(TuanVietNam) - Nghĩ về đất nước thấy trách nhiệm, nhìn ra thế giới thấy ước mơ. Bài viết của TS. Vũ Minh Khương nhằm thể hiện dũng khí của người Việt ta trong giai đoạn đầy thử thách hiện nay.
Chuyện xưa kể rằng: Trong một trận đánh quyết liệt có tính sống còn, nhưng quân sĩ cứ lui dần, lui dần đến bờ sông. Để thể hiện ý chí quyết tâm, các vị tướng đã quyết định chặt đi cây cầu duy nhất để không còn đường rút. Sau đó, khi giặc đến, tất cả đều hét vang xông lên can trường chiến đấu với ý chí vô song. Trận đánh thắng lợi và quyết định của các vị tướng khi đó đã trở thành một bài học lịch sử cho sự phát triển. |
I. Định lượng nỗi đau dân tộc:
Mỗi con người khi thấy dân tộc mình ở vào vị thế thấp kém so với tiềm năng đều mang trong mình một nỗi đau. Nỗi đau này dù không ai giống ai hoàn toàn và không thể đo đếm chính xác. Thế nhưng, nó cũng có thể ước định được ở một chừng mực nhất định. Dưới đây là một phương cách đơn giản.
Mỗi người hãy tự trả lời bốn câu hỏi sau:
-
Chúng ta có thấy xót xa hổ thẹn về vị thế hiện nay của dân tộc mình không?
-
Chúng ta có thấy lo lắng cho tương lai của đất nước mình không?
-
Nếu có cơ hội, thế hệ chúng ta có đủ sức đưa dân tộc mình đến một vị thế vẻ vang (hơn mức hiện nay rất nhiều) không?
-
Cơ chế hiện thời có cho bạn làm được điều mà bạn hết lòng khao khát làm cho đất nước mình không?
Với mỗi câu hỏi, câu trả lời “có” được điểm 1 và câu trả lời “không” được điểm 0. Theo cách này, nỗi đau dân tộc của mỗi con người được đo bằng tổng số điểm của ba câu hỏi đầu trừ đi điểm của câu hỏi 4. Ví dụ, người mà câu trả lời là “có” cho cả ba câu hỏi đầu và “không” cho câu hỏi 4 sẽ có mức đau bằng 3 (1+1+1-0=3); đó là nỗi đau ở mức tột cùng. Trái lại, người mà câu trả lời là “không” cho cả ba câu hỏi đầu và “có” cho câu hỏi 4 sẽ có mức đau bằng -1 (0+0+0-1= -1); trong trường hợp này, người trả lời không có nỗi đau gì và thấy rất hài lòng với hiện tại.
Trong tập thể hàng triệu người, mức đau này có thể khác nhau, nhưng có lẽ, nhiều người cùng chia sẻ một cảm nhận là mức đau trung bình của hàng triệu người Việt chúng ta cũng không thấp hơn quá xa so với mức tột cùng nói trên. Người viết bài này mong rằng Ban chấp hành trung ương Đảng và Quốc hội khi có dịp hội họp có tổng hợp và báo cáo với quốc dân đồng bào nỗi đau này của mình. Nếu mọi người thấy không đau mà lại tự hào vì thấy dân mình được “xếp hạng hạnh phúc hàng đầu thế giới”[1] thì cũng là điều đáng suy nghĩ lắm.
II. Định lượng nguy cơ mất nước:
Một thước đo khác có tính cấp bách hơn là về nguy cơ mất nước. Người xưa gợi ý ba thước đo về nguy cơ mất nước của một quốc gia:
-
Thứ nhất, người trên sai mà quan chức dưới đều nín lặng.
-
Thứ hai, người được giao trọng trách không thấy việc mình đảm nhận là thiêng liêng và gian khó mà lại coi đó là đặc quyền đặc lợi để vinh thân, phì gia, và kết bè kéo cánh hưởng lộc.
