Thứ Sáu, 27 tháng 3, 2009

Chủ quyền VN tại Tu Chính - Vũng Mây và vũng Nam Côn Sơn

Chủ quyền VN tại Tu Chính - Vũng Mây và vũng Nam Côn Sơn
Sự việc hai hãng khai thác dầu Exxon-Mobil (Hoa Kỳ) và BP (Anh) lần lượt rút khỏi VN là một gáo nước lạnh, một cái tát rát mặt cho phía Việt Nam, nhưng cũng là một dịp may để các học giả VN xét lại các dữ kiện cơ bản mà phía VN dựa lên đó chứng minh chủ quyền của mình tại vùng trũng nam Côn Sơn và bãi Tu Chính – Vũng Mây (TC-VM). May vì còn thời giờ để thảo luận lại nghiêm túc. Đồng thời cũng là dịp để phía VN đặt lại toàn bộ lý lẽ của mình về chủ quyền HS&TS và hải phận biển Đông cách nào cho hợp lý.


Các lô của BP khai thác là 5.2 và 5.3 (xem bản đồ), nằm giữa quần đảo Trường Sa với bờ biển VN. Hai mỏ được phát hiện các nơi đây năm 1996 là Hải Thạch và Mộc Tinh. Việc thăm dò tạm ngừng từ tháng 6 năm 2007, BP giải thích vì vùng khai thác đang có tranh chấp giữa VN và TQ. Phía BP nói rằng việc tạm ngưng là : « để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề ». Tuần qua, ngày 19-3-2009, PB thông báo chính thức rút lui, hủy bỏ hợp đồng khai thác với VN. Trước đó, tháng 9 năm 2008, Exxon-mobil cũng rút lui sau khi đã có những thỏa thuận với VN sau chuyến Mỹ du của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng tháng 5 năm 2008.
Một ngày sau khi BP tuyên bố rút lui, ông Lê Dũng, phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng : « Điều tôi có thể khẳng định là những lô này nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. »

Ông Dũng nói thế, người VN nào cũng nghĩ như thế, vùng biển đó là của VN không ai có thể chối cãi. Nhưng đối với người ngoài, các nước trên thế giới họ nghĩ gì ? Thái độ rút lui của BP (Anh) rõ ràng là do việc tranh chấp ; của Exxon-Mobil (Hoa Kỳ) lại càng rõ rệt hơn, vì lô khai thác của tập đoàn này nằm trong vùng TC-VM, xa bờ biển VN hơn cả hai lô 5.2và 5.3 do BP trúng thầu khai thác. Việc này bắt buộc mọi người VN phải suy nghĩ lại.

