Thứ Tư, 2 tháng 9, 2009

NHÀ BÁO ĐOAN TRANG VÀ NHỮNG BÀI VIẾT TRÊN BLOG

NHÀ BÁO ĐOAN TRANG VÀ NHỮNG BÀI VIẾT TRÊN BLOG

Ném đá hội nghị
Biết chắc chắn là sau khi viết bài này, sẽ có ít nhất một người bảo mình là “ngu như chó”. So sánh thế không đúng đâu, vì chó khôn và trung thành, còn Trang the Ridiculous thì vừa dại vừa phản trắc, chẳng thích “trung” với ai cả. Vậy nên cứ viết và bốt bài lên đây vậy. Muôn năm cái anh Internet!

*
* *

QUỐC HỘI TA HIỀN THẬT!
Tuần đầu tiên của kỳ họp thứ năm, Quốc hội (QH) khóa XII, vừa kết thúc với một loạt vấn đề được đặt lên bàn nghị sự, thảy đều là các vấn đề được dư luận quan tâm. Rõ ràng là QH đang ngày càng gần với vai trò đại diện cho người dân. Nhưng bên cạnh đó, những ngày họp cũng cho thấy, vẫn còn nhiều điểm phải được “chuyên nghiệp hóa” để có một QH chất lượng hơn.


* “Gãi trúng chỗ ngứa” của dân

Dường như, trong lịch sử hoạt động của QH từ năm 1946 tới nay, không nhiều kỳ họp của QH thu hút sự chú ý của dân chúng như khóa XII này: suốt từ chủ trương sát nhập Hà Nội – Hà Tây tới chủ trương khai thác bô-xít Tây Nguyên, mỗi chủ trương được đưa ra trước QH khóa XII đều là một lần được người dân nơi nơi quan tâm đặc biệt, từ quán nước tới công sở.
Chỉ mới tuần đầu tiên, kỳ họp thứ năm của QH khóa XII đã đặt lên bàn nghị sự nóng bỏng nhiều vấn đề, mà nổi lên là chủ trương khai thác bô-xít Tây Nguyên của Chính phủ (CP).
Với việc vấn đề này được bàn thảo “nóng sốt” ngay trong tuần đầu, có thể thấy QH đã và đang “gãi trúng chỗ ngứa” của người dân và vì thế, đang ngày càng tỏ ra có vai trò trong đời sống chính trị của đất nước. Ít nhất, cũng làm người dân bớt đi cảm giác “QH nhà mình hình như toàn… nghị gật”: Chủ trương đã quyết, CP chỉ báo cáo, QH không có quyền.
Không chỉ với dân chúng trong nước, QH cũng đã thể hiện sự quan tâm đến cộng đồng mấy triệu người Việt hải ngoại, qua việc đưa lên bàn nghị sự hai vấn đề quan trọng: nhà ở cho Việt kiều và bảo vệ quyền lợi công dân Việt Nam ở nước ngoài.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thấy rõ đó, QH cũng để “lộ” ra một vài khía cạnh cần chuyên nghiệp hóa.

* QH ta hiền khô...

Về chủ trương khai thác bô-xít Tây Nguyên, dư luận hể hả khi thấy có những đại biểu QH tỏ ra quyết liệt: QH “muốn CP gửi báo cáo riêng về bô-xít ngay trong tuần này” (tức là tuần làm việc đầu tiên của kỳ họp).
Ví dụ, đại biểu Đặng Huyền Thái, Phó Chủ tịch Ủy ban (UB) Mặt trận Tổ quốc TP Hà Nội, đề nghị “CP và QH phải cung cấp đầy đủ thông tin cho đại biểu nắm được tình hình, nếu cần thì phải chất vấn cho rõ chuyện”.
Và quả thực là ngày 23-5 (ba ngày sau khi khai mạc kỳ họp), CP đã có báo cáo gửi QH về việc triển khai các dự án bô-xít.
Sẽ không có gì đáng nói nếu như các đại dự án bô-xít không thuộc về một chủ trương lớn của đất nước, rất phức tạp về chuyên môn trên tất cả các mặt khoa học, kinh tế, xã hội, an ninh - quốc phòng. Như vậy, một cách… khoa học thì đại biểu QH cần được báo cáo kỹ từ trước khi kỳ họp khai mạc, thay vì ngồi vào họp rồi mới quyết liệt đề nghị CP gửi báo cáo.
Và người dân có thể lo lắng: trong một vài ngày họp (dĩ nhiên không kéo dài câu chuyện bô-xít tới một tháng QH họp), các đại biểu QH, với tầm hiểu biết chuyên môn hạn chế trong một lĩnh vực đặc biệt phức tạp là công nghiệp khai thác khoáng sản, sẽ xử lý ra sao với một bản báo cáo dài dằng dặc, đòi hỏi thời gian đọc, hiểu, nghiền ngẫm, suy xét?
Trước đó, bên cạnh những đại biểu bày tỏ “mong muốn” CP chuẩn bị một báo cáo chuyên đề để đệ trình, Chủ nhiệm UB Quốc phòng và An ninh của QH Lê Quang Bình cũng đã “nhắn” Bộ trưởng Kế hoạch - Đầu tư Võ Hồng Phúc, “nhắc” CP “ngay trong tuần này phải có báo cáo riêng về bô-xít gửi tới các đại biểu”.
Việc này CP đã giao Bộ Công thương rồi”, ông Võ Hồng Phúc đáp.
Thật ra thì, một QH “nghiêm khắc” sẽ không phải “mong muốn”, “nhắn nhủ” gì CP cả, mà là yêu cầu giải trình trước một thời hạn cụ thể, và CP phải gửi báo cáo từ trước khi họp, cũng như phải chỉ định rõ ràng ngay từ đầu rằng Bộ nào sẽ thực hiện công việc này.
Cách làm đó xem chừng hợp lý hơn là việc CP để QH ngồi vào bàn họp rồi mới đệ trình báo cáo, đẩy các đại biểu vào thế “nước đến chân mới nhảy”, việc đến cổ mới quyết, rồi Bộ này “kính chuyển” nhiệm vụ cho Bộ kia, v.v…
Từ vài chuyện nho nhỏ như vậy, có thể rút ra một nhận xét cũng nho nhỏ như thế, là: QH ta… hiền thật!

*... Và xuề xòa nữa

Cơ quan đại diện ngoại giao phải bảo vệ công dân Việt Nam”. Đây cũng là vấn đề được các đại biểu QH mổ xẻ mạnh mẽ khi bàn về dự luật cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Điều này quan trọng và kể ra cũng là một nội dung hấp dẫn của kỳ họp QH, ngoài chuyện nó là một việc tưởng chừng như hiển nhiên: cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, không bảo vệ công dân Việt Nam thì còn bảo vệ ai?
Sự việc gợi nhớ lại một chuyện phiếm ngày trước, khi có đại biểu nêu vấn đề “người bị án tù phải vào tù”. Bởi lẽ, đại biểu này quá bức xúc trước tình trạng nhiều kẻ bị tòa kết luận phải ngồi tù rồi vẫn… tung tăng ở ngoài.
Dù sao, đây cũng không phải là “lỗi” của QH. Chỉ có điều, vấn đề cho thấy QH của chúng ta đang phải dành quá nhiều thời gian cho những việc lẽ ra không cần bàn mà mặc nhiên là phải được thực hiện từ rất lâu.
Các ĐSQ cố nhiên là có chức năng đại diện cho Nhà nước và bảo vệ quyền lợi của công dân nước mình. Thế nhưng, từ trước đến nay, nhiều tòa đại sứ Việt Nam ở nước ngoài dường như chỉ có nhiệm vụ cấp hộ chiếu, làm giấy tờ đăng ký kết hôn, hoặc đứng ra vận động các phong trào, hô hào các dịp lễ lạt, chứ chức năng “bảo vệ” kia không thấy có, hoặc rất nhạt nhòa.
Về chuyện này, chính Phó Chủ nhiệm UB Quốc phòng và An ninh của QH Trần Đình Nhã kể, có lần đi công tác nước ngoài, ông đã chứng kiến công dân Việt Nam bị giam tới 2-3 năm nhưng sứ quán Việt Nam vẫn không hay biết (!)
Điều đáng nói ở đây là công dân Việt Nam có khi cũng không biết mình được hưởng quyền “kêu cứu tới sứ quán”. Vậy, nếu họ bị bắt mà không kêu thì cơ quan đại diện cũng có lý do để không làm gì cả. Hòa cả làng!
Nghĩ mà thương, giá như QH ta bớt được thời gian dành cho những việc hiển nhiên như thế (nêu vấn đề “cơ quan đại diện ngoại giao phải bảo vệ công dân Việt Nam”), thì đã có thể dồn thì giờ ra quyết định, kiểm tra và giám sát trong nhiều lĩnh vực khác.
Mà muốn bớt thời gian cho những chuyện hiển nhiên phải được thực hiện như vậy, đã hẳn là QH cần “nghiêm khắc” hơn.

* Để QH “nghiêm khắc” hơn…
Trong những vấn đề cụ thể như chủ trương khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, sẽ là rất khó khăn cho các ĐBQH trong việc chất vấn, tranh luận về chuyên môn (với TKV và những người ủng hộ chủ trương này).
Như chính ĐB Dương Trung Quốc đã nói với “VietNamNet”: "Tôi là đại biểu QH mà còn chẳng biết mô tê ra làm sao. Ngay tại hội thảo do Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chủ trì, trong khi báo cáo phản biện được thực hiện bằng một cuộc điều tra tại thực địa của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam đưa ra con số lao động nước ngoài sử dụng visa du lịch khá cao, thì ông Phó Chủ tịch tỉnh sở tại chỉ đưa ra con số không bằng 1/10".
Trong điều kiện thiếu thông tin và kiến thức chuyên môn, QH hoàn toàn có thể đặt hàng một nhóm nghiên cứu độc lập để kiểm tra toàn bộ thông tin về đại dự án khai thác bô-xít, và tất nhiên, điều này sẽ đòi hỏi QH phải hoãn ra quyết định một thời gian. Có kiểm tra thì mới có thể ra quyết định và tiến tới giám sát (nếu dự án được thực hiện).
Tuy nhiên, điều đó đòi hỏi một quan hệ “rạch ròi” hơn, “dứt khoát” hơn giữa QH và CP. Sẽ khó có chuyện như ông Chủ nhiệm UB Quốc phòng và An ninh của QH Lê Quang Bình cho biết, rằng “Ủy ban Thường vụ QH và CP đã họp bàn và thống nhất báo cáo chung của CP về các vấn đề kinh tế - xã hội sẽ nêu một đoạn về bô-xít Tây Nguyên”.
Trên nguyên tắc (và theo Luật Tổ chức QH năm 2001), QH và UB Thường vụ QH không cần họp với CP để thống nhất báo cáo chung. Thay vì thế, CP có nghĩa vụ đệ trình báo cáo sớm, đúng hạn, để QH phán xét, kiểm tra và biểu quyết.
Ngoài ra, hoạt động hiệu quả của QH đòi hỏi sự chuyên nghiệp: đặt hàng cơ quan giám sát độc lập, nâng cao chất lượng đại biểu. Nếu ngay cả đến đại biểu cũng chưa ý thức rõ ràng về vai trò tối cao của QH (trường hợp của ông Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trần Đình Đàn, khi QH chưa họp đã vội vã tuyên bố “chắc chắn hoàn toàn ủng hộ chủ trương khai thác bô-xít”), thì chúng ta chưa thể có một QH thật sự đại diện cho nhân dân.
Dù sao đi nữa, một quan hệ độc lập, nghiêm túc, không còn mang nặng tính “người nhà”, giữa CP và QH, là điều kiện tiên quyết cho việc nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả của QH.