-
Thứ ba, người người đua chen, từ quan đến dân, lao vào cách làm ăn chụp giật và vụ lợi cá nhân trong sự xem thường đạo lý và sự tê liệt lòng tin vào công lý.
Theo người xưa, nếu điều 1 là đúng thì nước này đang ở vào thế suy vi; nếu điều 2 là đúng thì nước này sẽ khốn khó trong sự chia rẽ lục đục; nếu điều 3 là đúng thì nước này sắp loạn. Nếu cả ba điều trên đều đúng thì nước mất đến nơi rồi. Ảnh minh họa: businessweek.com
III. Tình thế nước ta và đôi điều trăn trở
Ai đã sống ở nước Nhật chắc đều ấn tượng về sự sâu sắc và cẩn trọng trong hành xử của dân tộc này. Họ đã làm nên những điều kỳ vĩ trong cải cách Minh Trị trong nửa cuối thế kỷ 19 và sự vươn lên kỳ diệu từ đống tro tàn sau thế chiến thứ Hai.
Điều đặc biệt đáng nói là Nhật Bản đã và đang là quốc gia có sự đồng cảm và giúp đỡ Việt Nam nhiều nhất trong công cuộc phát triển vừa qua. Thế nhưng, dường như sự kỳ vọng cao của họ về một dân tộc Việt Nam có thể so sánh được với Hàn Quốc hay Nhật Bản có lẽ đang tắt dần. Quan sát động thái hợp tác của Nhật Bản với nước ta có thể giúp chúng ta thấy phần nào cảm nhận của bè bạn thế giới về tương lai của nước Việt chúng ta.
Năm 2006, tại Tokyo, Nhật Bản và Việt Nam có tuyên bố chung rất long trọng và ấn tượng khẳng định hai bên cam kết xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược[2]. Viện trợ của Nhật Bản cũng từ đó tăng lên.
Thế nhưng, Việt Nam, khác với những quốc gia và vùng lãnh thổ có công cuộc phát triển kỳ vĩ (như Hàn Quốc hay Đài Loan), viện trợ nhiều lên không làm chất lượng thể chế của chúng ta tốt lên, mà trái lại sa sút trong sự so sánh với thế giới (hình 1). Đáng buồn hơn nữa, tháng 12 năm 2008, Nhật Bản thông báo tạm ngừng viện trợ cho Việt Nam vì vấn đề tham nhũng và tin này công bố rộng rãi khắp thế giới.[3]
Hình 1. Việt Nam: Viện trợ Nhật Bản và chất lượng thể chế
Nguồn: số liệu về ODA Nhật bản (khoản cho vay) từ bộ ngoại giao Nhật bản; số liệu về hiệu lực chính phủ từ Ngân hàng Thế giới. (Click vào để xem hình lớn) |
Ví dụ trên cho thấy sự sa sút của chúng ta không phải do ai chống phá, mà chính do sự yếu kém trong hệ thống trước công cuộc phát triển của dân tộc.
Trong thực tế hiện nay, chúng ta không thể đổ lỗi cho cá nhân cụ thể nào mà phải thấy đây là “lỗi hệ thống” như nhiều người đã từng nêu ra. Bản chất của lỗi hệ thống là sự khủng hoảng về hệ thức tư duy[4]. Nguyên nhân gốc rễ của sự khủng hoảng này là do những định đề và thiết kế tổ chức kiểu cũ đã trở thành lực cản cho quá trình nhận thức của tư duy và cải biến của xã hội sang khung thức vận hành mới.
Nếu hệ thống quản trị xã hội không chủ động tạo sự chuyển dịch có tính hồi sinh sang khung thức phát triển mới thì xã hội chắc chắn sẽ trải qua giai đoạn khủng hoảng trong sự suy tàn của hệ thống cai trị hiện thời. Trái lại, nếu hệ thống biết chủ động nắm bắt qui luật, mạnh dạn bước vào công cuộc hồi sinh thì nó có thể bước vào trạng thái khởi phát (xem Bảng 1 dưới đây).
