“… Điều tủi nhục cho dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng lừng danh khắp thế giới - cuối cùng lại là dân tộc bị kềm kẹp nặng nề nhất, không có được một chút quyền dân chủ tự do (ngôn luận, báo chí, tư tưởng, quan điểm, mít tinh, biểu tình, đình công...)…”
A. Dân chủ tự do là thước đo chính xác về lòng trung thành của ĐCSVN đối với dân tộc mìnhXã hội văn minh là xã hội dân chủ tự do. Ngược lại chính dân chủ tự do càng thúc đẩy nền văn minh phát triển. Vì vậy dân chủ tự do trở thành xu thế tất yếu của thời đại và là yêu cầu không thể thiếu được của xã hội loài người. Do đó, đối với dân tộc Việt Nam hiện nay, dân chủ tự do càng cấp bách hơn bất cứ lúc nào hết. Dân chủ tự do là một trong những yếu tố căn bản nhất tạo nên định hướng chiến lược của Việt Nam. Vậy vấn đề dân chủ tự do từ trước tới nay ở Việt Nam ra sao?
Từ khi ra đời năm 1930 đến năm 1945 (cách mạng tháng 8), Đảng cộng sản Việt Nam hoạt động chủ yếu trong điều kiện bí mật, bất hợp pháp mặc dù trong hoàn cảnh thời gian nào đó, có một bộ phận của Đảng hoạt động công khai, bán công khai. Nhưng có điều xuyên suốt trong quá trình dài đó, Đảng cộng sản Việt Nam - người biết rõ khát vọng lớn lao về độc lập và dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam trên một thế kỷ làm nô lệ cho chủ nghĩa đế quốc (Pháp, Nhật, Mỹ) - đã luôn luôn phát động phong trào đấu tranh rộng rãi của các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn đòi dân chủ tự do gắn liền với cuộc đấu tranh đòi và bảo vệ lợi ích của quần chúng; cụ thể là đấu tranh đòi tự do ngôn luận, tự do báo chí, xuất bản, tự do hội họp, tự do lập hội, lập nghiệp đoàn, tự do đi lại, xuất dương (ra nước ngoài), tự do kết hôn, nam nữ bình đẳng, tự do biểu tình, tự do đình công... coi dân chủ tự do là vũ khí sắc bén để bảo vệ lợi ích quần chúng; đồng thời là động lực phát triển phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng chống áp bức bóc lột, bất công. Ngay trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ (1955-1975), ở các cùng tạm chiếm (địch hậu) như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng v.v., Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn phát động quần chúng đấu tranh chống kềm kẹp, áp bức, đòi dân chủ, dân sinh kết hợp với đấu tranh võ trang cho đến khi kháng chiến thắng lợi. Tại Sài Gòn - trung tâm đầu não của các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trước đây - bất chấp khủng bố, đàn áp dã man, quần chúng nhân dân thành phố liên tục vùng lên đấu tranh chống các chính quyền độc tài, phát xít, tay sai của đế quốc, đòi dân chủ tự do bằng hội thảo, báo chí bán công khai, bằng mít tinh biểu tình, đình công thậm chí bằng tự thiêu (của tín đồ Phật giáo). Do đó, đối với nhân dân Việt Nam nói chung đặc biệt với nhân dân Miền Nam (bao gồm thanh niên, phụ nữ, sinh viên, học sinh, trí thức, văn nghệ sĩ, công nhân lao động, nông dân, tín đồ Phật giáo, Công giáo và các từng lớp khác) nói riêng, vấn đề tự do dân chủ không phải là điều gì xa lạ đối với họ; mà ngược lại chính dân chủ tự do đã thấm vào xương, vào máu của nhân dân Việt Nam, đã trở thành giá trị thực sự được tạo ra bằng sự hy sinh lớn lao, dai dẳng thông qua thực tiễn đấu tranh ngoan cường, mặt giáp mặt với quân thù của dân tộc Việt Nam suốt 45 năm chiến đấu cách mạng. Đó là cái giá rất đắt phải trả cho một giá trị - giá trị dân chủ tự do. Điều đó có nghĩa là giá trị ấy tuyệt đối không thể biến thành đặc ân của bất cứ ai.
Thế nhưng, từ sau thắng lợi lẫy lừng Điện Biên Phủ (1954) và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975), đất nước Việt Nam đi vào con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam thì bốn chữ: Dân chủ-Tự do và cuộc đấu tranh cho dân chủ tự do dần dần bị lu mờ và tắt lịm; vì lúc bấy giờ, mọi người đều được giáo dục rằng: trong chủ nghĩa xã hội, mọi vấn đề đều có sự lãnh đạo của Đảng, mọi thứ đều tốt cả, nên không cần có đấu tranh của quần chúng. Đấu tranh của quần chúng chỉ tồn tại trong xã hội cũ - xã hội thuộc địa. Trong chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhân dân là một; giữa Đảng và nhân dân không thể có ý kiến, quan điểm khác nhau, không có đối lập, đối kháng, nên không thể có đấu tranh, đình công, biểu tình. Do đó, trong chủ nghĩa xã hội không có vấn đề đấu tranh cho dân chủ tự do vì chế độ xã hội chủ nghĩa (chuyên chính vô sản) là chế độ "dân chủ một triệu lần hơn chủ nghĩa tư bản " (?)
B. Chủ nghĩa xã hội không thể công nhận có đấu tranh của quần chúng
Song, thực tiễn thì rất phức tạp, luôn luôn vận động theo qui luật và không hề diễn biến theo xét đoán chủ quan của con người. Vả lại, trong chủ nghĩa xã hội, thực tế thì có biết bao nhiêu vấn đề không tốt, không kém gì những vấn đề không tốt trong xã hội thực dân, đế quốc trước đây, thậm chí có những mặt còn nghiêm trọng, tồi tệ hơn nhiều; cụ thể là trong chủ nghĩa xã hội vẫn có những kẻ dựa vào địa vị, quyền lực mà áp bức, bóc lột quần chúng,cướp đất, cướp nhà, trấn áp, uy hiếp, trù dập quần chúng, bắt bớ giam cầm họ một cách phi pháp; xã hội dẫy đầy bất công tham nhũng, ăn hối lộ "tràn đồng"; thất nghiệp, ăn mày, làm đĩ nhan nhãn; giết người cướp của lộng hành; đồng lương chết đói kéo dài 15-20 năm không được cải thiện trong khi giá cả cứ tăng vùn vụt 10 lần, 20 lần...(năm 1975: 1 tô phở chỉ có 5 đồng nhưng đến năm 91-92 là 2000 đồng trở lên và mọi thứ hàng hoá khác đều tăng giá giống như vậy).
Do chính sách độc tài, do bị kềm kẹp nặng nề và sợ bị "chụp mũ", bị trấn áp nên quần chúng nhân dân ngán ngại đấu tranh đòi và bảo vệ quyền lợi bức bách của mình như vấn đề tiền lương, giá cả, thuế khoá, nhà ở, ruộng đất, sa thải, thất nghiệp, tham nhũng, hối lộ, bắt bớ giam cầm trái phép, v.v... và đành phải im hơi lặng tiếng, cam chịu lầm than cơ cực, sống cuộc đời nô lệ như xưa kia mặc dù vẫn mang danh là công dân của nước Việt Nam "xã hội chủ nghĩa".
Rõ ràng ở Việt Nam - đất nước của một dân tộc anh hùng - chỉ có độc lập (không còn bị nước ngoài thống trị), chớ không hề có dân chủ tự do, đặc biệt về chính trị, tư tưởng, mặc dù nhân dân Việt Nam đã chịu hy sinh hàng triệu người cho cuộc đấu tranh lâu dài vì độc lập dân tộc, vì dân chủ tự do và vì ấm no hạnh phúc (tuy về kinh tế với chính sách đổi mới gần đây, người nông dân được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và người sản xuất kinh doanh được tự do hoạt động theo ngành nghề của họ).
C. Hậu quả gì khi các quyền dân chủ tự do của nhân dân bị tước đoạt?
Ai cũng biết rằng độc lập dân tộc, dân chủ tự do, ấm no hạnh phúc là những nội dung, yêu cầu rất quan trọng mang tính chất chiến lược tuy nó có khác nhau nhưng lại quyện chặt vào nhau trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân Việt nam - cuộc kháng chiến cứu nước trường kỳ và toàn thắng. Chính vì lẽ đó mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lời giáo huấn sâu sắc là: “Không có gì quí hơn độc lập tự do", có độc lập mà không có tự do ấm no hạnh phúc thì độc lập cũng vô nghĩa. Nhưng điều khó hiểu là những người kế tục sự nghiệp cao cả của cụ Hồ, một mặt luôn luôn đề cao tư tưởng Hồ Chí minh, mặt khác thì lại vô hiệu hoá lời dạy ấy của Cụ, đã tách dân chủ tự do khỏi nội dung độc lập dân tộc. Cho nên ở Việt Nam, như đã nói trên chỉ có độc lập dân tộc chứ không có dân chủ tự do là như thế đó.
Chính Đảng cộng sản Việt Nam đã tước đoạt của nhân dân các quyền tự do mà nhân dân đã từng trả giá quá đắt - thứ vũ khí mà nhân dân phải có để bảo vệ lợi ích của mình khi nó bị vi phạm bất cứ trong hoàn cảnh nào. Dân chủ tự do bị chà đạp, vũ khí tự vệ bị tước đoạt thì nhân dân giống như những người bị xiềng xích, bị bịt tai, bịt mắt, khớp miệng và tất nhiên gần 70 triệu người Việt Nam không thể không biến thành tù binh của Đảng cộng sản Việt Nam.
