- Tàu thăm dò Viking II do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thuê. (Ảnh: PetroTimes)
(ĐCSVN) - Chỉ ít ngày sau vụ tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 tại lô 148 thuộc thềm lục địa của Việt Nam, ngày 9-6-2011, Trung Quốc lại tiến thêm một bước đi có tính toán, có hệ thống nhằm phức tạp hoá vấn đề Biển Đông để phục vụ các mưu đồ của họ.
Tấn Vũ
(ĐCSVN) - Chỉ ít ngày sau vụ tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 tại lô 148 thuộc thềm lục địa của Việt Nam, ngày 9-6-2011, Trung Quốc lại tiến thêm một bước đi có tính toán, có hệ thống nhằm phức tạp hoá vấn đề Biển Đông để phục vụ các mưu đồ của họ.
Tại cuộc họp báo chiều ngày 9/6, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga cho biết:
'Vào lúc 6 giờ ngày 9-6-2011, trong khi tàu Viking II do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thuê đang tiến hành thu nổ địa chấn 3D lô 136/03 (tọa độ 60 47,5' Bắc và 1090 17,5' Ðông) tại khu vực thềm lục địa của Việt Nam, thì tàu cá Trung Quốc mang số hiệu 62226 được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính Trung Quốc số hiệu 311 và 303 đã chạy ngang qua mũi tàu Viking II sau đó đổi hướng và gia tăng tốc độ. Mặc dù phía Việt Nam đã phát pháo hiệu cảnh báo nhưng tàu 62226 vẫn cố tình lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking II và bộ phận cắt cáp chuyên dụng của tàu 62226 đã mắc vào tuyến cáp của tàu Viking II, làm cho tàu Viking II không thể hoạt động bình thường. Tiếp đó, hai tàu ngư chính 311 và 303 cùng với nhiều tàu cá khác của Trung Quốc đã vào giải cứu cho tàu 62226.
Khu vực hoạt động thu nổ địa chấn nói trên của tàu Viking II nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982. Hành động nói trên của các tàu cá và tàu ngư chính Trung Quốc là hoàn toàn có chủ ý, được tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Ðông (DOC), đi ngược lại nhận thức chung giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc duy trì hòa bình, ổn định tại Biển Ðông, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế đối với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.
Ðáng chú ý là vụ việc nói trên xảy ra ngay sau vụ tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 tại lô 148 thuộc thềm lục địa của Việt Nam ngày 26-5 vừa qua, làm cho tình hình Biển Ðông tiếp tục căng thẳng. Các hành động có tính hệ thống này của phía Trung Quốc là nhằm biến khu vực không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp, thực hiện mục tiêu biến yêu sách 'đường chín đoạn' của Trung Quốc thành hiện thực. Ðây là điều phía Việt Nam không thể chấp nhận”.
Trước sự thật mười mươi, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc vẫn cố tình bóp méo sự việc, trắng trợn đổ lỗi cho Việt Nam: "Cách nói của Việt Nam hoàn toàn không phù hợp với sự thực. Trung Quốc có chủ quyền không tranh cãi với quần đảo Trường Sa và vùng biển phụ cận (…). Yêu cầu Việt Nam dừng ngay mọi hoạt động xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc, không áp dụng thêm các hành động làm nguy hại an toàn tính mạng, tài sản của ngư dân Trung Quốc, không áp dụng thêm hoạt động phức tạp và mở rộng tranh chấp. Hy vọng Việt Nam sẽ có các nỗ lực cần thiết để duy trì hoà bình ổn định của Biển Đông".
Tuyên bố trên đây hoàn toàn sai sự thật, nhưng lại có thể làm nhân dân Trung Quốc và dư luận quốc tế hiểu nhầm Việt Nam, hiểu nhầm về những gì đang diễn ra trên Biển Đông những ngày vừa qua.