Bảng 1. Đặc trưng Hệ thống trong Lựa chọn Chuyển đổi: Suy tàn hay Khởi phát
Tiêu chí | Suy tàn | Khởi phát |
Tầm nhìn | Bị che mờ bởi hào quang quá khứ và sự lú lẫn của tư duy cũ được gia cường bởi lợi ích cá nhân và phe nhóm. | Hướng về khát vọng tương lai chia sẻ sâu sắc bởi mọi tầng lớp nhân dân. Đó là ước mơ đời đời thúc giục, người người khao khát. |
Chiến lược | Mơ hồ; chủ yếu xoay xở để giữ ổn định bằng cách gia cường các chốt hãm tạo bởi những định đề có từ quá khứ. | Dựa trên sự trỗi dậy của nguyên khí dân tộc trong tầm nhìn thời đại và ý thức trách nhiệm với tương lai. |
Phong cách lãnh đạo | Sự vụ, đối phó, né tránh sự thật. | Khơi dậy sự phấn khích của toàn dân bằng hoài bão lớn, phẩm chất hiến dâng, sự trân trọng từng con người, và khả năng qui tụ hiền tài. |
Văn hóa tổ chức | Mọi người, dù là có chức vụ cao đều thấy không có quyền lực. Trong đáy lòng, thực tế không còn những giá trị thiêng liêng để tôn thờ. Ngậm miệng ăn tiền. Hệ thống không ghi nhận đóng góp hay qui trách nhiệm cho cá nhân về mỗi nỗ lực thực hiện. | Ai ai cũng thấy trách nhiệm và khả năng đóng góp của mình vào sự nghiệp chung. Mọi người đều chia sẻ những giá trị thiêng liêng gắn với tiền đồ và danh dự dân tộc Vai trò cá nhân được đặc biệt coi trọng. Mỗi mặt trận đều có vị tướng lĩnh xuất chúng. |
Vận hành của hệ thống | Thụ động, thúc thủ, thậm chí tê liệt (trên bảo dưới không nghe) | Có định hướng mạnh mẽ vào các mục tiêu chiến lươc; sáng tạo, cộng hưởng, và hợp tác gắn bó. |
Hệ thống thông tin | Mập mờ, sai lệch, thậm chí bị ém nhẹm, giấu giếm | Minh bạch, chính xác, có hệ thống với chất lượng và khả năng tiếp cận ngày một nâng cao với sự phản hồi và đóng góp chặt chẽ của công dân. |
Sử dụng nguồn lực | Phung phí, dàn trải. Luôn cảm thấy thiếu hụt tài chính và nguồn lực vật chất; trong khi coi thường giá trị con người. Vô thức trong việc lãng phí tài nguyên và vay nợ nước ngoài. | Tiết kiệm, chiến lược, và tập trung trong sử dụng nguồn lực. Trọng dụng người tài để nguồn lực luôn đến dồi dào, sinh sôi và phát huy mạnh mẽ. Chỉ dùng đến tài nguyên và nợ nước ngoài cho những mục tiêu đặc biệt chiến lược và tính thấu đáo mọi hậu quả của nó. |
IV. Làm gì để vượt lên
Không ít bè bạn đã có thời tin rằng, Việt Nam là một dân tộc có tinh thần quật khởi và là một ứng viên làm nên những kỳ tích phát triển ở nửa đầu thế kỷ 21. Trong thế kỷ 21 này, động lực cho sự phát triển thần kỳ chỉ có thể có được nếu ba điều kiện sau hội đủ:
1- Toàn dân tộc đồng tâm trong khát vọng vươn lên sánh vai các dân tộc vẻ vang của thời đại.
2- Hiểm họa an ninh quốc gia ngày càng gay gắt.
