Thứ Năm, 4 tháng 6, 2009

Sự trỗi dậy của các chế độ dân chủ phi tự do (Fareed Zakaria)

Sự trỗi dậy của các chế độ dân chủ phi tự do (Fareed Zakaria)
“…con người có “một số quyền không thể chuyển nhượng” và rằng “chính nhằm để bảo vệ cho những quyền đó mà các chính quyền được thiết lập”. Như thế, nếu một nền dân chủ không bảo tồn được tự do và luật pháp thì nền dân chủ đó chỉ còn là một niềm an ủi nhỏ nhoi…”
Làn sóng sắp tới

Nhà ngoại giao người Mỹ Richard Holbrooke trằn trọc suốt đêm trước ngày bầu cử tại Bosnia vào tháng Chín năm 1996, cuộc bầu cử nhằm khôi phục lại đời sống dân sự cho đất nước bị tàn phá do xung đột. “Cứ giả thiết rằng cuộc bầu cử là tự do và công bằng”, ông ta nghĩ, “và những người được bầu lại là những người có tư tưởng phân biệt chủng tộc, phát-xít hoặc ly khai - những người đang công khai chống lại tiến trình hoà bình và tái hoà nhập”.
Đó thực sự là một tình thế tiến thoái lưỡng nan không chỉ đối với Liên bang Nam Tư cũ mà còn là tình trạng đang trở nên phổ biến trên thế giới. Các chính quyền được bầu lên một cách dân chủ, nhất là các chính quyền được bầu lại hoặc được tái xác nhận thông qua trưng cầu dân ý, thường bất chấp các giới hạn quyền lực do hiến pháp qui định và thường tước đi các quyền và tự do căn bản của người dân. Từ chính quyền tại Peru đến các cơ quan quyền lực của Palestine, từ chính quyền ở Sierra Leone, Pakistan đến Slovakia hay Philippines, chúng ta đều thấy sự trỗi dậy của một hiện tượng đáng lo ngại trong đời sống quốc tế. Đó là sự trỗi dậy của chế độ Dân chủ phi Tự do.

Rất khó nhận ra vấn đề này, vì suốt gần một thế kỷ qua tại phương Tây, dân chủ thường được hiểu là dân chủ tự do – một hệ thống chính trị được xác định không chỉ bằng thiết chế bầu cử tự do và công bằng, mà còn bằng chế độ pháp trị (rule of law), sự chia tách quyền lực và thiết chế bảo vệ các tự do cơ bản như tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo và tự do sở hữu tài sản. Trên thực tế, tập hợp các quyền tự do vừa kể - chúng ta có thể gọi chúng bằng thuật ngữ “chủ nghĩa tự do hiến định” (constitutional liberalism), về lý thuyết là khác và về lịch sử là tách biệt với từ dân chủ. Như nhà chính trị học, Philippe Schmitter, đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa tự do, với tư cách là một quan niệm về tự do chính trị hay một học thuyết kinh tế, có thể đã trùng hợp với sự trỗi dậy của dân chủ. Nhưng nó (chủ nghĩa tự do –ND) chưa bao giờ được gắn một cách bất biến hay rõ ràng với việc thực hành dân chủ”. Hiện nay, hai thành tố đó của nền dân chủ tự do (liberal democracy), được bện chặt với nhau trong các hệ thống chính trị phương Tây, lại đang tự lan truyền sang phần còn lại của thế giới một cách riêng rẽ. Dân chủ đúng là đang nở rộ. Nhưng chủ nghĩa tự do hiến định thì không.

118 trong tổng số 198 quốc gia trên toàn thế giới hiện nay đã trở thành dân chủ, bao gồm một đa số của cư dân toàn thế giới (chính xác là chiếm 54,8%), là một phát triển rộng lớn trong một thập niên đã qua. Với sự thành công như thế, lẽ ra người ta có thể đã háo hức trông đợi các chính trị gia và trí thức phương Tây sẽ còn tiến một bước xa hơn cả E.M.Forster [1] và nhiệt liệt ăn mừng cho dân chủ. Nhưng thay vì thế, thế giới lại đang lo lắng hơn cho sự gia tăng nhanh các cuộc bầu cử đa đảng, đang diễn ra tại khắp nam-trung Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh, có thể vì những gì đã xảy ra sau các cuộc bầu cử đó. Những nhà lãnh đạo nổi tiếng như Boris Yeltsin [2] tại Nga, Carlos Menem [4] tại Argentina đang phớt lờ cả quốc hội và đang cai trị bằng các sắc lệnh tổng thống – những hành vi đang gây xói mòn các thiết chế hiến định. Trong khi đó, quốc hội Iran – đã được bầu ra một cách tự do hơn hầu hết các quốc gia khác tại Trung Đông, lại đang áp đặt các biện pháp khắc nghiệt đối với ngôn luận, hội họp và thậm chí cả về trang phục, làm giảm đi sự tự do vốn đã rất ít ỏi của đất nước này. Chính phủ tuyển cử tại Ethiopia lại đang dùng lực lượng an ninh để đối xử với nhà báo và các đối thủ chính trị, gây ra những tổn hại thường xuyên cho quyền con người và cả tính mạng con người.

Theo lẽ tự nhiên, hiện đang có một “phổ chính trị” [4] của thể chế dân chủ phi tự do, bắt đầu từ những loại ít hà khắc nhất như Argentina cho tới các loại gần-như-bạo-quyền (near-tyrannies) như Kazakstan và Belarus, và ở giữa là các nước như Romania hay Bangladesh. Phần lớn trong “phổ” này, các cuộc bầu cử đều ít khi được tự do và công bằng như tại phương Tây hiện nay, nhưng chúng đều phản ánh một hiện thực là dân chúng đã tham gia vào sinh hoạt chính trị và ủng hộ những người đắc cử. Các ví dụ cho hiện thực này không phải là cá biệt hay phi điển hình. Cuộc điều tra của Freedom House thực hiện năm 1996-1997 phản ánh qua báo cáo “Tự do trên Thế giới” (Freedom in the World) [5], đã xếp hạng riêng hai loại tự do chính trị và tự do dân sự, hai yếu tố gần tương đương với hai khái niệm dân chủ và tự do hiến định. Trong số các quốc gia nằm giữa thể chế độc tài cứng ngắc và thể chế dân chủ trưởng thành, có 50% thực hiện tự do chính trị tốt hơn tự do dân sự. Nói một cách khác, một nửa số các quốc gia đang dân chủ hoá hiện nay là các thể chế dân chủ phi tự do (illiberal democracy) [6].

Đúng là thể chế dân chủ phi tự do đang phát triển. Cách đây 7 năm chỉ có 22% các quốc gia đang dân chủ hoá có thể được xếp vào loại này, và chỉ hai năm sau đó, chỉ số này đã tăng lên tới 35%. Đến hôm nay, chỉ có một vài nền dân chủ phi tự do đã chuyển được sang dân chủ tự do, số còn lại thì đang chuyển sang xu hướng phi tự do tăng cường. Dù đã thoát xa khỏi giai đọan tạm thời hay quá độ, nhưng dường như phần lớn các quốc gia đó đang chuyển thành một dạng chính quyền pha trộn giữa một mức độ đáng kể về dân chủ với một mức độ đáng kể về chủ nghĩa phi tự do. Chính vì các quốc gia trên khắp thế giới hiện nay đã trở nên sung túc với nhiều biến thể của chủ nghĩa tư bản, nên chúng cũng có thể chấp nhận dễ dàng và duy trì nhiều dạng thức dân chủ khác nhau. Nền dân chủ tự do phương Tây có thể đang chứng tỏ không phải là đích đến cuối cùng trên con đường dân chủ, nhưng đúng là một trong nhiều lối thoát có thể có [7].

Dân chủ và Tự do

Từ thời Herodotus [8] cho đến nay, dân chủ luôn có nghĩa, đầu tiên và trước hết, là sự cai trị của dân. Quan niệm này về dân chủ - với ý nghĩa là một qui trình để chọn lựa ra chính quyền, đã được nhiều học giả nói rõ, từ Alexis de Tocqueville [9] đến Joseph Schumpeter [10], Robert Dahl [11], vẫn được các nhà xã hội học hiện nay sử dụng một cách rộng rãi. Trong tác phẩm Làn Sóng Thứ Ba (The Third Wave), Samuel P. Huntington đã lý giải tại sao:

Bầu cử, với đặc tính mở rộng, tự do và công bằng, là cốt lõi của dân chủ, một điều kiện thiết yếu không thể thiếu. Song, các chính quyền được tạo ra bởi các cuộc bầu cử có thể không hiệu suất [12], đồi bại, thiển cận, vô trách nhiệm, bị chế ngự bởi những lợi ích riêng và không có khả năng chấp nhận các chính sách theo đòi hỏi của lợi ích công. Những phẩm chất xấu vừa kể tạo nên một chính quyền không mong muốn, nhưng chúng lại không làm cho các chính quyền đó trở thành thiếu dân chủ. Dân chủ là một phẩm hạnh công, nhưng không phải là độc nhất. Và mối quan hệ giữa dân chủ với các phẩm hạnh công và các tật xấu khác của xã hội, chỉ có thể nhận biết được nếu dân chủ được phân biệt rõ ràng với các đặc trưng khác của hệ thống chính trị.

Định nghĩa vừa nói về dân chủ cũng phù hợp với nhận thức phổ thông về thuật ngữ này. Khi một quốc gia tổ chức các cuộc bầu cử đa đảng, có cạnh tranh, chúng ta sẽ gọi quốc gia đó là dân chủ. Khi tỷ lệ dân chúng tham gia vào chính trị tăng lên, ví dụ khi phụ nữ được thừa nhận quyền bầu cử, chúng ta sẽ coi đó là dấu hiệu của gia tăng dân chủ. Đương nhiên, một cuộc bầu cử phải có tính mở và công bằng và điều này đòi hỏi phải có sự bảo vệ ở một mức độ nào đó đối với quyền tự do ngôn luận và tự do hội họp. Tuy nhiên, chỉ khi vượt qua được định nghĩa tối thiểu này và chỉ xếp một quốc gia vào dân chủ khi quốc gia đó đảm bảo được một danh mục đầy đủ, toàn diện về các quyền xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo; từ “dân chủ”, lúc đó, mới trở thành một danh hiệu nhằm tôn vinh hơn là một phạm trù để mô tả. Sau cùng, Thụy Điển có một hệ thống kinh tế mà nhiều người cho là cắt xén các quyền sở hữu cá nhân, nước Pháp cho đến gần đây vẫn còn độc quyền nhà nước về truyền hình, và nước Anh có một tôn giáo được công nhận chính thức [13]. Nhưng tất cả các quốc gia đó đều là những nền dân chủ rõ ràng và có thể nhận dạng. Do vậy, nếu nhận định một cách chủ quan, cho rằng có dân chủ là có "một chính quyền tốt” (a good government), thì định nghĩa này sẽ làm cho khái niệm “dân chủ” trở thành vô dụng [14].

Mặt khác, chủ nghĩa tự do hiến định không liên quan đến các thủ tục để chọn ra chính quyền, mà đúng hơn là nói đến các mục tiêu của chính quyền. Nó (chủ nghĩa tự do hiến định-ND) dựa trên truyền thống lâu đời của các nước phương Tây luôn tìm cách bảo vệ tính tự trị của cá nhân và phẩm giá con người chống lại sự áp bức có thể đến từ bất cứ nguồn gốc nào - nhà nước, giáo hội hay xã hội. Thuật ngữ này hàm chứa hai ý niệm đã được bện chặt với nhau. Ý niệm Tự do được rút ra từ xu hướng triết học nhấn mạnh tự do cá nhân [15], khởi đầu từ các triết gia Hy Lạp. Ý niệm Hiến định dựa vào truyền thống pháp trị (rule of law), khởi đầu từ những người La Mã. Chủ nghĩa tự do hiến định (constitutional liberalism) đã phát triển tại Tây Âu và nước Mỹ với ý nghĩa là phương tiện bảo vệ cho quyền sống, quyền sở hữu tài sản, quyền tự do tôn giáo, quyền tự do ngôn luận của mỗi cá nhân. Nhằm đảm bảo an toàn cho các quyền đó, chủ nghĩa tự do hiến định nhấn mạnh sự cần thiết của việc kiểm soát đối với quyền lực của mỗi ngành trong chính quyền, sự bình đẳng trước pháp luật, các thẩm phán và toà án không thiên vị, và sự tách rời giữa nhà nước và giáo hội. Những nhân vật đại diện kinh điển cho trường phái này có nhà thơ John Milton [16], luật gia William Blackstone [17]; các chính trị gia như Thomas Jefferson [18], James Madison [19], và các triết gia như Thomas Hobbes [20], John Locke [21], Adam Smith [22], Nam tước Montesquieu [23], John Stuart Mill [24] và Isaiah Berlin [25]. Hầu như tất cả các biến thể của chủ nghĩa tự do hiến định đều công nhận rằng con người có những quyền tự nhiên (hay “không thể chuyển nhượng”) và rằng chính quyền phải chấp nhận một đạo luật cơ bản, nhằm hạn chế chính quyền lực của nó, và bảo toàn các quyền tự nhiên đó. Vì lẽ đó, năm 1215 tại Runnymede, các quý tộc của nước Anh đã buộc nhà vua phải tuân thủ một số luật về đất đai đã ổn định và dựa trên tập quán lâu đời. Tại các thuộc địa ở châu Mỹ, những điều luật như thế cũng đều được tuyên bố rõ ràng và vào năm 1638 thị trấn Hartford đã thông qua một hiến pháp thành văn đầu tiên trong lịch sử hiện đại. Trong những năm 1970, các quốc gia phương Tây đã điển pháp hoá các chuẩn mực ứng xử cho các chế độ trên toàn thế giới. Magna Carta [26], Các quy định cơ bản Connecticut [27], Hiến pháp Hoa Kỳ và Tuyên bố chung tại Helsinki (Helsinki Final Act) [28] đều là những biểu hiện của chủ nghĩa tự do hiến định.