Nhớ Sài Gòn nên post một bài vào tháng 11 năm ngoái, mà lúc viết cứ có cảm giác như để tặng Sài Gòn. Tiện đây tự hỏi sao nhiều người lại phải “yêu ghét phân minh” giữa Hà Nội và Sài Gòn. Với Trang the Ridiculous thì cả hai thành phố đều đáng yêu cả, đáng yêu trong sự khác biệt và tương đồng. “In my life, I love them all.”


Còn về cái bài viết dưới đây thì thật chán là đến giờ phút này vẫn không viết được tên đầy đủ của các nhân vật – mà mình thì chúa ghét cái trò để tên tắt kiểu anh A. chị X. v.v.


+++++++


Chuyện làm báo ở Sài Gòn trước 1975


“Báo chí SG cũ có nhiều từ mà độc giả ngày nay đọc thì thấy cổ lắm, "xe nhà binh", "tư thất", "tư gia"... Nhưng ngôn ngữ hồi đó thuần Việt chứ không bị lẫn tiếng nước ngoài nhiều như bây giờ. Còn quảng cáo thì không nhiều, hầu hết các báo không sống nhờ quảng cáo mà nhờ độc giả” - một nhà báo của SG trước 1975 nhớ lại.


Mỗi tháng khoảng một tuần, ông Y. chạy xe máy tới nhà in Quân Đội 2 và ngồi đó cả ngày để kiểm tra, soát lỗi bản bông của mấy tờ tạp chí do tòa soạn ngoài Hà Nội gửi vào in.

Và rất thường xuyên, ông dùng bút khoanh tròn những từ tiếng Anh xen lẫn trong bài, chi chít như xôi đỗ. Từ "golfer" này phải thay bằng "tay gôn", "gôn thủ" mới là tiếng Việt. Từ "super star" này thay bằng "siêu sao". Từ "computer" này nữa, sao không viết là "máy vi tính"?

"Nhiều nhà báo trẻ bây giờ sính dùng tiếng Anh, tiếng Mỹ trong bài quá, mặc dù nhiều từ có tiếng Việt tương ứng. Có khi lại dùng từ nước ngoài kèm theo tiếng Việt, kiểu như: fan hâm mộ, nắp ca-pô…” - ông Y. nói. “Tôi nhớ báo chí Sài Gòn thời trước 75 không ai viết tiếng Việt theo kiểu "ba rọi" như vậy, mà phóng viên có lỡ viết thì biên tập viên cũng sẽ sửa ngay".


Ông Y. sống cả tuổi trẻ của mình ở Sài Gòn cũ. Ông học ĐH Văn khoa Sài Gòn, ban Anh văn, vừa học vừa đi viết nhật báo rồi chuyển qua làm cho một tạp chí văn nghệ. Còn bây giờ, ông làm biên tập viên "kiêm" sửa morat cho mấy tờ tạp chí tiêu dùng của một tòa soạn ngoài Hà Nội.

Theo ông, ngôn ngữ chỉ là một trong rất nhiều điểm khác biệt giữa báo chí Sài Gòn cũ và báo bây giờ. Nhưng nghề báo thì bao giờ cũng vậy, là niềm vui, là nỗi buồn, là lòng nhiệt tình của tuổi trẻ và cả những giọt nước mắt.


Sinh ngữ thành tử ngữ

T.T.T., một người làm báo thời Sài Gòn cũ, hiện viết báo tiếng Việt ở nước ngoài, từng bày tỏ sự lo lắng về nguy cơ biến mất một thứ tiếng Việt mà người Sài Gòn hồi đó dùng, được thể hiện trên báo chí và văn học. Hiện nay, nhiều từ ngữ đã bị quên lãng hoặc rất hiếm được dùng như: sổ gia đình, bằng khoán nhà, gá nghĩa, giáo học v.v.


Đổi lại, kho ngôn ngữ của người miền Nam sau giải phóng được bổ sung thêm rất nhiều "từ vựng": hộ khẩu, đề xuất, quyết sách, bồi dưỡng, kiểm thảo… Từ khi mở cửa nền kinh tế và Internet bùng nổ ở Việt Nam, ngôn ngữ hiện đại càng phát triển, từ mới xuất hiện chóng mặt trong mỗi lĩnh vực chuyên môn cũng như ngoài đời sống.


Những người hoài cổ có thể thấy xót xa cho một thứ tiếng Việt trong quá khứ, giờ sắp thành cổ ngữ hoặc tử ngữ. Nhưng suy cho cùng, ngôn ngữ là thế, luôn vận động và thay đổi cùng cuộc sống, cái mới sinh ra thì cái cũ phải mất đi.

Tiếng Việt của báo chí Sài Gòn cũ giờ chỉ còn được dùng ít nhiều trong làng báo chí hải ngoại, đặc biệt bởi thế hệ cao tuổi. Độc giả trẻ ở Việt Nam ngày nay có thể bật cười khi đọc những câu như: "Tờ Nữu Ước Thời Báo loan tin…".

Thông tín viên và phóng viên

Ngoài văn phong, ngôn từ, báo chí Sài Gòn cũ còn rất nhiều điểm khác thời nay. Chẳng hạn về cách tổ chức. Ngoài các phóng viên chính thức, mỗi tờ nhật báo còn có một lực lượng "thông tín viên" (correspondent).


Những người này cũng là ký giả, nhưng chỉ chuyên săn tin vặt. Hàng ngày, họ đạp xe (sang hơn thì chạy vélo-solex hay mobylette) đi khắp thành phố, lượm lặt những tin nho nhỏ dạng "xe cán chó, chó cắn xe"... để bán cho các báo.


Cánh phóng viên thì dường như thời nào cũng vậy, viết bài nộp tòa soạn xong là xả hơi, gặp nhau bàn chuyện nghề chuyện đời, rồi tán dóc, nhậu nhẹt.

Ông Y. nhớ lại: "Làm báo giàu thì nhiều tiền, làm báo nghèo thì ít tiền. Nhiều phóng viên của các tờ báo giàu ăn chơi đế vương lắm, nhảy đầm, bài bạc, có người còn hút sách nữa. Nhưng chính vì thế nên thường không có nhà báo giàu mà chỉ có ông chủ bút là giàu thôi".

Thật ra thời đó chiến tranh nguy hiểm, phóng viên salon cũng nhiều. Vậy nên các tòa soạn mà có được phóng viên trẻ nhiệt tình, chịu khó ra vùng chiến sự để gửi tin bài về thì chủ báo “cưng” lắm.


Bản thân ông Y. cũng hay tới các vùng chiến sự quanh Sài Gòn, thậm chí đến tận miền Trung, nơi được xem là chiến tranh ác liệt nhất như "Nam Ngãi Bình Phú" (Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định - Phú Yên), để viết bài phản ánh về cuộc sống khổ cực của nông dân trong thời loạn lạc.


"Hồi ấy tôi trẻ, nên nhiệt tình phơi phới, ham đi. Chứ chiến tranh bom đạn, làm phóng viên chiến trường nguy hiểm lắm. Các nhà báo phương Tây mà tôi biết đều được bảo hiểm rất lớn. Phóng viên bản xứ thì không thế".

Có lẽ đó cũng là một lý do khiến làng báo Sài Gòn cũ không có nhiều phóng viên chiến trường nổi tiếng tầm cỡ thế giới như đồng nghiệp ở AP, UPI, hay Time. Nick Út của AP (nổi tiếng với bức ảnh chụp em bé bị bỏng bom napalm) là một trường hợp hiếm hoi trong lĩnh vực báo ảnh.

Báo Sài Gòn cũ - mỗi tờ mỗi vẻ


Báo chí Sài Gòn cũ có nhiều loại. Có những tờ công khai chống chính quyền Sài Gòn tham nhũng, như Tin Sáng (chủ nhiệm là ông Ngô Công Đức, đã mất năm 2007 tại TP HCM), Điện Tín (cố nhà báo Chánh Trinh tức Lý Quý Chung là cây bút bình luận chính trị sắc sảo của tờ này). Họ châm biếm chính quyền kém cỏi, gọi "Tổng thống Thiệu" là "Tổng thống Thẹo", "Sáu Thẹo", hay Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thời Johnson là "Ông già tủ lạnh", chẳng biết sợ.

Những năm cuối thập niên 60, đầu thập niên 70, mục "Tin vịt nghe qua rồi bỏ" trên báo Tin Sáng đã có những bài viết trào phúng phê phán chế độ Sài Gòn, rất được độc giả ưa thích.


Ngược lại, có tờ báo chống cộng dữ dội. Và cũng có nhiều tờ trung lập, gọi là thuộc "thành phần thứ ba", "đường lối thứ ba" - kêu gọi hòa bình, hòa hợp hòa giải chung chung, không ưa gì chế độ miền Nam nhưng cũng không ra mặt chống đối.


Một trong các báo có số bán ra nhiều nhất là Sống của Chu Tử, một tờ khét tiếng chống cộng. Tất nhiên, báo có lượng phát hành cao không nhất thiết là báo hay.

Dĩ nhiên là không thiếu cả những "lá cải" xanh xanh, chuyên đăng tin "xe cán chó", đâm chém, tình tiền, tù tội… được mệnh danh là báo "4T". Và không thể không kể tới một thứ "đặc sản" của báo chí hồi đó: Đã báo ngày thì phải có feuilleton (truyện dài nhiều kỳ, đăng trên báo, sau có thể in thành sách).


Feuilleton có thể là truyện tình cảm xã hội, ly kỳ, éo le, đẫm nước mắt, đặc biệt hấp dẫn giới tiểu thương, hoặc là truyện chưởng, kiếm hiệp kỳ tình của Kim Dung. Nhà văn Việt Nam thời đó cũng có những người viết feuilleton chuyên nghiệp, như Dương Hà, Nghiêm Lệ Quân, Tùng Long...


Ông L.T., một cây bút viết feuilleton thể loại dã sử, nhớ lại: "Viết feuilleton thật ra rất khó vì phải hấp dẫn, ăn khách ngay từ đầu, lại phải liên tục, hàng ngày. Có người viết đồng thời 5 feuilleton cho 5 tờ nhật báo khác nhau, đâm ra lẫn lộn, cho một nhân vật chết mấy tháng rồi lại dựng anh ta dậy. Nhà văn Sơn Nam hồi đó cũng viết feuilleton, nhưng lồng nhiều chuyện về phong tục, tập quán Nam Bộ vào, người đọc thích lắm".


Nhưng cái tên ăn khách nhất hẳn là một gương mặt ngoại quốc: Kim Dung. Ông L.T. bảo, hầu hết các nhật báo ở Sài Gòn đều tranh nhau mua, dịch và đăng tải truyện chưởng Kim Dung. Tờ nào đăng được sớm thì bán chạy lắm. Ví dụ tờ Chính Luận được nhiều người đọc không phải vì có tin tức chính trị - xã hội hay, mà vì mỗi ngày họ đều đăng truyện Kim Dung sớm nhất.


Và những nỗi thất vọng

Ở miền Nam trước năm 1975, hầu như các tỉnh không có báo riêng (báo địa phương). Toàn bộ báo chí tập trung ở Sài Gòn. Dân số trong thành phố ngày đó chưa tới một triệu. Vậy nhưng báo chí thì rất nhiều, và theo ông Y. thì báo "thường do các phe đảng hoặc các đại gia nắm, với mục đích phục vụ cho quyền lợi của đảng mình hoặc cho cá nhân thay vì nhân dân".


