi không đúng nếu như Đơn tố cáo này của tôi được các vị trực tiếp thẩm tra, có kết luận cụ thể, khách quan các vấn đề tôi nêu ra trong đơn tố cáo này.
       Tôi trân trọng kính chào.
                                                                                                  Người ký đơn tố cáo






                                                                                                    Nguyễn Xuân Ngữ

Hình ảnh chính quyền quận 9 phá nhà ông Ngữ:




CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-----------                                             
Quận 9, ngày 10 tháng 03  năm 2013 

ĐƠN KÊU OAN CỦA MỘT CỰU CHIẾN BINH
VÌ BỊ CƯỠNG CHẾ  THU HỒI  ĐẤT SAI PHÁP LUẬT

nh gửi: - Các vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
                 
             Tôi tên là Nguyễn Xuân Ngữ - 67 tuổi, CBHT, GIA ĐÌNH LIỆT SĨ,  CMND số  023030668 CATPHCM cấp ngày 13/9/2004, cư ngụ tại nhà và đất của tôi, nhà số 166/6, tổ 6 , ấp Mỹ Thành , P.Long Thạnh Mỹ, Q9, Tp.HCM, điện thoại: 0913777040, email:xuanngu@ymail.com ,http://blog.zing.vn/ccc.xuanngu ,  (http://www.youtube.com/watch?v=1w1IX6wtToM&feature=player_embedded ), hoặc www.google.com   , từ khóa Nguyễn Xuân Ngữ sẽ có nhiều thong tin về vụ việc của tôi. 