Trên khắp thế giới sau thắng lợi của cách mạng và khi đã cầm quyền rồi, các Đảng cộng sản (Liên xô, Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Đông Ấu cũ, Cuba,...) đều trở thành các đảng độc tài, chuyên chế, phản dân chủ. Cho nên, các Đảng nói trên rất sợ dân chủ tự do, sợ nói đến dân chủ, sợ đối thoại với quần chúng và luôn luôn sẵn sàng đàn áp những quan điểm tư tưởng trái với mình, đàn áp những yêu sách về dân chủ của quần chúng mặc dù hằng ngày trên miệng của người lãnh đạo đảng luôn nói về "quyền làm chủ của nhân dân", trong khi trên thực tế, các quyền dân chủ tự do của công dân như hiến pháp qui định đã bị chà đạp trắng trợn thì lấy gì để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối với đất nước xã hội (làm chủ khác hẳn với làm theo lịnh của cấp trên).
Khi nói đến nhân dân quần chúng là phải nói đến vấn đề dân chủ. Chỉ có thông qua việc thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của nhân dân thì người lãnh đạo mới thiết lập được mối liên hệ chân chính giữa mình với nhân dân quần chúng. Nhân dân bị kiềm kẹp, không được quyền tự do bộc lộ ý kiến tư tưởng, quan điểm, tâm tư nguyện vọng của mình mặc dù có thể nó không phù hợp với quan điểm của lãnh đạo thì làm sao giải thích được rằng đất nước này đã có dân chủ tự do ?
D. Ai khác ý kiến quan điểm thì bị quy chụp trấn áp
Phải chăng Việt Nam đã có "dân chủ tự do" khi mà một uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (khoá 6) Trần Xuân Bách chỉ vì phát biểu ý kiến về vấn đề đa nguyên chính trị (dân chủ-công khai-đa đảng) thì lập tức bị lên án, bị cách chức ngay? Hay như ông Bùi Tín - Phó tổng biên tập báo Nhân Dân (cơ quan trung ương của ĐCSVN) phải tìm cách ra nước ngoài để được tự do phát biểu ý kiến của mình về chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam với nhân dân cả nước và thế giới?
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi nữ văn sĩ Dương Thu Hương phát biểu ý kiến phản đối chuyên chính vô sản, độc quyền lãnh đạo của ĐCSVN, đòi thi hành dân chủ tự do thì bị qui là "phản động" và bị khai trừ khỏi Đảng, bị bắt, bị giam (sau một thời gian thì được trả tự do nhờ có sự can thiệp của tổ chức nhân quyền quốc tế)? hoặc như Ông Nguyễn Thành Thơ ( Mười Thơ) - nguyên chủ tịch hội nông dân tập thể Việt Nam - bị quản thúc mấy năm liền chỉ vì Ông quyết tâm đấu tranh đòi Đảng và nhà nước trả lại ruộng đất (đã hợp tác hoá) cho người nông dân để họ được tự do canh tác trên mãnh đất của mình và được cơm no áo ấm?
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi Đảng cộng sản Việt Nam làm áp lực buộc hai Đảng Dân Chủ và Xã Hội - bạn đường kháng chiến mấy mươi năm của mình phải tuyên bố tự giải tán "vì đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử" trong lúc nhân dân khắp thế giới đang vùng lên đấu tranh phá tan các chuyên chế độc tài và thành lập nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng ? hay như trường hợp của Ông Bảy Triển - Phó giám đốc đài truyền hình Cần Thơ - bị cách chức và cho nghỉ hưu chỉ vì ông đã làm tốt chức năng thông tin của mình, tường thuật đầy đủ trong 7 đêm liền diễn biến của phiên toà xét xử Dương văn Ba (cán bộ kinh tế của tỉnh) tại tỉnh Minh Hải (đầu năm 1990) và phiên toà được lãnh đạo đánh giá là "xét xử đúng đắn"? (vì lãnh đạo chỉ cho phép đưa tin về kết qủa xét xử, tuyên án chớ không cho phép tường thuật toàn bộ diễn biến của phiên toà. Vả lại, đông đảo nhân dân và cán bộ nghỉ hưu Đồng bằng Cửu Long phản đối phiên toà và đã có đơn tập thể khiếu nại, đòi xét xử lại).
Phải chăng đó là dân chủ tự do khi những người kháng chiến thời kỳ ở Sài Gòn không được quyền lập Hội những người kháng chiến mà chỉ được phép lập Câu lạc bộ thôi, không được quyền hội thảo chống tiêu cực, không được quyền làm mít tinh kỷ niệm ngày truyền thống (Nam Bộ kháng chiến), báo Truyền thống kháng chiến bị tịch thu và bị đình bản, Câu lạc bộ những người kháng chiến thành phố Hồ Chí Minh bị cấm hoạt động và cuối cùng nhiều cán bộ của Câu lạc bộ những người kháng chiến TP kể cả chủ nhiệm bị bắt, bị giam, bị quản thúc (từ đầu năm 1990) thậm chí nhiều người có quan hệ tốt với CLB những người kháng chiến thành phố (đọc báo "truyền thống kháng chiến", dự hội thảo...) ở các tỉnh Sông Bé, Tiền Giang, Cửu Long, Hậu Giang,...cũng bị khủng bố, đàn áp?
E. Đảng Cộng Sản Việt Nam phát động đấu tranh "chống đa nguyên, đa đảng"
Không phải vì dân tộc, đất nước mà chính vì sợ mất vai trò lãnh đạo và đặc quyền, đặc lợi của cá nhân hoặc một nhóm người lãnh đạo mà Đảng cộng sản Việt Nam đã chà đạp thô bạo hiến pháp của nước CHXHCN Việt nam, biến nó thành một thứ trang trí, không có giá trị thực tiễn trong việc bảo vệ dân chủ tự do và lợi ích của công dân; ra sức chống lại quyết liệt những đòi hỏi về các quyền dân chủ tự do của nhân dân dưới chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" để hù hoạ trước hết trong nội bộ Đảng và sau đó trong đông đảo quần chúng rằng "đa nguyên, đa đảng là một quan điểm rất nguy hiểm, chống Đảng, chống cách mạng, chống chủ nghĩa xã hội của bọn phản động "nhằm siết chặt đội ngũ cán bộ, đảng viên tạo thêm sức mạnh để chống "đa nguyên, đa đảng" và làm cho quần chúng ngán ngại quan điểm nói trên. Việc làm đó nhắm vào 2 mục tiêu: một mặt, nó cô lập cao độ và làm suy yếu lực lượng đấu tranh cho dân chủ tự do của cả nước; mặt khác nó che đậy khéo léo bản chất độc tài phản dân chủ của Đảng cộng sản.
Tất nhiên, sự hù doạ ấy có tác dụng lôi kéo những người nhẹ dạ, khiếp đảm, kém hiểu biết, ngả về phía độc tài chuyên chế, phản dân chủ, nhưng nó không thể lung lạc được những người trung thực, hiểu biết, có đầu óc dân chủ.
Để bảo vệ chế độ độc tài, chuyên chế, phản dân chủ ấy trong nền kinh tế thị trường phồn vinh (kinh tế tư bản mà Đảng cộng sản Việt Nam buộc phải chấp nhận để cứu lấy mình), người ta đưa ra lập luận để thực hành rằng Việt Nam có đặc điểm riêng là một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí kém nên không thể thiết lập một chế độ dân chủ tự do rập khuôn như ở các nước phương Tây. Do đó Đảng cộng sản Việt Nam thông qua Ông Võ Văn Kiệt - đang là chủ tịch Hội đồng bộ trưởng - chánh thức mời Ông Lý Quang Diệu (cựu thủ tướng Xinh-ga-po) sang làm cố vấn cho Việt Nam (gần cuối năm 1992) không những về kinh tế mà cả về chính trị. Điều đó có nghĩa là Việt Nam sẽ làm theo mô hình Xinh-ga-po: thiết lập nền kinh tế thị trường phồn vinh nền chính trị chuyên chế độc tài, phản dân chủ. Thật là đáng tủi nhục cho dân tộc Việt Nam với gần 70 triệu người và với một lịch sử chiến đấu oai hùng mà thế giới đều biết và khâm phục, ngày nay lại được so sánh và xếp hạng về chính trị nganh hàng với Xinh-ga-po (với non 3 triệu dân và với một lịch sử bình thường). Từ đó cho thấy rằng xuyên qua tầm nhìn của Đảng cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt Nam lại chưa có trình độ và chưa xứng đáng được quyền hưởng một chế độ dân chủ tự do đúng nghĩa đầy đủ của nó, mặc dù họ đã hy sinh quá lớn lao, máu chảy, đầu rơi,núi xương, sông máu cũng chính là vì dân chủ, tự do.
Quyết định một vấn đề rất quan trọng liên hệ đến vận mạng của dân tộc, đất nước như nói trên mà không cần trưng cầu ý dân lại chủ yếu vẫn làm theo phương thức độc đoán, độc tài; rõ ràng Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay khinh rẻ dân tộc Việt Nam cỡ nào! Nhưng cả nước lại im lặng, có phải là đồng tình không? Hay vì bị kềm kẹp quá nặng nề mà không thể cất tiếng lên được? Cho nên, trước tình hình phức tạp nầy, có nhiều người đặt ra câu hỏi: Dân chủ đa nguyên là gì ?