Vì có nhiều đảng phái chính trị tranh giành ảnh hưởng nên báo chí cũng bị cuốn vào cuộc. Có trường hợp báo chí vừa ca ngợi rùm beng một viên tỉnh trưởng người của đảng này hôm trước, thì hôm sau một tờ báo của đảng khác đã khui ra là ông ta tham ô đến cả tiền cứu trợ cho dân nghèo, nếu bị đưa ra tòa theo luật pháp của chính quyền Sài Gòn thì phải lãnh án tử hình. Phóng viên ngớ người cả loạt.

Ông Y. thở dài: "Thấy mà ngán. Rút cục, nhà báo vô tình trở thành công cụ cho các đảng phái và cá nhân mà thôi".


Do kinh tế không phát triển, lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ, báo chí Sài Gòn hầu như không chú trọng tới mảng kinh tế hay các chính sách vĩ mô về điều hành kinh tế, chỉ nặng về chính trị, xã hội, văn nghệ, giải trí. Càng về những ngày cuối của chế độ, báo chí càng rệu rã, chia rẽ, không phản ánh hay cổ vũ được cho một lý tưởng chung nào của xã hội.


Tuy nhiên, dù sao nền báo chí miền Nam trước 1975 cũng đã làm được việc ghi lại một giai đoạn trong lịch sử của một nửa đất nước.


Những cây bút sắc sảo năm xưa giờ nhiều người đã mất: Lê Ngộ Châu, Ngô Công Đức, Lý Quý Chung (Chánh Trinh)… Một số chọn con đường ra nước ngoài, làm báo bên đó, đôi ba người vẫn tiếp tục "cuộc chiến chống cộng" mệt mỏi và vô vọng.


Cây viết truyện dã sử hồi nào, ông L.T., vẫn cầm bút, nhưng tuổi già đã làm sức viết của ông yếu đi nhiều. Về phần mình, ông Y. nghỉ viết báo đã lâu. Phần lớn thời gian, ông vui chơi với cây cá cảnh, ngoài công việc biên tập kiếm sống. "Cây cá kiểng làm tôi thư thái hơn".


Nói rồi ông lặng lẽ cầm cây bút đỏ, đánh dấu những chỗ sai sót trên tập bản bông xếp ngổn ngang trước mặt. Phải làm cho xong trong buổi sáng nay để còn in, ngày kia báo ra rồi.

Tóm lược hội thảo khai thác bauxite Tây Nguyên





Truyền thống của làng báo điện tử Việt Nam là bài nếu có cái sai nhỏ thì len lén vào sửa, có cái sai lớn thì rút xuống phi tang. Nay Trang the Ridiculous xin phép giẫm đạp lên truyền thống: không sửa, để nguyên các lỗi và khuyến cáo bạn đọc thận trọng với đoạn có gạch dưới.
Cảm ơn chị Lilia đã nhắc nhở. Tiếc là em không có thời gian để làm một entry chi tiết về tranh cãi Trương Nhân Tuấn và Dương Danh Huy và một entry nghiêm túc về hội thảo bauxite hôm 9/4 vừa rồi.

+++++++
Kể ra cũng thú vị khi chứng kiến những cuộc tranh luận dữ dội như vụ Trương Nhân Tuấn vs. Dương Danh Huy (về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông), Trịnh Cung vs Trịnh Công Sơn và các độc giả vs nhau, hoặc bên ủng hộ và bên chống các dự án bauxite ở Tây Nguyên.


Sẽ rất ngạo mạn nếu tôi nói rằng các cuộc tranh luận tuy có rất nhiều ý kiến và các bài viết, tham luận dài dằng dặc, nhưng đều có thể được tóm tắt lại chỉ trong một số ý chính khá… đơn giản (nhưng ra phán quyết ai đúng ai sai, giải pháp cuối cùng v.v. thì lại không đơn giản).


Vụ Trương Nhân Tuấn đả Dương Danh Huy (từ “đả” ở đây không hàm ý xấu, tôi dùng chỉ vì nó là một từ ngắn) chẳng hạn. Tranh cãi quyết liệt, người này bảo người kia thỏa hiệp (thậm chí nặng hơn - gián điệp Tàu), hoặc sai lầm trên phương diện khoa học… Tôi không hiểu mình có nhầm không – cái óc nặng nề ấy phải lâu mới nhớ ra và lâu mới hiểu. Nhưng vừa theo dõi vừa nghĩ thì thấy hai ông khác biệt nhau ở điểm này:



Dương Danh Huy: Việt Nam nên đề nghị vùng lãnh hải 12 hải lý quanh Hoàng Sa và quanh Trường Sa. Ít thế thôi, để còn giữ hòa khí với các nước Đông Nam Á, cùng các nước đó chống lại đối thủ lớn là Trung Quốc. Đừng tiếc. Ở đời phải biết mình là ai chứ.


Trương Nhân Tuấn: Việt Nam dứt khoát phải có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế 200 hải lý quanh Hoàng Sa và Trường Sa, để mất vào tay Trung Quốc là cực kỳ nguy hiểm, coi như mất cả chủ quyền trên Biển Đông. Không lùi bước, không có mặc cả gì cả, biết Trung Quốc thế nào mà thỏa hiệp; hay là muốn bán nước à?


Về mặt luật quốc tế, 12 hải lý hay 200 hải lý là đúng thì tùy định nghĩa về HS – TS, là đá hay là đảo. Chỗ này luật quốc tế lại không quy định rõ ràng, cụ thể nên giải thích kiểu gì cũng được; HS – TS là đá mà cũng có thể là đảo... Vậy vấn đề chốt lại chỉ là phản ứng của Trung Quốc và khu vực sẽ thế nào với các đòi hỏi của VN, và cách ứng xử với Trung Quốc nên ra sao… Nhưng cái này thì ai mà biết! Có khi Trung Quốc và cả khu vực sẽ lồng lên, bảo Việt Nam tham lam, rồi căng thẳng gia tăng, tranh chấp mãi không bên nào nhịn bên nào. Có khi Trung Quốc sẽ nhún vì thấy đuối lý hoặc vì “mềm nắn rắn buông”. Chịu, không đoán được.


Vụ bauxite Tây Nguyên cũng vậy. Hội thảo 9/4 tại khách sạn lớn Melia Hà Nội được xem như sự kiện lịch sử - hình như đây là lần đầu tiên từ năm 1975 có phản biện, chất vấn công khai giữa các nhà khoa học và nhà đầu tư dự án (mà đứng sau lưng là chính quyền), đại biểu ngồi nghe ai cũng cho mình là đúng, và rất chăm chú, không ai bỏ về trước (như đa số hội thảo khác).


Tuy nhiên toàn cuộc tranh luận kéo dài từ 8h30 sáng đến 6h30 tối này, theo thiển ý của ngu Trang the Ridiculous, cũng có thể được tóm tắt lại như sau:

Bên phản đối dự án nêu các lý do môi trường, quốc phòng, hiệu quả kinh tế… để đề nghị stop dự án. Bên ủng hộ (nhà đầu tư + chính quyền TW và địa phương) đáp (cực kỳ thành khẩn): Vâng, vâng, chúng tôi biết, chúng tôi xin tiếp thu hết các ý kiến tâm huyết và xác đáng của các nhà khoa học. Chúng tôi cam kết sẽ không để những rủi ro đó xảy ra. Chúng tôi sẽ có trách nhiệm xã hội chứ, các vị yên tâm. Chúng tôi hứa. Chúng tôi thề.

Kiểu như, bên khoa học bảo: Dự án này gây ô nhiễm môi trường!

Bên đầu tư trả lời: Vâng, đúng là có gây ô nhiễm. Nhưng công nghệ hiện giờ cho phép xử lý ô nhiễm. Chúng tôi xin cam đoan sẽ sử dụng công nghệ hiện đại để bảo vệ môi trường.

Bên khoa học: Dự án này lôi kéo bao nhiêu người Trung Quốc vào Việt Nam, nguy hiểm lắm, hại an ninh quốc phòng lắm.

Bên đầu tư: Vâng, vâng. Chúng tôi sẽ hạn chế số người Trung Quốc vào Việt Nam. Và quả thật là cho đến giờ cũng mới có 500 người Trung Quốc tới Tây Nguyên để làm công tác giám sát dự án thôi mà, có làm gì đâu. Sau này chúng tôi sẽ đào tạo dân địa phương làm việc (mà cũng đang đào tạo rồi đấy), không tuyển người Trung Quốc đâu ạ.

Bên khoa học: Hiệu quả kinh tế của dự án thấp!

Bên đầu tư: Vâng, đúng là trước kia, theo tính toán của chúng tôi, hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhưng tính toán xong thì lại có khủng hoảng kinh tế (đời nó lại chó thế chứ! – Trang the Ridiculous), vậy nên hiệu quả chắc sẽ giảm – giảm bao nhiêu thì chúng tôi sẽ xem xét điều chỉnh lại và sẽ công khai!

(Chỗ này, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải nói một câu mà tôi thấy rất dân dã và đi vào lòng người: “Anh San (ông Phạm Bích San, đại diện VUSTA) có nói là hiệu quả kinh tế của dự án thấp. Vâng, đúng. Thấp thôi, chỉ thấp thôi, chứ lại như các đồng chí nào đó bảo là lỗ thì buồn quá! Làm dự án mà lại để lỗ thì buồn quá!”).


* * *


Nhà đầu tư (Tập đoàn Than – Khoáng sản VN, TKV) đã chuẩn bị rất kỹ các luận điểm luận cứ để khẳng định rằng họ sẽ cư xử rất có trách nhiệm với đất nước, với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của vùng… Sẽ không để ai nghèo đói, không để môi trường bị tàn phá, không để văn hóa vùng bị mai một, không để an ninh quốc phòng bị đe dọa. Những gì các chuyên gia của TKV trình bày đều hợp lý, khoa học. Chưa kể nhiều chỗ chắc chắn là họ - những người trong ngành khoáng sản - hiểu hơn tất cả mọi chuyên gia thuộc các ngành khác, lý lẽ họ đưa ra chắc chắn chặt chẽ hơn.

Nhưng ở đây chỉ nổi lên 2 vấn đề:


1/ TKV là một doanh nghiệp. Vậy thì, chính phủ và TKV ơi, xin hãy đặt chức năng làm ra lợi nhuận của doanh nghiệp lên hàng đầu, còn chuyện trách nhiệm xã hội thì để sau đi. Ai cần TKV hy sinh tiền của đầu tư cho dự án bauxite, mà chỉ để phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên. TKV cứ lo việc làm ra lợi nhuận cho mình đi đã.


2/ TKV hứa sẽ làm tất cả để xã hội yên tâm về dự án: nhập công nghệ tốt, đào tạo nhân lực địa phương tốt, giám sát nhà thầu Trung Quốc thật cẩn thận, tóm lại là sẽ bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế, giữ vững an ninh quốc phòng v.v.

Nhưng, nếu TKV không thực hiện được như thế thì sao nhỉ?

Giá như có một điều luật nào đó (hay một cái gì tương tự) nói rằng: OK, cứ triển khai đi, nhưng nếu TKV không làm được như cam kết, thì lãnh đạo TKV bị xử bắn, nhân viên TKV bị bỏ tù v.v. Thì chắc là sẽ chẳng có chuyện “Chúng tôi hứa, xin Đảng, Nhà nước và Nhân dân cứ an tâm” đâu. Khéo lại chả còn dự án nào nữa ấy chứ.