Hiện nay tôi bị đuổi ra khỏi nhà  đất nêu trên, đến ở khu trọ: Phòng C9, nhà 41, đường Tăng Nhơn Phú, phường Phước Long B, quận 9, TPHCM. Tôi làm đơn này kính đề nghị Quý vị xem xét và xử lý bức thư kêu oan này của tôi. Tôi xin trình bày vắn tắt như sau:
Kính thưa Quý vị, quê tôi ở  Băc Ninh, năm 1966 tôi đi bộ đội, vào chiến trường B2, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh tại Mặt trận phía Nam từ 09/04 đến 30/04 / 1975,  chiến đấu cho độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước. Tôi đã hy sinh một khoảng đời trai trẻ và một phần xương thịt để góp phần giành lấy độc lập dân tộc và xây dựng chính quyền nhân dân. Sau chiến tranh, tôi bắt tay vào xây dựng phát triển kinh tế. Tôi đã mua hợp pháp và xây dựng trang trại trên 3600m2 tại phường Long Thạnh Mỹ, quận 9 TPHCM. Trang trại phát triển quy mô và hiệu quả cao ( xem http://www.youtube.com/watch?v=H8NqZzxW0Iw ).
Năm 2003 các ngành chức năng của quận 9 đến phổ biến miệng là nhà đất, trang trại của tôi nằm trong dự án xây dựng Khu công nghệ  cao của thành phố, yêu cầu được kiểm kê để lập phương án đền bù, giải tỏa. Thân xác tôi còn không tiếc, Nhà nước có chủ trương phát triển kinh tế nên tôi sốt sắn, chấp nhận hợp tác và tạo điều kiện để các ngành chức năng hoàn thành việc lập hồ sơ bồi thường. Nên các ngành chức năng của quận đã nhiều lần ( khoảng 9-10 lần đến đo đạc, kiểm kê mà không bị một trở ngại nào ).
Trong quá trình đó tôi luôn lưu  ý các ngành chức năng của quận 9 là phải làm  đúng theo trình tự và quy định của pháp luật. Mặc dù chưa nhận được quyết định thu hồi  đất. Nhưng để tạo điều kiện cho dự án phát triển được thuận lợi, tôi nhận một số nhỏ tiền bồi thường. Trong các giấy nhận tiền bồi thường tôi đều có ghi tạm nhận, vì hồ sơ pháp lý thu hồi đất của tôi chưa đầy đủ.
Ngày 25/12/2005 Chủ tịch UBNDQ 9 ban hành quyết định 3144/QĐ-UB-BBT do phó Chủ tịch Nguyễn Văn Thành ký về việc công bố giá  trị bồi thường ( đính kèm ). Trong các đơn khiếu nại và tố cáo, tôi đã chứng minh quyết  định này vi phạm pháp luật và không có cơ  sở là vô hiệu, tôi yêu cầu thu hồi và  hủy bỏ quyết định này.
Chủ tịch UBNDTP  chưa giải quyết khiếu nại quyết định này, thì ngày 03/04/2009 ông Thành, phó Chủ tịch UBNDQ9 ban hành quyết định 13/QĐ-UBND về việc cưỡng chế hành  chính. Quyết định 13 này cũng vi phạm pháp luật như quyết định 3144 nêu trên. Tại Điều 1 nêu  lý do cưỡng chế là tôi : “ không nghiêm túc thi hành quyết định số 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002 của UBND thành phố Hồ Chí Minh về việc thu hồi đất giao xây dựng Khu công nghệ cao Thành phố”, trong khi quyết định 2666 là quyết định chỉ đạo điều hành, không phải là quyết định quy phạm pháp luật để áp dụng chung và cũng không phải là quyết định thu hồi đất theo Điều 21 LĐĐ 1993, 1998, 2001, nó không biểu thị tên tôi và số đất của tôi bị thu hồi và đặc biệt là không tống đạt đến tôi như Điều 3 và Nơi nhận đã ghi. Vì những lẽ đó, tôi khẳng định là tôi không có trách nhiệm thi hành quyết định này. Rõ ràng cưỡng chế lấy đất của tôi là không  đúng pháp luật và oan cho tôi.
QĐ 13 còn dối lừa các cơ quan chức năng khi nêu: “ Căn cứ quyết định 422/QĐ-UBND-TTr ngày 23/10/2006 của Chủ tịch UBND Thành phố Hồ  Chí Minh về giải quyết đơn khiếu nại của  ông Nguyễn Xuân Ngữ …”. Sự thật QĐ 422 là QĐ giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBNDQ9. Chủ tịch UBND Thành phố chưa hề ban hành quyết định giải quyết khiếu nào cho tôi ( mặc dù tôi đã gửi nhiều đơn khiếu nại ). Đây là thủ đoạn xảo quyệt của ông Thành phó  Chủ tịch UBNDQ9, để cho mọi người thấy rằng khiếu nại của tôi đã được Chủ tịch UBND Thành phố giải quyết, do tôi ngoan cố không chấp hành nên phải bị cưỡng chế. Trong đơn khiếu nại quyết  định 13 tôi đã yêu cầu Chủ tịch UBNDQ9 tống đạt quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ  tịch UBND Thành phố cho tôi. Ông Thành, phó Chủ  tịch UBNDQ9 biết sai từ đó, nhưng ngày 20, 21/5/2009 vẫn tiến hành cưỡng chế lấy đất của tôi. Sau khi càn quét san bằng nhà đất, trang trại của tôi, sáu tháng sau, ngày 20/11/2009 Chủ tịch UBNDQ9 mới ban hành QĐ 95 để đính chính QĐ 13 là : “ Căn cứ quyết định số 422/QĐ-UBND-TTr ngày 23/10/2006 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận 9…” Trường hợp này quý vị nhận xét khách quan xem ông Thành phó Chủ tịch UBNDQ9 sơ suất hay thủ đoạn? Trong lúc cưỡng chế còn có những hành vi hết sức tàn bạo. Ngoài ra còn bắt đi hai con gấu ngựa tôi nuôi hợp pháp đến nay chưa trả lại cho tôi. Mặt khác  ông Thành, phó Chủ tịch UBNDQ9 còn lừa dối các cơ quan chức năng và báo đài là tôi đã nhận đủ tiền đền bù, nhận 2 nền tái định cư, quận 9, công bố bản đồ quy hoạch được duyệt 1/2000 Khu công nghệ cao ngày 29/5/2008 tại nhà Văn hóa thiếu nhi quận 9… tất cả thông tin này đều là lừa dối. Có dấu hiệu tham nhũng, vu khống tôi. Tôi sẵn sàng đối chất về các nội dung này.
Tôi đã gửi nhiều đơn khiếu nại  đến Chủ tịch UBNDTP nhưng đến nay không biết vì  sao Chủ tịch UBNDTPHCM cũng chưa ra quyết định giải quyết khiếu nại cho tôi theo luật định, cũng như theo hai văn bản của Văn phòng Chính phủ, truyền  đạt ý kiến của Thủ tướng Chỉnh phủ ( đính kèm ).
Ngày 19/01/2011, ông Nguyễn Thành Tài, phó  Chủ tịch UBNDTP ký công văn 227/ UBND-PCNC về  xử lý đơn tố cáo của tôi, sau khi bênh vực cho Phó Chủ tịch UBNDQ9 là: UBNDQ9 làm đúng theo pháp luật (?), ông Tài, còn nói: “Ủy ban nhân dân thành phố trả lời cho Ông rõ và thông báo chấm dứt tiếp nhận để xử lý, xem xét các nội dung tương tự như trên” ( ??? ).Thật tình tôi không hiểu ông Tài áp dụng theo luật nào? Phải chăng ông Tài, phó Chủ tịch UBNDTP đứng trên luật pháp, xem thường cả Thủ tướng ?… Vậy kỷ cương phép nước ở đâu? 