Đường tới nền Dân chủ Tự do

Kể từ năm 1945 đa phần các chính quyền tại phương Tây đều thể hiện cả hai yếu tố dân chủ và chủ nghĩa tự do hiến định. Vì vậy thật khó hình dung được hai yếu tố đó lại có thể tách biệt nhau: dưới dạng dân chủ phi tự do (illiberal democracy) hay dạng độc đoán tự do (liberal autocracy). Trên thực tế thì cả hai hình thức đó đã từng hiện hữu trong quá khứ và vẫn tồn tại đến ngày nay. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn các quốc gia Tây Âu vẫn chỉ là các chế độ độc đoán tự do hoặc khá nhất là nửa-dân chủ (semi-democracy). Quyền bầu cử lúc đó vẫn bị hạn chế chặt chẽ, cơ quan lập pháp do tuyển cử chỉ có chút ít quyền hạn. Vào năm 1830, nước Anh, ở một mức độ nào đó là nước dân chủ nhất ở châu Âu lúc đó, cũng chỉ cho phép 2% dân số đi bầu một viện của Nghị viện, sau đó tăng lên 7% vào sau năm 1867 và đạt được khoảng 40% vào những năm 1880. Chỉ đến cuối những năm 1940, phần lớn các quốc gia phương Tây mới trở thành các nền dân chủ có “đủ lông, đủ cánh”, với hệ thống bầu cử phổ thông cho tất cả người thành niên. Nhưng, 100 năm trước đó, quãng cuối những năm 1840, phần lớn các quốc gia đó đều đã thừa nhận các thành tố quan trọng của chủ nghĩa tự do hiến định: nguyên tắc pháp trị, quyền sở hữu tài sản tư nhân và với mức độ ngày càng tăng, công nhận sự chia tách giữa các quyền lực, cũng như các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp. Trong phần lớn lịch sử hiện đại, cái làm thành đặc trưng và tạo ra sự khác biệt giữa các chính quyền tại châu Âu và Bắc Mỹ với các chính quyền khác trên toàn thế giới không phải là dân chủ mà chính là chủ nghĩa tự do hiến định. Biểu tượng tốt nhất của “Mô hình phương Tây” không phải là hệ thống bầu cử đại chúng mà chính là vị quan toà không thiên vị.

Lịch sử hiện đại của các quốc gia Đông Á cũng đang đi theo lộ trình phương Tây. Sau giai đoạn ngắn ngủi ve vãn chế độ dân chủ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, phần lớn các chế độ tại Đông Á đều chuyển thành độc đoán. Rồi dần dần chuyển từ độc đoán sang độc đoán tự do hoá và, đối với một số trường hợp, chuyển tiếp sang nửa-dân chủ tự do hoá [29]. Đa phần các chế độ tại Đông Á hiện tại vẫn chỉ là nửa-dân chủ, với những lãnh đạo kiểu gia trưởng hoặc với hệ thống độc đảng chỉ tiến hành các cuộc bầu cử nhằm tạo bộ mặt hợp pháp cho quyền lực chứ không phải là tranh cử thực sự. Tuy nhiên, các chế độ này đã chấp nhận cho các công dân một không gian rộng hơn về các quyền kinh tế, dân sự, tôn giáo và các quyền chính trị có giới hạn. Giống như tại phương Tây, quá trình tự do hoá tại Đông Á cũng bao gồm tự do hoá về kinh tế - yếu tố chủ chốt để thúc đẩy cả tăng trưởng kinh tế lẫn dân chủ tự do. Lịch sử đã cho thấy các yếu tố có quan hệ mật thiết nhất với một nền dân chủ tự do trưởng thành là: kinh tế tư nhân (chủ nghĩa tư bản), một giai cấp tư sản và một chỉ số cao về tổng sản phẩm quốc dân (GNP: gross national product) tính theo đầu người. Tình hình hiện nay tại Đông Á, cũng gần giống như các chính phủ phương Tây vào khoảng năm 1900, là sự pha trộn giữa dân chủ, tự do, tư bản, độc quyền chính trị và tham nhũng.

Chúng ta đã thấy chủ nghĩa tự do hiến định đã dẫn đến dân chủ, nhưng dân chủ thì dường như không mang lại chủ nghĩa tự do hiến định. Tương phản với các con đường của phương Tây và Đông Á, trong vòng hai thập niên qua tại Mỹ Latinh, châu Phi và một số nơi khác ở châu Á, các chính thể độc tài với một chút ít nền móng của chủ nghĩa tự do hiến định đã mở đường cho dân chủ. Nhưng kết quả vẫn không đáng khích lệ. Ở bán cầu phía tây, không tính đến Cuba, với tất cả các cuộc bầu cử được tiến hành ở tất cả các nước, một nghiên cứu của học giả Larry Diamond năm 1993 đã cho thấy 10 trong số 22 quốc gia quan trọng tại Châu Mỹ La tinh “đã có mức độ xâm phạm nhân quyền không tương thích với sự củng cố chế độ dân chủ (tự do)” [30]. Tại châu Phi, quá trình dân chủ hoá đang diễn ra với tốc độ nhanh đặc biệt. Chỉ trong 6 tháng của năm 1990, rất nhiều các quốc gia dùng tiếng Pháp đã bãi bỏ lệnh cấm hoạt động đa đảng. Nhưng cho dù phần lớn các quốc gia cận Sahara (gồm 45 quốc gia), từ năm 1991, đã tổ chức bầu cử (riêng năm 1996 đã có 18 cuộc bầu cử), đã có sự thụt lùi về tự do tại nhiều nước. Một trong những nhà quan sát cẩn trọng nhất về làn sóng dân chủ hoá tại châu Phi là Michael Chege đã rút ra một bài học là lục địa này “đã quá nhấn mạnh vào các cuộc bầu cử đa đảng…và một cách tương ứng đã sao nhãng những nguyên tắc cơ bản của cách lãnh đạo quốc gia theo kiểu tự do”. Tại Trung Á, các cuộc bầu cử khá tự do, như tại Kyrgyzstan và Kazakstan, đã tạo ra các bộ máy hành pháp mạnh, và các cơ quan lập pháp và tư pháp yếu ớt và chỉ có một chút tự do về dân sự và kinh tế. Còn trong thế giới Hồi giáo, từ cơ quan quyền lực của Palestine cho tới Iran, Pakistan, dân chủ hoá đều đưa đến sự gia tăng vai trò của chính trị thần quyền, gây xói mòn truyền thống của chủ nghĩa thế tục và tính khoan dung đã được định hình từ lâu. Tại nhiều quốc gia Hồi giáo như Tunisia, Morocco, Ai-Cập và một số quốc gia vùng Vịnh sẽ có những cuộc bầu cử vào nay mai, nhưng có một điều gần như chắc chắn là các chính quyền sau các cuộc bầu cử đó sẽ thiếu tính tự do hơn các chính quyền hiện nay.

Nhưng mặt khác, nhiều nước Trung Âu đã chuyển đổi thành công từ chế độ cộng sản sang chế độ dân chủ tự do bằng cách trải qua một quá trình tự do hoá mà không có dân chủ giống như các nước châu Âu khác đã làm trong thế kỷ 19. Thực vậy, đế quốc Áo-Hung, mà hầu hết các nước Trung Âu lúc đó trực thuộc, đã từng là một chế độ độc đoán tự do (liberal autocracy) cổ điển. Thậm chí ở ngoài châu Âu, nhà chính trị học Myron Weiner đã phát hiện ra một liên hệ đáng ngạc nhiên giữa chế độ hiến định trong quá khứ với chế độ dân chủ tự do hiện tại. Ông chỉ ra rằng, cho đến năm 1983, “tất cả các quốc gia độc lập trong Thế giới thứ Ba, nổi lên từ chế độ thuộc địa sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, với ít nhất một triệu dân (cùng với hầu hết các thuộc địa nhỏ hơn) và có một kinh nghiệm dân chủ liên tục, đều là cựu thuộc địa Anh quốc” [31]. Cách cai trị của người Anh thời thuộc địa không phải là dân chủ (chế độ thực dân theo định nghĩa là chế độ phi dân chủ) nhưng là chế độ theo chủ nghĩa tự do hiến định. Di sản của chế độ thực dân Anh về pháp luật và quản trị hành chính đã chứng tỏ có ích hơn chính sách của Pháp trao quyền bầu cử cho một số dân chúng tại thuộc địa.

Như vậy chế độ chuyên chế tự do có thể đã có mặt trong quá khứ, nhưng ai có thể hình dung được là nó vẫn tồn tại đến ngày hôm nay? Mãi cho đến gần đây thôi, vẫn có một chế độ điển hình như thế, nhỏ bé nhưng mạnh mẽ, phát triển ngay cạnh lục địa châu Á - đó là Hồng Công. Trong suốt 156 năm, tới tận ngày 01 tháng 07 năm 1997, Hồng Công được đặt dưới sự cai trị của Nữ Hoàng Anh, thông qua một Toàn quyền được bổ nhiệm. Tới năm 1991, Hồng Công chưa bao giờ tổ chức bất kỳ một cuộc bầu cử có ý nghĩa nào, nhưng chính quyền của nó luôn là hình ảnh thu nhỏ của chủ nghĩa tự do hiến định: bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, điều hành một hệ thống toà án và một bộ máy hành chính công bằng. Bài xã luận ngày 08 tháng 09 năm 1997 trên tờ Washington Post đã giật một tít buồn bã “Đang giải thể chế độ dân chủ Hồng Công”. Nhưng thực tế, Hồng Công có quá ít dân chủ đáng giá để giải thể. Cái mà nó có chỉ là một khung rõ ràng cho các quyền công dân và pháp luật. Các đảo quốc nhỏ có thể không đem lại nhiều ý nghĩa thực tiễn trong thế giới hôm nay, nhưng chúng có thể giúp cho người ta lượng định được tương quan về giá trị tương đối giữa chế độ dân chủ và chế độ tự do hiến định. Ví dụ, khi bạn cần lựa chọn nơi để sống giữa Haiti – một chế độ dân chủ phi - tự do và Antigua – một chế độ nửa-dân chủ tự do. Sự lựa chọn của bạn chắc sẽ không phải dựa vào yếu tố thời tiết, là cái đều dễ chịu ở cả hai nơi, mà phải dựa vào không khí chính trị, là cái mà ở hai nơi không giống nhau [32].

Quyền lực tuyệt đối

JOHN STUART MILL đã mở đầu cuốn luận văn kinh điển Bàn về Tự do (On Liberty) của ông bằng sự ghi nhận là khi một quốc gia trở thành dân chủ, dân chúng có xu hướng tin rằng “người ta đã quá quan trọng hoá việc giới hạn bản thân quyền lực. Đó… là một sự đáp trả nhằm chống lại những kẻ cai trị có lợi ích đi ngược lại lợi ích của nhân dân”. Một khi nhân dân đã tự gánh vác trách nhiệm thì sự thận trọng là không còn cần thiết. “Dân tộc không cần sự bảo vệ để chống lại ý chí của chính nó” [33]. Để khẳng định lại những lo sợ của Mill, chúng ta hãy xem lại những lời nói của Alexandr Lukashenko [34] sau khi được bầu làm Tổng thống Belarus với kết quả đa số phiếu áp đảo trong cuộc bầu cử tự do năm 1994. Khi được hỏi về việc giới hạn quyền lực của ông ta, Lukashenko tuyên bố: “Chế độ độc tài sẽ không có ở đây. Tôi thuộc về nhân dân, vì vậy tôi sẽ cống hiến vì nhân dân”.

Sự căng thẳng giữa chủ nghĩa tự do hiến định và dân chủ nằm ở vấn đề phạm vi của quyền lực của chính quyền. Tự do hiến định nói đến việc hạn chế quyền lực còn dân chủ lại nói đến việc tích tụ và sử dụng quyền lực. Do đó, nhiều học giả theo trường phái tự do của thế kỷ 18 và 19 đã nhìn thấy trong dân chủ một sức mạnh có thể gây tổn hại cho tự do. James Madison đã lý giải trong Federalist [35] rằng “nguy cơ đàn áp” trong chế độ dân chủ bắt nguồn từ “phe đa số của cộng đồng”. Tocqueville cũng cảnh báo về “bạo quyền của phe đa số”, và ông viết “bản chất thực sự của một chính quyền dân chủ nằm ở chủ quyền tuyệt đối của phe đa số”.