Tóm lại, xin được khái quát hóa vụ tranh luận về bauxite hôm 9/4 vừa rồi như thế này: A và B bất đồng ý kiến. A bảo B làm việc ấy, việc ấy sẽ đi vào sai lầm. B xin tiếp thu và hứa sẽ làm mọi cách để sai lầm không xảy ra. A hết nói.


+++++++


Kết: Trang the Ridiculous không bảo là A đúng B sai hay ngược lại đâu nhé, chỉ khái quát hóa, giản lược hóa cuộc tranh luận như vậy thôi. Còn A, B đúng sai thế nào, tương lai sẽ trả lời.

Dù vậy, nói nhỏ với các bạn, theo thiển ý của ngu Trang thì… khó mà tin ở trình độ quản lý, giám sát và công nghệ của nhà mình lắm, hẹ hẹ. Tuy nhiên, sau này nếu có chuyện gì xảy ra, chúng ta cũng sẽ không được biết đâu, nên khuất mắt trông coi, ta cứ yên tâm.



Còn các thế hệ sau ta phải tự lo đời chúng nó chứ. Trẫm chết rồi, đời sau thế nào thì mặc” (Louis XIV).

Phim hành động: Nhiệt liệt hưởng ứng cuộc thi toàn quốc viết về biển, đảo VN

(Chép nguyên xi từ thông cáo báo chí) Cuộc thi tìm hiểu “Biển, đảo Việt Nam” do Ban Tuyên giáo TW, lần đầu tiên khởi xướng, với thành phần Ban tổ chức gồm Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ văn hóa – Thể thao và Du lịch, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư lệnh Biên phòng, Bộ Tư lệnh Hải quân, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo Quân đội Nhân dân, Báo Tài nguyên và Môi trường, Báo Quảng Ninh, Báo Bà Rịa – Vũng Tàu, Báo Tiền Phong, được chính thức phát động tại Hà Nội ngày 30 tháng 3 năm 2009.

Tham dự và chủ trì cuộc họp báo có ông Đào Duy Quát, Chuyên gia cao cấp Ban Tuyên giáo TW, Tổng Biên tập Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng ban Tổ chức; ông Nguyễn Văn Đức, Thứ trưởng thường trực Bộ Tài nguyên và Môi trường, Phó trưởng ban thường trực; các vị lãnh đạo các Bộ, ngành; đại diện hơn 60 cơ quan báo đài TW và địa phương (gớm, làm gì đến, các bác cứ đỗ tương lên quá thể) đã đến dự và đưa tin cùng đông đảo khán thính giả quan tâm tới Cuộc thi tìm hiểu “Biển, đảo Việt Nam” đã đến dự. (Câu này lủng củng nhưng xin chép nguyên để tỏ sự trung thành với tinh thần bản gốc).


Phát biểu tại cuộc họp, ông Đào Duy Quát nhấn mạnh:

- Các thế lực thù địch là nó chống phá ta gớm, gớm lắm các đồng chí ạ. Tôi có tổ chức đối thoại với các sinh viên tham gia cái cuộc, cái cuộc kích động do các thế lực thù địch tổ chức tháng 12 năm 2007. Tôi có hỏi: Làm cái gì? Để làm cái gì? Tôi hỏi các anh các chị. Các anh các chị làm như thế, biểu tình Trường Sa Hoàng Sa là của Việt Nam như thế là lợi hay là hại? Lợi hay hại???

Cho nên là, các đồng chí ạ, cái quán triệt cái tư tưởng là phải rất sâu sắc. Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Trung ương là phải rất sâu sắc…

Ông Quát phát biểu độ 45 phút nhưng tôi không ghi âm thêm nữa vì sợ máy hết pin, đại khái là như vậy.


Từ hôm ấy không khí viết lách về Biển Đông yêu dấu, chủ quyền, quyết tâm bảo vệ chủ quyền v.v. có vẻ rộn ràng hơn thì phải. Ừ, viết thì viết chứ sợ gì. Tiền cả đấy. Cuộc thi viết sẽ có 3 giải Nhất, 7 giải Nhì, 10 giải Ba và 20 giải Khuyến khích. Giá trị quy ra tiền mặt của các giải thì người dân vào website chính thức của cuộc thi mà xem, dangcongsan.vn.


Lim dim ngồi dưới nghe bác Quát lim dim phát biểu, chợt hình dung nếu như đây là một bộ phim hành động Mỹ, có thể một phóng viên nam nào đấy (đẹp trai, dĩ nhiên) sẽ đi thẳng lên bục, tóm cổ áo bác Quát và nói rít qua kẽ răng:

- Fuck you! Mất rồi phải không?

Bác Quát sẽ lúng túng gỡ tay anh ta:

- Mất, mất cái gì? Anh muốn gì?

- Tôi hỏi, mất hết biển hết đảo rồi phải không?

- Anh điên à? Bỏ tay ra. Công an đâu! Giữ anh này lại.

Anh nhà báo sẽ cười nhạt:

- Tôi thấy không có lý do gì để Đảng và Nhà nước cho báo chí và nhân dân viết về biển đảo Việt Nam vào lúc này. Bao nhiêu lâu nay không ai được mở miệng nói về Hoàng Sa Trường Sa Cát Vàng Cát Dài, sao bây giờ lại thoải mái thế? Chỉ có thể là đã mất hết rồi, hoặc sắp mất, vào tay Trung Quốc, nên các vị cho dân chúng nói và viết, cốt để dọn đường cho sau này có cớ mà nói: “Đấy nhá, báo chí viết rồi nhé, toàn dân tham gia hưởng ứng bảo vệ chủ quyền rồi nhá, Đảng cũng cố gắng hết sức rồi đấy, dân chủ lắm rồi đấy… mà mất vẫn hoàn mất. Đấy là tại Trung Quốc mạnh quá, ép ta quá thôi, chứ đâu phải ta không cố sức?”.



Chàng nhà báo nói đến đấy thì cả tá công an xô lại. Có xung đột. Đấm đá. Chửi rủa. Cử tọa ở dưới rú lên… Trường đoạn này trong phim hành động thường kết thúc ra sao thì xin các khán giả tự tưởng tượng tiếp nhé. Trang the Ridiculous chỉ nghĩ được đến đấy rồi gục mặt xuống bàn ngủ mất.

Entry for March 17, 2009

“Trong đàm phán lãnh hải với Trung Quốc, nếu coi việc nghiên cứu và đưa ra các bằng chứng để xác lập chủ quyền là một mặt trận, thì đã và đang có một cuộc chiến không cân sức giữa giới nghiên cứu của hai nước, với phần thua thiệt thuộc về các học giả Việt Nam”.

Như thường lệ, tôi xin nhắc lại mẫu câu “không trách xyz được”. Người ta không thể ăn bánh mì, uống nước lã để nghiên cứu một việc không mang lại lợi nhuận nhiều và ngay lập tức. Người ta không thể yêu nước và yêu khoa học mãi. Cái niềm vui, sung sướng khi phát hiện ra nước mắm ra đời đầu tiên ở VN chứ không phải TQ, dần dần cũng phải tắt ngỏm khi giá thức ăn ở chợ lên vùn vụt và có một loạt hóa đơn tới kỳ thanh toán.


Tôi hiểu các học giả cũng ngại lắm chứ, khi phải động chạm vào vấn đề HS-TS, quan hệ Việt- Trung, tranh chấp lãnh hải. Học giả ngại là phải thôi, đến ký giả viết về lĩnh vực này còn ngại. Bởi vì, nói thật chứ, viết về HS-TS, quan hệ V-T, tranh chấp lãnh hải mệt bỏ mợ!


Phải chính xác tuyệt đối này, với dạng bài ấy một lỗi cũng không thể chấp nhận được.


Lại còn phải… khoa học này, đủ để không bị ai nói “con này tinh vi sờ ti con lợn sứ, biết đếch gì về luật biển, địa lý, cổ sử mà nói lăng nhăng, chỉ hại người đọc”.


Lại còn phải… dễ hiểu này, để ai đọc cũng hiểu, kể cả với các vấn đề như công pháp quốc tế, địa chính trị, sử học v.v.

Lại còn phải… hấp dẫn này, để ai thoáng nhìn thấy cũng phải lao vào đọc, và đọc cho kỳ hết (chứ đừng di chuột một phát xuống dưới bài rồi ấn backspace).


Lại còn phải… tế nhị, không nhạy cảm này, không động chạm này, cấm được nói thẳng những câu như “chính phủ ơi, ngươi ngu/ đểu lắm!!!”.


Lại còn phải… thẳng thắn này, không bóng gió, không ẩn dụ ẩn diếc gì cả, để ai cũng hiểu được. (Cái vụ hiểu nhầm, Trang the Ridiculous dính chưởng mấy lần rồi, phát sợ).


Lại còn phải… nhanh này, vì biết đâu chỉ ngày mai thôi là không bài nào lên được nữa.

Lại còn phải… sâu sắc này, để những người đi sau không dễ qua mặt.

Lại còn phải… nhân ái này, bảo vệ bằng được các nhân vật liên quan.

Tóm lại là mệt. Mà bài viết ra chắc gì đã được đăng? Nhà mình thì cũng chả có sổ đỏ ở HS - TS nữa. Đúng là "gái góa lo việc triều đình".


Xem ra đòi hỏi cũng giống như khi người ta bảo "người phụ nữ tốt phải là một mệnh phụ phu nhân trong phòng khách, một đầu bếp tài ba trong phòng bếp và một con điếm hạng nhất trong phòng ngủ".


But I am just a little woman, you know. Anyway, I’d rather stop moaning now so that you blog readers won’t feel tired.

Tình biên cương




30 năm ngày Trung Quốc kéo quân sang “dạy cho Việt Nam một bài học”. Các thái thú Tàu đã kịp chỉ thị cho báo chí Nam Man trật tự, không được đả động gì tới “cuộc chiến biên giới phía Bắc”. Đấy là phía dân man thôi, còn phía thượng quốc vẫn có thể ôn cố tri tân thì phải (mình không biết tiếng Trung nên không dám phán bừa, nhưng chuyện thiên triều bật đèn xanh cho hệ thống truyền thông phi chính thống bàn thảo thì vốn vẫn có).

Không nói được thì hát vậy
. Báo chí Nam Man đành ngồi nhớ lại các ca khúc của một thời chống Tàu mà hát vụng với nhau.


Và không viết hết trên báo được thì tung lên blog vậy. Vì chúng tôi biết, rằng viết về dòng nhạc biên giới này, chúng tôi vẫn còn nợ vài tác giả một lời nhắc tới họ. Như Ngày thơ Việt Nam đã luôn bỏ qua thơ văn của một nửa nước thời kỳ trước 1975, cái bài viết về “dòng nhạc biên giới” dài tới 2000 từ kia thiếu vài ca khúc không thể nào quên.


Xin tạ lỗi với Nguyễn Văn Đông và Châu Kỳ, hai nhạc sĩ Sài Gòn cũ. Bài hát của họ không được lưu hành, thêm nữa cái biên giới mà họ đề cập không phải là biên giới phía bắc, đưa vào sẽ lệch dòng. Nhưng làm sao quên được những câu hát thống thiết ấy.


Đèn hỏa châu
thắp đỏ từng đêm biên giới xa xôi.
Nhìn đèn không gian, đi hoang tìm kỷ niệm
Hôm nào mình ly biệt,
Anh dặn dò rằng mai mốt anh về… (Đêm hỏa châu – Châu Kỳ)

Cờ về chiều tung bay phấp phới
Gợi lòng này thương thương nhớ nhớ
Bầu trời xanh lơ… (Chiều mưa biên giới – Nguyễn Văn Đông)

Chẳng có bài hát phản chiến tiếng Việt nào đẹp đến thế, đẹp như Chiều mưa biên giới.