Lập trường của Việt Nam về giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông gồm 4 điểm: 1 - Việt Nam được quyền có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế riêng từ đất liền Việt Nam không có tranh chấp, tách biệt với các vùng biển hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; 2 - Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam; 3 - Vùng biển của các đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được xác định theo Công ước luật biển năm 1982, cụ thể theo điều 121.3. Các đảo thuộc hai quần đảo này nếu có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế thì cũng là những vùng biển hạn chế không thể có đầy đủ hiệu lực trong phân định như từ lãnh thổ đất liền, phù hợp nguyên tắc "đất thống trị biển"; 4 - Trong khi tìm kiếm một giải pháp cơ bản lâu dài, các bên tranh chấp ở Biển Đông cần kiềm chế, không mở rộng chiếm đóng mới, không có những hành động làm phức tạp thêm tình hình, hợp tác trong những lĩnh vực ít nhạy cảm như bảo vệ môi trường, nghiên cứu khoa học biển, phòng chống cướp biển theo đúng tinh thần của Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC 2002. |
Thực chất là, Trung Quốc đang cố gắng phức tạp hoá vấn đề Biển Đông để phục vụ các mưu đồ của họ. Chính tờ Trung Quốc nhật báo (China Daily) ngày 8/6/2011 đã không ngại ngùng bộc lộ. Tranh chấp Biển Đông (Trung Quốc gọi là biển Nam Trung Hoa) có ý nghĩa chiến lược quan trọng với Trung Quốc bởi hai lý do: Thứ nhất, Trung Quốc là nước lớn nhưng chưa phải là một siêu cường biển. Mặc dù có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế rộng, bờ biển đất liền và đảo dài nhưng phần đóng góp của biển với GDP còn nhỏ. Chỉ với một số ít các đảo đang tranh chấp nằm dưới sự kiểm soát của mình, Trung Quốc không có đường để nối biển với đại dương. Thứ hai, không có một lực lương hải quân mạnh và sự chú trọng các quyền lợi biển, Trung Quốc vẫn ở vị thế không thuận lợi. Muốn trở thành một siêu cường có ảnh hưởng, Trung Quốc buộc phải chuyển từ "cường quốc đất liền" sang "siêu cường biển". Tranh chấp Biển Đông là phép thử thực tế cho việc đạt được mục tiêu đó. Để thực hiện mưu đồ trên, không gì tốt hơn phương thức biến cái của người khác thành của mình, biến vùng biển không tranh chấp thành vùng biển có tranh chấp, đòi chia sẻ tài nguyên và quyền kiểm soát biển trên vùng biển của nước khác dưới chiêu thức "gác tranh chấp cùng khai thác".
Sự kiện trên đây cùng với nhiều sự kiện nghiêm trọng khác do phía Trung Quốc chủ ý gây ra, một lần nữa khẳng định mưu toan của Trung Quốc biến cái không thể thành có thể, biến các khu vực không tranh chấp thành các khu vực tranh chấp để đòi hỏi được chia phần tài nguyên trên thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của các nước láng giềng yếu thế thông qua công thức "gác tranh chấp cùng khai thác" là hoàn toàn có thực.
Trong khi tích cực tranh thủ các diễn đàn quốc tế để khẳng định “yêu chuộng hòa bình, sẵn sàng cùng các bên đàm phán” thì trong việc làm, Trung Quốc đang thể hiện điều ngược lại. Sau sự kiện cho các lực lượng đội lốt dân sự trên các tầu hải giám cắt cáp, phá hoại họat động bình thường của tàu Bình Minh 02 trên thềm lục địa Việt Nam, sự kiện quấy rối cắt cáp, phá chân vịt tàu khảo sát địa chấn Viking 02 của tại lô 136 thềm lục địa phía Nam, chỉ cách đường cơ sở Việt Nam gần 100 hải lý, một lần nữa cho thấy những bước đi có tính toán, có hệ thống của Trung Quốc trên Biển Đông.
Trung Quốc không có quyền cản trở các hoạt động của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam - một dân tộc yêu hòa bình, hết sức kiềm chế và chưa bao giờ khuất phục trước cường quyền. Dư luận thế giới trong thời kỳ hội nhập không thể đồng tình với bất kỳ hành động nào lợi dụng vị thế cường quốc gây tổn hại đến lợi ích của quốc gia khác. Cộng đồng ASEAN đang buộc phải cảnh giác.
Phát biểu tại Hội nghị các quan chức cấp cao ASEAN diễn ra tại Surabaya, Inđônêxia từ ngày 7 đến 10/6, Trưởng đoàn Việt Nam, Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Quang Vinh đã nhấn mạnh: Hòa bình, ổn định, an ninh và an toàn hàng hải ở Biển Đông là mối quan tâm và lợi ích chung của tất cả các nước; khu vực và tất cả các nước cần phải tiếp tục nỗ lực và chung sức vì những mục tiêu này.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chỉ có lòng tin và nỗ lực giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình mới là chìa khóa để giải quyết các vấn đề Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với xu thế chung của thế giới ngày nay là hòa bình, hợp tác và phát triển./.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, chỉ có lòng tin và nỗ lực giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình mới là chìa khóa để giải quyết các vấn đề Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế, phù hợp với xu thế chung của thế giới ngày nay là hòa bình, hợp tác và phát triển./.