G. Đa nguyên: biểu tượng muôn màu muôn vẻ của mọi sự vật
Chúng ta biết rằng tạo hoá, thiên nhiên vạn vật, xã hội loài người, tất cả điều là biểu tượng của đa nguyên - tổng hợp những cái khác nhau của mọi sự vật và thúc đẩy sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Khi nói đến vũ trụ, người ta nghĩ trong đó không những có mặt trời, mặt trăng, trái đất, sao hỏa, sao kim mà còn có hàng triệu, hàng tỷ thiên hà và mỗi thiên hà có hàng triệu hàng tỷ vì sao (hành tinh) mà mắt thường của chúng ta không thể nhìn thấy rõ.
Còn nói đến sự vận động của trái đất, nó không những tạo ra ban ngày ban đêm, mặt trời mọc, mặt trời lặn, đêm sáng trăng, đêm tối như mực, bốn muà: xuân, hạ, thu, đông; mưa nắng mà cả bão lụt dông tố, hạn hán, động đất, hoạt động của núi lửa, dòng chảy dữ dội và tàn phá của dung nham; những cơn lốc rất tai hại; những đợt nước biển dâng cao kéo theo nhiều thảm hoạ, đất sụp, núi sụp...
Rừng không những ở núi cao mà còn có rừng ở thung lũng, đồng bằng và dưới nước (rừng sát). Điều chắc chắn là sự cấu tạo của rừng sát hoàn toàn khác với rừng trên núi cao. Rừng không những có nhiều loại cây rất phong phú mà còn có nhiều loại thú, loài chim khác nhau thậm chí có những loại hoa hương sắc kỳ diệu và các loại cây thuốc trị bịnh quí giá.
Có vườn hoa nào mà chỉ có một loại hoa, ít nhất phải có hàng chục, thậm chí hàng trăm loại với hàng trăm màu sắc lộng lẫy và hương thơm đậm đà quyến rũ.
Trong văn học nghệ thuật, tự do cá nhân của con người được nẫy nở bao nhiêu thì văn học nghệ thuật được nẫy nở bấy nhiêu. Chính sự nẫy nở tự do ấy tạo nên sự khác nhau - muôn màu, muôn vẻ - trong văn học nghệ thuật mà người ta thường gọi đó là sự sáng tạo đầy cá tính. Có vậy, văn học nghệ thuật mới có ý nghĩa lớn lao và không ngừng phát triển. Nếu ca hát giống nhau, âm nhạc giống nhau, viết văn giống nhau thì văn học nghệ thuật còn có ý nghĩa gì ?
Nói "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" là thừa nhận tính chất đa nguyên của mọi sự vật, của mọi lãnh vực.
Trong xã hội loài người gồm nhiều màu da, sắc tộc ở nhiều nước khác nhau trên nhiều Châu và đại dương khác nhau (Châu Á, Châu Ấu, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu Úc; Thái bình dương, Đại tây dương, Ần độ dương, Bắc băng dương); và trong một nước cũng có nhiều dân tộc, sắc tộc, nhiều tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán khác nhau: nhiều giai cấp, giai tầng, tôn giáo tín ngưỡng khác nhau và nhiều Đảng phái, tổ chức chính trị khác nhau.
Vậy tại sao ở Việt Nam cũng có nhiều dân tộc, nhiều giai cấp, giai tầng, nhiều tín ngưỡng tôn giáo, nhiều trình độ học vấn và môi trường đào tạo khác nhau,...lại chỉ được quyền tồn tại một quan điểm, một tư tưởng, một Đảng thôi ?
Trong khi đó ở khắp thế giới - 5 châu, 4 biển - đâu đâu cũng thấy có sự tồn tại và phát triển của nền chính trị đa nguyên, dân chủ đa đảng (ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Canada, Ần độ, Ang-giê-ri, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Nam Phi, các nước Bắc Ấu, Châu Mỹ la-tinh,...), đặc biệt ở Cam-pu-chia - nước láng giềng mà Việt Nam với tinh thần "quốc tế vô sản" đã hy sinh biết bao xương máu tại đây để giúp bạn "bảo vệ độc lập" và "xây dựng chủ nghĩa xã hội" - vào cuối năm 1991 đã tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa xã hội, từ bỏ chủ nghĩa độc nguyên - độc quyền lãnh đạo của Đảng - biến Đảng nhân dân cách mạng Cam-pu-chia (tức đảng cộng sản) thành đảng của nhân dân Cam-pu-chia; chủ trương thi hành chính sách hoà giải, hoà hợp dân tộc, chấm dứt chiến tranh, thực hiện hoà bình, thi hành chính sách dân chủ - đa nguyên, đa đảng và xây dựng một nền kinh tế thị trường sống động (kinh tế tư bản) ở Cam-pu-chia.
H. Người bảo vệ độc tài trở thành người bảo vệ đa nguyên.
Nhưng một thực tế trớ trêu khác lại đồng thời diễn ra trên thế giới ngày nay: những người cộng sản trong Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ), nếu trước đây họ tán thành và ra sức bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài vô sản, độc tài của Đảng cộng sản - chống quyết liệt chủ nghĩa đa nguyên chính trị (dân chủ đa đảng), chống việc hình thành lực lượng đối lập trong chánh quyền Xô Viết, xã hội chủ nghĩa thì ngày nay, sau khi Liên Bang Xô Viết và Đảng cộng sản Liên Xô (cũ), các nước xã hội chủ nghĩa và các đảng cầm quyền ở Đông Ấu (cũ) tan rã, những người cộng sản nói trên lại nhiệt liệt hoan nghinh và ra sức bảo vệ chủ nghĩa đa nguyên chính trị vì chính họ phải được tiếp tục tồn tại trên cơ sở môi trường mới này. Do đó, hiện nay, khoảng 20 triệu Đảng viên của Đảng cộng sản Liên Xô (cũ) đang tích cực tham gia không phải một Đảng mà tham gia vào hàng trăm Đảng phái và tổ chức chính trị khác nhau trong đó đa số có khuynh hướng mác-xít ở các nước cộng hoà thuộc Liên Xô (cũ) kể cả nước Nga, do họ có nhiều quan điểm, tư tưởng bất đồng, không dễ dàng thống nhất được, nhưng tất cả họ đều nổ lực hoạt động để trở thành lực lượng đối lập với chính quyền hiện hữu để góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển toàn diện đất nước và xã hội. Điều đó xác nhận rằng việc họ bảo vệ chủ nghĩa độc nguyên, độc tài của Đảng cộng sản trước đây, chẳng qua vì họ phải chịu một áp lực quá nặng nề của Đảng cộng sản Liên Xô và các Đảng cộng sản Đông Ấu (cũ). Họ là "tù binh", là nô lệ về tư tưởng trong chế độ Xô Viết, xã hội chủ nghĩa mà họ không hề biết. Nhưng chính thực tiễn cuộc sống ngày nay đã làm thay đổi sâu xa nhận thức của họ về quyền con người, về dân chủ tự do và độc tài chuyên chế, về động lực thúc đẩy xã hội đi đến phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh hiện đại và giúp họ tránh được mù quáng trong niềm tin.
I. Giữa thay đổi chính trị và thay đổi kinh tế có sự khác biệt lớn
Tuy nhiên đối với các nước cộng hoà Liên Xô cũ và các nước Đông Ấu cũ hiện nay, điều quan trọng là không nên lẫn lộn giữa sự thay đổi của cục diện chính trị và sự thay đổi của cũc diện kinh tế. Hai lĩnh vực này hoàn toàn khác nhau và mỗi lĩnh vực có qui luật vận động riêng của nó, tuy nó có liên quan chặt chẽ và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thay đổi cục diện chính trị của một nước có khi chỉ diễn ra trong một vài năm thậm chí năm, ba tháng; còn thay đổi cục diện kinh tế của một đất nước sẽ khó khăn gấp trăm lần.
Từ chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường (kinh tế tư bản chủ nghĩa) - tự quay 180 độ - các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và các nước thuộc Đông Ấu cũ nếu không đòi hỏi 70-80 năm thì ít nhất cũng phải mất 20-30 năm để đạt sự phồn vinh, giàu có, ấm no hạnh phúc, văn minh hiện đại. Nếu bằng tình cảm và ước vọng, thiếu căn cứ khoa học, người ta định áp đặt thời gian để xây dựng nền kinh tế thị trường đạt tới trình độ phát triển cao của thế giới ngày nay chỉ trong thời hạn 5-7 năm. Đó là điều ảo tưởng nếu không nói là "bốc đồng".
K. Chế độ Phát-Xít: không hề có đa nguyên đa đảng
Như trên đã nói, Đảng cộng sản Việt Nam phát động chống đa nguyên, đa đảng là chống lại sự nghiệp dân chủ tự do của dân tộc Việt Nam, chống lại văn minh tiến bộ của đất nước tức muốn kiềm hãm dân tộc Việt Nam trong mê muội tối tăm, mù quáng. Bởi vì không có một nước nào trên thế giới có một chế độ đa nguyên, đa đảng mà lại không có một nền dân chủ rộng lớn. Đa nguyên, đa đảng gắn liền với dân chủ tự do là nền tảng đã sản sinh ra đa nguyên đa đảng. Chỉ có ở những nước chuyên chế độc tài, phát xít tàn bạo thì không bao giờ có sự tồn tại của đa nguyên đa đảng.
Bằng chuyên chế độc tài được sơn phết bóng loáng, Đảng cộng sản Việt Nam quyết chống lại các quyền dân chủ tự do của nhân dân quần chúng, nhưng lại không dám nói thẳng điều đó mà phải mượn cái chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng"; vì nếu tuyên bố thẳng thừng rằng: Đảng cộng sản Việt Nam không chấp nhận mà bác bỏ dân chủ tự do, hoá ra Đảng đã tự phơi trần bản chất độc tài, phản dân chủ của mình trước nhân dân cả nước và thế giới sao ?