Khuynh hướng của một chính quyền dân chủ tin rằng nó có chủ quyền tuyệt đối (về quyền lực) có thể dẫn đến sự tập trung quyền lãnh đạo, thường bằng các biện pháp vượt ra khỏi hiến pháp và với những hệ lụy tàn nhẫn. Một thập niên vừa qua cho thấy nhiều chính phủ được bầu ra mặc dù tuyên bố là đại diện cho nhân dân nhưng luôn xâm phạm quyền lực và quyền tự do của các thành phần khác trong xã hội, một sự tiếm quyền trên cả chiều dọc (các cơ quan quyền lực cấp vùng và cấp địa phương, cũng như các doanh nghiệp tư nhân hay các tổ chức phi chính phủ) và chiều ngang (các nhánh khác của chính quyền quốc gia). Lukashenko và Alberto Fujimori [36] của Peru chỉ là các tấm gương xấu nhất của thực tiễn đó. (Trong khi các hành động của Fujimori như giải tán quốc hội và đình chỉ hiến pháp làm cho chế độ của ông ta khó được gọi là dân chủ, thì điều đáng nói là ông ta đã thắng cả hai cuộc bầu cử và hết sức được lòng dân cho đến tận gần đây). Thậm chí nhà cải cách tốt bụng như Carlos Menem đã ban bố gần 300 sắc lệnh tổng thống chỉ trong 8 năm cầm quyền, gấp gần 3 lần toàn bộ các sắc lệnh mà các tổng thống trước đó của Argentina đã từng ban bố, tính từ năm 1853 trở lại đây. Askar Akayev [37] của Kyrgyzstan, được bầu lên với 60% số phiếu, đã đề xuất việc tăng thêm quyền lực cho ông ta bằng cách trưng cầu dân ý, và đã được thông qua một cách dễ dàng vào năm 1996. Quyền lực mới của ông ta bao gồm việc bổ nhiệm tất cả các quan chức cao cấp nhất – chỉ trừ chức thủ tướng, nhưng ông ta lại có quyền giải tán quốc hội nếu cơ quan này bác bỏ ba người mà ông đề cử vào chức thủ tướng.

Sự tiếm quyền theo chiều ngang - thường do các tổng thống tiến hành, thì dễ thấy hơn, nhưng sự tiếm quyền theo chiều dọc lại xảy ra phổ biến hơn. Trong ba thập niên qua, chính quyền của Ấn Độ thường giải tán các cơ quan lập pháp cấp bang vì những lý do vu vơ để đặt các địa phương dưới sự kiểm soát trực tiếp của New Delhi. Bằng một biện pháp ít kịch tính hơn nhưng lại có tính điển hình, chính quyền tuyển cử của Cộng Hoà Trung Phi mới gần đây đã chấm dứt tính độc lập đã có từ lâu của hệ thống giáo dục đại học, biến nó thành một bộ phận của bộ máy nhà nước.

Tiếm quyền đặc biệt lan rộng tại Mỹ La-tinh và các quốc gia trong khối Liên bang Xô-viết cũ, có lẽ vì cả hai vùng này phần lớn đều theo chế độ tổng thống. Hệ thống này có xu hướng tạo ra các nhà lãnh đạo mạnh mẽ, những người thường tin rằng họ đang phát ngôn cho dân chúng – ngay cả khi họ được bầu với số phiếu không quá bán (như Juan Linz đã nêu, Salvador Allende được bầu làm Tổng thống Chi Lê năm 1970 chỉ với 36% số phiếu). Trong những trường hợp tương tự (dưới chế độ nghị viện - ND), một thủ tướng sẽ phải chia sẻ quyền lực trong một chính phủ liên hiệp [38]. Các tổng thống thường đưa các thành phần thân hữu vào nội các hơn là bổ nhiệm các nhân vật cao cấp trong đảng, nhằm duy trì việc kiểm soát nội bộ không đáng kể đối với quyền lực của họ. Và khi quan điểm của họ xung đột với bên lập pháp hoặc thậm chí với bên toà án, các tổng thống có xu hướng “viện đến toàn dân tộc” để lẩn tránh những khó khăn khi phải thương lượng hay phải xây dựng liên minh. Trong khi các học giả vẫn đang tranh luận về những ưu điểm của hệ thống chính quyền kiểu tổng thống so với kiểu nghị viện, sự tiếm quyền đều có thể xảy ra ở cả hai mô hình một khi thiếu vắng các “trung tâm quyền lực có khả năng chế ước, bổ trợ lẫn nhau” (alternate centers of power) đã phát triển cao như: cơ quan lập pháp mạnh, các toà án, các đảng chính trị, các chính quyền địa phương, các trường đại học độc lập và hệ thống truyền thông. Mỹ La-tinh hiện nay là sự kết hợp giữa mô hình tổng thống với hệ thống đại diện theo tỷ lệ đang sản sinh ra các lãnh đạo kiểu dân tuý (populist) [39] và quá nhiều đảng phái – một sự kết hợp không bền vững.

Nhiều chính phủ và học giả ở phương Tây đang khuyến khích việc hình thành các nhà nước tập quyền mạnh trong Thế giới thứ Ba. Lãnh đạo tại các quốc gia đó lập luận rằng họ cần có quyền lực để kéo đổ chế độ phong kiến, làm rạn vỡ các liên minh cố thủ, gạt bỏ quyền lợi được ban phát và mang lại trật tự cho xã hội đang rối loạn. Nhưng lý luận này đang gây nhầm lẫn giữa nhu cầu cần có một chính quyền chính đáng (legitimate) [40] với nhu cầu có một chính quyền mạnh. Các chính quyền được xem là chính đáng thường có khả năng duy trì được trật tự và theo đuổi những chính sách kiên quyết, mặc dù chậm rãi, bằng việc xây dựng các liên minh. Sau cùng, một vài người lại cho rằng chính quyền tại các nước đang phát triển không nên có lực lượng cảnh sát mạnh; sự rối loạn có nguồn gốc từ tất cả các lực lượng chính trị, xã hội và kinh tế mà các nước đó đang tích luỹ. Trong các cuộc khủng hoảng (như nội chiến chẳng hạn), các chính quyền hiến định có thể không có khả năng để lãnh đạo một cách hiệu quả, nhưng phương án thay thế – tức là các nhà nước với bộ máy an ninh rộng lớn đã đình chỉ các quyền hiến định, lại thường không tạo ra được trật tự, cũng không tạo ra được “chính quyền tốt” (good government). Điều thường thấy hơn là các nhà nước đó trở thành những kẻ cướp bóc, duy trì được một trật tự nào đó, nhưng lại bắt bớ những người đối lập, bịt miệng phía bất đồng chính kiến, quốc hữu hoá các cơ sở công nghiệp và tịch thu tài sản. Trong khi tình trạng vô chính phủ có những nguy cơ của nó, thì những đe dọa lớn nhất đối với tự do và hạnh phúc của con người trong thế kỷ này lại không bắt nguồn từ sự mất ổn định mà đến từ các nhà nước tập quyền mạnh và tàn bạo như nước Đức Phát-xít, nước Nga Xô Viết và Trung Hoa của Mao. Thế giới thứ Ba đã bị rải đầy những công trình đẫm máu của các nhà nước mạnh.

Về mặt lịch sử, sự tập trung quyền lực thiếu kiểm soát đã từng và vẫn là kẻ thù của nền dân chủ tự do. Khi sự tham gia chính trị của dân chúng được mở rộng tại châu Âu trong thế kỷ 19, quá trình tập trung quyền lực đã được chấp nhận một cách êm ả tại các nước như Anh và Thụy Điển, nơi mà các thiết chế hội họp (assemblies) thời trung cổ [41], các chính quyền địa phương hay các hội đồng cấp vùng vẫn còn được duy trì mạnh mẽ. Mặt khác, ở các nước như Pháp và Phổ (Prussia), nơi mà chế độ quân chủ đã có quyền lực tập trung một cách hiệu quả (theo chiều dọc lẫn chiều ngang), thì thường kết thúc bằng các chế độ phi tự do và phi dân chủ. Không phải là sự ngẫu nhiên đối với Tây Ban Nha trong thế kỷ 20, thành trì cho chế độ tự do lại nằm ở Catalonia, nơi qua nhiều thế kỷ đã là một vùng độc lập và tự trị một cách ngoan cường. Tại Hoa Kỳ, sự hiện diện của rất nhiều thiết chế với nhiều dạng phong phú - ở cấp bang, cấp địa phương hoặc thiết chế tư nhân, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc chấp nhận sự mở rộng quyền bỏ phiếu một cách nhanh chóng và mạnh mẽ ngay từ đầu thế kỷ 19. Arthur Schlesinger Sr. [42] đã chứng minh bằng tư liệu cho thấy, trong 50 năm đầu tiên của quốc gia Mỹ, hầu như tất cả các bang, các nhóm quyền lợi và các phe phái đã cố làm suy yếu và thậm chí làm sụp đổ chính quyền liên bang như thế nào [43]. Và ngay gần đây thôi, chế độ nửa - dân chủ tự do của Ấn Độ đã sống sót được là nhờ dựa vào - chứ không phải bất chấp, các vùng mạnh mẽ, ngôn ngữ và văn hoá đa dạng và thậm chí nhờ vào các đẳng cấp (castes). Điểm thiết yếu mang tính logic – ngay khi cần phải lặp lại, là: sự đa nguyên trong quá khứ đang giúp đảm bảo sự đa nguyên chính trị trong hiện tại.

Năm mươi năm trước, các chính trị gia tại các nước đang phát triển muốn có một quyền lực phi thường để thực hiện các học thuyết kinh tế thời thượng vào lúc đó như quốc hữu hoá các ngành công nghiệp. Ngày nay, các vị kế nhiệm của họ lại muốn một quyền lực tương tự để tư hữu hoá chính các ngành công nghiệp đó. Sự biện minh của Menem cho các phương pháp của ông ta là: chúng cực kỳ cần thiết để tiến hành các cải cách kinh tế gai góc. Abdala Bucarem của Ecuador và Fujimori cũng đưa ra các lý luận tương tự. Các định chế cho vay như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) đã đồng cảm với những lời cầu khẩn đó và thị trường trái phiếu đã trở nên rất sôi động. Nhưng, ngoại trừ trong những trường hợp khẩn cấp như chiến tranh, các biện pháp phi-tự do, về dài hạn, là không phù hợp với các mục tiêu tự do nhằm giải phóng con người. Một chính quyền hiến định, trên thực tế, vẫn là cái chìa khoá dẫn đến một đường lối cải cách kinh tế thành công. Kinh nghiệm từ Đông Á và Trung Âu đang gợi ý rằng khi các chế độ dù là độc đoán (như tại Đông Á) hoặc dân chủ tự do (như tại Ba Lan, Hungary và Cộng hoà Czech) bảo vệ được các quyền cá nhân - như sở hữu tài sản và ký kết hợp đồng, và tạo ra được một khuôn khổ về luật pháp và quản trị thì chủ nghĩa tư bản và tăng trưởng sẽ đến liền ngay sau đó. Trong bài phát biểu mới đây tại Trung tâm Quốc tế Woodrow Wilson tại Washington, khi giải thích về những yếu tố đang giúp cho chủ nghĩa tư bản nở rộ, Chủ tịch Cục dự trữ Liên Bang Alan Greenspan đã kết luận là “cơ chế dẫn đạo của một nền kinh tế thị trường tự do… là một bộ luật về các quyền con người, được thực thi bởi một hệ thống tư pháp không thiên vị”.

Điều cuối cùng, nhưng có lẽ là quan trọng hơn, là quyền lực được tích luỹ nhằm để làm điều tốt sau đó lại có thể được sử dụng để làm điều tồi tệ. Khi Fujimori giải tán quốc hội, tỷ lệ ủng hộ ông ta đã vọt lên tới mức cao nhất. Nhưng các cuộc thăm dò gần đây đều cho thấy phần lớn những người đã từng ủng hộ ông ta, bây giờ lại ước muốn ông ta cần bị khống chế nhiều hơn nữa. Năm 1993 Boris Yeltsin đã nổi tiếng khi tấn công (đúng theo nghĩa đen) quốc hội Nga, nguyên do từ các hành động vi hiến của chính quốc hội. Nhưng sau đó ông ta đã đình chỉ toà án hiến pháp, giải tán hệ thống chính quyền địa phương và sa thải nhiều thống đốc ở tỉnh. Từ cuộc chiến Chechnya cho tới các chương trình kinh tế, Yeltsin đều thể hiện sự thiếu quan tâm thường có đối với các thủ tục (tiến hành) và các giới hạn được qui định trong hiến pháp. Yeltsin rất có thể có “cái tâm” của một nhà dân chủ tự do, nhưng những hành động của ông đã tạo ra một quyền lực siêu - tổng thống của nước Nga. Chúng ta chỉ có thể hy vọng người kế nhiệm của ông sẽ không lạm dụng điều này [44].