3- Hệ thống chính trị nhận thức được lòng dân là ánh sáng mặt trời và văn minh nhân loại là qui luật của trời đất. Trong nhận thức đó, lãnh đạo phải là người có thể ngẩng cao đầu đón ánh mặt trời của lòng dân và lái con thuyền dân tộc vượt qua biển cả trong sự thuận hòa của qui luật trời đất.
Kinh nghiệm của Indonesia với thắng lợi vang dội của Tổng thống Yudhoyono trong cuộc bầu cử toàn dân đầu tháng 7 vừa rồi là điều đáng suy nghĩ. Ông được đánh giá là đã làm xuất sắc cương vị tổng thống trong 7 năm qua (2002-2009) với nỗ lực ấn tượng trong củng cố nền móng phát triển của Indonesia và chương trình chống tham nhũng với lời nói và hành động nhất quán và mạnh mẽ.
Cũng nhờ vậy mà trong mấy năm qua, Indonesia đã vượt lên từ sự sa sút sau sụp đổ của chính quyền độc tài Suharto và trở thành quốc gia tăng trưởng nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á trong những tháng đầu năm 2009. Cũng trong bối cảnh dân chủ sống động, ở Malaysia, Thủ tướng mới Najib nhận được sự đồng thuận cao của người dân (65% tín nhiệm) sau 100 ngày cầm quyền nhờ những cải cách đặc biệt ấn tượng.
Trong nỗ lực cải cách hệ thống ở Việt Nam, với xu thế tất yếu hướng tới một nền dân chủ do dân và vì dân, chúng ta trước hết cần đặc biệt chú ý áp dụng một số cải tiến kỹ thuật, tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa cực kỳ then chốt. Dưới đây là hai ví dụ nhỏ.
Ảnh minh họa: businessweek.com |
1- Lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử
Trong bối cảnh không dễ dàng đổi thay một cơ chế hay một hệ tư duy, việc lưu trữ và minh bạch thông tin lịch sử có tác dụng quan trọng.
Bài học này có từ kinh nghiệm của Tổng thống Abraham Lincoln khi ông còn là một luật sư. Khi đó nước Mỹ có luật là người lớn không thể đòi khoản nợ mà người vị thành niên vay mình. Điều luật này lập tức bị nhiều nhiều thiếu niên lạm dụng: họ vay tiền rồi từ chối trả nợ. Nhiều chủ nợ cay đắng chấp nhận vì luật pháp không ủng hộ họ.
Trong tình thế này, luật sư Lincoln cũng không có cách nào khác để giúp thân chủ của mình đòi nợ ngoài việc đề nghị tòa án lưu giữ hồ sơ là cậu thiếu niên này đã quỵt nợ và ghi rõ cậu đó sẽ không bao giờ được coi là người lớn nếu không trả món nợ này. Lo sợ về đề xuất này được thực hiện, cậu thiếu niên này và gia đình đã vội vã xin trả món nợ và tình trạng quỵt nợ kiểu này từ đó không còn nữa.
Bài học này cho thấy, con người ta sẽ thường chỉ có hành vi lạm dụng khi trốn lủi được sự phán xét. Do đó, chúng ta đề nghị có đạo luật để Đảng, Quốc hội, Nhà nước, và Chính phủ phải lưu trữ thật tốt mọi luận bàn và quyết định quan trọng về chính sách phát triển và bổ nhiệm nhân sự để toàn xã hội được biết trong một thời hạn sớm nhất có thể. Khi đó, ai đề xuất hay quyết định những việc gì, dù tốt đẹp cho dân cho nước hay làm hại dân hại nước; dù đề bạt người hiền tài hay nâng đỡ kẻ tham nhũng sẽ đều được sự phán xét nghiêm minh của lịch sử.