Các từ khóa theo tin:
Tấn Vũ
QĐND Thứ Bẩy, 11/06/2011, 21:1 (GMT+7) -
QĐND - Thế kỷ XXI đánh dấu sự trỗi dậy của Trung Quốc. Theo dự đoán, đến năm 2025, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nước có GDP cao nhất thế giới. Sự lớn mạnh của Trung Quốc làm cộng đồng thế giới có thể hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn nhưng đồng thời cũng phải đối phó với những thách thức không nhỏ của một đất nước đang vươn rộng ra ngoài, đòi hỏi có không gian chiến lược cho sự phát triển của mình.
QĐND - Thế kỷ XXI đánh dấu sự trỗi dậy của Trung Quốc. Theo dự đoán, đến năm 2025, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ trở thành nước có GDP cao nhất thế giới. Sự lớn mạnh của Trung Quốc làm cộng đồng thế giới có thể hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn nhưng đồng thời cũng phải đối phó với những thách thức không nhỏ của một đất nước đang vươn rộng ra ngoài, đòi hỏi có không gian chiến lược cho sự phát triển của mình.
China Daily, một tờ báo chính thống của Trung Quốc, ngày 8-6-2011 đã nêu rõ: Tranh chấp Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải) có ý nghĩa chiến lược quan trọng với Trung Quốc bởi hai lý do. Thứ nhất, Trung Quốc là nước lớn nhưng chưa phải là một siêu cường biển. Mặc dù có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế rộng, bờ biển đất liền và đảo dài nhưng phần đóng góp của biển với GDP còn nhỏ. Chỉ với một số ít các đảo đang tranh chấp nằm dưới sự kiểm soát của mình, Trung Quốc không có đường để nối biển với đại dương. Thứ hai, không có một lực lượng hải quân mạnh và sự chú trọng các quyền lợi biển, Trung Quốc vẫn ở vị thế không thuận lợi. Muốn trở thành một siêu cường có ảnh hưởng, Trung Quốc buộc phải chuyển từ “cường quốc đất liền” sang “siêu cường biển”.
Và tranh chấp Biển Đông là phép thử thực tế cho việc đạt được mục tiêu đó. Mở rộng tranh chấp, biến vùng biển của nước khác từ xưa đến nay không có tranh chấp thành vùng biển tranh chấp là phương thức tốt nhất để kiểm soát chiến lược toàn Biển Đông, bao gồm tài nguyên sinh vật và không sinh vật cũng như các đảo, đá, bãi cạn. Để đạt được mục đích đó, Trung Quốc đã không ngại tiến hành những chính sách mà người ngoài cho là lạ lùng, trái ngược, khó hiểu. Trong quá trình tiến xuống Biển Đông, Trung Quốc bao giờ cũng sử dụng chiêu thức lớn tiếng đòi hỏi chủ quyền, gây xung đột, củng cố dần trên thực địa nhằm mở rộng vùng biển tranh chấp, ép buộc đối phương chấp nhận những đề nghị có lợi cho mình, tạo thời cơ hoàn thiện việc củng cố chủ quyền và các quyền lợi trên biển, biến vùng biển tranh chấp thành vùng biển của mình.
Tàu Trung Quốc lao vào cắt cáp của tàu Viking II do Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam thuê khảo sát địa chấn trong thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc đang cố tình biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp. - Ảnh: PetroTimes
Cuối thế kỷ XIX, bản đồ, sách sử và dư địa chí Trung Quốc đều ghi “Hải Nam là cực Nam của lãnh thổ Trung Hoa”. Năm 1909, Đô đốc Lý Chuẩn đổ bộ chớp nhoáng lên quần đảo Hoàng Sa đã có chủ quyền của Việt Nam. Công hàm của Phái đoàn Ngoại giao Trung Quốc tại Pa-ri năm 1932 mới tuyên bố yêu sách “Tây Sa tạo thành cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc”. Tới cuối những năm 1940, Trung Quốc lại sửa cực Nam của đất nước ở “Nam Sa là điểm tận cùng phía Nam của lãnh thổ Trung Quốc”. Cuối những năm 1950, Trung Quốc lẳng lặng in bản đồ đường chữ U liền đoạn, rồi 11 đoạn và sau cùng 9 đoạn yêu sách các đảo đá, quần đảo trong Biển Đông. Chính quyền Đài Loan cũng lẳng lặng lợi dụng sau chiến tranh thế giới thứ hai để chiếm phần phía Đông quần đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa.