Trong nhiều thế kỷ, giới trí thức phương Tây luôn có xu hướng nhìn chủ nghĩa tự do hiến định như một cách thực hành cổ lỗ, kỳ quặc trong việc ban hành các quy định (rulemaking), hay chỉ là một thứ chủ nghĩa hình thức nhằm dựa vào cái thứ yếu (nguyên văn: back seat) để chống lại những cái ác to lớn hơn trong xã hội. Sự phê phán hùng hồn nhất đối với quan điểm này cho đến nay vẫn là đoạn trao đổi trong vở kịch “Một người của mọi thời” (A Man For All Seasons) của Robert Bolt [45]. Chàng trai cuồng nhiệt William Roper đang khát khao chiến đấu với cái xấu, đã bị tinh thần sùng bái pháp luật của quí ông Thomas More gây tức tối. Quí ông More chỉ nhẹ nhàng phản ứng:

More: Thế con sẽ làm gì? Sẽ phá tan pháp luật để lấy đường đuổi theo con quỉ ư?
Roper: Vâng, con sẽ cắt bỏ mọi dây rợ luật pháp ở Anh để làm điều đó!
More: Thế nếu khi luật pháp bị hạ gục hết cả rồi và con Quỉ quay lại tấn công, con sẽ ẩn nấp ở nơi nào, khi mà tất cả luật pháp đã bị san bằng?

Xung đột sắc tộc và chiến tranh

Vào ngày 08 tháng 12 năm 1996 Jack Lang [46] đã gây ra một cú hích đầy kịch tính cho Belgrade. Chính trị gia nổi tiếng người Pháp, cựu bộ trưởng văn hoá, trước đó đã bị phấn khích bởi các cuộc biểu tình của sinh viên đang lôi cuốn hàng chục ngàn người chống lại Slobodan Milosevic [47], và như thế một con người mang tên Lang và nhiều trí thức phương Tây đã nhận lấy trách nhiệm đối với cuộc chiến tại vùng Balkan. Lang muốn đem lại sự hỗ trợ tinh thần cho phe đối lập trong Liên bang Nam Tư. Nhưng các lãnh đạo của phong trào đối lập đã tiếp ông ta trong văn phòng của họ - khoa triết học- chỉ để đá ông ta ra ngoài và tuyên bố ông ta là “kẻ thù của người Serbia”, và lệnh cho ông ta phải rời khỏi nước này. Hoá ra là các sinh viên chống lại Milosevic không phải vì tội khởi động cuộc chiến, mà vì đã thất bại trong cuộc chiến.

Sự bối rối của Lang làm nổi bật hai suy diễn thông thường, và thường là nhầm lẫn, khi cho rằng sức mạnh của dân chủ là sức mạnh của sự hài hoà sắc tộc và của hoà bình. Nhưng cả hai đều không nhất thiết là đúng. Các chế độ dân chủ tự do trưởng thành luôn có khả năng dung nạp các chia rẽ sắc tộc mà không có bạo lực hoặc khủng bố và sống hoà bình với các nền dân chủ tự do khác. Nhưng nếu thiếu nền tảng của chủ nghĩa tự do hiến định, việc đưa thiết chế dân chủ vào một xã hội đang bị chia rẽ trong thực tế đã kích động chủ nghĩa dân tộc, xung đột sắc tộc và thậm chí cả chiến tranh. Một loạt các cuộc bầu cử được tổ chức tới tấp ngay sau khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ tại Liên bang Xô Viết và Liên bang Nam Tư cũ đã mang lại chiến thắng cho các nhóm ly khai dân tộc chủ nghĩa và dẫn đến sự tan rã của các quốc gia đó. Tự thân các cuộc bầu cử này không phải là xấu, bởi vì các quốc gia đó đã bị ràng buộc với nhau bằng bạo lực. Nhưng quá trình giải thể vội vã, thiếu những cơ chế bảo hiểm, những định chế hoặc quyền lực chính trị dành cho các nhóm sắc tộc thiểu số trong các quốc gia mới, đã gây ra những vòng xoắn nổi loạn, đàn áp và tại những nơi như Bosnia, Azerbaijan hay Georgia, đã gây ra chiến tranh.

Bầu cử là thiết chế đòi hỏi các chính trị gia phải cạnh tranh để lấy phiếu cử tri. Các xã hội thiếu một truyền thống chắc chắn về hội nhập hay về các nhóm đa sắc tộc chính là nơi dễ nhất để tổ chức lực lượng ủng hộ dựa trên đường lối có tính chủng tộc, sắc tộc hay tôn giáo. Khi một nhóm dân tộc nắm được quyền, nó có xu hướng loại bỏ các nhóm dân tộc khác. Khi đó gần như không thể có sự thoả hiệp; bởi vì người ta có thể thương lượng về các vấn đề vật chất như nhà ở, bệnh viện hay đồ cứu trợ, nhưng làm sao có thể phá vỡ sự bất đồng về một tôn giáo của quốc gia? Các cuộc cạnh tranh chính trị, vốn đã gây ra chia rẽ, có thể nhanh chóng suy thoái thành bạo lực. Các phong trào đối lập, các nhóm khởi nghĩa vũ trang và các cuộc đảo chính tại châu Phi vẫn thường bị hướng vào việc chống lại các chế độ dựa trên sắc tộc, rất nhiều trong số đó đã nắm quyền thông qua bầu cử. Nghiên cứu sự sụp đổ của các nền dân chủ tại châu Phi và châu Á những năm 1960, hai học giả đã kết luận rằng dân chủ “là cái khó có thể sống được trong môi trường căng thẳng về xu hướng sắc tộc”. Các nghiên cứu gần đây, đặc biệt là về châu Phi và Trung Á, cũng khẳng định thêm cho nhận định bi quan này. Donald Horowitz - một chuyên gia uy tín về xung đột sắc tộc, đã kết luận: “Đối diện với bản báo cáo khá u buồn…về những thất bại cụ thể của dân chủ trong các xã hội bị chia rẽ…người ta cảm thấy muốn bỏ cuộc. Đâu là lợi ích của bầu cử nếu tất cả chỉ mang lại kết cục là đưa một chính quyền bị-Bemba-khống-chế để thay cho một chính quyền bị-Nyanja-khống-chế tại Zambia, cả hai đều hẹp hòi như nhau; hoặc đưa một chế độ miền nam thay cho một chế độ miền bắc tại Benin, trong khi không chế độ nào chịu thu nhận nửa bên kia vào bộ máy nhà nước?” [48]

Suốt thập niên qua, một trong những tranh luận sôi nổi nhất của các học giả chuyên về quan hệ quốc tế là vấn đề “hoà bình mang tính dân chủ” (democratic peace) - với sự xác nhận là không có hai quốc gia dân chủ hiện đại nào gây chiến tranh với nhau. Cuộc tranh luận làm dấy lên các câu hỏi thú vị có tầm quan trọng về thực tiễn (Cuộc nội chiến của Mỹ có giá trị gì không? Vũ khí hạt nhân có đem lại sự biện minh tốt hơn cho hoà bình không?) và thậm chí các số liệu thống kê còn dẫn đến những bất đồng đáng quan tâm. Như học giả David Spiro đã chỉ ra, dựa trên một số lượng nhỏ các nền dân chủ và các cuộc chiến trong suốt hai trăm năm qua, cơ may để lý giải cho việc không có chiến tranh giữa các quốc gia dân chủ thật quá mong manh. Chưa có thành viên nào của gia đình dân chủ đã thắng được trong trò chơi may rủi và chỉ có ít trường hợp đem lại lý giải cho mối tương quan đầy ấn tượng đó. Nhưng ngay cả khi các số liệu thống kê là chính xác, thì cái gì giải thích được những trường hợp đó? Kant, người đề xuất khái niệm hoà bình mang tính dân chủ, đã lập luận rằng trong các quốc gia dân chủ, người phải trả giá cho chiến tranh – nghĩa là công chúng – cũng là người quyết định, do vậy, điều dễ hiểu là họ sẽ phải thận trọng. Nhưng nhận định đó chỉ gợi ý rằng các chế độ dân chủ hiếu hoà hơn các nhà nước khác. Trên thực tế, các chế độ dân chủ lại tỏ ra hiếu chiến hơn, tham gia chiến tranh nhiều hơn và với mức độ mãnh liệt hơn so với phần lớn các nhà nước khác. Như vậy, chỉ trong các nền dân chủ khác [49], hoà bình mới được giữ vững.

Khi ngẫm kỹ nguyên nhân nằm ở phía sau mối tương quan giữa hoà bình và dân chủ, ta sẽ thấy rõ một vấn đề: hoà bình mang tính dân chủ đúng ra là hoà bình của tự do. Khi đặt bút viết vào thế kỷ 18, Kant tin rằng các chế độ dân chủ đều là bạo ngược, do đó ông đã loại bỏ chúng ra khỏi quan niệm của ông về chính quyền “cộng hoà” - những chính quyền sống trong một khu vực hoà bình. Chủ nghĩa cộng hoà (republicanism), theo Kant, là sự chia tách giữa các quyền lực, sự kiểm soát và giữ cân bằng, chế độ pháp trị, bảo vệ quyền cá nhân và một mức độ đại diện nào đó trong chính quyền (dù không có gì liên quan tới phổ thông đầu phiếu). Cách giải thích khác của Kant về “hoà bình vĩnh viễn” giữa các nền cộng hoà đều gắn liền mật thiết với đặc tính hiến định và tự do của chúng: một sự tôn trọng lẫn nhau đối với quyền của các công dân khác, một hệ thống kiểm soát và giữ cân bằng để đảm bảo không có bất cứ một nhà lãnh đạo nào có thể kéo đất nước vào chiến tranh, cùng với các chính sách tự do kinh tế cổ điển, quan trọng nhất là chính sách thương mại tự do – cái sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau và đến lượt nó lại khiến cho chiến tranh trở nên quá tốn kém và sự hợp tác trở thành hữu ích. Michael Doyle, học giả hàng đầu về vấn đề này đã khẳng định trong cuốn sách Ways of War and Peace (Những nẻo đường chiến tranh và hoà bình, xuất bản năm 1997) rằng một khi thiếu chủ nghĩa tự do hiến định, bản thân nền dân chủ sẽ không có những phẩm chất kiến tạo hoà bình:

Kant không tin vào chế độ dân chủ dựa trên sự cai trị của một đa số không bị trói buộc, và lập luận của ông không hề ủng hộ quan điểm nói rằng tất cả các thực thể chính trị tham dự - tức là các nền dân chủ - đều yêu hoà bình, dù là theo nghĩa chung cho tất cả hay giữa các nền dân chủ hữu hảo với nhau. Nhiều thực thế chính trị tham dự là những chế độ phi-tự do. Hai nghìn năm trước thời hiện đại, sự cai trị của toàn dân (tức nền dân chủ thời cổ đại, N.D) đã luôn đi cùng với tính xâm lược (theo nhận xét của Thucydides [50]) hoặc với thắng lợi của đế quốc (theo nhận xét của Machiavelli [51])… Sự lựa chọn có tính quyết định của các cử tri trung gian rất có thể bao hàm cả chính sách “thanh lọc sắc tộc” nhằm chống lại các thực thể chính trị khác trong nền dân chủ.

Sự phân biệt giữa các nền dân chủ tự do và phi tự do đã rọi sáng vào một mối tương quan có tính thống kê đáng chú ý khác. Các nhà chính trị học Jack Snyder và Edward Mansfield, bằng các số liệu ấn tượng, đã chỉ ra rằng trong 200 năm vừa qua các nhà nước đang dân chủ hoá đã tham gia chiến tranh nhiều hơn một cách đáng kể so với các chế độ độc đoán bền vững hoặc các nền dân chủ tự do. Tại các nước thiếu nền tảng của chủ nghĩa tự do hiến định, sự trỗi dậy của dân chủ thường kéo theo chủ nghĩa dân tộc quá khích và tinh thần hiếu chiến. Khi hệ thống chính trị được mở cửa, các nhóm khác nhau với những lợi ích xung khắc nhau sẽ tiếp cận được quyền lực và thúc ép những nhu cầu của họ. Các thủ lĩnh chính trị và quân sự, thường là những tay chân rường cột của thể chế độc đoán cũ, sẽ nhận thức được rằng để chiến thắng thì cần phải tập hợp được đám đông quần chúng bằng động cơ dân tộc. Hệ quả bất biến luôn là những lời hiệu triệu hùng hồn và các chính sách hung hăng, những cái thường lôi các quốc gia vào sự đối đầu và chiến tranh. Rất nhiều ví dụ để minh họa cho tình trạng vừa nói, từ Napoleon III của Pháp, Wilhelmine của Đức và Taisho của Nhật Bản đến những trường hợp đang phô bày trên báo chí ngày nay như Armenia, Azerbaijan và Serbia của Milosevic. Hoá ra, hoà bình mang tính dân chủ có rất ít mối liên quan với chế độ dân chủ.