Chiêu bài "chống đa nguyên, đa đảng" có thể lường gạt được những kẻ nhẹ dạ, yếu bóng vía, kém hiểu biết, mù quáng; ngoài ra nó không thể lừa gạt được ai.
Để chống lại dân chủ tự do của nhân dân có hiệu lực, ngoài việc kêu gọi "chống đa nguyên, đa đảng", Đảng cộng sản Việt nam còn phát động trong nội bộ Đảng và ngoài quần chúng đấu tranh "chống tư tưởng tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà bình".
L. Tư tưởng "Tự Do Tư Sản Hoá" là gì ? - Tư tưởng muốn có tự do 100%
Tư tưởng "tự do tư sản hoá" là tư tưởng của nhiều người Việt Nam muốn ở nước mình có một nền dân chủ thực sự như ở các nước tư bản tiên tiến phương Tây để thay thế nền dân chủ giả hiệu của Việt Nam hiện nay - dân chủ trên lời nói, dân chủ hình thức. Hiến pháp của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn luôn có ghi đủ các quyền tự do của công dân như: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do mít tinh, tự do biểu tình,...nhưng trên thực tế thì không hề có những thứ tự do đó. Bởi vì bộ máy kềm kẹp, kiểm soát chặt chẽ của Đảng cộng sản và chánh quyền, kể cả các cơ quan thông tin tuyên truyền (quốc doanh) đều làm cho đông đảo quần chúng ngán ngại, không dám hành động để đạt được các quyền tự do dân chủ nói trên của mình. Vì vậy, đối với các quyền dân chủ tự do của công dân, hiến pháp chỉ là một mãnh giấy lộn, không có giá trị thực tiễn gì cả. Nhưng điều đáng kinh ngạc là trước tình hình vi phạm nghiêm trọng các quyền dân chủ tự do của công dân trong nhiều năm qua và cho đến bây giờ, không hề có sự lên tiếng đấu tranh phản đối của Quốc hội - được coi là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất" hoặc Quốc hội chất vấn chính phủ về những vi phạm ấy và đề ra những biện pháp cụ thể nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các quyền dân chủ tự do của công dân đã ghi trong hiến pháp.
Vì sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản nên Quốc hội chỉ biết làm theo chỉ thị của Đảng. Vả lại, hầu hết đại biểu quốc hội là cán bộ đảng viên của đảng, do đó trước khi khai mạc quốc hội, những đảng viên, cán bộ ấy được một đại diện của bộ chính trị đến để huấn thị là Quốc hội cần phải làm như thế này, như thế này...Số người ngoài Đảng trong Quốc hội không đáng kể, hơn nữa, nếu có thì chính họ cũng đã được đảng hoá (mác-xít hoá) mất rồi.
Cho nên có thể nói: Quốc hội là Đảng, Đảng là Quốc hội - Nhà nước là Đảng, Đảng là Nhà nước. Với tính chất ấy đại biểu Quốc hội không phải là người nói tiếng nói trung thực của nhân dân (cử tri) mà chính là người chỉ nói tiếng nói của Đảng thôi.
Do đó, Đảng cộng sản Việt Nam cũng như các đảng cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa còn lại (Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên) đều rất sợ "tự do tư sản hoá" - thứ tự do đúng nghĩa của nó 100% tức là các quyền dân chủ tự do của công dân như: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội, lập đảng phái, tự do đình công, biểu tình,...đã ghi trong Hiếp Pháp đều được thể hiện đầy đủ trong thực tiễn sinh động của xã hội. Vì vậy khi quần chúng nhân dân có các quyền dân chủ tự do - thứ vũ khí tự vệ và tấn công rất sắc bén - thì bất cứ đảng phái cầm quyền nào không thể dễ dàng thực hiện chuyên chế độc tài, đặc quyền, đặc lợi, áp bức, trù dập quần chúng nhân dân được. Cụ thể là: Khi quyền lợi bị vi phạm và trước những bất công, hàng ngàn, hàng vạn, hàng chục vạn thậm chí hàng triệu người bao gồm các tầng lớp nhân dân: nhân sĩ trí thức, thầy cô giáo, ý tá bác sĩ, công nhân lái xe, bốc vác, thợ mỏ, công nhân đường sắt, cơ khí, luyện kim, đóng tàu,...viên chức ngành hàng không, bưu điện viễn thông, sinh viên, học sinh, nông dân trang trại ở các nước: Anh, Pháo, Mỹ, Đức, Ý, Nhựt, Ần độ, Bra-xin, Nam Triều Tiên, Thái Lan,...đã vùng lên đấu tranh liên tục bằng các hình thức: đính công, tổng đình công, bãi khoá, tổng bãi khoá thậm chí xuống đường biểu tình đói tăng lương, cải thiện điều kiện lao động và đời sống, đói tăng ngân sách giáo dục, y tế, đòi bảo đảm tiếp tục tài trợ cho nông nghiệp, bảo vệ nông sản trong nước, đòi Quốc hội cách chức và đưa Tổng Thống ra xét xử (Bra-xin) vì có dính líu đến tham nhũng nghiêm trọng; biểu tình phản đối phiên toà xét xử bất công (vụ 4 cảnh sát da trắng đánh chết một lái xe da đen ở LosAngeles - 1992); biểu tình hoan hô các quan toà có sáng kiến phát động mạnh mẽ phong trào chống tham nhũng - "Bàn tay trong sạch" - trong cả nước (Ý); và cả những cuộc biểu tình chống quân phiệt, độc tài, đòi dân chủ tự do bị đàn áp dữ dội (ở Thái Lan tháng 5/1992)..v..v..Tất nhiên, trước sức đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng, chính quyền các nước có liên quan phải nhượng bộ và giải quyết thỏa đáng các yêu sách của quần chúng.
Ở các nước dân chủ, người được bầu làm tổng thống, thủ tướng là người được đa số nhân dân tín nhiệm trong việc điểu khiển đất nước theo một nhiệm kỳ nhất định. Tuy nhiên người ta không coi những vị ấy là những ông thánh sống. Do đó, họ tự đặt cho mình có nhiệm vụ giám sát những hoạt động của tổng thống, thủ tướng và trong từng lúc họ đều có phản ứng kịp thời.
Những cuộc thăm dó dư luận thường xuyên ở các nước dân chủ là cách tốt nhất cho mọi người dân biết rõ từng lúc vị tổng thống, thủ tướng nào cón giữ được sự tín nhiệm của nhân dân hay sự tín nhiệm ấy đã bị giảm sút nhiều (với tỷ lệ phần trăm rất cụ thể) thậm chí tín nhiệm không còn. Có như vậy tổng thống và thủ tướng mới biết rõ mình hiện giờ ra sao trước con mắt giám sát của đông đảo quần chúng nhân dân để phấn đấu, tiếp tục vươn lên phía trước hoặc để khắc phục những sai lầm thiếu sót về đạo đức, tác phong và tinh thần trách nhiệm của mình.
Chớ không phải như ở Việt Nam, một vài ông Uỷ viên bộ chính trị đồng thời là thành viên của Hội đồng bộ trưởng (từ năm 1990 trở về trước) có vợ đi buôn lậu, dựa vào thế lực của chồng tha hồ sử dụng các phương tiện giao thông của nhà nước như máy bay, ô-tô,... cho hoạt động vụ lợi bất chính của mình suốt hàng chục năm mà vẫn bình yên vô sự; cũng như có ông đã biến công việc của nhà nước thành công việc riêng của gia đình mình, tha hồ hoạt động kiếm đô la (ở nước ngoài) một cách dễ dàng suốt trên hai thập kỷ mà vẫn phơi phới vững như bàn thạch: trong khi cả xã hội từ Bắc chí Nam, nhân dân, đặc biệt là công nhân viên chức, gia đình cán bộ bàn tán xôn xao tình hình nói trên. Nhưng tuyệt đối không hề được các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình (tất cả là của Đảng và nhà nước) nêu lên. Hơn nữa cơ quan lãnh đạo của Đảng cũng không hề tỏ rõ thái độ của mình một cách công khai trước nhân dân cả nước đối với tình hình suy thoái nghiêm trọng nói trên ngay tại cơ quan đầu não mà vẫn cứ coi như trong lãnh đạo không có việc gì xảy ra và rất êm thắm. Rõ ràng, đây là một sự bao che đầy quyền lực đối với những hành vi tiêu cực kéo dài ở tận chóp bu.
Ở Việt Nam tham nhũng đã trở thành quốc nạn, nhưng Việt Nam lại là nước không có dân chủ tự do - dân không có quyền - thì làm sao chống tham nhũng có hiệu quả? Cho nên, điều trớ trêu thường xuất hiện là người hô hào chống tham nhũng chính lại là kẻ tham nhũng rất tệ hại.
Tất cả tình hình nói trên cho thấy dân chủ tự do là rất bức bách đối với mọi dân tộc, là vũ khí sắc bén được nhân dân sử dụng để thực hiện quyền làm chủ thực sự của mình đối với đất nước, xã hội; chớ không phải như ở Việt nam, "làm chủ" chỉ là khẩu hiệu suông, trống rỗng vì nhân dân không hề có quyền dân chủ tự do thật sự bao giờ.
Phải dám nhìn thẳng vào sự thật và không được quyền bóp méo nó qua cặp kính "ý thức hệ mác-xít"; chúng ta phải thừa nhận rằng dân chủ tư sản (dân chủ ở các nước tư bản) là chế độ dân chủ thực sự được xây dựng hơn hai thế kỷ qua bằng cuộc đấu tranh trường kỳ bền bỉ thậm chí đổ máu của nhân dân các nước, chớ dân chủ không hề là một thứ đặc ân của giai cấp thống trị.