Về địa lý, các lô 5.2 và 5.3 nằm cách đảo Côn Sơn khoảng 200km, cách đảo Đá Lát (thuộc Trường Sa) khoảng 200km và cách bờ biển Vũng Tàu khoảng 250km. Các con số ghi nhận lấy từ việc đo đạc ước lượng trên bản đồ. Hai lô 5.2 và 5.3 nằm trong đường giới hạn ZEE 200 hải lý của VN, đường này trên bản đồ là đường xanh đậm. Để ý, đường giới hạn vùng ZEE của VN không ăn khớp với đường bờ biển VN. Ở khoảng các tỉnh miền Trung thì đường này cách bờ đúng 200 hải lý, phù hợp với qui định của luật quốc tế về biển 1982, nhưng ở vùng các tỉnh miền Nam thì đường này phình lớn ra, nơi lớn nhất đo khoảng 270 hải lý. Việc bất thường này có hai giải thích : 1/do hiệu quả của đường cơ bản của bờ biển VN, 2/ do hiệu quả của đảo hòn Hải (thuộc nhóm đảo Phú Quí). Nhưng hòn Hải lại là điểm A6 của hệ thống đường cơ bản, do đó tuy có hai cách giải thích khác nhau nhưng hiệu quả thì như nhau.
Vùng TC-VM là hình đa giác vẽ bằng màu tím trên bản đồ. Vùng này có hai lô 133 và 134 tô màu vàng. Xét trên bản đồ thì vùng TC-VM một phần nằm ngoài đường ZEE của VN, rất gần các đảo Trường Sa nếu so với bờ biển VN.
Phía TQ cho rằng các lô trên có chồng lấn với hải phận (và thềm lục địa) của TQ, vì thế phía VN không thể đơn phương khai thác. Hai tập đoàn BP và Exxon-Mobil, BP đang khai thác ở hai lô 5.2 và 5.3, Exxon-Mobil dự định khai thác các lô thuộc TC-VM, đều rút lui. Lý lẽ nào của phía TQ đã khiến cho BP và Exxon-Mobil rút lui ? Phía bên VN cố gắng giải thích việc rút lui là do lý do kinh tế, khai thác không có lợi, nhưng không hề thuyết phục. Hai lý lẽ thuyết phục nhất có lẽ là : 1/ sức ép của TQ, 2/ các bằng chứng thuyết phục về chủ quyền của TQ.
Về sức ép của TQ, điều này đúng, vì TQ hiện nay là đầu tàu của sự phát triển kinh tế thế giới, là chủ nợ của HK. Mặt khác, Anh Quốc có rất nhiều quyền lợi tại TQ do đó BP nhượng bộ yêu sách của TQ cũng hợp lý. Nhưng khi nói TQ có chủ quyền ở các vùng này, trên quan điểm VN thì không có gì phi lý và ngang ngược hơn. Nhưng thái độ của BP và Exxon-Mobil, dầu sao cũng là các tập đoàn khai thác dầu khí lớn nhất nhì thế giới của Anh và Hoa Kỳ, họ chỉ nhưọng bộ nếu các lý lẽ phía TQ là hợp lý.
Đây là hậu quả của một sự sơ suất to lớn, phía VN dường như không hề màng đến các lý lẽ của TQ, sai lầm kéo dài từ năm 1958 đến nay.
Sai lầm vì, các viên chức VN lạc quan đã đành, học giả VN cũng vậy, nhưng thật ra tất cả đều thiếu tầm nhìn, phần lớn chỉ giải thích vấn đề theo cảm tính, theo ý muốn của mình mà bất chấp thực tế đã xảy ra như thế nào. Đến hôm nay các học giả VN vẫn loay hoay với hỏa mù của TQ tung ra, mất thời giờ tìm hiểu và giải thích ý nghĩa tấm bản đồ chữ U, còn gọi là bản đồ 9 gạch hay bản đồ « lưỡi bò », mà không biết rằng đó chỉ diện, là hỏa mù có công dụng đánh lạc hướng VN (và cả thế giới), làm cho phía VN nếu không mất thì giờ thì cũng trở thành khinh địch.
Việc loay hoay này thấy rõ qua buổi « hội thảo biển Đông » vừa qua trong nước. Có người mất không biết bao nhiêu thời gian để tìm hiểu và chứng minh « biển lười bò » không thể là biển lịch sử của TQ v.v… Nhưng các việc đó đều vô ích.
Cả buổi hội thảo, tôi đã nói trên blog của mình từ ngày 19-3, đã không nói lên việc gì mới (ngoài việc tổ chức là mới). Mọi người chỉ nói cho nhau nghe những cái mà mọi người đều biết. Những cái mới, như hồ sơ của TQ ra sao ? lý lẽ họ thế nào ? Việc phản biện của họ có căn cứ gì hay không ? thì không nghe nói tới, từ lịch sử cho đến pháp lý, mặc dầu tài liệu của TQ nhiều gấp trăm lần tài liệu của phía VN. Rõ ràng như ban ngày, TQ làm gì có chủ quyền ở HS và TS, nhưng họ có cả trăm đầu sách, tài liệu, một mặt bắt bẻ, phản biện các lý lẻ của VN, mặt khác chứng minh chủ quyền của TQ tại các nơi này. Phía VN, nếu không nói quá, thì là tay trắng. Học giả VN đang tự mãn dưới đáy giếng hay đang là con ngựa thồ bị bịt cả hai mắt ? Một hai người hiếm hoi có thể đem lại cái mới cho hội thảo, như nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân, thì không thấy có mặt. Có lẽ là do phía nhà nước mà thôi. Những học giả như ông Nguyễn Quang Ngọc đã có bài tham luận rất giá trị, đã đi đúng phương hướng, nhưng lại bị giới hạn vì những vật cản chung quanh. Nhà nước có nói với ông Ngọc thế này : « phía học giả VN đang làm khó nhà nước trong việc hoạch định chính sách ». Thì ra nhà nước muốn học giả VN viết theo chính sách, trong khi các nước khác, chính sách của nhà nước được đặt trên các nghiên cứu của các nhà khoa học. Ai mà không bất mãn ?