Con đường Mỹ

Một học giả Mỹ gần đây đã tới Kazakstan, theo một chương trình do chính phủ Mỹ tài trợ, để giúp quốc hội mới ở nước này soạn thảo luật về bầu cử. Đối tác của ông ta, một thành viên cao cấp của quốc hội Kazakstan, đã gạt bỏ nhiều đề xuất do chuyên gia Mỹ phác thảo và nhấn mạnh rằng: “Chúng tôi muốn quốc hội của chúng tôi cũng tương tự như quốc hội của các ngài”. Vị chuyên gia Mỹ đã hoảng hốt và nhớ lại “Tôi đã cố để nói cái gì đó khác với ba từ vừa nảy ra trong đầu tôi lúc đó: “Không, không thể!” Cách nhìn này không phải là hiếm gặp. Người Mỹ trong các công việc về dân chủ thường có xu hướng nhìn hệ thống của họ như một cỗ máy khó điều khiển mà các nước khác không nên dùng. Nhưng thực tế, việc thừa nhận một số nét của khung hiến pháp Mỹ có thể cải thiện được nhiều vấn đề gắn liền với chế độ dân chủ phi tự do. Triết lý nằm phía sau Hiến pháp Mỹ, tức là nỗi sợ về quyền lực bị tích luỹ, đến hôm nay vẫn còn nguyên tính thời sự như vào năm 1789. Như những gì đang diễn ra, Kazakstan cần phải có một quốc hội mạnh mẽ như Quốc hội Mỹ để chế ngự sự thèm khát vô độ của tổng thống nước này.

Điều kỳ quặc là Hoa Kỳ lại rất hay ủng hộ cho các cuộc bầu cử và nền dân chủ trưng cầu dân ý ở nước ngoài. Đặc điểm của hệ thống Mỹ không phải là ở chỗ nó dân chủ như thế nào mà là phi dân chủ như thế nào, bằng cách thực hiện nhiều loại kiềm chế đối với các khối đa số cử tri. Trong ba nhánh quyền lực nhà nước, có một nhánh – có thể coi là cao nhất - được điều hành bởi chín người (nam và nữ) không thông qua bầu cử, với nhiệm kỳ suốt đời (tức Toà án Tối cao - ND). Thượng viện của nó lại là thượng viện ít có tính đại diện nhất thế giới, không kể tới trường hợp đặc biệt duy nhất là Viện Quý tộc (House of Lords, tức Thượng viện Anh - ND) – một cơ quan không có quyền lực. (Mỗi bang đều gửi 2 thượng nghị sĩ đến Washington không tính đến dân số lớn nhỏ - California với 30 triệu dân cũng có số đại diện tại Thượng viện như Arizona với 3,7 triệu dân – nghĩa là các thượng nghị sĩ đại diện cho 16% dân số toàn quốc cũng có thể ngăn cản được một dự án luật.) Tương tự, trong các cơ quan lập pháp trên khắp Hoa Kỳ, điều gây ngạc nhiên không phải là quyền lực của đa số mà là quyền của thiểu số. Để kiểm soát kỹ hơn quyền lực quốc gia, chính quyền ở các bang và các địa phương đều mạnh và luôn đấu tranh một cách mạnh mẽ chống mọi sự can thiệp của liên bang vào lĩnh vực riêng của mình. Các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức phi chính phủ - mà Tocqueville gọi là các hiệp hội trung gian (intermediate associations), cũng tạo thành một tầng lớp (stratum) khác trong lòng của xã hội.

Hệ thống Mỹ được xây dựng trên một quan niệm bi quan không úp mở về bản chất loài người, quan niệm cho rằng những người có quyền lực là không thể tin được. Madison đã nổi danh khi viết: “Nếu con người là thánh thần, thì không cần phải có chính quyền”. Một mô hình khác của sự lãnh đạo kiểu dân chủ đã có trong lịch sử phương Tây là dựa trên tinh thần cuộc Cách mạng Pháp. Mô hình Pháp đặt niềm tin vào lòng tốt của loài người. Một khi nhân dân đã là nguồn gốc của quyền lực thì không nên hạn chế nó, để cho nó đủ khả năng tạo ra một xã hội công bằng. (Cuộc Cách mạng Pháp, như Lord Acton [52] đã quan sát, không nhằm vào việc hạn chế quyền lực tối cao mà là phá bỏ mọi quyền lực trung gian trên đường đi của nó.) Đa phần các quốc gia không phải là phương Tây đều chấp nhận mô hình Pháp - đặc biệt là bởi vì giới ưu tú trong chính trị thích thú với viễn tượng trang bị quyền lực cho nhà nước vì điều đó cũng đồng nghĩa với việc trao quyền cho chính bản thân họ - phần lớn những nước này đều đang rơi vào các cơn rối loạn, bạo quyền, hoặc cả hai. Điều này đúng ra phải dự liệu được từ trước. Vì xét cho cùng, chính cuộc Cách mạng Pháp cũng đã phải trải qua hai nền quân chủ, hai đế chế, một nền độc tài kiểu phát-xít và năm nền cộng hoà [53].

Dĩ nhiên các nền văn hoá đang biến đổi và các xã hội khác nhau sẽ đòi hỏi những khuôn khổ chính quyền khác nhau. Đây không phải là lời biện hộ cho việc chấp nhận hoàn toàn con đường Mỹ mà đúng ra là lời mời gọi cho một quan niệm đa dạng hơn về thể chế dân chủ tự do, một thể chế nhấn mạnh đến cả hai phần đã có trong cụm từ (dân chủ và tự do - ND). Trước khi những chính sách mới có thể được thông qua thì một nhiệm vụ đã được đặt ra: đó là việc nghiên cứu nhằm khôi phục truyền thống của chủ nghĩa tự do hiến định - vấn đề cốt lõi đối với kinh nghiệm phương Tây cũng như đối với sự hình thành và phát triển các chính quyền tốt (good government) trên khắp thế giới. Tiến bộ về chính trị trong lịch sử phương Tây là kết quả của sự thừa nhận ngày càng mạnh mẽ, trải qua hàng thế kỷ, như bản Tuyên ngôn Độc lập (của Hoa Kỳ-ND) đã xác quyết, rằng con người có “một số quyền không thể chuyển nhượng” và rằng “chính nhằm để bảo vệ cho những quyền đó mà các chính quyền được thiết lập”. Như thế, nếu một nền dân chủ không bảo tồn được tự do và luật pháp thì nền dân chủ đó chỉ còn là một niềm an ủi nhỏ nhoi.

Giải phóng chính sách đối ngoại

Một đánh giá đúng về chủ nghĩa tự do hiến định có nhiều hàm ý phong phú đối với chính sách đối ngoại của Mỹ. Trước tiên, nó gợi ra một thái độ khiêm tốn nào đó. Trong khi rất dễ áp đặt các cuộc bầu cử ở một quốc gia thì việc thúc đẩy chủ nghĩa tự do hiến định cho đất nước đó là khó khăn hơn nhiều. Quá trình tự do hoá hay dân chủ hoá đích thực là một quá trình lâu dài và tiệm tiến, trong đó mỗi cuộc bầu cử chỉ là một bước. Thiếu sự chuẩn bị phù hợp, bầu cử có thể là một bước đi sai lầm. Do nhận thức được vấn đề này nên các chính quyền hay các tổ chức phi chính phủ đang gia tăng các biện pháp đa dạng để ủng hộ chủ nghĩa tự do hiến định trong các nước đang phát triển. NED (The National Endowment for Democracy, Quỹ quốc gia vì dân chủ) đang thúc đẩy thị trường tự do, phát triển các phong trào lao động độc lập, và các đảng phái chính trị. Cơ quan Phát triển Quốc tế của Mỹ (The U.S. Agency for International Development) đang tài trợ cho các tổ chức tư pháp độc lập. Nhưng rốt cục các cuộc bầu cử lại đang làm nhoà đi mọi thứ. Khi một quốc gia tổ chức bầu cử, Washington và thế giới sẽ khoan dung rất nhiều đối với chính quyền mới được tạo ra, như đã đối đãi với Yeltsin, Akayev và Menem. Trong thời đại của hình ảnh và biểu tượng, các cuộc bầu cử là cái dễ dàng đưa được lên màn ảnh. Nhưng cuộc sống của người dân sau các cuộc bầu cử lại là điều không dễ đưa lên màn ảnh (Và làm sao có thể ghi hình được chế độ pháp trị?)

Ngược lại, sự thiếu vắng các cuộc bầu cử tự do và công bằng nên được nhìn nhận là một khiếm khuyết, chứ không phải là sự định nghĩa của bạo quyền. Bầu cử là một phẩm hạnh công quan trọng của lãnh đạo quốc gia, nhưng không phải là phẩm hạnh duy nhất. Các chính quyền cũng nên được đánh giá bằng thước đo liên quan đến chủ nghĩa tự do hiến định. Các quyền tự do về kinh tế, dân sự và tôn giáo là cốt lõi của tính tự trị và phẩm giá của con người. Nếu một chính quyền có sự hạn chế về dân chủ nhưng liên tục mở rộng các quyền tự do này thì không nên dán cho nó cái nhãn chế độ độc tài. Mặc dù có sự hạn chế về lựa chọn chính trị, nhưng các nước như Singapore, Malaysia, Thailand đã tạo ra một môi trường tốt hơn cho đời sống, tự do và hạnh phúc của công dân so với các chính thể độc tài như Iraq, Libya hay các chế độ dân chủ phi tự do như Slovakia và Ghana. Và các áp lực từ chủ nghĩa tư bản toàn cầu cũng có thể thúc đẩy quá trình tự do hoá nhiều hơn nữa. Thị trường và đạo đức có thể cùng nhau họat động. Ngay cả Trung Quốc, một nước vẫn còn là một chế độ đàn áp tàn bạo, cũng đã đem lại cho công dân của họ nhiều tính tự quản và nhiều quyền tự do kinh tế hơn so với các thế hệ trước. Mặc dù còn rất nhiều thứ phải làm để có thể gọi Trung Quốc là một chế độ độc đoán đang tự do hoá (liberalizing autocracy), nhưng điều này không nên che khuất một thực tế là đã có nhiều thứ thay đổi.

Cuối cùng, chúng ta cần phải làm sống lại chủ nghĩa hiến định. Một hệ lụy của việc quá nhấn mạnh vào dân chủ thuần tuý là có rất ít nỗ lực dành cho việc xây dựng các bản hiến pháp giàu suy tư cho các nước đang chuyển đổi. Chủ nghĩa hiến định, như được hiểu bởi những người diễn giải vĩ đại nhất vào thế kỷ 18, như Montesquieu và Madison, là một hệ thống phức tạp của các thiết chế kiểm soát và giữ cân bằng, được thiết kế để ngăn chặn sự tích tụ quyền lực và lạm dụng chức vụ. Mục tiêu này được thực hiện không chỉ bằng việc lập một danh sách các quyền con người mà phải bằng việc xây dựng một hệ thống trong đó chính quyền không thể xâm phạm các quyền đó. Nhiều nhóm người khác nhau phải được đưa vào hệ thống đó và đều được trang bị quyền lực bởi vì, như Madison lý giải, “tham vọng phải được tạo ra để chống lại tham vọng”. Hiến pháp cũng nhằm để thuần hoá các đam mê của công chúng, để không chỉ tạo ra một chính quyền dân chủ mà còn là một chính quyền có khả năng bàn bạc để quyết định. Rất đáng tiếc là vô số các loại tổ chức được bổ nhiệm, cách bầu cử gián tiếp, những sự dàn xếp cấp liên bang, các cơ chế kiểm soát và giữ cân bằng vốn là đặc trưng của nhiều bản hiến pháp chính thức hoặc không chính thức ở châu Âu lại đang bị xem xét với sự ngờ vực. Cái được gọi là «Hội chứng Weimar» (dựa theo tên của bản hiến pháp được xây dựng khá đẹp đẽ của nước Đức trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới nhưng đã không ngăn cản được chủ nghĩa phát-xít) đã gây cho người dân một thành kiến là chỉ nhìn hiến pháp như những văn bản hành chính không thể tạo ra nhiều thay đổi. (Như thể bất kỳ hệ thống chính trị nào ở Đức cũng có thể dễ dàng tránh được thất bại về quân sự, cách mạng xã hội, Đại Suy thoái hay siêu lạm phát.) Các thủ tục gây cản trở dân chủ trực tiếp vẫn được xem là không thành thật và chỉ nhằm bịt miệng dân chúng [54]. Hiện nay, trên khắp thế giới, chúng ta đang thấy nhiều biến thể của cùng một chủ đề dựa trên đa số. Nhưng cái rắc rối của những hệ thống «kẻ-thắng-được-tất-cả» (winner-take-all systems) này chính là: trong hầu hết các nước đang tiến hành dân chủ hoá, kẻ chiến thắng đang thật sự đoạt lấy tất cả.