2- Lựa chọn và đánh giá lãnh đạo dựa trên phân loại khoa học
Việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo và chủ chốt có ý nghĩa sống còn với công cuộc phát triển. Công việc hệ trọng này nên dựa trên một sự phân loại khoa học, có hệ thống. Tối thiểu cần dựa trên hai tiêu chí: Phẩm chất hiến dâng và Tư duy cải cách. Trên mỗi tiêu chí, cho điểm từ 1 đến 5 (1=rất thấp so với mức trung bình; 2=thấp hơn mức trung bình; 3=mức trung bình; 4=cao hơn mức trung bình; 5=vượt xa mức trung bình).
Để lựa chọn người cho một cuộc bầu cử chính thức, một tổ chức (dù là Đảng, Quốc hội, hay Chính phủ) nên có phân loại khoa học theo hai tiêu chí trên. Ví dụ: (i) Ban Chấp Hành Trung ương đánh giá về các ủy viên Bộ Chính trị hiện tại hoặc các ủy viên dự kiến cho khóa tới; (ii) Quốc hội đánh giá các bộ trưởng và các vị giữ trọng trách cao hơn.
Hình 2: Phân loại và đánh giá cán bộ chủ chốt
Click vào để xem hình lớn.
Tổng hợp đánh giá của cả tập thể về một cán bộ chủ chốt sẽ cho phép phân loại cán bộ theo hình vẽ 2 nêu trên.
Theo đó, chỉ người có mức điểm trung bình cao (nghĩa là trên 3,0) trên cả hai tiêu chí: “Phẩm chất hiến dâng” và “Tư duy cải cách” (ô I) mới được lựa chọn vào bầu cử cho các cương vị cao như ủy viên Bộ chính trị hay bộ trưởng và các vị trí cao hơn. Đảng và Quốc hội, nếu muốn có lòng tin của dân cần công khai các chỉ số này cho cán bộ chủ chốt ở cả Trung ương và địa phương.
Theo đánh giá của nhiều người, có nhiều cán bộ chủ chốt của ta ở ô III (có năng lực nhưng cơ hội, tham nhũng) và ở ô IV (vụ lợi cá nhân, bảo thủ). Điều đặc biệt đáng nói là cách đánh giá này không chỉ xác đáng còn tạo động lực để mỗi cán bộ đều tự rèn luyện và tốt hơn lên. Mục tiêu cuối cùng của chúng ta là, tất cả những ai được đứng trong hàng ngũ lãnh đạo, thậm chí chỉ là cán bộ trong bộ máy nhà nước, đều phải ở ô I với độ tin cậy cao của toàn dân về phẩm chất hiến dâng và tư duy cải cách.
V. Thay lời kết
Khó khăn trong quyết định của mỗi người chúng ta hôm nay không phải là làm cách gì để đất nước tiến lên mà là làm gì để chúng ta không lùi tiếp nữa, bởi đường lùi của chúng ta còn rộng rãi thênh thang lắm.
Ông cha chúng ta để lại cho chúng ta đất đai ở vị thế đẹp và nhiều tài nguyên quí quí giá. Thế giới lại thương cảm chúng ta đã trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt. Thế hệ chúng ta chỉ cần cho nhượng thuê đất trong các dự án đầu tư dễ dãi, bán tài nguyên, và vay nợ quốc tế cũng đủ sống xênh xang được 20-30 năm nữa. Ta nhượng đất của ông cha làm sân golf và dân ta sẽ không thể đói nhờ nghề nhặt bóng và đánh giày. Mỗi chúng ta, dù sao hãy cùng trả lời một câu hỏi day dứt: Dân tộc Việt Nam ta hôm nay có đủ lòng quả cảm “chặt cầu để tiến lên không?”