   Tôi kính đề nghị Quý vị cho chuyên viên pháp lý có tâm, có tầm  thẩm định tính hợp pháp các quyết định 3144, quyết định 13 của UBNDQ9 ( trừ ông Trần Ngọc Liêm – Chánh Văn phòng Thanh tra Chính phủ, vì ông này tắt trách và không đủ nhận thức để nhận biết tính bất hợp pháp và không có cơ sở của quyết định 3144, quyết định 13, ông không kiểm tra mà chỉ nói theo ông Thành - phó Chủ tịch UBND Q9 thể hiện tại CV 354/TTCP-VP ngày 03/03/2010, tôi có văn thư phản bác đề ngày 26/03/2010 - đính kèm ).          
Nhân đây tôi cũng kính đề nghị  quý vị cho chuyên viên có tâm, có tầm thẩm tra tính pháp lý của quyết định 2666,  chỉ ra chỗ nào trong quyết định 2666 mà tôi phải chấp hành…( Theo nhiều luật sư, quyết định 2666 không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà là quyết định chỉ đạo điều hành bộ máy của UBNDTP, ( còn thu hồi đất phải là quyết định hành chính cá biệt được quy định tại Điều 21 LĐĐ 1993, 1998, 2001 là : “ Việc quyết định giao đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được tiến hành sau khi có quyết định thu hồi đất đó” tôi chưa nhận được quyết định thu hồi đất theo Điều 21 nói trên. Vậy cơ sở nào xác định đất của tôi bị thu hồi và thu hồi toàn bộ hay một phần để tôi biết mà thi hành? ). Ngay quyết định 2666 cũng không có chi tiết nào buộc trách nhiệm tôi phải thi hành. Tại Điều 3 và Nơi nhận của quyết định này cho thấy tôi không có trách nhiệm thi hành, nếu tôi là đối tượng phải thi hành thì tôi phải được nhận một bản chính để nghiên cứu thực hiện hoặc khiếu nại, đây là dân chủ tối thiểu của một nhà nước pháp quyền.. Tôi không nhận được quyết định này chứng tỏ là tôi không phải cá nhân có trách nhiệm thi hành. Vậy cưỡng chế tôi với lý do là tôi không thực hiện Điều 1 quyết định 2666 là vô lý. Tôi có nhận được quyết định này đâu mà bảo tôi thi hành ?!
Vì Chủ tịch UBNDTP chưa giải quyết khiếu nại của tôi như luật định, buộc lòng tôi phải gửi đơn vượt cấp đến các cơ  quan Trung ương. 
Nhiều cơ quan TW chuyển đơn tôi  đến Chủ tịch UBNDTPHCM yêu cầu giải quyết theo thẩm quyền. Đặc biệt Văn phòng Chính phủ đã ban hành 2 văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBNDTPHCM giải quyết khiếu nại cho ông Ngữ và báo cáo Thủ tướng trước ngày 15/10/2010 ( văn bản số 4642/VPCP-KNTN ngày 06/07/2010 và văn bản số 6687/VPCP-KNTN ngày 21/09/2010 ) nhưng đến thời điểm này, Chủ tịch UBNDTPHCM vẫn chưa ra quyết định giải quyết khiếu nại cho tôi.              
Nhiều báo đài đã lên tiếng vụ  cưỡng chế thu hồi đất của tôi là sai pháp luật ( xin xem danh mục đính kèm ), báo Tài nguyên & Môi trường ngày 17/06/2009 có bài : “Thu hồi đất của dân không đúng luật” ( xem tại http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabid=428&cateID=4&id=67079&code=CZ0YR67079 ,   báo Đại Đoàn kết ngàu 08/10/2009 có bài: “Trở lại lọat bài “Quận 9 - TP.Hồ Chí Minh: những vụ cưỡng chế lạ lùng”:Vô cảm hay “dối trên lừa dưới”(http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=3099 ).          
Về QĐ 2666/QĐ-UB ngày 27/6/2002 của Chủ tịch UBNDTPHCM, luật sư Nguyễn Văn Hậu, phó  Chủ tịch Hội Luật Gia TPHCM, luật sư Nguyễn Thu Giang, nguyên phó Giám đốc Sở Tư pháp TPHCM, luật sư Trần Vũ Hải và nhiều luật sư khác đều khẳng định không phải quyết  định thu hồi đất đối với tôi.
           Kính thưa quý vị, tôi từng là “Bộ đội cụ Hồ”, đã không quản ngại hy sinh trong chiến tranh để giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước. Ngay từ năm 2003 tôi đã sốt sắn hợp tác với UBND quận 9 trong việc kiểm kê, định giá, tạm nhận một số tiền đền bù…. Nhưng tôi yêu cầu phải thực hiện đúng quy định của pháp luật. Đòi hỏi của tôi là chính đáng, vì chúng ta đang sống trong nhà nước pháp quyền có Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Nhưng ông Thành, phó Chủ tịch UBNDQ9 không đáp ứng được nên việc đền bù, giải phóng mặt bằng tôi yêu cầu phải  dừng lại. Tôi có nghi ngờ là ông Thành, phó Chủ tịch UBNDQ9 có nhầm lẫn trong thực hiện các dự án như báo Phụ nữ ngày 04/09/2004 có bài : “Dự án tái định cư Long Bửu, quận 9: Mập mờ đền bù giải tỏa”, và như vậy có thể là đất của tôi không nằm trong quy hoạch Khu công nghệ cao thành phố… Tại QĐ 13 ông Thành, phó Chủ tịch UBNDQ9 lại quy kết ngược lại là tôi không chấp hành quyết định 2666 của UBNDTP để cưỡng chế lấy đất của tôi là một sự xúc phạm lớn đối với tôi. Hơn nữa qua báo chí chúng tôi được biết có nhiều Quyết định của Thủ tướng Chính phủ xác định quy mô KCNCTPHCM, gồm: QĐ 95/2003/QĐ-TTg ngày 13/05/2003 quy mô 804 ha; QĐ 458/QĐ-TTg ngày 18/04/2007 quy mô 913,1633 ha; QĐ 24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 quy mô 872 ha. Theo luật hành chính, quyết định của cùng một cấp, quyết định sau phủ định quyết định trước và phủ định quyết định của cấp dưới về một nội dung. Vậy chúng tôi kính đề nghị Quốc hội, Thủ tướng và các Bộ, Ngành trung ương, đặc biệt là Bộ Tài nguyên Môi trường cung cấp cho chúng tôi bản đồ được duyệt KCNC 872 ha và bản đồ KCNC 913,1633 ha để chúng tôi đối chiếu xem đất của chúng tôi có nằm ngoài KCNC được duyệt sau cùng hay không? Luật Đất đai và Luật phòng chống tham nhũng bắt buộc cơ quan thu hồi đất phải công khai thông tin này cho người dân. 