Những bất bình của dân chủ

Chúng ta hiện đang sống trong thời đại dân chủ. Nhưng trong phần lớn lịch sử của loài người, sự đe dọa đối với mạng sống, tự do và hạnh phúc của cá nhân lại đã đến từ quyền lực tuyệt đối của các chế độ quân chủ, từ giáo điều của các giáo hội, từ sự khủng bố của các chế độ độc tài và từ bàn tay sắt của chế độ toàn trị. Những tên độc tài và một vài chế độ toàn trị rải rác vẫn còn ở đâu đó, nhưng chúng đang ngày càng trở nên lỗi thời trong một thế giới của thị trường toàn cầu, của thông tin và truyền thông. Ngày nay đã không còn phương án đáng tôn trọng nào để thay thế cho dân chủ. Dân chủ đang là một phần của bộ trang phục thời thượng của tính hiện đại. Do đó các vấn đề về lãnh đạo quốc gia trong thế kỷ 21 sẽ có thể là các vấn đề nội tại của chế độ dân chủ. Điều này làm cho các vấn đề trở thành rất khó xử lý vì chúng được bọc trong chiếc áo khoác của tính chính đáng (legitimacy).

Các chế độ dân chủ phi tự do đang giành được tính chính đáng, và tiếp đó là sức mạnh, vì thực tế là chúng có tính dân chủ một cách hợp lý. Đổi lại, mối nguy hiểm lớn nhất mà nền dân chủ phi-tự do đang gây ra – khác với mối nguy hiểm dành cho chính nhân dân của nó - là nó sẽ làm mất uy tín chính bản thân chế độ dân chủ tự do, phủ một bóng đen lên cung cách lãnh đạo quốc gia kiểu dân chủ. Điều này đã từng có tiền lệ. Mọi làn sóng dân chủ cho đến nay đều đã kéo theo sau chúng những bước thụt lùi, trong đó hệ thống chính trị bị đánh giá là không thoả đáng và các thủ lĩnh đầy tham vọng cùng với những đám đông hiếu động lại phải tìm kiếm những hệ thống thay thế khác. Như thời kỳ sau cùng của sự tỉnh ngộ ở châu Âu - trong những năm giữa hai cuộc chiến, đã bị các nhà mỵ dân thâu tóm, nhiều người trong số họ lúc đầu đã được lòng dân và thậm chí còn được nhân dân bầu lên. Ngày hôm nay, đối diện với con vi-rút của chủ nghĩa phi tự do đang lan rộng, vai trò hữu ích nhất mà cộng đồng quốc tế - và quan trọng nhất là Hoa Kỳ, có thể đảm nhiệm chính là : thay cho việc tìm kiếm những vùng đất mới để dân chủ hoá hay những địa điểm mới để tổ chức bầu cử, hãy củng cố dân chủ ở nơi nó đã bén rễ và thúc đẩy sự phát triển từng bước của chủ nghĩa tự do hiến định ra khắp thế giới. Dân chủ thiếu chủ nghĩa tự do hiến định không chỉ là không đầy đủ mà còn là nguy hiểm, mang theo nó là sự xói mòn tự do, lạm dụng quyền lực, chia rẽ sắc tộc và cả chiến tranh. Tám mươi năm trước, Woodrow Wilson đã đưa nước Mỹ vào thế kỷ 20 với một lời mời gọi «làm cho thế giới an toàn vì dân chủ». Và hôm nay, khi sắp bước vào thế kỷ tiếp theo, nhiệm vụ của chúng ta là phải «làm cho nền dân chủ an toàn vì thế giới».
Fareed Zakaria
Nguồn: Fareed Zakaria “The Rise of Illiberal Democracy”, Foreign Affairs, November 1997
Người dịch: Phạm Hồng Sơn (với sự cho phép của tạp chí Foreign Affairs);
Người hiệu đính: Mai Thái Lĩnh.
Công bố bản dịch lần đầu trên www.talawas.org ngày 28/05/2009
(Tháng 5/2009)

Ngoài những chú thích của người hiệu đính, các chú thích của chính tác giả đều có ghi chữ (F.Z.)

[1] Edward Morgan Forster (1879 – 1970), nhà văn Anh. Trong tiểu luận «Tôi tin tưởng vào điều gì?» (What I believe?) viết vào năm 1939 , Forster hoan nghênh dân chủ vì hai lý do : (1) Dân chủ coi trọng cá nhân (ít nhất là so với các chế độ độc đoán) và (2) Chế độ dân chủ cho phép phê bình. Do đó, ông kêu gọi « hai lần hoan hô dân chủ », nhưng lập luận rằng lần thứ ba là không cần thiết. Hai lần hoan hô dân chủ (Two Cheers for Democracy) cũng là nhan đề của tuyển tập xuất bản vào năm 1951, có đăng bài tiểu luận nói trên.

[2] Boris Yeltsin (1931 – 2007): là thành viên của Bộ chính trị Đảng cộng sản Liên Xô từ năm 1986, ông bị buộc phải từ bỏ chức vụ bí thư thủ đô Moscow vào năm 1987 và sau đó rời khỏi Bộ chính trị. Tháng 5.1990, ông trở thành Chủ tịch Xô-viết tối cao (tức Quốc hội) của nước Nga và một năm sau, trở thành Tổng thống nước Cộng hòa xô-viết Nga (thuộc Liên Xô). Tháng 8.1991, ông góp phần làm thất bại cuộc đảo chính của phái bảo thủ nhằm lật đổ Tổng thống Gorbachev (tổng thống đầu tiên và cuối cùng của Liên Xô). Sau khi Liên Xô tan rã, ông (Boris Yeltsin) được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Liên bang Nga (nhiệm kỳ 1991-1999).

[3] Carlos Menem (sinh 1930): luật sư, chính trị gia. Tổng thống Argentina trong hai nhiệm kỳ (1989–99).Giai đoạn cầm quyền của ông được ghi dấu bằng nhiều tai tiếng về tham nhũng.

[4] Nguyên văn: spectrum. Tác giả dùng từ này với ý nghĩa như political spectrum (phổ chính trị).

[5] Freedom House (Ngôi nhà Tự do) là một tổ chức quốc tế phi-chính phủ đặt trụ sở tại Hoa Kỳ chuyên nghiên cứu và bảo vệ dân chủ, tự do chính trị và nhân quyền. Nhà ngôn ngữ học bất đồng chính kiến nổi tiếng ở Mỹ - Noam Chomsky, một trí thức có quan điểm vô chính phủ (anarchist) và tự do phóng túng xã hội chủ nghĩa (libertarian socialist), đã chỉ trích tổ chức này nhận tiền và hỗ trợ quyền lợi của chính phủ Mỹ. Một số quốc gia như Cuba, Trung Quốc,… cũng cực lực chỉ trích tổ chức này. Tuy nhiên, bản báo cáo thường niên của tổ chức này – “Freedom in the World” (Tự do trên Thế giới), là một bản đánh giá hàng năm về mức độ nhận thấy được về các quyền tự do dân chủ trong từng nước, lại thường được dùng trong nghiên cứu khoa học chính trị.

[6] Roger Kaplan, ed., Freedom Around the World, 1997, New York: Freedom House, 1997, pp. 21-22. Bản điều tra xếp hạng các quốc gia theo hai thang 7 điểm, thang cho quyền chính trị và thang cho tự do dân sự (điểm thấp hơn thể hiện tiến bộ hơn). Tôi đã coi tất cả các quốc gia có điểm phối hợp giữa 5 và 10 là đang trong quá trình dân chủ hóa. Số phần trăm (%) dựa trên số liệu của Freedom House, nhưng trong trường hợp cá biệt của từng quốc gia, tôi không dựa hẳn vào xếp hạng của bản điều tra. Mặc dù bản Điều tra là một kỳ công đặc biệt – toàn diện và trí tuệ - nhưng phương pháp luận của nó lại đánh đồng một số quyền hiến định với các thủ tục dân chủ, gây lẫn lộn các vấn đề. Hơn nữa, tôi đã sử dụng các quốc gia làm ví dụ (mặc dù không có trong bảng dữ liệu) như Iran, Kazakstan và Belarus, những quốc gia này thậm chí về các điều khỏan thủ tục cũng chỉ được cùng lắm là nửa-dân chủ. Nhưng các quốc gia này vẫn đáng viện dẫn để làm rõ các vấn đề quan tâm, vì phần lớn các nhà lãnh đạo trong các quốc gia đó đều là những người đã được đắc cử, tái đắc cử hay vẫn đang được lòng dân. (F.Z.)

[7] Freedom in the World: The Annual Survey of Political Rights and Civil Liberties, 1992-1993, pp. 620-26; Freedom in the World, 1989-1990, pp. 312-19. (F.Z.)

[8] Herodotus hay Herodotus xứ Halicarnassus: sử gia Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, thường được coi là “người cha của sử học” trong nền văn hóa phương Tây. Tác phẩm duy nhất của ông là cuốn Historíai (ἱστορίαι) – một cuốn ghi chép bao gồm những điều tra nhằm truy tìm nguồn gốc của cuộc Chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư (490-479 trước c.n.). Historíai trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là «điều tra», «truy tìm», về sau được chuyển thành từ historia trong tiếng La-tinh trước khi mang ý nghĩa là “lịch sử, sử học” (history, histoire) như ngày nay chúng ta thường hiểu.

[9] Alexis de Tocqueville (1805–1859): Nhà khoa học chính trị, sử học, và chính trị gia người Pháp, nổi tiếng với tác phẩm Démocratie en Amérique (Nền dân chủ ở Mỹ, bản dịch tiếng Việt của Phạm Toàn có nhan đề “Nền Dân Trị Mỹ” - Nxb Trí Thức, 2007), một phân tích sâu sắc về hệ thống chính trị và xã hội của Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19.

[10] Joseph A. Schumpeter (1883-1950): nhà kinh tế học và xã hội học người Mỹ gốc Moravia (lúc đó thuộc đế quốc Áo-Hung, nay thuộc Cộng hòa Czech). Nổi tiếng về các lý thuyết bàn về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và các chu kỳ kinh doanh. Các tác phẩm của ông có ảnh hưởng lớn trong lĩnh vực lý thuyết kinh tế.

[11] Robert Alan Dahl (sinh 1915), giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Yale, Hoa Kỳ. Là cựu chủ tịch của Hội Khoa học Chính trị Mỹ (American Political Science Association) và là một trong những nhà chính trị học xuất sắc nhất của nước Mỹ đương đại.

[12] Nguyên văn “inefficient” (vẫn tạo ra được kết quả mong muốn nhưng với chi phí tốn kém)

[13] Giáo hội chính thống ở Anh là Anh giáo (the Church of England, Anglican Church).

[14] Như ta sẽ thấy trong phần sau, Zakaria cho rằng một chính quyền dân chủ chưa phải đã là một chính quyền tốt, mà một “chính quyền tốt” trước hết phải là một chính quyền bảo đảm các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do hiến định.

[15] Thuật ngữ «liberal» được sử dụng ở đây theo nghĩa cổ hơn của châu Âu, hiện nay thường được gọi là chủ nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism). Hiện tại ở Mỹ, từ này đang chuyển sang một ý nghĩa hoàn toàn khác: cụ thể là các chính sách ủng hộ nhà nước phúc lợi hiện đại. (F.Z.)

[16] John Milton II (1608–1674): một trong những nhà thơ lớn nhất trong văn chương ngôn ngữ Anh. Ông cũng là một sử gia, một học giả, và là một công chức dưới thời Cộng hòa Anh (Commonwealth of England). Trong số các nhà thơ của nước Anh, Milton được xếp thứ hai, chỉ sau Shakespeare. Bài thơ nổi tiếng của ông, Paradise Lost, được đánh giá là bài sử thi hay nhất trong ngôn ngữ Anh.

[17] Sir William Blackstone (1723– 1780): nhà luật học người Anh và là một giáo sư, tác giả của Commentaries on the Laws of England (Chú giải về luật của nước Anh) - một tác phẩm kinh điển về thông luật (common laws). Công trình này trở thành nền tảng của giáo dục luật học ở Anh và Mỹ.

[18] Thomas Jefferson (1743- 1826): người sọan thảo Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ (1801-09). Trong một thời gian dài là “vị thánh tông đồ của tự do”, trong phạm vi học thuật ông lại trở thành đối tượng chỉ trích do bởi quan niệm về chế độ nô lệ (tin rằng xã hội Mỹ là lãnh địa của người da trắng). Vực thẳm ngăn cách giữa sự bày tỏ các lý tưởng tự do và thực tế của cuộc đời ông biến ông thành vị anh hùng đầy nghịch lý và, theo ý kiến của nhiều người, là vị anh hùng khó hiểu nhất của nước Mỹ.