Khi nào cái biên giới lòng người này hết hẳn nhỉ? Để mình có thể “thú nhận” rằng mình yêu nhạc vàng cũng như yêu nhạc xanh, nhạc đỏ; rằng mình yêu Rừng lá thấp cũng không kém gì Đường hành quân đi giữa mùa xuân


Bên cầu biên giới nữa. Hay nhất là lúc trùng hẳn xuống “Nhưng đường quá xa vời. Hương trời vẫn mê mải...”. (26 tuổi mà cụ Phạm Duy đã viết “tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa”, thế mới biết cụ cả nghĩ thật, giống Trang the Ridiculous ).


Suy cho cùng, thời bình, âm nhạc có tội gì đâu?


+++++++

Trích một bức thư gửi Trang the Ridiculous:


Quý Đoan Trang mến (dịch từ tiếng Anh “Dear Đoan Trang”),
1. Bài viết đánh Tàu ở tầm an toàn có thể, như thế tốt cho sức khỏe đấy.

2. Từ trước tới giờ, xem ra có mỗi cụ Lý Thường Kiệt nhà ta, vì lẽ bị sex confused nên mới phẫn chí lên đánh Tàu, mà lại thắng mới bỏ mẹ. Giá mà lúc ấy có tác phẩm "Bóng" thì xem ra cụ đã được an ủi hơn đôi chút và ở yên nhà với các chị các dì rồi.


3. Lần sau viết bài đề nghị gửi qua cho anh em đồng chí xem trước, đừng vì vài ba cốc trà Lipton rẻ tiền pha sữa nóng mà hung hăng đòi bọn Tàu phải khuất phục văn hóa Đại Việt như thế. Nhìn mà xem, hàng hóa và văn hóa của chúng nó ở khắp nơi, trong khi mình có mỗi đôi mắt nhìn tinh tường và cái giỏ xe có khóa.



Ôi, sao nỡ bỉ ta quá thế?

Nước ta còn nghèo...




Vào những ngày bão giá rú rít quanh đầu, Trang the Ridiculous thỉnh thoảng lại đi qua phố Thợ Nhuộm, và luôn luôn bị một tấm biển gỗ nhỏ đập vào mắt, trên ấy ghi dòng chữ: “Ở đây bán đĩa mài sừng tê giác”.
Một vài lần trong những dịp “thỉnh thoảng” ấy, tôi thoáng có ý nghĩ tìm hiểu để làm quả phóng sự về những ngành kinh doanh liên quan đến sừng tê giác như thế. Nhưng chợt nghĩ mình cưỡi con xe 82 “chở lợn”, đĩnh đạc dừng chân, hất hàm hỏi người bán “đĩa mài sừng tê giác đâu?”, người ta lại tưởng một đại gia nào giả gái vi hành dạo quanh phố phường, dạo qua thị trường, thì phiền ra. Thế nên là thôi, lần nào cũng chỉ giữ ý nghĩ ấy trong đầu một hai phút rồi bỏ đi.
Tuy nhiên, cứ mỗi lần như thế, tôi lại nhớ tới câu nhận xét kinh điển từng được nghe từ anh Lê Tuấn Tú (nguyên phóng viên truyền hình, một trong số các đồng nghiệp của Trang the Ridiculous). Anh Tú thường nói với vẻ mặt rất chi là đau xót:

- Nước ta còn nghèo – Anh ngừng một lát, môi hơi mím lại, bùi ngùi - Dân ta chưa chắc đã nghèo.

(Câu ấy tôi nghe từ anh Tú. Còn anh Tú lấy từ nguồn nào nữa thì em không chịu trách nhiệm nhé!)

Đúng ra câu này cần được sửa thành: “Nước ta còn nghèo. Một bộ phận dân ta chưa chắc đã nghèo”. Viết đến đây, Trang the Ridiculous lại lim dim nghĩ tới những chiếc sừng tê giác mà mình chưa từng được trông thấy.
Vẫn có người mua được sừng tê giác và đĩa mài sừng. Nhiều người mua được ôtô riêng. Thậm chí máy bay riêng, ở VN cũng có rồi. Tiền ở đâu ra mà nhiều thế?

Cách đây ít năm, câu hỏi này từng được một độc giả xưng tên Lê Đức Thụ nêu ra, và được một học giả, ông Ngô Nhân Dụng, trả lời. Cá nhân Trang the Ridiculous rất thích bài viết trả lời của ông Dụng. Lý do thích: Nó hoàn toàn dựa trên suy đoán, cũng giống như cách Trang the Ridiculous đương nhiên sẽ phải làm trong tình trạng chẳng có thông tin đếch gì về thu nhập của các tầng lớp trên trong xã hội, về cơ chế phân chia thu nhập, cơ chế quản lý – lãnh đạo v.v.
Cho nên, mặc dù chưa bao giờ làm động tác nhấn tổ hợp phím Ctrl+C, Ctrl+V trên blog, hôm nay tôi xin phép phá lệ, phệt nguyên xi bài này lên đây cho mọi người cùng đọc.

* * *


Tôi xin nhắc lại câu hỏi: Vì sao người Việt Nam có nhiều tiền chi ra như vậy? Không biết ông Thụ có ý hỏi về "một số người Việt Nam" có nhiều tiền, hay ông muốn hỏi về "người Việt Nam" trong cả nước nói chung? Nhưng cũng không cần phân biệt như vậy. Vì nếu tài sản của 100 ngàn người ở trong nước tăng lên mỗi người 100 ngàn đô la thì tài sản chung cả nước Việt Nam cũng cao hơn mười tỷ đô la, nghĩa là nói chung nước mình giầu thêm 10 tỷ. Mười tỷ bạc đó ở đâu ra? Vì sao "người Việt Nam chúng ta" có nhiều tiền như vậy, trong lúc sản xuất nông nghiệp, công nghiệp còn quá lạc hậu, nghèo nàn?