Năm 1974, Trung Quốc đã hoàn thành việc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực. Năm 1996, Trung Quốc lại vẽ đường cơ sở quần đảo Hoàng Sa theo phương pháp đường cơ sở cho quốc gia quần đảo, làm bàn đạp mở rộng tiếp các vùng biển yêu sách từ đường cơ sở đó. Một con đường cơ sở ôm lấy một vùng biển rộng lớn 17.000km2 trong khi diện tích đảo nổi chưa đến 10km2.
Năm 1988, CHND Trung Hoa lần đầu tiên đặt chân lên quần đảo Trường Sa. Năm 1992, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò dầu khí rộng 25.000km2 với Công ty Mỹ Crestone trên thềm lục địa Việt Nam mà Trung Quốc tự nhận là vùng biển Trung Quốc trên thềm lục địa của nước khác. Vấp phải sự phản đối của Việt Nam, Bắc Kinh đưa ra công thức “gác tranh chấp cùng khai thác” trên khu vực bãi Tư Chính nhưng đã không được chấp nhận. Tuy nhiên, Trung Quốc không từ bỏ ý định biến vùng không tranh chấp thành vùng tranh chấp trên Biển Đông.
Tháng 5-2009, Trung Quốc lần đầu tiên đưa yêu sách đường lưỡi bò ra trước công chúng, trước Liên hợp quốc với lý lẽ rằng con đường này là đường lịch sử đã được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi và toàn bộ các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm, thậm chí đến cả các bãi chưa từng nổi lên cũng như các vùng nước liên quan, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển trong phạm vi con đường này thuộc quyền quản hạt của Trung Quốc. Trên thực tế, không có một văn bản nào của các Hội nghị luật biển của Liên hợp quốc có nhắc đến con đường này. Thế giới cũng không chấp nhận một yêu sách vùng nước lịch sử rộng bằng 80% diện tích Biển Đông như vậy. Một con đường đứt đoạn, vẽ tùy ý, không tọa độ sao có thể là một ranh giới biển được cộng đồng quốc tế thừa nhận? Khái niệm “vùng nước liên quan” cũng chỉ là sản phẩm riêng của Trung Quốc, không có trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Ngay sau khi Trung Quốc lưu chiểu tấm bản đồ này lên Liên hợp quốc, Việt Nam, Ma-lai-xi-a và sau đó là Phi-líp-pin đã lên tiếng phản đối. Các nước không liên quan như In-đô-nê-nê-xi-a, Mỹ cũng đều phê phán tính vô lý của “Đường đứt khúc 9 đoạn”. Để dễ bề mở rộng tranh chấp, Trung Quốc lại đưa ra khái niệm “lợi ích cốt lõi” làm cộng đồng quốc tế và khu vực lo ngại. Trước sự phản ứng của thế giới, họ lại thanh minh không nói điều đó. Ngày 14-4-2011, Trung Quốc lại đưa ra lập luận mới, quần đảo Nam Sa (Trường Sa) có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng. Lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra yêu sách theo ngôn ngữ của luật biển quốc tế. Điều đó không có nghĩa là Trung Quốc từ bỏ đường lưỡi bò. Họ vẫn tiếp tục dùng cả đường lưỡi bò và luật biển khi cần thiết và để bổ trợ cho nhau.
Thực chất, đường lưỡi bò giống như một chủ trương yêu sách lớn của Trung Quốc làm thế mặc cả cho những đàm phán giải quyết sau này. Càng mở rộng vùng tranh chấp vào sâu lãnh thổ hay vùng biển đối phương càng có lợi thế để mặc cả. Các nước có tranh chấp với Trung Quốc chẳng lấy gì làm lạ với chiến thuật "biến không thành có" này của Bắc Kinh. Trung Quốc cố tình đưa ra những tuyên bố mập mờ, lấy sự không rõ ràng làm cơ sở bào chữa cho các hành động vi phạm luật quốc tế của mình.