-
TS. Vũ Minh Khương (Đại học Quốc gia Singapore)
Bài cùng tác giả: | |
Nhà nước kiến tạo phát triển phải từ quyết tâm chiến lược | |
Bàn thêm về mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển | |
Nền móng phát triển và mệnh lệnh cải cách |
[1] Tổ chức New Economic Foundation vừa đưa ra xếp hạng chỉ số hạnh phúc năm 2009, trong đó Việt Nam xếp hạng 5. Điểm tốt của cách xếp hạng này là khuyến khích các nước tiêu dùng ít vật chất hơn. Điểm hạn chế là phương pháp dễ gây ngộ nhận cho các nước nghèo. Thứ nhất, họ dùng khảo sát mức độ hài lòng với cuộc sống thực hiện năm 2005 (nghĩa là 5 năm trước đây) và khảo sát này chủ yếu dựa vào một nhóm nhỏ người sống ở thành phố. Thứ hai, họ chia chỉ số hài lòng cho lượng vật chất tiêu dùng; nói một cách nôm na, chỉ số hài lòng của người Mỹ là 8 nhưng vì họ đi ô tô nên chỉ số hạnh phúc của họ thấp hơn Việt Nam với chỉ số hài lòng là 6,5 nhưng đi xe máy.
[2] “Japan-Vietnam Joint Statement: Toward a Strategic Partnership for Peace and Prosperity in Asia”; October 19, 2006; Ministry of Foreign Affair, Japan; URL: http://www.mofa.go.jp/region/asia-paci/vietnam/joint0610.html, xem ngày 11/07/2009.
[3] “Japan Suspends Aid to Vietnam, Citing Corruption”; URL: http://www.bloomberg.com/apps/news?pid=20601080&sid=aTIhAZGLZ2Ko&refer=asia, xem ngày 11/07/2009
[4] Xem thêm Elgin, D. (1977), "Limits to the management of large complex systems", Assessment Of Future National and International Problem Areas, Stanford Research International, Palo Alto, CA.
-------------
Phản biện bài viết "Việt Nam: Chặt cầu để tiến lên?"
Các lập luận và tiêu chí anh Khương đưa ra để đánh giá vấn đề phát triển của VN giống như một sự thừa nhận rằng có một nguyên tắc phát triển đúng đắn nào đó làm khuôn mức cho Việt Nam. Rằng chỉ cần theo những nguyên tắc anh Khương đề ra là VN sẽ phát triển tốt đẹp.
Trong khi đó, mỗi một xã hội trên thế giới đều đi theo những con đường hoàn toàn không giống nhau, kể cả những nước phương Tây với lịch sử và XH tương đồng. Con đường phát triển của mọi quốc gia đều bị giới hạn mạnh mẽ bởi vị trí của nó trên thế giới, hoàn cảnh lịch sử, và năng lực của xã hội.
Nói rằng có một phương thuốc tổng hợp, hữu hiệu để một quốc gia phát triển là quá chủ quan, là quá xem thường tính phức tạp của xã hội. Điều này có nghĩa rằng, mọi mặt của xã hội VN đều là hệ quả của hệ thống kinh tế chính trị, và chỉ có thể vươn đến những cải cách trong giới hạn có thể có được.
Nếu nhìn phiến diện, ta sẽ thấy có nước có thể cải cách nhanh hơn, có nước hội nhập nhanh hơn, và kết luận rằng sự sáng tạo của lãnh đạo và chính sách NN đúng đắn của họ đóng vai trò chính. Nhưng thực ra, các nước trên có thể làm như vậy chẳng qua là do cái thế và nội tình của họ cho phép các diến biến trên diễn ra xuôn xẻ. Chính sách và lãnh đạo chỉ là sự cụ thể hóa của cái thế và cái nội lực đặc trưng của chế độ.
Nhìn vào VN, có thể thấy đã có nhiều chính sách, chủ trương tiến bộ được trên đề ra, ấn xuống thi hành, nhưng vì những hạn chế cơ bản của nó, rất ít vấn đề được thực hiện đến nơi đến chốn, mà thường bị méo mó đi.