Xin thưa với ông là, một phần tài sản đó do tổ tiên để lại. Một phần nữa là do chúng tôi, người Việt từ nước ngoài đóng góp gửi về! Đó là cách trả lời đơn giản cho một bài toán có vẻ đơn giản! Thu nhập từ các tài sản đó không được phân bố đều cho tất cả mọi người mà dồn vào cho một số nhỏ, thí dụ trăm ngàn người; để họ ăn tiêu thong thả, có tiền mua nhà trị giá hàng nửa triệu đô la, mua xe ô tô Mercedes mới, Lexus mới, vân vân. Tại sao việc phân bố không đồng đều, người có nhiều, người có ít thì các cụ tổ tiên cũng như chúng tôi ở ngoài không ai cố ý gây ra cảnh đó, chính đồng bào mình ở trong nước chịu trách nhiệm.
Sau đây tôi xin phân tích kỹ hơn, dùng những số thống kê của tạp chí The Economist xuất bản ở Anh quốc, tờ báo này tôi đọc mỗi tuần và tôi rất tin. Tổng sản lượng nội địa của Việt Nam khoảng 33 tỷ mỹ kim một năm, đó là trị giá tất cả những hàng hoá, dịch vụ của cả nước có được và tiêu dùng trong một năm. Chia đều ra cho hơn 80 triệu đồng bào trong nước thì mỗi người có thu nhập khoảng 400 đô la, không lớn bằng con số 2-3 ngàn mà ông ước đoán. Số tiền 400 đô la đó mọi người đem tiêu thụ hoặc để dành, đầu tư. Tờ Economist tính dân mình chi tiêu chừng 65 phần trăm số thu nhập, tức là mỗi người tiêu bình quân 240 đô la. Họ đóng góp cho các cấp chính phủ chừng 8 phần trăm. Phần còn lại là để dành và đầu tư. Riêng con số ngân sách nhà nước thì năm nay được biết khoảng 10 tỷ đô la, cao hơn tỷ lệ 8 phần trăm. Nhưng trong ngân sách đó có cả những khoản nhà nước đầu tư, như là làm đường xá, xây cơ xưởng máy móc, có thể tính chung vào mục đầu tư, số còn lại thuần túy tiêu dùng nhỏ hơn. Cho nên có thể dùng các số thống kê của tạp chí Economist, vì họ đã thu nhặt từ nhiều nguồn tài liệu đáng tin cậy.
Tất nhiên, nếu mỗi người ai cũng chỉ tiêu thụ 240 đô la một năm thì không ai có tiền mua xe Lexus cả, trông nước mình sẽ thấy nghèo lắm chứ không giàu sang như ông Thụ nhận xét. Vậy thì nếu có người lái xe Mercedes tất phải có người chi tiêu ít đi. Thí dụ các nông dân, làm ruộng, đánh cá, đốn gỗ trên rừng, vân vân. Số chi tiêu hàng năm của họ chỉ có 100 đô la một năm chẳng hạn. Mấy năm trước ông Hoàng Minh Chính cho biết có nơi đồng bào miền núi chỉ tiêu có 50 đô la một năm, nhưng cứ tính đổ đồng là 100 cho tiện. Trong dân số nước ta 70 phần trăm là nông dân, khoảng 56 triệu người. Những người này tiêu 5-600 triệu, tính tròn là 6 tỷ trong tổng số 33 tỷ. Còn lại 27 tỷ chia cho 24 triệu người dân kia. Nhưng các người dân thành phố không phải ai cũng chi tiêu nhiều như nhau. Tôi không có số thống kê về thu nhập bình quân của người dân thành phố. Dân Sài Gòn có thể thu nhập bình quân hơn 1000 đô la. Thu nhập 500 đến 1000 đô la là thuộc loại khá giả rồi. Những người thu nhập hàng trăm ngàn đô la một năm cũng có. Tôi đã gặp mấy người từ Việt Nam qua California chơi, họ nói họ giàu như vậy. Nhưng tôi biết ở các thành phố cũng có những công nhân không có việc làm, có 100 đô la một tháng cũng mừng lắm. Giả dụ trong số 24 triệu người ở thành phố có 22 triệu thu nhập bình quân 500 đô la một năm, ta có 11.000 triệu, tức 11 tỉ trong số 27 tỷ kể trên. Vẫn còn 16 tỷ chia cho 2 triệu người còn lại. Nếu chia đều thì mỗi người được 8 ngàn; nhưng chúng ta biết có những người kiếm ra và chi tiêu nhiều hơn, có người ít hơn.
Nhiều người bạn tôi cho biết khi về nước gặp bạn cũ họ đãi đằng một đêm tốn cả ngàn đô la, uống rượu ngoại không cần tính toán và nhiều mục giải trí khác dân Việt kiều chịu thua! Tôi cũng là một người Việt Nam trung bình, tính rộng rãi với bạn bè nhưng cũng biết tằn tiện, tôi chưa bao giờ đãi bạn bè ở xa tới mà tiêu vài trăm đô la một buổi tối. Cho nên tôi nghĩ những người tiêu cả ngàn đô la thì chắc họ phải kiếm ra mỗi năm vài trăm ngàn đến nửa triệu mỹ kim. Số người kiếm nửa triệu đô la là bao nhiêu, phải hỏi các ngân hàng nơi họ gửi tiền. Hay là ông Thụ thử đếm số xe ô tô đắt tiền họ mua mấy năm gần đây thì đoán được một phần. Hỏi các đại lý xe chắc biết các con số. Biết một phần thôi, vì nhiều người thích giữ của chìm hơn đi khoe của nổi. Mà của chìm thì không phải chỉ để chìm trong nước mà còn ngâm ở tận nước ngoài nữa.
Bây giờ trở lại câu hỏi chính, là tiền ở đâu ra nếu trong cả nước dân ta sản xuất ít như vậy. Trong số 33 tỷ thu nhập chung cả nước có những món do đồng bào làm ruộng, người làm thợ sản xuất ra, đó là những thứ mà ông Thụ trông thấy, ông cho là không đủ cho dân mình giàu có như cách tiêu dùng của nhiều người. Như vậy thì ngoài ra, còn phải có những nguồn sinh lợi khác, đem về cho cả nước những món tiền lớn. Như ở trên tôi mới nói đến, có những thứ do tổ tiên để lại, di sản của tổ tiên chung cả nước chúng ta chứ không riêng gia đình nào, các di sản đó cũng sinh ra tiền. Thí dụ, đất đai; rừng, rừng núi có gỗ, có cả than, quặng mỏ, đá quý; biển, tôm cá và dầu lửa ngoài biển, vân vân. Những thứ như đất đai, đem cho công ty nước ngoài thuê, tiền thu vào là của chung. Có những thứ đem bán ra nước ngoài, tiền đem về cũng là tiền chung của cả nước. Hai nguồn thu nhập ngoại tệ lớn nhất của nước ta là xuất khẩu dầu lửa và gạo. Những món tiền lớn đó thu về rồi được đưa cho những ai chi tiêu, cái này quý vị ở trong nước có thể tính toán được. Nguồn thu nhập lớn thứ ba chính là những món do đồng bào ở nước ngoài gửi về và đem về chi tiêu. Năm ngoái con số kiều hối chính thức là 2 tỉ 700 triệu đô la, con số thật có thể lên tới 3 tỉ rưỡi. Ngoài ra còn những người Việt về nước cũng đem tiền về. Riêng dịp Tết vừa qua có 300 ngàn người, tính cả năm coi như gấp đôi lên thành 600 ngàn. Nếu mỗi người mang về 5 ngàn đô la, (họ còn mang về hộ người khác ngoài số tiền họ đem về để chi tiêu) thì cũng thành 3 tỷ. Như vậy thì đồng bào ở nước ngoài gửi về và đem về tới 6 tỷ, chiếm một phần năm tới một phần sáu tổng sản lượng nội địa. Nếu chỉ tính 3 tỷ rưỡi cũng là một phần mười! Thử tưởng tượng bây giờ chúng ta thấy số thu nhập của mình tăng lên 10 tới 20 phần trăm, mà mình không cần làm gì vẫn có được, cũng thấy dễ chịu lắm chứ? Nếu tính gồm cả số thu nhập nhờ cho thuê và xuất cảng những thứ di sản do tổ tiên để lại cộng với kiều hối thì tổng số có thể lên đến hơn mười tỉ, tức là một phần ba số thu nhập và tiêu dùng của cả nước. Khi chúng ta nhìn vào số sản xuất của các nông dân và các nhà máy, chúng ta không thấy số thu nhập đó. Nghĩa là dân mình giàu gấp rưỡi mà chính mình không biết!
Nhưng tất nhiên con số một phần ba tổng sản lượng nội địa đó không chia đều cho 80 triệu người. Những người nhận được tiền của thân nhân từ Mỹ gửi về, của những anh chị em đi lao động ở Hàn Quốc hay lấy chồng Đài Loan gửi về, những người phục vụ cho các ngành du lịch, họ được hưởng một phần các món kiều hối.
Có những người được hưởng lợi trên những số tiền xuất cảng gạo, dầu lửa cũng như kiều hối mà không phải làm việc nhiều như người dân bình thường. Gạo do nông dân bán ra, người ta mua rẻ rồi bán đắt cho nước ngoài, họ hưởng lợi. Họ biết cách hưởng vì họ khôn hơn người hay vì có quyền thế hơn, cái đó bà con biết. Xuất cảng tôm, cá, quế, đá quý cũng vậy. Ai được hưởng nhiều, ai hưởng ít, đó là do cách tổ chức kinh tế mà ra. Trên nguyên tắc trong một nền kinh tế thị trường ai cũng bình đẳng, có cơ hội làm giàu như nhau. Nhưng cơ cấu kinh tế nước ta chưa hẳn là thị trường, nó có "định hướng xã hội chủ nghĩa." Như vậy thì chắc ai "xã hội chủ nghĩa" hơn thiên hạ, người đó phải "bình đẳng hơn," có cơ hội được chia phần nhiều hơn.
Biết tin tức trước người khác cũng là một cách sinh lợi. Thí dụ nếu họ biết trước tin về quy hoạch nhà đất, họ mua nhà trước; đến khi quy hoạch mới ban ra giá nhà đất tăng vọt, họ bán và hưởng lợi. Có những người biết trước một dự án lớn, như một khu chế xuất, một khu sẽ xây dựng nhà máy lọc dầu, họ cũng mua, bán như vậy. Số tiền họ kiếm được thì chúng ta người trần mắt thịt không tưởng tượng nổi. Cho nên có những người chi tiêu một ngàn mỹ kim một đêm để đãi bạn bè, có người đi Macao đánh bạc thua cả trăm ngàn mỹ kim. Lại có những sinh viên đến California du học, mới tới đã có nhà sẵn để ở, có xe mới để lái đi học và đi chơi, con số đó cũng không nhỏ. Nói chung, nếu cả nước giầu thêm lên gấp rưỡi mà số tiền mươi tỉ thêm đó được tập trung vào trong tay một trăm ngàn người thì những người đó phải giầu nứt đố đổ vách, kiếm thêm một năm 100 ngàn mỹ kim, ăn tiêu vô tư thoải mái, cũng không có gì lạ!
Tôi không biết những lời giải thích như trên có tạm giải quyết óc tò mò của ông Thụ hay chưa. Tôi xin ông cho tôi biết ý kiến. (Ngô Nhân Dụng)

MẶT NẠ (entry mừng ngày 21/6)




Lại sắp đến ngày Báo chí (Cách mạng) Việt Nam 21/6. Mỗi năm đến ngày này lòng man mác buồn. 365 ngày qua chứa chan tình thương, thật.
Không rõ trong con mắt người ngoài ngành, hào quang của nghề báo chính xác là những gì nhỉ? Oai, tiếp xúc với nhiều VIP và người nổi tiếng, sôi động và năng động, liên tục cập nhật kiến thức thông tin và sự hiểu biết v.v. Nhà báo nói chung dễ có khả năng là người quan hệ rộng, hiểu biết, ăn nói có duyên, có thể hài hước, thông minh v.v.
Còn cái nhìn của các nhà báo vào nhau và vào nghề thì chắc mỗi người một vẻ. Cái thế giới truyền thông này là như thế, phức tạp, muôn màu nghìn sắc.
Nhân dịp 21/6 năm nay, Trang the Ridiculous xin kể cho các bạn (ngoài lĩnh vực truyền thông) nghe một câu chuyện về nghề báo. Chuyện này xin đặc biệt dành tặng em Rosy – cô bé mà tôi chưa được gặp trực diện nhưng tôi có cảm giác em là người rất nhân hậu và dễ thương. Chuyện dĩ nhiên phản ánh ý kiến chủ quan của tôi, những người khác hoàn toàn có thể không nghĩ thế.
Cũng xin trình bày cố thêm mấy câu nữa, nốt hai câu trước khi bắt đầu: 1/ Chuyện tiếp tục phải dùng các nhân vật mang mã số Z, mặc dù tôi không thích sự lặp lại. 2/ Chuyện có sử dụng rất nhiều “tư liệu của đồng nghiệp”. Vâng, thế này mới láo này: “Đồng nghiệp” mà tôi mượn tư liệu tên là Azid Nexin.

* * *

Z21 làm báo đã gần chục năm. Kinh. Trong vương quốc truyền thông của VN, một người trẻ tuổi làm báo được gần chục năm cũng đã là kinh, không phải kinh vì số năm lăn lộn trong nghề (9-10 năm thì nhiều nhặn gì), mà kinh vì những kỹ năng anh ta hoặc chị ta có được: viết lách, chụp ảnh, lên khuôn tờ báo, lên cấu trúc bài báo, lên bố cục bức ảnh v.v. Ngoài ra còn một số kỹ năng phụ: tạo quan hệ, đì-thếch thông tin (detect, tiếng Anh nghĩa là thăm dò phát hiện), nắn gân đối tượng, xin tài trợ, giữ quan hệ, tránh được các loại tai nạn nghề nghiệp.

Vậy nên khi Z21 nói với các phóng viên trẻ về con số “gần chục năm làm báo” của mình, các bạn trẻ không ai là không lắc đầu lè lưỡi kính nể. Chỉ mình Z21 hiểu với hắn, là hắn chẳng có gì đáng kinh đáng kính. Bởi hắn thuộc dạng học không vào, nhồi nhét luyện tập mãi mà các kỹ năng kiếm được vẫn chẳng là bao. Về mo. Về mo hết.
Có thể cũng là do số phận hay thế nào đó, hay tại tướng của Z21 có cái mặt không chơi được? Tóm lại không hiểu tại sao mà Z21 cứ âu sầu buồn phiền mãi vì cái sự “về mo” của hắn. Rồi đến một lúc hắn còn kinh hoàng nhận thấy hình như hắn có vấn đề, hắn đắc tội gì đó với đồng nghiệp. Bằng chứng là đồng nghiệp cứ liên tục vạch ra các lỗi lầm và sai phạm của hắn, không phải cho hắn nghe, mà là cho sếp và các đồng nghiệp khác, thậm chí các cơ quan báo chí khác nghe cơ.

Lúc đầu, Z21 ngạc nhiên lắm. Hắn mời một số đồng nghiệp ra quán nói chuyện, kiểu đàn ông/ đàn bà/ đồng tính với nhau. Đồng nghiệp cũng chân thành và khiêm tốn tạ lại. Sau đó, lỗi lầm sai phạm của hắn liền được phản ánh nhiều hơn, mạnh mẽ hơn, trong đó có cả lỗi mời đồng nghiệp ra quán nói chuyện.

Đến lúc ấy, Z21 không còn đủ sức nữa. Đủ sức gì cơ? Đủ sức gặp mặt đồng nghiệp để thốt lên: “Anh/ Chị. Tại sao anh/ chị nỡ đối xử với em như thế?”. Hắn lại còn ngạc nhiên nghĩ thầm: “Ơ kìa em tưởng… Em tưởng anh vẫn coi em như thằng em anh, anh vẫn vỗ vai bảo em thế mà. Anh hơn em từng ấy tuổi cơ mà, sống lâu hơn em bao nhiêu năm, chấp gì thằng chíp con như em?”. Và bắt đầu đến lúc hắn sa vào quá trình tự dằn vặt – cái này gọi là Hội Chứng Thiện Nhân Mắc Phải (AGMS - Acquired Good Man Syndrome), nói nôm na là bệnh thích làm người tốt: “Chắc tại mình. Tại mình làm gì đấy thì mới bị ghét như thế. Ơ, mà thật ra mình làm gì nhỉ? Không biết nữa nhưng chắc chắn là mình có làm gì đấy. Vấn đề là ở mình. Lỗi tại mình. Tại mình, tại mình mọi đàngggggg…
Hắn không thể nào gặp đồng nghiệp để hỏi “em đã làm gì?”. Hắn thấy xấu hổ. Hắn chỉ biết buồn một mình. Buồn và cảm thấy bị tổn thương. Hắn cố cư xử lạnh lùng và đúng mực theo cách hắn nghĩ. Nhưng lạnh lùng cũng không được, đúng mực rồi cũng thành sai mực, người ta cứ nắm tay hắn, lôi cổ áo hắn, ép hắn phải có ý kiến trong một số trường hợp nhất định.
Thật ra không có chuyện Z21 là chíp con, ngu xi ít hiểu biết, thì được nương tay. Đấy là hắn cứ nghĩ thế thôi. Sai to. Mọi đối tượng đều phải tham gia đấu tranh vì một nền báo chí trong sạch và vững mạnh về tài chính. Mọi đối tượng, dù là tuổi hai mươi hay là khi tóc bạc, dù là đồng nghiệp hơn hắn 16, 12, 11, 8, 4, 3, 2, hay 1 tuổi, thậm chí bằng tuổi…

Buồn quá, Z21 đi uống rượu với bạn Z25. Cả buổi hắn ngồi cắm mặt xuống bàn, đuổi ruồi không bay. Z25 thương tình hỏi han:

- Thôi được, bây giờ ta thử tìm bằng được nguyên nhân tại sao cậu lại bị ghét nhé. Tớ hỏi, cậu trả lời.
- Bắt đầu đi.