Bước thứ hai của chiến lược “mở rộng vùng tranh chấp” là tạo cớ, gây sức ép với các nước lân cận để khẳng định trên thực tế đường lưỡi bò của Trung Quốc. Đây là lý do vì sao gần đây Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động quấy rối. Từ việc đơn phương thiết lập lệnh cấm đánh bắt cá ở Biển Đông hằng năm từ 15-5 đến 31-8 tới các hoạt động cản trở tàu thuyền Việt Nam và Phi-líp-pin, hay hoạt động dùng tàu ngầm đặt quốc huy dưới đáy biển Bãi cạn Tăng Mẫu gần Ma-lai-xi-a đầu năm 2011. Các hoạt động này đều có một điểm chung là nằm trên ranh giới của “đường lưỡi bò”.
Trung Quốc mong muốn dưới sức ép của "cây gậy", các bên hữu quan sẽ phải chấp nhận "củ cà rốt" họ đưa. Đó là chủ trương “chủ quyền tại ngã, gác tranh chấp cùng khai thác”. Chủ trương này theo website chính thức Bộ Ngoại giao Trung Quốc gồm 4 yếu tố: 1) Chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc; 2) Khi điều kiện chưa chín muồi để có giải pháp cho tranh chấp chủ quyền, đàm phán về chủ quyền có thể hoãn lại để có thể gác tranh chấp sang một bên. Gác tranh chấp không có nghĩa từ bỏ chủ quyền. Nó chỉ là gác tranh chấp lại chờ thời gian thích hợp; 3) Khai thác chung các vùng lãnh thổ liên quan; 4) Mục đích của khai thác chung là nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau và tạo điều kiện cho giải pháp cuối cùng về chủ quyền lãnh thổ.
Như vậy “gác tranh chấp cùng khai thác” của Trung Quốc thực chất chỉ để phục vụ cho điều kiện thứ nhất “Chủ quyền đối với các vùng lãnh thổ liên quan thuộc về Trung Quốc”. Chấp nhận “gác tranh chấp cùng khai thác”, tức chấp nhận yêu sách đường lưỡi bò của Bắc Kinh. Điều kiện chín muồi ở đây là thời điểm Bắc Kinh đủ sức để kiểm soát toàn bộ các vùng biển và lãnh thổ này trong phạm vi đường lưỡi bò. Trong khi chờ đợi điều kiện chín muồi này thì các bên cùng khai thác, tức là Trung Quốc có quyền ngang hàng với nước chủ nhà trong thăm dò, khai thác và quản lý các tài nguyên của họ. Khu vực gác tranh chấp cùng khai thác chỉ được đề xuất trên thềm lục địa và đặc quyền kinh tế của nước khác mà Bắc Kinh chưa thể và không thể kiểm soát. Khu vực gác tranh chấp cùng khai thác không được Bắc Kinh chấp nhận ở những nơi họ đã giành được quyền kiểm soát một cách phi pháp như Hoàng Sa và một số khu vực ở Trường Sa. Đường lưỡi bò và gác tranh chấp cùng khai thác là hai yếu tố cấu thành của một chủ trương lớn độc chiếm Biển Đông. Các hành động mạnh bạo vừa qua dường như là thể hiện ý chí của Trung Quốc áp đặt cho các nước xung quanh Biển Đông chấp nhận công thức đó.
Thực hiện chiến thuật "biến không thành có", biến các vùng biển không tranh chấp của nước khác thành vùng biển tranh chấp, thông qua các hành động khiêu khích, gây hấn nhằm vào các nước láng giềng và đe dọa cả lợi ích hàng hải của các nước khác không mang lại kết quả nào tốt đẹp cho Trung Quốc. Ỷ vào sức mạnh không phải là đạo lý. Đưa ra các yêu sách vô lý, trái với luật pháp quốc tế nhằm chiếm đoạt biển, đảo của các nước láng giềng khác, không phải là chính nghĩa. Đe dọa sử dụng vũ lực ở biển Đông là đi ngược lại xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực và thế giới, làm cho môi trường khu vực và quốc tế mất ổn định. Trung Quốc đang tự đánh mất hình ảnh tốt đẹp “phát triển hòa bình” dày công vun đắp bao năm nay.
Trung Quốc cần kiềm chế, không làm phức tạp thêm tình hình, nỗ lực đàm phán với các nước liên quan, tìm kiếm một giải pháp cơ bản lâu dài cho vấn đề Biển Đông trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Có như vậy, Giấc mộng Trung Hoa, được khởi xướng từ Tôn Trung Sơn, về Trung Quốc có bốn nhất: Mạnh nhất thế giới, giàu nhất thế giới, nền chính trị tốt nhất thế giới, dân chúng hạnh phúc nhất thế giới, mới có thể trở thành hiện thực.
Việt Long