Đối với vấn đề phức tạp như tổ chức nhà nước và phát triển quốc gia, các yếu tố đều có sự liên hệ và ảnh hưởng qua lại với nhau. Mọi sự nhận định phiến diện không thấu đáo đều có thể dẫn đến những hệ quả dây chuyền; mọi thay đổi gượng ép áp đặt, không phù hợp đều không bền vững;
Do đó, đi theo con đường cách mạng, tiến hành thay đổi triệt để theo một học thuyết hay cách nhìn nào đó, dù được tán dương đâu đó, là hành động rất nguy hiểm với đất nước. Lịch sử phát triển của nhiều quốc gia cho thấy chấp nhận các yếu tố lích sử để lựa từng bước phát triển là phương pháp bền vững nhất. Sử dụng các liều thuốc "kích thích" dù dựa vào chủ thuyết hay tinh thần dân tộc chủ nghĩa đều sớm tàn lụi với những di chứng nặng nề.
Do đó, với Việt Nam, con đường đúng đắn nhất là tiếp tục hoàn thiện sự hoạt động và tính hiệu quả của mọi bộ phận trong hệ thống.
Tôi không tin lời anh Khương cho rằng VN đang đứng trước bờ vực của hỗn loạn và mất nước. Những thói xấu, vấn nạn bị lên án ngày càng nhiều chỉ càng chứng tỏ sự trưởng thành của xã hội và sự tự do hóa tư tưởng. Đó là một dấu hiệu tích cực làm sức ép cho thay đổi.
Nếu tìm hiểu từng lĩnh vực nhỏ, cụ thể, ta sẽ thấy là còn có rất nhiều khoảng không để hoàn thiện và để phát triển. Chưa có gì đạt đến được độ chín muồi và hoàn thiện của nó, vì thế, còn quá sớm để nói rằng hệ thống hiện có hoàn toàn không thích hợp và cần sự thay đổi mang tính cách mạng.
Điều đáng lên án nhất của chế độ hiện nay, với những biểu hiện bắt bớ gần đây, là chủ trương mà những người có tâm huyết, theo đường lối cải cách, có thể hiểu là sự dùng vũ lực, hệ thống an ninh để kiểm soát những tiếng nói ôn hòa, phơi bày các mặt hạn chế của chế độ.
Nếu áp chế như thế, các tư tưởng tiến bộ sẽ không thể nảy sinh. Nếu còn tồn tại các khoảng "cấm", chế độ hiện nay của VN sẽ không có cơ hội tự cải tổ mình, sẽ đánh mất niềm tin của xã hội, khiến mọi người ngày càng trở nên bất tuân các quy ước và luật lệ chung.
Khi mọi quy ước văn minh của xã hội bị xâm phạm vì nhiều người tin rằng họ sẽ bị thiệt thòi khi tuân theo luật lệ, vì chính quyền không tạo ra luật lệ xác đáng, không tôn trọng và bảo vệ luật lệ, cả xã hội sẽ cùng là nạn nhân, mà hệ quả là sự hỗn loạn, bế tắc, chụp dựt, chậm phát triển.
Tóm lại, bài viết của anh Khương tích cực ở chỗ tiếp hơi ấm cho các nỗ lực cải cách, nhưng những luận điểm anh Khương đề ra là sự đơn giản hóa quá mức tình hình cũng như biện pháp phát triển cho Việt Nam.
Điều quan trọng nhất, việc cho rằng Việt Nam cần tinh thần "cách mạng" để cải cách và phát triển, theo tôi, là quan điểm sai lầm. Việt Nam chỉ cần tôn trọng, tạo điều kiện cho các nỗ lực cải cách cụ thể với từng lĩnh vực, vấn đề cụ thể là đủ. Càng bỏ cái vòng kim cô "tinh thần tập thể" đi được bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhà Nước chỉ cần bỏ đi mọi khoảng "cấm" trong tranh luận chỉ trích, tự khắc chân lý sẽ được xác định, và mọi vấn đề của XH, KT sẽ được bàn thảo giải quyết thấu đáo.