Z25 đứng dậy, chống tay xuống mặt bàn, cúi người nhìn thẳng vào mắt Z21:

- Nghe đây, trả lời cho rõ. Cậu có hay đi làm muộn không?
- Phóng viên thì không ai đến cơ quan vào một giờ cụ thể cả. Có phải nhân viên hành chính đâu mà đúng 8h sáng có mặt? Nhưng khi hẹn phỏng vấn ai, mình luôn đúng giờ. Dung sai chỉ 5-7 phút đèn xanh đèn đỏ, tắc đường.

- Tốt. Cậu đòi tăng lương, trong khi "chưa có cống hiến gì cho cơ quan", phải không?

- Đâu có. Vế sau thì đúng. Mình chưa có cống hiến gì nên cũng chưa bao giờ đòi tăng lương.
- Tốt. Thế đã bao giờ cậu chửi sếp chưa, nói thật đi.
- Ơ… Chửi thì chưa…
- Nhưng có nghĩ trong đầu không?
- Ơ… cũng nhiều lần nghĩ: “Mẹ, sếp đ. gì chỉ thích kích động cho nhân viên đánh nhau cho vui. Đồ bệnh hoạn!”. Hoặc: “Ông biết đ. gì về lĩnh vực X., lĩnh vực Y. mà cứ nói phét, lòe bọn phóng viên ranh con chứ lòe tôi sao được”. Nhưng chỉ nghĩ trong đầu thôi chứ không nói ra miệng.

- Ừ, cũng được, nghĩ trong đầu thôi. Thế
- Z25 ngồi xuống, bắt đầu hỏi những câu bí hiểm - cậu ngủ có ngáy không?
- Không. Ngáy là thế nào. Mình nằm im thin thít.
- Được, tốt rồi. We’ve got something here. Sắp ra vấn đề rồi đây. Câu cuối cùng: Mắt cậu to phải không?

Z21 ngớ người:

- Ớ… Không biết nữa. Chắc là thế. Thấy nhiều người bảo là mắt tớ hơi to.
Lập tức Z25 đứng phắt dậy, dang hai tay ra kêu lên:
- Thế thì rõ rồi. Cậu bị ghét là đúng rồi. Thôi đừng đổ lỗi cho người khác nữa. Lỗi là tại cậu thôi.
Z21 trố mắt, hai mắt lúc này thật sự là to:
- Sao… sao lại thế?

Z25 cười khẩy:

- Mẹ, sao thiên hạ cứ bảo cậu thông minh nhỉ? Xem lại sách tướng số đê. Mắt to là thoát khí đấy bạn ạ. Lộ hết rồi bạn ạ. Lộ hết, lộ hết.
Z25 cười thích chí. Còn Z21 lặng đi một lúc. Thôi đúng rồi, đúng là tại hai con mắt của mình rồi. Hắn thầm quyết định từ nay nói chuyện với ai cũng sẽ luôn lim dim mắt và hạn chế nhìn thẳng.


No Idea




Báo chí VN vừa trải qua những ngày xao xác.
Thoạt đầu, không nhịn được, tôi đã hùng hổ dự đoán: “Chẳng ai làm sao đâu. Rồi cả hai anh sẽ được thả hết, chỉ có nổi tiếng hơn thôi. Chờ mà xem”. Hai ngày đầu, báo chí phản ứng rất mạnh, mà nếu còn được phản ứng nghĩa là không có dấu hiệu đàn áp; hai anh Hải và Chiến chắc chỉ ngồi ít lâu rồi ra. Trong trường hợp báo chí im tịt hoặc đồng ca một bài cổ võ, như vụ toàn dân đội mũ bảo hiểm vừa rồi, thì mới chứng tỏ có sự mạnh tay từ phía các cụ.
Tôi đã nghĩ sẽ không có sự mạnh tay. Đặt mình vào hoàn cảnh người đứng đằng sau vụ này, tôi sẽ tiến hành bắt thật bí mật, giữa đêm, ra chỉ thị cấm báo chí ho he ngay từ đầu. Không có chuyện để các báo nhao nhao lên mất một ngày mới xử lý như thế.
Thực tế cho thấy tôi dự đoán sai bét. Vụ bắt vẫn diễn ra ùm xòe, báo chí vẫn làm ầm lên. Sau đó vẫn có lệnh cấm.

Nghĩ gì bây giờ nhỉ?

Sẽ là đạo đức giả nếu tôi nói tôi thương hai nhà báo bị bắt. Về mặt cá nhân, tôi không biết sâu cả hai anh để có thể thấy cảm thương. Về mặt nghề nghiệp, tôi không thấy bức xúc, cũng chẳng sốc chẳng lạ.
Ở lâu trong cái khổ, người ta quen hết.
Dĩ nhiên, tôi không bị bắt như hai anh, cũng không phải chứng kiến cảnh đồng nghiệp bị bắt. Không thể nói là tôi khổ được. Nhưng, một cách vô cảm và tàn nhẫn, tôi chẳng thấy gì.

*
* *

Cái mặc cảm “chẳng biết cái gì, chỉ giỏi nói phét” đã ăn sâu vào đầu tôi từ hồi còn làm sinh viên ĐH Ngoại thương, cho nên đến tận bây giờ tôi vẫn hạn chế việc ngồi ở quán nước bình luận, phân tích và dự đoán các động thái, quyết sách của chính quyền hay diễn biến tình hình trong tương lai. Vì tôi sợ phải thấy chúng tôi lố bịch hệt như một lũ ăn cơm rau, uống trà đá nói chuyện thiết kế lắp ráp tàu Discovery.


Người ta bảo, trong một hệ thống, thằng ở trên chỉ cần xoay 1 độ thì thằng ở dưới đã phải chạy tướt bơ, xoay tới 45 độ. Nghĩa là, bất kỳ một ý nghĩ, một lời nói, một hành động nào của cấp trên dù nhỏ đến đâu cũng đủ ảnh hưởng dữ dội đến các loại cấp dưới. Sai lầm, vô tình hay cố ý, của lãnh đạo một cơ quan, tổ chức có thể làm cấp dưới phải trả giá bằng vài năm tuổi trẻ, trị giá bằng nửa cuộc đời. Còn sai lầm của lãnh đạo một đất nước sẽ làm cấp dưới phải trả giá bằng vài thế hệ, tức là cả cuộc đời của nhiều người.

Bây giờ nếu bạn hỏi về vụ bắt Hải và Chiến vừa rồi, thì tôi sẽ trả lời thế nào nhỉ? Sẽ ngồi phân tích và dự đoán phải không? Tôi sẽ đăm chiêu: “Đang Đại lễ Phật đản, đang họp Quốc hội, dư luận quốc tế và Việt kiều đang nhìn vào. Sao lại bắt vào lúc này? Phải chăng là có một sự dàn dựng nào đó, để chứng minh một điều gì? Phải chăng là có một cuộc đấu đá?”. Than ôi, ngay khi đang nghĩ như thế, tôi đã lập tức hình dung thấy gương mặt của một ai đó hoặc một nhóm người nào đó, đang vừa ra quyết định vừa cười thầm: “Việc ta, ta cứ làm. Cho thiên hạ tha hồ đoán già đoán non, bọn nó thì hiểu thế nào được ta”.

Đau lắm.

Đau vì chúng ta chỉ là con sâu cái kiến, chúng ta không bao giờ có đủ thông tin để hiểu hết bản chất của những gì đang diễn ra. Đau lắm vì cái nhận định: “Xét về lĩnh vực thông tin, nguồn tin tốt nhất ở Việt Nam là từ giới lãnh đạo chính trị, tốt thứ nhì là từ giới quản lý, tốt thứ ba là từ những người làm nghề, tốt thứ tư mới là bọn nhà báo bẩn thỉu”.

Đau lắm vì một số nhà báo cứ hăng hái lao lên phía trước với tinh thần nghĩa hiệp cao cả: Độc giả có quyền được biết sự thật, xã hội có quyền được biết công lý. Trong khi chính các nhà báo luôn luôn là nạn nhân, nhiều khi là nạn nhân đầu tiên, của sự bưng bít. Cứ mê mải kiếm tìm sự thật, rồi đến lúc chính mình trở thành nạn nhân của lừa đảo và dối trá, thì vẫn ngơ ngác không hiểu điều gì xảy ra.

Hãy trả tự do cho các nhà báo chân chính” – câu nói nghe thật hào hùng. Vụ Hải và Chiến này chắc sẽ làm nhiều phóng viên trẻ càng sôi sục, muốn tiến lên. Từ từ đã các bạn ạ, không phải cứ chấp nhận lăn xả và cống hiến mà được lăn xả và cống hiến đâu. Sacrifice cũng là một thứ quyền đấy.

Đau lắm, vì chúng ta chẳng là gì cả. Đừng đoán già đoán non nữa, chúng ta sẽ chỉ trở thành kẻ lố bịch trong mắt một số ít người nắm thông tin và quyền lực mà thôi (mà thật ra họ cũng chẳng quan tâm tới chúng ta đâu). Nếu vẫn muốn lên tiếng, xin cứ nghĩ trong đầu chứ đừng nói ra, đừng viết ra, đừng đưa lên blast và status các loại. Don’t be ridiculous.



Tại sao Hải và Chiến bị bắt? Việc bắt họ đúng hay sai luật? Điều gì sẽ diễn ra tiếp theo? Ai đứng sau tất cả những chuyện này? Tôi không biết, và không quan tâm.

Vâng, tôi không đoán già đoán non, không bình phẩm, phân tích, dự đoán gì cả. Tôi không có ý kiến.


Chuyện cũ rích




(Entry nghiêm túc)
Với tôi, nhân quyền là một khái niệm vừa trừu tượng vừa hoành tráng, nói đến nghe rất sợ. Quyền con người ấy à? Con người thì có những quyền gì?
Vấn đề có thể dễ hình dung hơn nếu ta quy nó về một cái gì thật cụ thể. Nhân quyền có thể là quyền được an toàn, quyền được lao động, quyền được nghỉ ngơi và giải trí, quyền sở hữu…

Quyền sở hữu là gì thì chắc bất kỳ ai trong những người tốt nghiệp từ cấp II trở lên đều có thể định nghĩa vanh vách rằng nó bao gồm quyền của một người chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của anh ta theo quy định của pháp luật. Nghĩa là chúng ta sở hữu tài sản mà pháp luật quy định là của chúng ta: ôtô, xe gắn máy, laptop, PC. Mất tiền mua mâm thì chúng ta có quyền đâm cho thủng, nói cách khác là thích làm gì thì làm: bán, cho thuê, cho mượn, và quan trọng nhất là có thể đầu tư vào tài sản của mình để thu lợi từ nó, và lợi nhuận đó đương nhiên cũng phải thuộc về chúng ta. Đó là ý nghĩa lớn nhất của quyền sở hữu.