Chúng ta đều biết ở nhiều nước tư bản đã từng trải qua những thời kỳ mà chế độ độc tài phát-xít được thiết lập; đồng thời nền dân chủ tự do ở đây bị thủ tiêu như: chế độ Phát-xít Hittle ở Đức, Mussolini ở Ý, Thiên Hoàng ở Nhật, Franco ở Tây Ban Nha, Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc (trước 1949), Lý Thừa Vãng ở Nam Triều Tiên, Ngô Đình Diệm ở Miền Nam Việt Nam, Pinochet ở Chi Lê,..v.v...
Do đó, nhân dân các nước nói trên không thể không vùng lên đấu tranh quyết liệt kể cả đổ xương, đổ máu để giành giựt lấy nó, bảo vệ và phát triển nền dân chủ tự do của mình.
M. Dân chủ tự do phải trả giá
Dân chủ tự do là một sự nghiệp cách mạng lớn lao nên không thể không có hy sinh, và chính nền dân chủ phải trả giá đắt ấy là nền dân chủ thật sự, chân chính.
Cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do của nhân dân Trung Quốc ở Thiên An Môn (Bắc Kinh) hồi tháng 05 và tháng 06/1987 và của nhân dân Thái Lan, Nam Phi gần đây (1992), bất chấp súng đạn, xe tăng của bọn phát xít diệt chủng, bọn phân biệt chủng tộc đã nói lên tình chất quyết liệt, đầy hy sinh gian khổ của cuộc đấu tranh vì dân chủ tự do.
Còn dân chủ do lãnh đạo ban cho - dân chủ không phải trả giá gì cả - là thứ "dân chủ giả hiệu" nhằm đánh lừa thiên hạ và để tạo ra trong xã hội nhiều thứ bù nhìn, nhiều kẻ nịnh bợ và bọn tham nhũng mà thôi.
Nói tóm lại, Đảng cộng sản Việt Nam phát động "chống đa nguyên, đa đảng", "chống tự do tư sản hoá", "chống diễn biến hoà bình" (tức chống phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ), chống đàn áp, khủng bố, chống tham nhũng của quần chúng bằng báo chí, hội thảo, mít tinh, biểu tình, đình công - đấu tranh ôn hoà, không có võ trang - là đi ngược dòng lịch sử, không tuân thủ qui luật phát triển khách quan của xã hội, đã ra mặt độc tài chống lại yêu cầu, nguyện vọng về dân chủ tự do của quần chúng nhân dân, của dân tộc.
N. Chuyên chế độc tài: thách thức nghiêm trọng đối với dân tộc Việt Nam
Chính Đảng cộng sản Việt Nam ngày nay đã biến mình trở thành một cản ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam, bất chấp sự phản kháng của quần chúng, quyết duy trì chuyên chế, độc tài, dựa vào bạo lực (quân đội, công an) như tất cả các chế độ độc tài trên thế giới để chà đạp lên nguyện vọng về dân chủ tự do của nhân dân và gây cho nhân dân biết bao tai hoạ khác. Nhưng những bài học của lịch sử luôn luôn sáng ngời: tất cả các thế lực độc tài, phát xít tàn bạo trên thế giới đều bị phủ định bởi sức mạnh áp đảo của nhân dân. Cuộc đấu tranh anh hùng đã đánh bại bọn độc tài quân phiệt khát máu của nhân dân Thái Lan hồi tháng 5/1992 vừa qua là một tấm gương sáng chói cho các dân tộc trên thế giới kể cả dân tộc Việt Nam.
Không phải đi ăn xin mà có dân chủ tự do được. Muốn có nó phải dám đấu tranh ngoan cường, bền bỉ, trừ phi cam tâm làm nô lệ.
Cả thế giới đều biết rằng quá trình kháng chiến giành độc lập dân tộc cũng là quá trình đấu tranh chống độc tài chuyên chế, phát xít tàn bạo, giành dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam. Do đó sau thắng lợi của cách mạng (hơn 30 năm liên tục đấu tranh chính trị và võ trang), Đảng cộng sản Việt Nam lại thiếp lập, duy trì, củng cố chế độ chuyên chế, độc tài ở Việt Nam; đó là sự thách thức rất nghiêm trọng của Đảng cộng sản đối với nhân dân Việt Nam. Về những thách thức tương tự đó, trên thế giới đã có nhiều bài học:
Chính vì dựa vào bạo lực để tồn tại mà chính quyền mác-xít - chuyên chế độc tài phủ định tất cả ý kiến, quan điểm đối lập, lực lượng đối lập - ở Áp-ga-ni-xtan và Ê-ti-ô-pi đã gây ra cuộc nội chiến đẫm máu kéo dài ở hai nước này dẫn đến hậu qủa cuối cùng là lực lượng võ trang của các đảng phái đối lập đã tấn công đến sào huyệt (thủ đô) của chánh quyền mác-xít độc tài ở hai nước nói trên và đã chiến thắng. Tổng thống mác-xít Áp-ga-ni-xtan - Na-gi-pu-la phải chạy vào cơ quan Liên Hiệp Quốc tại Ca-bun (thủ đô) để ẩn náu; còn Tổng thống mác-xít Ê-ti-ô-pi - M.H. Mariam thì chạy trốn sang phương Tây.
Rõ ràng, số phận bi đát luôn luôn dành sẵn cho bọn ngoan cố độc tài, tham quyền cố vị, đi ngược qui luật tiến hoá của lịch sử.
Nhìn theo vhiều dài của lịch sử, khác với sự đắc chí kiêu ngạo, không biết giựt mình và tự sám hối của Đảng cộng sản Việt Nam, người ta không thể không kinh ngạc khi biết rằng chính chuyên chính độc tài của Đảng cộng sản Việt Nam đã gây nên biết bao thảm hoạ, tội ác đối với nhân dân Việt Nam suốt một quá trình cách mạng lâu dài của đất nước, dân tộc.
Khi cầm quyền, Đảng cộng sản Việt Nam coi công an, quân đội là công cụ riêng của Đảng dùng để đàn áp những ai có ý kiến, quan điểm khác với Đảng, được xem là "chống Đảng, chống cộng sản". Chớ công an, quân đội không phải là công cụ của chánh quyền cách mạng - chánh quyền của dân, vì dân, do dân.
O. Ý thức hệ cộng sản dẫn đến các cuộc đàn áp tôn giáo
Với ý thức hệ Mác-xít: duy vật chống duy tâm, vô thần chống hữu thần, Đảng cộng sản Việt Nam đã thi hành chánh sách khống chế, kềm kẹp thậm chí khủng bố đàn áp đẫm máu đối với các tôn giáo ở Việt Nam như : Cao Đài, Hoà Hảo, Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Phật Giáo,... với lý do tôn giáo là "hữu thần chống vô thần', "chống cộng sản", là những kẻ "phản động", "làm tay sai cho đế quốc". Bằng lực lượng võ trang nắm trong tay, Đảng cộng sản Việt Nam đã tiến hành những cuộc tảo thanh Cao Đài, Hoà Hảo tức tấn công, giết hại hàng loạt tín đồ và hàng giáo phẩm của hai đạo này trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp xâm lược (1945,46,47,48,49). Đối tượng tảo thanh lúc bấy giờ ở Miền Đông Nam bộ bao gồm các tỉnh: Tây Ninh, Gia Định (nay là TP Hồ Chí Minh), Thủ dầu một (Sông Bé), Biên Hoà (Đồng Nai), Bà Rịa (Bà Rịa-Vũng tàu), Chợ Lớn (Long An) là đồng bào tín đồ Cao Đài. Còn đối tượng tảo thanh ở Miền tây Nam Bộ bao gồm các tỉnh: Long Xuyên, Châu Đốc (nay là tỉnh An Giang), Tạch Giá (Kiên Giang), Bạc Liêu (Minh Hải), Cần Thơ,...là đồng bào tín đồ Hoà Hảo.
Mặt trận liên quân B - mặt trận tảo thanh Cao Đài - ở Miền Đông Nam Bộ được thành lập (1946) với các lực lượng võ trang bao gồm các cho đội: 12, 13, 15, 22, 6, bộ đội Hoàng Thọ...lấy toà thánh Tây Ninh - trung tâm đầu não của lực lượng Cao Đài - làm mục tiêu tấn công. Chiến trận diễn ra ác liệt năm này sang năm nọ giữa lực lượng võ trang nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam và lực lượng võ trang cao Đài có sự yểm trợ của quân đội Pháp; đồng thời cũng diễn ra các cuộc "tảo thanh" tín đồ Cao Đài ở khắp các ấp, xã thuộc các tỉnh Miền Đông Nam Bộ như: Tây Ninh, Gia Định (TP HCM), Thủ Dầu Một (Sông bé)...