Trở lại vấn đề là ngày hôm nay, trên hầu hết các Atlas nước ngoài đều ghi nhận công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã công nhận HS và TS thuộc chủ quyền của Tàu. Điển hình, cuốn Atlas Des Atlas tháng 9 năm 2008 của Courier International, một cơ sở truyền thông uy tín hàng đầu thế giới, đã ghi ở trang 91 như thế.
Sự thật là sự thật, nhưng các học giả VN, chỉ muốn tự sướng, giải thích cho nhau nghe rằng công hàm này không có giá trị về pháp lý. Ai nói khác thì kẻ đó làm lợi cho Tàu, là chống cộng cực đoan. Nhưng không có ai đủ khả năng giải thích được cho dư luận nước ngoài là công hàm này không có giá trị. Phải cay đắng mà kết luận rằng học giả VN vừa kém về phẩm vừa kém về tinh thần học thuật.
Như thế, trước dư luận quốc tế, HS và TS đã là của TQ. Các học giả VN không biết, và cũng không muốn biết, phía TQ đã đưa các tài liệu gì để vừa thuyết phục vừa đe dọa BP và Exxon-Mobil ?

Về pháp lý cũng vậy, các học giả, những nhà nghiên cứu VN cũng chỉ nghiên cứu theo lối tự sướng, chỉ giải thích luật lệ theo ý muốn của mình. Việc giải thích bộ luật Quốc Tế về Biển 1982 là một điển hình.
Mọi người đều biết bộ luật này còn rất nhiều điểm chưa hoàn chỉnh. Ở một số điều người ta có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau mà cách nào cũng đúng. Trường hợp tranh cãi giữa TQ và HK về chiếc tàu Impeccable là một thí dụ. Đây là một kẻ hở trong luật biển 1982. Vậy mà các học giả VN chỉ giải thích luật này theo lối có lợi cho mình, không cần nghiên cứu xem đối thủ của mình giải thích ra sao ! Biết địch biết ta mới hy vọng thắng. Biết ta không cần biết địch, mà biết ta cũng rất lơ mơ, thua là cái chắc.
Các bài viết của ông Dương Danh Huy đã đăng rộng rãi trên các kênh truyền thông lớn trong nước và hải ngoại gần đây về hải phận biển Đông và chủ quyền HS&TS là thí dụ điển hình cho lối làm việc đó. Nhưng tôi cho rằng các bài viết của tác giả này phản ảnh lập trường của VN, nếu không nói là « phát ngôn nhân » của VN, trong vấn đề HS&TS và hải phận của VN tại biển Đông. Nếu đúng là như thế thì nguy cơ VN mất trọn biển Đông cho TQ là việc có thật.

Ông này viết về chủ quyền của VN tại TC-VM như sau : « Thật ra, theo luật quốc tế, giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa, thì vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc về Việt Nam » … « Trong việc vạch ranh giới, tập quán luật quốc tế và ngoại giao không tính những đảo nhỏ, xa bờ, tự thân không có các điều kiện cho sự cư trú của con người và đời sống kinh tế riêng, như các đảo trong hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để tránh việc những đảo này ảnh hưởng không công bằng tới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Nguyên tắc này được Toà án Công lý Quốc Tế tuyên bố từ năm 1969 trong phiên toà chia thềm lục địa Bắc Hải và được khẳng định trong Điều 121, Khoản 3 của UNCLOS. Từ năm 1969 tới nay, Toà án Công lý Quốc Tế luôn luôn tôn trọng nguyên tắc này, thí dụ như trong những phiên toà Lybia/Malta, Vịnh Maine, Guniea/Guniea-Bisseau.. » http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5522/index.aspx