[19] James Madison (1751-1836): Tổng thống thứ tư của Hoa Kỳ (1809–17) và là một trong những người sọan thảo Hiến pháp Mỹ. Là thành viên của Hạ viện, ông bảo trợ mười tu chính án đầu tiên của Hiến pháp, thường được gọi là Đạo luật về Nhân quyền (Bill of Rights).

[20] Thomas Hobbes (1588-1679): Nhà triết học và lý thuyết chính trị người Anh, tác giả của cuốn Leviathan. Các quan niệm của ông về an ninh cá nhân (individual security) và khế ước xã hội (social contract) là những phát biểu quan trọng, mở đường cho cả hai xu hướng: chủ nghĩa tự do (liberalism) và chủ nghĩa chuyên chế tuyệt đối trong lĩnh vực chính trị (political absolutism).

[21] John Locke (1632-1704): nhà triết học người Anh, là người mở đường cho thời kỳ Khai sáng (Enlightment) ở Anh và Pháp, là tác giả của Hai khảo luận về chính quyền (Two Treatises of Government, 1689) - một tác phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành của chủ nghĩa tự do hiến định. Bản dịch tiếng Việt (phần khảo luận thứ hai) của Lê Tuấn Huy có nhan đề Khảo luận thứ hai về chính quyền - chính quyền dân sự. Nxb Tri Thức, 2007.

[22] Adam Smith (1723-1790): nhà triết học xã hội và kinh tế chính trị học người Scotland. Là tác giả của hai tác phẩm nổi tiếng Theory of Moral Sentiments (Lý thuyết về tình cảm đạo đức, 1759) và The Wealth of Nations (Sự giàu có của các Quốc gia, 1776), ông được coi là người sáng lập cả hai khoa: triết học đạo đức và kinh tế học hiện đại. Trong cuốn Sự giàu có của các quốc gia, Smith giải thích rằng thị trường tự do, tuy bề ngòai có vẻ hỗn lọan và không bị kiềm chế, trên thực tế chịu sự điểu khiển của một “bàn tay vô hình” (invisible hand), do đó việc sản xuất ra số lượng và chủng lọai hàng hóa được điều chỉnh một cách hợp lý. Ông tin rằng khi một cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của mình, anh ta hỗ trợ cho lợi ích của xã hội nhiều hơn là khi anh ta có ý định làm điều tốt cho xã hội. Là người bảo vệ cho thị trường tự do, ông cho rằng cuộc cạnh tranh vì lợi ích riêng trong thị trường tự do sẽ có xu hướng làm lợi cho xã hội xét như một tòan thể bằng cách giữ cho giá thấp, trong khi vẫn khích lệ sự đa dạng của các chủng lọai hàng hóa và dịch vụ.

Mặc dù được coi là nhân vật tiêu biểu của chủ nghĩa tự do trong kinh tế (economic liberalism), nhưng theo một số nhà nghiên cứu gần đây (như nhà viết lịch sử kinh tế Jacob Viner), Adam Smith không hề ủng hộ một cách giáo điều cho chủ trương tự do kinh tế - không can thiệp (laisser-faire) như một số người đã giải thích một cách cường điệu. Ông vẫn có thái độ thận trọng đối với giới doanh nhân và chống sự hình thành của các độc quyền kinh tế.

[23] Montesquieu (1689-1755): là bút danh của Charles Louis de Secondat, nam tước (baron) của lãnh địa La Brède (thừa kế từ người mẹ) và lãnh địa Montesquieu (thừa kế từ một người chú từ năm 1716). Là một nhà triết học chính trị người Pháp thuộc thế kỷ Ánh sáng, tác giả của De l’esprit des Lois - một trong những cuốn “tân thư” được truyền bá vào nước ta từ đầu thế kỷ 20 qua bản chữ Hán nhan đề “Vạn pháp tinh lý”. Bản dịch tiếng Việt (chưa đầy đủ) của Hoàng Thanh Đạm có nhan đề Bàn về tinh thần của pháp luật. Nxb Lý luận chính trị, 2006.

[24] John Stuart Mill (1806 – 1873): nhà triết học, kinh tế chính trị học người Anh, một nhà tư tưởng cổ điển theo chủ nghĩa tự do có ảnh hưởng lớn trong thế kỷ 19. Tác giả của On liberty (1859, bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Văn Trọng có đầu đề Bàn về tự do. Nxb Trí Thức, 2005).

[25] Sir Isaiah Berlin (1909–1997): triết gia, nhà viết lịch sử tư tưởng người Anh gốc Latvia, được coi là một trong những nhà tư tưởng hàng đầu của phái tự do trong thế kỷ 20.

[26] Magna Carta (Great Charter, Đại hiến chương): là bản hiến chương về các quyền tự do do Vua John ban hành tại Anh vào năm 1215 dưới áp lực của giới quý tộc. Được xem là một biểu tượng chống áp bức, bản hiến chương này cũng là một trong những nguồn gốc sớm nhất của Hiến pháp Hoa Kỳ. Magna Carta có ảnh hưởng rất lớn đến luật pháp của các nước Anglo-Saxon, nhất là nội dung liên quan đến Lệnh định quyền giam giữ (writ of habeas corpus). Lệnh định quyền giam giữ là một lệnh triệu tập có hiệu lực như một lệnh tòa án được gửi đến người đang giam giữ (vd: một viên chức của nhà tù), yêu cầu phải đưa người bị giam giữ (tù nhân) ra trước tòa án cùng với những bằng cớ để tòa xác định xem người giam giữ có quyền hợp pháp để bắt giam hay không, nếu không thì phải trả tự do ngay cho người đó. Người bị bắt giam hay một người khác nhân danh người đó có quyền thỉnh cầu tòa án hay một thẩm phán phát hành lệnh định quyền giam giữ. Quyền thỉnh cầu để có được một lệnh định quyền giam giữ từ lâu đã nổi tiếng là cách bảo vệ tốt nhất đối với quyền tự do của cá nhân.

[27] Các quy định cơ bản (The Fundamental Orders) được Thuộc địa Connecticut công nhận vào năm 1638. Các quy định này mô tả cơ cấu của chính quyền tự quản của các thị trấn trên bờ sông Connecticut. Nó có những đặc điểm của một bản hiến pháp thành văn và được một số học giả coi là bản hiến pháp thành văn sớm nhất trong truyền thống phương Tây.

[28] Tuyên bố chung Helsinki (Helsinki Final Act): còn gọi là Tuyên bố Helsinki (Helsinki Declaration) hay Thỏa ước Helsinki (Helsinki Accords): là bản Tuyên bố chung của Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu (Conference on Security and Co-operation in Europe) năm 1975 họp tại Helsinki (thủ đô Phần Lan). Được ký bởi 35 quốc gia (Mỹ, Canada và tất cả các nước châu Âu chỉ trừ Albania và Andorra) vào ngày 1.8.1975, bản Tuyên bố này lúc đầu được coi là một nỗ lực làm giảm căng thẳng giữa phương Tây với khối Cộng sản. Nhưng trong thực tế, nó không giải thể được cả NATO lẫn Liên minh quân sự Varsaw. Điều bất ngờ nhất xuất phát từ bộ khuyến cáo thứ ba (thường được gọi là giỏ thứ ba, basket III) liên quan đến vấn đề nhân quyền. Chính những khuyến cáo này là nguồn gốc của sự hình thành một số tổ chức phi-chính phủ và phi-lợi nhuận nhằm theo dõi vấn đề nhân quyền trong các nước cộng sản và trên thế giới. Một trong những tổ chức nổi tiếng nhất là Quan sát Helsinki (Helsinki Watch) ra đời vào năm 1978, đến năm 1988 trở thành Human Rights Watch (« Tổ chức theo dõi nhân quyền » hoặc « Tổ chức quan sát nhân quyền », HRW) – một tổ chức thường bị báo chí chính thống của Việt Nam gán cho cái âm mưu là « hoạt động chống phá Việt nam », mặc dù phạm vi họat động của họ không nhằm vào riêng Việt Nam mà nhằm vào tất cả các nước trên thế giới. Vào ngày 2 tháng 3 năm 2005, HRW đã đệ đơn kiện Donald Rumsfeld (bộ trưởng quốc phòng Mỹ lúc đó) tại tòa án tại Illinois, cáo buộc Rumsfeld đã cố tình dung túng cho việc tra tấn trong các trại giam của quân đội Hoa Kỳ.

[29] Indonesia, Singapore và Malaysia là những ví dụ cho các chế độ độc đoán đang tự do hóa (liberalizing autocracies), trong khi Nam Hàn, Đài Loan và Thailand là các chế độ nửa-dân chủ có tính tự do (liberal semi-democracies). Cả hai nhóm này, dầu sao, cũng có nhiều tính tự do hơn là tính dân chủ, đây cũng là đặc điểm đúng với trường hợp dân chủ tự do duy nhất trong vùng là Nhật Bản. Papua New Guinea và ở mức độ kém hơn là Philippines chỉ là các ví dụ của nền dân chủ phi tự do (illiberal democracy) ở Đông Á. (F.Z.)

[30] Larry Diamond, "Democracy in Latin America," in Tom Farer, ed., Beyond Sovereignty: Collectively Defending Democracy in a World of Sovereign States. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1996, p. 73. (F.Z.)

[31] Myron Weiner, "Empirical Democratic Theory," in Myron Weiner and Ergun Ozbudun, eds., Competitive Elections in Developing Countries. Durham: Duke University Press, 1987, p. 20. Hiện nay tuy có những nền dân chủ đang vận hành trong Thế giới Thứ ba không phải là cựu thuộc địa của Anh, nhưng đa số các nền dân chủ đó đều là cựu thuộc địa của Anh. (F.Z.)

[32] Ngụ ý của tác giả là ta có thể chọn Antigua (nơi có nhiều quyền tự do) hơn là chọn Haiti (nơi ít quyền tự do).

[33] John Stuart Mill, On The Liberty, 1859, chap.1–Introductory. Trong khi trích câu này, Zakaria đã sử dụng «a response» (sự đáp trả) thay cho « a resource » (một nguồn lực) trong nguyên văn.

[34] Alexandr Lukashenko (hay Alexander Lukashenko) (sinh 1954): cựu đảng viên cộng sản, từ 1992 là chính trị gia độc lập, không đảng phái; Tổng thống Belarus (Bạch Nga) từ 20.7.1994 đến nay. Trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, ông từng là sĩ quan quân đội, giám đốc nông trường, giám đốc nhà máy. Nổi tiếng là một nhân vật chống tham nhũng, khi bản hiến pháp mới của Belarus cho phép bầu cử Tổng thống một cách dân chủ vào tháng 7 năm 1994, với khẩu hiệu dân túy « đánh bại mafia », Lukashenko thắng trong vòng hai của cuộc bầu cử với 80,1% số phiếu bầu. Sau nhiệm kỳ đầu tiên (1994-2001), ông lại thắng cử một nhiệm kỳ thứ hai (2001-2006) với 75.65% số phiếu ngay từ vòng 1. Năm 2004, sau một cuộc trưng cầu dân ý cho phép gỡ bỏ hạn chế về nhiệm kỳ tổng thống, Lukashenko lại ra ứng cử một nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2006, và thắng với số phiếu áp đảo 84,2%. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các quyền tự do về ngôn luận, báo chí, hội họp, biểu tình của Belarus ngày càng bị thắt chặt và trấn áp. Kết quả của các cuộc bầu cử năm 2001 và 2006 đều bị các tổ chức đối lập trong nước và nhiều tổ chức quan sát quốc tế cho là gian lận. Cựu bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Condoleezza Rice miêu tả chế độ của Lukashenko là « chế độ độc tài cuối cùng ở châu Âu » mặc dù ông này đã được bầu bởi đa số phiếu qua ba cuộc bầu cử tổng thống liên tiếp với nhiều ứng cử viên cạnh tranh.

[35] Federalist Papers (Văn tập Federalist): nguyên là 85 bài báo do Alexander Hamilton, James Madison, và John Jay viết (với cùng bút danh là Publius) nhằm vận động dân chúng thông qua bản dự thảo Hiến pháp Hoa Kỳ. Các bài báo đăng trên một số tờ báo tại New York, từ tháng 10/1787-tháng 08/1788, bàn về bản chất và các nguyên tắc của chính quyền cộng hòa, về sau được tập hợp lại thành một cuốn sách lấy tên là The Federalist. Sau này Thomas Jefferson đánh giá The Federalist là “cuốn bình luận xuất sắc nhất từng có về các nguyên lý của chính quyền”.