Bằng cách tập hợp đồng bào đi phá hoại đường để bảo vệ vùng giải phóng thuộc Củ Chi - gọi là "khu 5" - Ban chỉ huy ra lịnh: ai có đạo đứng một bên, ai không có đạo đứng một bên; ai có đạo ở lại, ai không có đạo đi phá đường. Do vậy, hàng trăm người có đạo - toàn là tín đồ Cao Đài gồm nam, nữ, ông già, bà cả, thanh niên, trung niên - được điều động đến mé rừng rậm. Sau đó nhiều loạt súng liên thanh nổ liên tiếp với tiếng người kêu la gào thét kinh khủng. Thế là số phận bi thảm của đồng bào Cao Đài nói trên đã kết liễu. Thi hài của họ được vùi dập xuống các hầm đào sẵn ở rừng Làng và Sở cao su Me-sắc (thuộc xã Phú Mỹ Hưng, Củ Chi). Vào năm 1950, người ta đã phát hiện ở rừng Bời Lời (Trảng Bàng - Tây Ninh) có 5-7 hầm toàn sọ người. Hay như ở xã Vĩnh Lộc (thuộc Gò Vấp, Gia Định cũ), về sau này, hàng năm đều có ngày giỗ thống nhứt - giỗ những đồng bào tín đồ Cao Đài trong xã, ấp bị giết hàng loạt cùng một ngày bới các cuộc tảo thanh tàn bạo nói trên của Đảng cộng sản Việt Nam.
Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và 20 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1955-1975) bao gồm cả thời kỳ đất nước chia cắt thành 2 miền: Nam, Bắc (miền Bắc xã hội chủ nghĩa, miền Nam thuộc địa củ Mỹ), đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ở miền bắc xã hội chủ nghĩa là đối tượng đàn áp quyết liệt của chánh quyền cộng sản; đặc biệt lúc Hiệp định đình chiến Giơ-ne-vơ (tháng 07/1954) qui định chia cắt tạm thời đất nước thành hai miền, được ký kết thì lập tức có hai triệu đồng bào tín đồ Công Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành ồ ạt di cư vào Nam sinh sống và để thoát khỏi "tai hoạ cộng sản". Do đó, đối với số đồng bào và hàng giáo phẩm của các tôn giáo nói trên còn ở lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa suốt 20 năm (1955-1975) qủa là rất nặng nề, không khác gì cuộc sống ở một trại giam lớn.
Phật giáo Việt Nam với truyền thống yêu nước là tôn giáo có nhiều cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống độc tài, tham nhũng, đòi dân chủ tự do và hoà bình (đặc biệt ở Miền Nam Việt Nam) trong suốt thời kỳ Đế quốc Mỹ và tay sai thống trị. Nhưng sau khi Miền nam được giải phóng, đất nước thống nhất, Phật Giáo lại trở thành đối tượng kềm kẹp, khống chế, trấn áp của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều người thuộc hàng giáo phẩm và tín đồ phật giáo bị qui chụp là "phản động", "chống cách mạng" và bị bắt bớ, giam cầm, quản thúc chỉ vì họ muốn được tự do trong cuộc sống, tự do tín ngưỡng, hành đạo, tự do nói lên quan điểm tư tưởng riêng của mình.
Với "ý thức hệ mác-xít, lập trường giai cấp vô sản", Đảng cộng sản Việt nam không những đố kỵ và áp bức các tôn giáo mà còn đố kỵ áp bức các dân tộc ít người: dân tộc người Hoa, người Khơ-me và nhiều sắc tộc khác.
Vào những năm 1956-1957, sau sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức - chiến dịch tấn công vào nhân dân, nông dân và bản thân nội bộ Đảng - với chuyên chính độc tài dựa vào bạo lực, Đảng cộng sản Việt Nam lại lao vào tội lỗi khác là đàn áp, bắt bớ, tù đày hàng chục năm một số trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ đảng viên dám phát biểu ý kiến, quan điểm của mình, phê phán những sai trái trong sự lãnh đạo của Đảng cộng sản bằng văn học, nghệ thuật, bằng bài nói, bài viết của bản thân. "Vụ án nhân văn giai phẩm" 1956-1957 chính là sự đàn áp của Đảng cộng sản Việt Nam đối với những ai có quan điểm, tư tưởng khác với Đảng. Những văn nghệ sĩ, trí thức, cán bộ đảng viên có liên quan đến vụ án khi vào tù tuổi còn thanh xuân, nhưng đến khi ra tù thì tóc đã bạc phơ, già yếu. Rõ ràng, đối với Đảng cộng sản Việt Nam thấm nhuần ý thức hệ Mác-Lênin, ai ai cũng dễ dàng bị qui chụp là "kẻ chống Đảng, kẻ thù của Đảng" và tất nhiên, điều đó không thể không dẫn đến hậu qủa là ai ai cũng coi Đảng cộng sản Việt Nam là kẻ thù của chính họ.
P. Trong chiến tranh: rất hiếm cấp tướng hy sinh; trong hoà bình: đại tướng, trung tướng hy sinh dễ dàng. Do đâu ?
Điều đặc biệt quan trọng xảy ra trước và sau Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản VN (tháng 12/1986) là một loạt cấp tướng ( đại tướng, trung tướng) bị giết hại một cách bí mật và nhiều câu hỏi được đặt ra trong dư luận xã hội lúc bấy giờ, nhất là ở Thủ đô Hà Nội: kẻ sát nhân là kẻ nào ? bàn tay bí mật giết người từ đâu ? Bởi vì, chỉ trong một thời gian rất ngắn, liên tiếp cá hai đại tướng: Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn cùng ở vào một tình huống giống nhau - chuẩn bị nhận chức vụ mới (Bộ trưởng Quốc phòng) - cũng đều bị chết bất ngờ (ngộ độc). Trường hợp của Đại tướng Hoàng Văn Thái trước khi trút hơi thở cuối cùng đã nói với vợ ông rằng: "Người ta đã giết tôi", và vợ ông trước những người đến viếng thăm đã khóc thê thảm và kêu to lên rằng: "Người ta đã giết chồng tôi". Cái chết đột ngột của Đại tướng Lê Trọng Tấn cũng tương tự như trên (theo lời kể tỉ mỉ của hai vợ chồng ông Trung tướng đương chức ở Hà Nội - năm 1987).
Dĩ nhiên trước đó không lâu, một Đại hội đảng bộ toàn quân đã diễn ra trong bầu không khí căng thẳng của cuộc đấu tranh nội bộ chưa từng có đưa đến kết quả là hai uỷ viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt nam: Đại tướng Văn Tiến Dũng - Bộ trưởng quốc phòng và Đại tướng Chu Huy Mân - phó bí thư quân uỷ trung ương, đều thất cử, không được bầu vào cấp uỷ Đảng và đoàn đại biểu Đảng bộ toàn quân đi dự đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam. Do đó, Đại tướng Hoàng Văn Thái được trung ương chỉ định làm Bộ trưởng Quốc phòng thay thế Văn Tiến Dũng (bị mất tín nhiệm nhiều) không may bị chết bất đắt kỳ tử và người được chỉ định lên thay ông là Đại tướng Lê Trọng Tấn, cũng chịu số phận bi thảm liền sau đó. Thật khủng khiếp và đáng kinh ngạc.
Sau 2 sự kiện đau buồn nói trên (tức sau đại hội 6 ĐCSVN) khoảng mấy tháng lại có thêm hai trung tướng: Đinh Đức Thiện và Trần Bình bị giết hại. Theo tin loan truyền thì Trung tướng Đinh Đức Thiện bị tai nạn ô tô mà chết, còn dư luận xã hội, kể cả gia đình, cán bộ quân sự thì cho rằng ông Đinh Đức Thiện không bị tai nạn ô tô mà bị bắn chết tại rừng Cúc Phương (Ninh Bình) khi ông đi săn thú. Dư luận còn nhấn mạnh: Ông Thiện chắc chắn bị một người bà con có quyền thế sát hại. Còn Trung tướng Trần Bình - Cục trưởng cục tình báo quân đội nhân dân Việt Nam bị bắn chết ngay trên đường phố thuộc quận 3 - thành phố Hồ Chí Minh; và sau đó độ mấy ngày, người con trai của ông cũng bị bắn chết tại khu vực nói trên.
Trước những sự kiện nghiêm trọng đó của đất nước, dư luận xã hội rất xôn xao, ầm ỉ; còn các cơ quan thông tin đại chúng: báo chí, đài phát thanh,... thì im hơi lặng tiếng, kể cả báo "Quân đội", "Hội cựu chiến binh Việt Nam" là cơ quan tổ chức có mối liên hệ trực tiếp với các nạn nhân nói trên. Bởi vì sự độc quyền lãnh đạo - độc tài - của Đảng cộng sản Việt Nam đòi hỏi tất cả phải được giữ kín, không được bình luận, bàn tán ồn ào. Tuy nhiên, áp lực đó không ngăn cản nổi sự quan tâm bức xúc của dư luận xã hội đi đến khẳng định rằng những sự kiện kể trên (2 uỷ viên bộ chính trị bị đánh rớt khỏi cương vị lãnh đạo và 2 đại tướng bị chết đột ngột, 2 trung tướng bị sát hại) là những sự kiện rất nghiêm trọng, chưa từng có trong lịch sử quân đội và ĐCSVN; nó có quan hệ hữu cơ bắt nguồn từ những mâu thuẩn sâu sắc trong nội bộ Đảng, toàn quân ở độ chín muồi dẫn đến làm nổ tung các mặt trong cuộc sống và hoạt động ít nhất ở một bộ phận đầu não của quân đội Việt Nam.
Sở dĩ không có thông tin đầy đủ và không thể có sự phân tích sâu sắc, công khai các sự kiện nói trên nhằm vạch trần bộ mặt của những tên khát máu, giết người trước ánh sáng dư luận là do trong thực tiễn ở Việt Nam không hề có dân chủ tự do (tự do ngôn luận, tự do báo chí,...); nó chỉ có trên giấy trắng mực đen (bản hiến pháp) thôi.