Từ những lẽ đó, tôi yêu cầu:
1.Các cơ quan có thẩm quyền yêu cầu UBNDQ9 cung cấp các hồ sơ pháp lý hợp lệ và hợp pháp xác định đất của tôi thuộc dự án Khu công nghệ cao.
2.Yêu cầu Chủ tịch UBNDTPHCM tống đạt quyết định 2666/QĐUB ngày 27/6/2002 của Chủ tịch UBNDTPHCM  đến tôi để tôi nghiên cứu thi hành hoặc khiếu nại.
3.Trong lúc tôi chưa nhận được tài liệu văn bản pháp lý nào chứng minh là đất của tôi thuộc dự án xây Khu công nghệ cao, thì  các quyết định của ông Thành phó Chủ  tịch UBNDQ9 đều sai pháp luật, không có giá trị  pháp lý, tôi yêu cầu phải thu hồi và hủy bỏ,  đặc biệt là QĐ 3144, QĐ 13.
4. Việc dùng lực lượng hùng hậu có  xe xúc, xe ủi… cưỡng chế, phá hoại nhà  cửa, tài sản, vật nuôi, cây trồng, bắt đi hai con gấu ngựa, san bằng lấy khu đất nhà tôi là vi phạm pháp luật. Tôi yêu cầu phải bồi thường , hoàn trả lại cho tôi.
Vì quyền lợi tinh thần, danh dự  và vật chất chính đáng và hợp pháp của tôi, một công dân, một cựu chiến binh, tôi thiết tha kính mong được các vị có thẩm quyền quan tâm, bảo vệ  cho tôi.
Tôi vô cùng biết ơn quý vị.
Đính kèm                                                                    Người ký đơn
-QĐ 2666
-QĐ 3144, QĐ 13
-CV 4642/VPCP, CV 6687/VPCP
-Bản kê các đơn, phiếu chuyển
-Danh mục các bài báo                                                                                        
NGUYỄN XUÂN NGỮ 












Tổng số lượt xem trang