Tác giả viết rằng « giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa » thì ảnh hưởng các đảo này không ăn thua gì hết, TC-VM vẫn là của VN.
Tác giả giải thích luật biển 1982 trên quan điểm VN và đưa ra những bằng chứng là các phiên tòa và các án lệ quốc tế như đã dẫn trên.
Nhưng tác giả đã đưa các bằng chứng không đúng với sự thật. Thí dụ, việc phân định hải phận và thềm lục địa giữa Lybia và Malta, tại đây việc phân định đặt trên tinh thần đồng đẳng theo đường trung tuyến chứ không có việc « không tính các đảo nhỏ xa bờ ». Về Vịnh Maine là một vịnh nhỏ của USA và Canada, không hề quan hệ và không thể so sánh với các đảo HS và TS. Việc phân định giữa Guniea và Guniea-Bisseau cũng thế, không thể so sánh với các đảo HS và TS.
Tác giả Dương Danh Huy làm thế là có dụng ý gì nếu không phải là muốn VN thí cô hồn HS và TS cho TQ vì nó không ăn thua gì ?
Trở lại lời thì thầm của nhà nước cho ông Nguyễn Quang Ngọc : « học giả VN đang làm khó nhà nước trong việc dựng chính sách ».
Nếu thế thì học giả VN bỏ công nghiên cứu làm chi nữa, mọi việc đã an bài.
Về phía TQ thì giảng giải luật theo ý của họ (và tập quán quốc tế).
Một thí dụ : Năm 1955, Nữ hoàng Anh đã ra lệnh cho Hải quân cắm cờ, dựng bia chủ quyền trên Rock All rộng 3 m vuông, cao 21 m, để tuyên bố vùng đặc quyền về kinh tế xung quanh Rock All là 200 hải lý. Mặc dầu hiện nay Anh đã rút lại đòi hỏi này về hải phận ZEE nhưng về thềm lục địa họ vẫn giữ nguyên tuyên bố 200 hải lý chủ quyền.
Như thế, các đảo TS, hầu hết đều lớn hơn đảo Rock All, có đảo có nước ngọt và cây cối, hơn nữa đây là một « quần đảo », tọa lạc trên một vùng biển có diện tích rất lớn, chiều Bắc Nam dài hơn 500 Km, chiều Ðông Tây dài hơn 1.000 km, chiếm khoảng 160.000 km2, nếu TQ có chủ quyền ở đây và HS, đương nhiên TQ chiếm lĩnh cả biển Đông.
Kết quả hôm nay là dư luận đứng về phía TQ, các bản đồ Atlas trên thế giới hiện nay hầu hết đều ghi như thế, nhất là ghi chú về công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Thái độ rút lui của BP và Exxon-Mobil càng làm cho tư thế của TQ thêm vững tại biển Đông.
Vấn đề cốt lõi của TC-VM vì thế tùy thuộc vào ai là chủ quyền của các đảo TS. Nói như ông Dương Danh Huy « Thật ra, theo luật quốc tế, giả sử như Hoàng Sa và Trường Sa có thuộc về Trung Quốc một cách hợp pháp đi nữa, thì vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn nằm ở phía bắc ranh giới với Indonesia vẫn thuộc về Việt Nam » là vừa « cống » TS cho TQ vừa để mất TC-VM. VN muốn có chủ quyền tại đây là VN phải khẳng định chủ quyền của mình tại TS.
Trở lại bài viết của tôi mới đây về « ý nghĩa pháp lý của công hàm ông Phạm Văn Đồng », tôi đã thấy sự việc từ lâu, mặc dầu không muốn nói nhưng cuối cùng phải nói. Vì quyền lợi của dân tộc VN mà tôi nói, không thể để trễ hơn, vì thời hạn chót nộp hồ sơ thềm lục địa mở rộng là ngày 13 tháng 5, chỉ còn không đến hai tháng nữa. Tôi nói để các học giả VN thận trọng, nhà nước VN có thể buông tay tại HS và TS.
Nếu vụ khai thác Bô-xít hiện nay tại Tây Nguyên là nguy hại cho VN về môi trường và địa-lý chiến lược, để mất HS&TS cho TQ thiệt hại còn lớn gấp ngàn lần ; vì đó là vùng sinh tồn của các thế hệ VN trong tương lai.

Trương Nhân Tuấn
---------------------
Nói thêm chút, vì đã có lo lắng khi BP rút lui, liệu Mỹ có nhắm mắt để TQ làm loạn biển Đông đổi lại TQ mua trái phiếu cho Mỹ... không rõ lắm, dù sao Mỹ dễ bán VN lắm, khó gì. Nhưng cả 2 đều tuyên bố tăng cường ngân sách quân sách ...
US Moves to Counter Chinese Military Modernization
By Al Pessin
Washington
27 January 2009
Mỹ sẽ tăng cường sức mạnh quân sự trước sự đe dọa của TQ tại Thái Bình Dương.----------
March 4, 2009
China to boost defence spending in 2009
By THE ASSOCIATED PRESS
-------------------- Bản phúc trình gây tranh cãi tiếng bấc tiếng chì:
http://www.defenselink.mil/pubs/pdfs/China_Military_Power_Report_2009.pdf

Tổng số lượt xem trang