[36] Alberto Fujimori (sinh năm 1938): chính trị gia người Peru gốc Nhật Bản, là Tổng thống Peru từ tháng 7 năm 1990 đến tháng 11 năm 2000. Là một khuôn mặt gây tranh cãi, ông được tín nhiệm vì đã đánh bật gốc chủ nghĩa khủng bố ở Peru cũng như đã phục hồi được sự ổn định kinh tế trên phạm vi vĩ mô, nhưng mặt khác ông lại bị lên án vì đã sử dụng những phương pháp độc đóan và vi phạm nhân quyền. Cuối năm 2000, đối diện với một vụ tai tiếng về tham nhũng, ông trốn sang Nhật Bản, tuyên bố từ chức và sống lưu vong ở đó. Quốc hội Peru đã bác bỏ tuyên bố từ chức của ông và thông qua một quyết định phế truất Tổng thống, đồng thời phát lệnh truy nã Alberto Fujimori trên lãnh thổ Peru về tội tham nhũng và vi phạm nhân quyền Tháng 11 năm 2005, ông bị bắt giữ nhân một chuyến đi thăm Chile và đến tháng 9 năm 2007, bị dẫn độ về Peru để chịu xét xử về tội vi phạm nhân quyền. Ngày 7.4.2009, Fujimori bị kết án 25 năm tù vì vi phạm nhân quyền do trách nhiệm của ông trong những vụ ám sát và bắt cóc mà “biệt đội tử thần” Grupo Colina đã thực hiện trong cuộc chiến chống lại các du kích quân cánh tả vào thập niên 1990. Trước đó, vào tháng 12 năm 2007, trong một phiên tòa khác, ông đã bị kết án 6 năm tù vì tội lạm dụng quyền lực.

Bản án ngày 7.4.2009 đánh dấu sự kiện lần đầu tiên một nguyên thủ quốc gia được bầu lên một cách hợp pháp đã bị dẫn độ trở về nước và bị xét xử, kết án về những vi phạm nhân quyền.

[37] Askar Akayevich Akayev (sinh 1944): Tổng thống của Kyrgyzstan từ 1990 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 3 năm 2005 trong cuộc Cách mạng Hoa Tulip (Tulip Revolution).

Xuất thân là một công nhân luyện kim, Akayev phấn đấu trở thành một nhà khoa học hàng đầu của đất nước. Là chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học Kirghiz (1989), nhà khoa học này không mấy quan tâm đến chính trị mãi cho đến khi ông bất ngờ được Xô-viết Tối cao (tức Quốc hội) chọn làm Tổng thống nước Cộng hòa Xô-viết Kirghiz vào ngày 27.10.1990. Tháng 12 năm 1990, Xô-viết Tối cao Kirghiz quyết định đổi tên nước thành nước Cộng hòa Kyrgyzstan (năm 1993 lại đổi tên thành Cộng hòa Kyrgyz). Sau cuộc đảo chính bất thành ở Liên Xô (tháng 8 năm 1991), Kyrgyzstan tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên Xô. Akayev được bầu làm tổng thống của quốc gia mới độc lập trong một cuộc bầu cử trực tiếp không có cạnh tranh vào ngày 12.10.1991. Ông được tái cử vào chức vụ Tổng thống hai lần nữa (năm 1995 và năm 2000).

Trong thời gian đầu, Akayev tích cực thực hiện chính sách tư hữu hóa và một đường lối chính trị phóng khoáng, được đánh giá là tổng thống dân chủ nhất trong các nước Trung Á. Dần dần, do tác động của các yếu tố bên ngoài và bên trong, đường lối chính trị của ông ngày càng trở nên cứng rắn. Lòng say mê quyền lực và chủ nghĩa gia đình trị (nepotism) đã làm hư hỏng chế độ chính trị. Cuối 2002, trước những cuộc biểu tình đòi Tổng thống từ chức, Akayev hứa sẽ không tìm cách tiếp tục ứng cử khi nhiệm kỳ của ông chấm dứt vào tháng 10.2005. Nhưng kết quả bầu cử cơ quan lập pháp đầu năm 2005 khiến công chúng nghi ngờ có một âm mưu gian lận để duy trì quyền lực của gia đình Akayev, do đó nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra. Ngày 24.3.2005, những người biểu tình xông vào trụ sở của chính quyền ở thủ đô Bishkek và nắm quyền kiểm sóat ở thủ đô cũng như ở các thành phố quan trọng. Cùng ngày, Akayev trốn sang nước láng giềng Kazakhstan và sau đó đến nước Nga – nơi đây ông được Tổng thống Vladimir Putin đồng ý cho cư trú. Ngày 4.4.2005, Akayev chính thức xin từ chức Tổng thống khi một phái đoàn của Quốc hội từ Kyrgyzstan đến gặp ông tại Nga. Một tuần sau đó, Quốc hội Kyrgyz chấp thuận đề nghị từ chức, sau khi đã tước bỏ mọi đặc quyền của Akayev và gia đình mà Quốc hội khóa trước đã ban tặng.

Hiện nay Akayev vẫn đang giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Lomonosov ở Moskva (M. V. Lomonosov Moscow State University).

[38] Trong chế độ nghị viện (parliamentary system), một đảng không đạt đủ đa số phiếu sẽ phải liên minh với một hay vài đảng khác để thành lập một chính phủ liên hiệp. Chính phủ này được gọi là chính phủ thiểu số.

[39] Populist: Các chính trị gia chú tâm lấy lòng tầng lớp dân thường, nghèo, ít hiểu biết. Tổng thống Iran hiện nay, Mahmoud Ahmadinejad, được các nhà chính trị học và giới báo chí đánh giá là một nhà dân túy.

[40] Chính đáng = legitimate, legitimacy khác với hợp pháp = legal, legality. Hai từ “legitimate” và “legal” có khi trùng ý nghĩa, nhưng trong chính trị học lại có chỗ khác nhau. Một chính quyền chính đáng đương nhiên là hợp pháp, nhưng một chính quyền hợp pháp có khi lại không phải là chính đáng.

[41] Ở Thụy Điển, từ cấp làng xã (härad, hundred) cho đến cấp tỉnh (land, province) đều có các hội nghị (thing hay ting, assembly) – nơi người dân địa phương hội họp để bàn các công việc ở địa phương.

[42] Arthur M. Schlesinger, Sr. (1888-1965), nhà sử học người Mỹ, giáo sư tại Đại học Havard. Con trai ông là Arthur M. Schlesinger, Jr. (1917-2007), cũng là một nhà sử học Mỹ và đã từng là phụ tá đặc biệt của Tổng thống John F. Kennedy từ năm 1961 cho đến khi Kennedy bị ám sát .

[43] Arthur Schlesinger, Sr., New Viewpoints in American History. New York: Macmillan, 1922, pp. 220-40. (F.Z.)

[44] Trong thực tế, người kế nhiệm của Yeltsin (tức Putin) chẳng những đã lạm dụng quyền lực đó mà còn nâng cấp nó lên một bước nữa: bản thân ông ta giữ chức vụ nào thì chức vụ đó lập tức trở thành siêu – quyền lực.

[45] Robert Oxton Bolt (1924 –1995) là một nhà viết kịch người Anh hai lần đoạt giải Oscar về viết kịch bản. Vở kịch “Con người của mọi thời” (tên trong tiếng Pháp là “Con người vĩnh cửu, Un homme pour l'éternité) là một kịch bản viết cho đài phát thanh BBC vào năm 1954, nhưng sau đó được viết lại để dựng kịch, và được công diễn lần đầu vào năm 1960. Cốt truyện dựa trên một chuyện có thật về Sir Thomas More, Tể tướng của nước Anh vào thế kỷ 16, người không ủng hộ Vua Henry VIII trong việc ly dị với người hoàng hậu già nua Catherine of Aragon – người không đẻ cho ông một đứa con trai, để có thể cưới Anne Boleyn, em của một tình nhân cũ của nhà vua. Vở kịch miêu tả More như một con người nguyên tắc – một người được các đối thủ như Thomas Cromwell phải ghen tị và được người dân thường cũng như gia đình yêu mến. Bị xử tử hình năm 1535, Thomas More được tuyên phúc vào năm 1886 và được phong thánh vào năm 1935. Thomas More cũng chính là tác giả của tác phẩm nổi tiếng Utopia (Vùng đất không tưởng, bản dịch tiếng Việt của Trịnh Lữ có nhan đề Địa đàng trần gian. Nxb Hội nhà văn, 2007). William Roper, người đối thọai với More trong đọan này là con rể của More, cũng là tác giả của một cuốn tiểu sử viết về cuộc đời của Thomas More.

[46] Jack Lang (sinh 1939): chính trị gia người Pháp, đảng viên đảng Xã hội Pháp (Parti socialiste). Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1981-1986, 1988-1992), bộ trưởng Giáo dục Pháp (1992-93, 2000-2002).

[47] Slobodan Milošević (1941-2006): lãnh tụ cộng sản người Serbia, Tổng thống Serbia (1989-1997), sau đó là Tổng thống Nam tư (1997-2000). Từ chức Tổng thống giữa lúc có phong trào biểu tình xảy ra sau cuộc bầu cử tổng thống năm 2000. Ngày 31.3.2001, ông bị nhà cầm quyền Nam tư bắt giam vì tình nghi phạm tội tham nhũng và lạm quyền. Ông cũng bị Tòa án Tội phạm Quốc tế về Nam Tư cũ (International Criminal Tribunal for the former Yugoslavia) – một tiểu ban của Liên Hiệp Quốc, kết tội diệt chủng, và bị đưa ra xét xử tại Tòa án Hague (La Haye). Milošević tự bào chữa, nhưng phiên tòa kết thúc mà không có bản án vì ông chết vì đau tim trong quá trình xét xử - kéo dài gần 5 năm.

[48] Alvin Rabushka and Kenneth Shepsle, Politics in Plural Societies: A Theory of Democratic Instability. Columbus: Charles E. Merill, pp. 62-92; Donald Horowitz, "Democracy in Divided Societies," in Larry Diamond and Mark F. Plattner, eds., Nationalism, Ethnic Conflict and Democracy. Baltimore: The Johns Hopkins University Press, 1994, pp. 35-55. (F.Z.)

[49] Tức là những nền dân chủ dựa trên tự do hiến định.

[50] Thucydides (khỏang 460-395 trước công nguyên): nhà sử học Hy Lạp, tác giả của Lịch sử chiến tranh vùng Peloponnese (History of the Peloponnesian War).

[51] Niccolò Machiavelli (1469-1527): Chính khách, nhà văn người Ý, tác giả của tác phẩm nổi tiếng The Prince (Quân vương), được xem như một trong những người đặt nền móng cho triết học lịch sử và khoa học chính trị hiện đại.

[52] John Emerich Edward Dalberg-Acton, Đệ nhất Nam tước Acton (1834–1902), thường được biết với cái tên đơn giản là Huân tước Acton (Lord Acton): Xuất thân từ một gia đình theo Công giáo La Mã, Acton ngay từ lúc còn trẻ đã có một tình yêu sâu xa đối với nghiên cứu sử học – với chức năng là một công cụ phê bình. Trong lĩnh vực chính trị, ông là một nhà tự do (liberal) nhiệt thành, là bạn thân và là người thường xuyên trao đổi thư từ với William Gladstone (1809-1898) - lãnh tụ của Đảng Tự do (Liberal Party), bốn lần làm Thủ tướng nước Anh. Acton cũng thường lui tới các trung tâm trí thức ở châu Âu và ở Hoa Kỳ, và có nhiều người bạn rất nổi tiếng - trong đó có Alexis de Tocqueville. Năm 1895, ông được Hòang gia Anh bổ nhiệm vào chức vụ giáo sư môn Lịch sử hiện đại tại Đại học Cambridge. Bộ Lịch sử Hiện đại của trường Cambridge (Cambridge Modern History) đã được dàn dựng theo kế hoạch biên tập của ông, mặc dù ông qua đời trước khi bộ sách hòan thành. Acton viết không nhiều, di sản về học thuật của Acton chủ yếu nằm trong các bài giảng ở đại học, nhiều bài đã được sưu tập và xuất bản sau khi ông qua đời, nhưng thông qua những bài viết và bài giảng của mình, Lord Acton gây ảnh hưởng lớn lao đến quan niệm hiện đại về tự do. Kiên quyết bảo vệ quyền của cá nhân, ông cho rằng sự tập trung quyền lực là có hại cho cả Giáo hội Công giáo lẫn nhà nước. Có một câu được trích trong một lá thư của ông: «Quyền lực có xu hướng hư hỏng, và quyền lực tuyệt đối thì hư hỏng một cách tuyệt đối» (Power tends to corrupt, and absolute power corrupts absolutely), ngày nay đã trở thành một câu cách ngôn quen thuộc trên tòan thế giới.

[53] Bernard Lewis, "Why Turkey Is the Only Muslim Democracy", Middle East Quarterly, March 1994, pp. 47-48. (F.Z.)

[54] Có một số trường phái chính trị đề cao dân chủ trực tiếp (trong đó có những người mác-xít, là những người lên án gay gắt hình thức dân chủ đại diện). Nhưng theo quan điểm của tác giả, các hình thức dân chủ trực tiếp (direct democracy) không phải là hay, vì số đông thường là chỗ dựa để người được bầu lên tước đọat quyền của tất cả. Hơn nữa số đông khi thiếu kiến thức về chính trị, xã hội sẽ rất dễ bị mua chuộc bởi những chính trị gia xảo quyệt.

© Thông Luận 2009

Tổng số lượt xem trang