Sự độc quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được ghi trong Hiếp Pháp nước CHXHCN Việt Nam đã đặt Đảng cộng sản đứng trên Quốc Hội và Hiến Pháp, cho phép Đảng phủ định các quyền tự do ấy của công dân trong thực tiễn và tự do chà đạp Hiến Pháp được xây dựng lên bằng xương máu của nhân dân Việt Nam; vô hiệu hoá Quốc Hội, biến Quốc Hội thành một tổ chức bù nhìn, thành bộ máy bỏ phiếu cho Đảng cộng sản. Nhìn chung, các cơ quan, tổ chức khác như: chánh phủ, toà án, mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng chỉ là công cụ, tay sai của Đảng mà thôi (bất cứ việc xét xử nào của toà án ở từng cấp đều phải làm đúng theo sự xét xử trước đó của cấp uỷ Đảng tức tuyên án công khai đúng như cấp uỷ Đảng đã tuyên án trước trong nội bộ).
Gần đây, điều đáng chú ý là nhà nước Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề người Việt Nam ở nước ngoài. Do đó, tại Hội nghị Việt kiều hồi tháng 2/1993, Thủ Tướng Võ Văn Kiệt - trước hàng trăm đại biểu đại diện cho khoảng 2 triệu người Việt kiều cư ngụ ở 70 nước trên thế giới mà đa số tập trung ở các nước tư bản phát triển nhất (G7 - nhóm các nước giàu), trong đó có trên 300.000 ngàn trí thức có trình độ đại học và trên đại học - đã nhấn mạnh: "Đoàn kết hoà hợp dân tộc là động lực phát triển đất nước".
Q. Trên cơ sở dân chủ bình đẳng, thực hiện hoà giải hoà hợp dân tộc
Rõ ràng lực lượng Việt kiều là tiềm lực lớn lao, là tài sản trí tuệ quí báu của dân tộc Việt Nam cần phải được phát huy cao độ vì sự phồn vinh, giàu có của Tổ quốc, vì ấm no hạnh phúc của nhân dân, vì một nước Việt Nam dân chủ, tự do, bình đẳng, bác ái, hiện đại, văn minh.
Vì vậy có vấn đề đặt ra là làm sao tạo được một môi trường tốt, phù hợp và bền vững cho đồng bào Việt kiều - những người đã từng sống và hoạt động ở môi trường tự do hoá về kinh tế và chính trị; môi trường của nền kinh tế thị trường (tư bản chủ nghĩa) và nền chính trị dân chủ, đa nguyên - tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Do đó, nhà nước Việt Nam không thể dừng lại ở việc ban hành một số chánh sách mang tính chất chiến thuật như: nhập cảnh, cư trú, đi lại, hoạt động kiều hối, xuất nhập khẩu, ngân hàng, tín dụng,... mà còn phải dám đi xa hơn nữa vào chiến lược lâu dài: cải cách kinh tế đi liền với cải cách chính trị, không những phải xây dựng một nền kinh tế thị trường và mở cửa mà còn phải xây dựng một nền chính trị đa nguyên - dân chủ - đa đảng. Đó là cơ sở, nền tảng vững chắc để thực hiện một cách đồng bộ, hài hoà, sự hoà giải, hoà hợp, đoàn kết dân tộc, tạo nên tính tự giác cao và tấm lòng hồ hởi, cởi mở của đông đảo đồng bào Việt kiều hướng về Tổ Quốc thân yêu, hội nhập thực sự với quê hương, dân tộc. Mặt khác, điều đó cũng nói lên rằng Việt Nam hội nhập vào thế giới, tiếp thu những giá trị của xã hội loài người không chỉ thuần túy về mặt kinh tế mà tiếp thu hoà nhập toàn diện (cả về kinh tế và chính trị). Sự hài hoà giữa môi trường thế giới (tự do hoá cả về kinh tế và chính trị) và môi trường trong nước (Việt Nam - tự do hoá không những về kinh tế mà cả về mặt chính trị) chắc chắn sẽ tạo ra sự an tâm phấn khởi không những trong đồng bào Việt kiều mà cả gần 70 triệu đồng bào trong nước (bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nhiều sắc tộc, tôn giáo, nhiều khuynh hướng, quan điểm,...) khiến tất cả mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước đều cảm thấy bức bách phải dốc toàn lực tham gia xây dựng quê hương, Tổ quốc giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
Nếu Việt Nam chỉ mở cửa kinh tế và đóng kín cửa chính trị, chỉ đi có một chân (kinh tế), chớ không phải đi hai chân (kinh tế và chính trị) thì càng làm bộc lộ nổi cộm sự lạc hậu về chính trị của Việt Nam trước thế giới - lạc hậu không những so với các nước Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Á (kể cả các nước láng giềng như: Thái Lan, Cam-pu-chia) mà còn lạc hậu so với nhiều nước Châu Phi: An-giê-ri, Tu-ni-si, Ma-da-grát-xca, Nam Phi,...Tất nhiên cái gì lạc hậu, đi ngược qui luật tiến hoá thì chắc chắn sẽ bị đào thải, sụp đổ.
Hiện nay, không những 2 triệu đồng bào Việt kiều và gần 70 triệu đồng bào Việt Nam mà cả thế giới văn minh đều đòi hỏi Việt Nam phải cải cách toàn diện: cả kinh tế và chính trị. Đó là điều kiện không thể thiếu được cho sự hội nhập thực sự của Việt nam vào cộng đồng thế giới (tư bản chủ nghĩa) ngày nay; đồng thời đó cũng là điều kiện phải có để đồng bào Việt kiều, đồng bào cả nước hoà nhập thực sự với dân tộc, đất nước.
Chúng ta biết rằng: sở dĩ Trung Quốc đạt được những thành quả lớn lao suốt 14 năm cải cách kinh tế và mở cửa là nhờ có được một trong những yếu tố quan trọng - một đội ngũ chuyên gia giỏi từ các nước tiên tiến nhất: Mỹ, Nhật, Đức,...gồm khoảng 300-400 ngàn người cho một đất nước có khoảng 1,2 tỉ dân, có nghĩa là cứ khoảng 3000 người dân Trung Quốc thì có một chuyên gia giỏi nước ngoài phục vụ. Tất nhiên nhà nước Trung Quốc phải chi một số tiền thích đáng cho yêu cầu quan trọng nói trên. Trong khi đó, tại sao Việt Nam chúng ta với dân số 70 triệu người, lại không biết sử dụng trên 3000,000 trí thức Việt kiều của mình cũng gồm giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia giỏi trên các lĩnh vực cho lợi ích dân tộc mình ?
Đảng cộng sản Việt nam có dám làm một cuộc cách mạng về tư tưởng của bản thân mình, có dám "lột xác" không? có dám vứt bỏ ý thức hệ mác-xít giáo điều, lỗi thời không ? có dám vứt bỏ tư tưởng quan điểm, thành kiến cũ rích đối với đồng bào Việt kiều ("theo tư bản chủ nghĩa") không?
R. Hiện giờ, ai theo tư bản ?
Với đầu óc khách quan, dám nhìn thẳng vào thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam phải thừa nhận rằng bằng chính sách đổi mới, hàng ngày, hàng giờ Việt Nam luôn luôn hướng về chủ nghĩa tư bản (Mỹ, Nhật, Đức, Pháp, Ý, Canada, Nam Triều Tiên, Đài Loan, Thuỵ Điển, Ần Độ, Hồng Kông, Indonexia,...), chứ không phải hướng về Bắc Triều Tiên, Cuba của chủ nghĩa xã hội; có nghĩa là trên thực tế, Đảng cộng sản Việt Nam đã đồng hoá về quan điểm, tư tưởng với đồng bào Việt kiều đang sinh sống ở 70 nước tư bản chủ nghĩa trong nhiều thập kỷ qua. Từ thực tế đó cho thấy giữa Đảng cộng sản Việt Nam và đồng bào Việt kiều đã không còn tồn tại cơ sở của sự đối đầu, chia rẽ, ngăn cách nữa mà nó đang chuyển sang một cơ sở mới để đôi bênhoà nhập vào nhau; thật sự hoà giải và chân thành đoàn kết với nhau vì lợi ích tối cao của dân tộc, đất nước. Vì vậy, khi kêu gọi đồng bào Việt kiều: "xoá bỏ mặc cảm, xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai", Đảng cộng sản Việt Nam phải là người trước tiên thực hiện điều đó, mở rộng vòng tay để đoàn kết, hoà giải, hoà hợp dân tộc trên cơ sở thực sự dân chủ tự do và bình đẳng - hoà hợp có nội dung, có điều kiện chớ không thể là khẩu hiệu suông.
Thật là khó hiểu khi ở nước sở tại, đồng bào Việt kiều không những tự do hoạt động kinh tế mà còn tự do hoạt động chính trị, tự do tham gia các đảng phái, tổ chức chính trị, xã hội, tự do viết báo, hội thảo, mít tinh, biểu tình, tự do nói lên ý kiến, tư tưởng, quan điểm riêng của mình đối với mọi vấn đề trong xã hội; nhưng khi về nước mình (Việt Nam) thì có thể được tự do hoạt động kinh tế ở chừng mực nhất định nào đó; còn về chính trị thì hoàn toàn không có tự do kể cả phát biểu ý kiến, quan điểm riêng của mình có thể trái với lãnh đạo. Bởi vì, ở Việt Nam, những ý kiến, quan điểm của bất cứ người nào ngược với quan điểm lập trường của Đảng cộng sản Việt Nam thì nhất định sẽ bị lên án và bị trấn áp ngay do sự độc quyền lãnh đạo của Đảng tức nền chuyên chế độc tài đã được khẳng định ở đây từ hơn 60 năm qua (1930-1993).
Chuyên chế độc tài đã từng bị lịch sử lên án, hoàn toàn không hề là ước mơ, niềm hy vọng của nhân dân quần chúng và tất nhiên nó không có sức thuyết phục; nhưng tại sao lại dựa vào nó để thực hiện hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc? Cơ sở cốt lõi của vấn đề phải là: dân chủ, tự do và bình đẳng thật sự. Vì vậy, chừng nào còn chưa thiết lập được nền dân chủ tự do đúng nghĩa của nó ở Việt nam thì chừng ấy vẫn chưa xoá được mặc cảm, thành kiến,... chưa có thể hoà giải, hoà hợp dân tộc được. Nếu chỉ bằng những khẩu hiệu suông hay bằng những chiến thuật kinh tế cụ thể thì sứ mạng hoà giải, hoà hợp và đoàn kết dân tộc sẽ khó hoàn thành.
Môi trường sinh sống và hoạt động hàng ngày đã giúp đồng bào Việt kiều hiểu rõ thế nào là một nước văn minh, hiện đại. Một nước không thiết lập được một nền dân chủ tự do và bình đẳng thật sự thì làm sao có thể gọi đó là nước văn minh, hiện đại, tiên tiến ?
Việt Nam rất muốn hội nhập vào thế giới văn minh, nhưng đồng thời cũng rất không muốn trở thành một nước văn minh - nước có nền dân chủ đa nguyên - và quyết duy trì chế độ chuyên chế độc tài dựa vào vũ lực, bạo lực. Thật là nghịch lý và khó hiểu.
Tóm lại, Liên Xô cũ và Đông Ấu cũ - được xây dựng bởi chủ nghĩa Mác-Lênin - đã tan rã; đó là sự khuyến cáo đang thép về sự phá sản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bởi vì đây không phải là một sự thất bại tạm thời của một cuộc cách mạng mà là sự sụp đổ của một "học thuyết cách mạng" đã từng là "ngọn đèn pha" soi đường đi lên CNXH và CNCS. Cái chính là "đèn pha" đã tắt lịm.
Sự sụp đổ của một chế độ độc tài về chính trị và kinh tế nói trên đã mở ra kỷ nguyên cả thế giới bao gồm Liên Xô cũ, Đông Ấu cũ, Mông Cổ, Cam-pu-chia và nhiều nước khác đi vào con đường tự do hoá về kinh tế và tự do hoá về chính trị - thực hiện nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng - theo đúng qui luật vận động của thế giới đương thời. Đó chính là những giá trị phổ cập nhất của xã hội loài người ngày nay.
S. Thập kỷ 60-70 đến cuối 80 - chủ nghĩa xã hội đích thực; cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 - chủ nghĩa tư bản đích thực
Trước sự chuyển động lớn lao ấy của thế giới, Việt Nam thực hành chính sách đổi mới qùe quặt: chỉ đổi mới kinh tế, phản đối đổi mới chính trị: lấy tự do hoá kinh tế để củng cố độc tài chuyên chế, khẳng định độc tài, phản dân chủ là "đúng đắn", "hợp lòng dân"; lấy sự phát triển và phồn vinh của kinh tế thị trường làm thành quả của chủ nghĩa xã hội, coi đó mặc nhiên là chủ nghĩa xã hội. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, của những thập kỷ 60,70,80 là đấu tranh giai cấp quyết liệt nhằm tiêu diệt chủ nghĩa tư bản, tiêu diệt kinh tế cá thể, tư nhân, tiêu diệt giai cấp người bóc lột người; còn chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của thập kỷ cuối 80 và đầu 90 hiện nay là đuề huề, thoả hiệp, hợp tác, thậm chí liên minh giai cấp nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản - phục hồi kinh tế cá thể, tư nhân, tư bản chủ nghĩa trong nước và cho tư bản nước ngoài vào đầu tư kinh doanh kiếm lời; đặc biệt đã dựa hẳn vào các nước tư bản phát triển nhất để "xây dựng chủ nghĩa xã hội"? Do đó, Việt Nam giống như cá đã "mắc câu", càng vùng vẫy thì "mắc câu" càng sâu tức càng khẳng định "kiên trì chủ nghĩa xã hội" thì càng đi sâu vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản mà không có sức mạnh nào cưỡng lại được.
Tất nhiên, chấp nhận và phát triển kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa của Việt Nam đã tạo điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nền chính trị đa nguyên - dân chủ đa đảng. Bởi vì qui luật vận động khách quan vẫn là: kinh tế nào, chính trị ấy - kinh tế độc tài đi liền với chính trị độc tài; kinh tế tự do đi liền với chính trị tự do; chớ không thể kinh tế tự do tư bản chủ nghĩa lại đi liền với chuyên chính độc tài vô sản được.
Cả thế giới tư bản chủ nghĩa nhiệt liệt hoan nghinh Việt Nam đổi mới và mở cửa vì Việt Nam đang tiến mạnh vào quỹ đạo kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do đó, nhiều nước tư bản sẵn sàng viện trợ, cung cấp tín dụng cho Việt nam, đầu tư vào Việt nam để cho Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường tư bản chủ nghĩa không những về kinh tế mà cả về chính trị. Bởi vì các nước tư bản nói trên đi vào Việt Nam bằng hai chân: kinh tế và chính trị, không những bằng đô la, máy móc thiết bị tối tân, hàng hoá, chuyên gia giỏi,... mà có cả vấn đề dân chủ, nhân quyền. Cho nên đừng có ai đó ngây thơ nghĩ rằng "họ" chỉ được quyền đến Việt Nam bằng kinh tế thôi. Kinh tế luôn luôn là tiền đề của chính trị. Sức mạnh toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự của thế giới tư bản cũng sẽ tác động rộng khắp trên các lĩnh vực của Việt nam, thúc đẩy Việt nam đổi mới triệt để, sâu sắc, chớ không phải đổi mới nửa vời như hiện nay.
Dựa vào vũ lực để củng cố chuyên chế độc tài đồng thời uy hiếp một dân tộc suốt 30 năm cầm súng chống ngoại xâm, sự thách thức ấy liệu sẽ dẫn đến hậu quả gì? Các chế độ độc tài thường xô đẩy đất nước vào thảm hoạ nội chiến. Gương Áp-ga-ni-xtan, Ê-ti-ô-pi, Nam Phi,...vẫn còn sờ sờ đó.
Điều tủi nhục cho dân tộc Việt Nam - dân tộc anh hùng lừng danh khắp thế giới - cuối cùng lại là dân tộc bị kềm kẹp nặng nề nhất, không có được một chút quyền dân chủ tự do (ngôn luận, báo chí, tư tưởng, quan điểm, mít tinh, biểu tình, đình công...)
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên của Liên Hiệp Quốc, là nước đã ký vào bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Nhưng Việt Nam không thực hiện bản tuyên ngôn ấy và không hề cho nhân dân Việt Nam biết rõ Bản Tuyên Ngôn, bưng bít suốt mấy mươi năm. Điều đó chỉ ra rằng Đảng cộng sản và chánh phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đã biểu thị sự khinh thường của mình đối với Liên Hiệp Quốc và với cả dân tộc Việt Nam, với nhân dân thế giới. Vậy Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có xứng đáng là thành viên của Liên Hiệp Quốc không ?
Mặc dù luôn luôn tự xưng là "Đảng tiền phong, giải phóng dân tộc", nhưng suốt mấy mươi năm cầm quyền của Đảng là mấy mươi năm Đảng đã tước đoạt các quyền dân chủ tự do cơ bản của nhân dân, giam hãm nhân dân trong mê muội, tối tăm; từ đó đã mặc nhiên tạo nên sự khiếp sợ Đảng rộng khắp cả nước kể cả trong cán bộ đảng viên lâu năm, không khác gì sự khiếp sợ của nhân dân đối với các triều đại vua chúa ngày xưa. Cho nên trước những sai trái của Đảng, nhiều người lặng thinh không dám có ý kiến vì quá sợ Đảng. Đó là hậu quả tai hại nhất, nghiêm trọng nhất của chế độ độc tài, độc đảng ở Việt Nam.
Rõ ràng, Đảng cộng sản Việt Nam với hơn 60 năm lãnh đạo cách mạng và do không biết tự sám hối, nhạy cảm trước biến đổi của lịch sử, ngày nay đã tự biến mình trở thành chướng ngại lớn trên con đường phát triển đi đến văn minh của dân tộc Việt Nam.
Dân chủ tự do đối với loài người, mọi dân tộc trên thế giới như cơm ăn, nước uống, không khí để thở, tức con người muốn sống phải có dân chủ tự do; chớ không phải chỉ có những người ở phương Tây (Anh, Pháp, Đức,...) mơí cần có dân chủ tự do. Nhân dân Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Á, Châu Úc đều bức bách đòi hỏi phải có dân chủ tự do vì đó là sự sống. Chỉ có ở nước nào mà chế độ độc tài, phát xít được thiết lập thì ở đó mới không có dân chủ tự do và nhân dân phải sống lầm than, tủi nhục, đầy lo âu, sợ hãi.
Phải chăng Đảng cộng sản Việt nam đả kích mạnh dân chủ phương Tây để tiếp tục tước đoạt quyền dân chủ tự do của nhân dân Việt Nam hay đã đến lúc phải kịp thời thức tỉnh, sám hối và mau chóng hoàn trả lại cho nhân dân các quyền dân chủ tự do thật sự của họ ?
Nguyễn Hộ
Nguồn: Nguyễn Hộ, Quan điểm và cuộc sống, phần III. Nxb. Tin, Paris, 1994
Nguồn: Nguyễn Hộ, Quan điểm và cuộc sống, phần III. Nxb. Tin, Paris, 1994