Quyền sở hữu không chỉ giới hạn với các tài sản hữu hình, mà bao gồm luôn cả tài sản vô hình – ý tưởng, sản phẩm nghệ thuật, phát minh khoa học… Chúng ta có thể đầu tư vào tài sản vô hình của mình để thu lợi từ nó, và lợi nhuận đó đương nhiên cũng phải thuộc về chúng ta. Nói một cách thô thiển, chuyện này tương tự như việc một cô cave sau khi “tác nghiệp” phải được đảm bảo rằng cô ta sẽ được trả tiền, chứ bỏ vốn ra để chơi không hay sao?
Quyền sở hữu là một khía cạnh của nhân quyền, hình như là điều đã và đang bị đánh giá hơi nhẹ.

*
* *
Ông là một cây viết, từng là phó TBT vài tờ tạp chí. Có kẻ đề nghị ông viết sách về một lĩnh vực chắc đang là “vùng trắng” với nhiều người, ông cười bảo: “Viết làm gì trong khi có nhiều việc làm ra tiền ra danh hơn, cả về ngắn lẫn dài hạn. Mất thì giờ lắm, mất công sức lắm, nhuận bút chẳng đáng bao nhiêu”. Câu kết luận của buổi nói chuyện hàm ý là người đề nghị “đi mà viết”.
Ông hoàn toàn đúng. Ai sẽ bỏ công sức “nghiên cứu và phát triển” để viết một cuốn sách có giá trị, khi mà lợi nhuận thu được từ đó đã chẳng nhiều lại còn bị chia sẻ với đội quân làm lậu? Ai hơi đâu dằn vặt, trải nghiệm, lăn lộn viết lách để cho ra một tác phẩm văn học “đọc được” trong một khoảng thời gian không thể ngắn, để nhận về một khoản nhuận bút không thể sống nổi? Nếu sách không bán được thì đã đành là “tại thằng tác giả” và “đáng kiếp bọn làm sách”. Nếu sách bán được, tốt thôi, sẽ có đội quân phát hành và làm lậu nhảy vào chia phần, đúng hơn là cướp phần.

Một cuốn sách dạy nghề (tôi nói sách dạy nghề chứ không nói tới các dạng “khảo cứu về văn hóa dân gian Bắc Trung Bộ”, “lịch sử tôn giáo”, “tổng quan về địa chính trị ĐNA” v.v.) theo tôi là loại sách có giá trị sử dụng cao đối với một tỷ lệ lớn dân chúng vốn bị coi là thấp kém về văn hóa đọc. Viết một cuốn hữu ích như thế không hề dễ, có khi chỉ một đoạn ngắn tác giả cũng phải mất bao nhiêu thời gian và công sức tìm tòi tư liệu, suy nghĩ, tính toán cách viết v.v. Đổi lại, tác giả được gì? Nhuận bút của tác giả và của họa sĩ trình bày sách đương nhiên là thấp méo mặt so với số tiền rơi vào túi giới phát hành và càng thấp hơn lợi nhuận của dân làm sách lậu. Tất nhiên, phát hành và làm sách lậu thì cũng cần nhiều chất xám, nhưng có cần phải cao đến thế không so với chất xám của người làm nội dung? Dân chế biến sách lậu mua được nhà, tậu được xe, thì cũng phải cho bọn tác giả và làm sách chính hãng mua được cái cột nhà, cái lốp xe chứ?

Ai bảo vệ tác giả, dịch giả… tóm lại là các content provider trước nạn cướp bóc trắng trợn như thế? Ai đảm bảo cho chúng ta rằng mỗi sự đầu tư của chúng ta vào tài sản của chính mình sẽ mang lại cho ta lợi nhuận xứng đáng?

Trần Thu Trang là một nhà văn trẻ có tuyên ngôn rất rõ ràng về công việc của mình, rằng cô viết văn để bán. Tôi có thể phỏng đoán được thu nhập từ việc viết của cô, nhưng đó chỉ là phỏng đoán mà thôi. Còn điều tôi tin chắc, là: cô ấy không thể giàu như cô ấy lẽ ra phải giàu.

Công ty Nhã Nam in một slogan kêu gọi đằng sau mỗi sản phẩm của họ: “Mua bán sách giả là giết chết sách thật” (kèm theo một tia lửa điện nhì nhằng rõ đáng sợ). Không có sự nghiêm minh của luật pháp, tất cả những lời kêu gọi, tuyên truyền, cổ vũ… chỉ là trò hề.
Chừng nào sở hữu trí tuệ còn bị bỏ quên, âm nhạc, điện ảnh, truyền thông (báo chí - xuất bản)… tất cả các ngành dịch vụ sáng tạo ở Việt Nam còn kém phát triển dài dài.

Nhân quyền chưa cần phải là những quyền mà ta từng nghe nhắc đến nhiều, những quyền được thông tin, quyền được tự do tư tưởng, quyền được bình đẳng v.v. Nó có thể chỉ đơn giản là quyền sở hữu, trong đó có sở hữu trí tuệ.


*
* *
Nói vậy nhưng tôi chẳng bi quan nghĩ ngợi làm gì cho đau đầu. Vì tôi tin tình hình sẽ khác, vấn đề chỉ là thời gian. Bây giờ, mỗi lần đọc trên blog ai đó, thấy viết một câu gì đó rồi có dấu hoa thị (*) giải thích nguồn ở đâu, tôi lại mỉm cười thích chí. Tương tự, khi nhận được thư/ message của bạn hỏi có thể xin entry này entry kia không, tuy hơi mệt vì phải trả lời xin cứ tự nhiên”, vâng, kính anh”... nhưng trong bụng, tôi hài lòng lắm, vì đó đều là biểu hiện của sự tôn trọng bản quyền - ở giới trẻ. Văn hóa Âu - Mỹ, trong đó có một nét rất nhỏ là sự tôn trọng bản quyền, vốn có sức ảnh hưởng đầy hấp dẫn đến chúng ta. Rồi sẽ đến lúc chúng ta bắt chước họ để được “văn minh hóa” mà thôi.

Đơn cử một ví dụ, phải là từ khi văn minh của bọn rợ Tây vào Việt Nam, ta mới biết đến những khái niệm “nhường đường cho người già, trẻ em và phụ nữ”, “lady first”, “after you, lady”, chứ theo truyền thống phương Đông hả, thì người già, phụ nữ, trẻ em cứ việc chờ hết hơi. (Nói đến đây là mình phải xin lỗi ngay các Hoa kiều và fan, à tức là hâm mộ viên, của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam: Mình chỉ phát ba cái ngôn thế thôi chứ không có ý miệt thị văn minh - văn hóa Trung Quốc đâu ).

Sẽ cần luật pháp và sự thực thi luật pháp. Sẽ cần “tuyên truyền, giáo dục để mọi người dân cùng có ý thức về tôn trọng bản quyền. Sẽ cần... sẽ cần... Tóm lại, ta cần một giải pháp đồng bộ - cụm từ Hán Việt này dịch sang tiếng Việt chuẩn là chưa làm gì cả, đừng làm gì vội.
Vấn đề… chỉ là... thời gian…

Bạn tôi




Không muốn viết entry tang tóc đầu năm, nhưng không chịu nổi nữa…
Bạn tôi chết vào trưa 30 Tết.
Tôi gặp bạn lần cuối cùng vào tối 29. Phương cười tươi lắm, nói chuyện râm ran. Người ta cứ bảo người sắp ra đi thường lộ ra điềm gì gở, nhưng với tôi hôm ấy, Phương chẳng có vẻ gì như thế. Vẫn là Thanh Phương nhiệt tình và đáng yêu, dễ gần vô cùng.
Trong nghề làm phóng viên, tôi có gặp nhiều nghệ sĩ, và Thanh Phương là người tôi quý nhất, người mà tôi có thể sung sướng gọi là “bạn tôi”, mặc dù nghe đầy vẻ “thấy người sang bắt quàng làm họ”. Phương là diễn viên nổi tiếng, còn tôi chỉ là một phóng viên quèn không tên tuổi. Nhưng tôi yêu mến Phương ngay từ lần gặp đầu tiên, vì bằng cảm nhận của mình, tôi thấy Phương rất chân thật. Phương không giấu tôi những đặc điểm nào đó trong của mình, như tính thích nổi tiếng (tôi không muốn dùng từ “háo danh”, vì đó không phải là tính xấu). Hoặc, trong thâm tâm, tôi biết Phương là người miền Bắc, nhưng vì Sài Gòn mới là nơi Phương thành danh, nên Phương luôn dành lời khen ngợi Sài Gòn và tẩy bớt những nét “đặc sệt Bắc” ở mình. Có thể tôi cảm nhận sai, mà cũng có thể Phương chân thành đến mức không giấu ai những điều đó.

Tôi nhớ lắm giọng Phương hát bài “Phúc âm buồn” và “Nếu có yêu tôi” trong vở Hạnh phúc trên đồi hoa máu. Hôm đó Phương đổi suất diễn cho Đại Nghĩa, để ngồi dưới xem kịch “hầu chuyện” tôi. Đến lúc nghệ sĩ Thành Lộc hát bài “Nếu có yêu tôi”, tôi khen anh hát hay, và Phương có vẻ hơi chạnh lòng: “Trang không nhận ra giọng Phương à?

Tôi nhớ lắm lúc ngồi café với Phương vào buổi tối cuối cùng đó. Phương còn nhiệt tình “đề xuất” cho tôi uống café latte “cho nó nhẹ, dễ ngủ Trang ạ, phụ nữ dùng latte là hợp”. Cười hi hi bảo tôi: “Phương cực lực phản đối mũ bảo hiểm nhé. Đọc blog của Trang, thấy chửi mũ bảo hiểm quá trời. Sao không dám đăng báo, lại đi chửi đổng trên blog à?” Tôi đố Phương viết được một kịch bản sân khấu chống chủ trương đội mũ bảo hiểm. Phương nói: “Ừ, để Phương xem, có lẽ sẽ viết nhưng phải tìm cách lách nữa”. Viết thật nhé? Ngoéo tay nào! Ừ thì ngoéo.

Tôi nhớ rất rõ những lời Phương nói và tiếng cười khúc khích sau vai. Vì Phương cả gan không đội mũ bảo hiểm, tôi phải cầm lái, chở Phương về nhà. Phương ngồi co ro sau lưng tôi (Hà Nội tối hôm ấy cực lạnh), bảo: “Này, bây giờ mà công an tóm nhỉ, Phương có hai phương án. Một, gục vào lưng Trang giả vờ ốm hoặc giả vờ ngớ ngẩn. Hai, nói là em chưa đầy 14 tuổi, thưa anh”. Tôi thì sợ công an một phép, nhưng cũng cố đùa: “Còn phương án nữa, là Phương xuống xe, hất hàm, nói giọng miền Nam nhé: Có biết ai đây không? Diễn viên nổi tiếng Mai Nguyễn Thanh Phương đây”. Phương lại cười rúc rích sau vai tôi: “Không đâu. Phương chỉ nổi tiếng từ Huế trở vào thôi. Từ Huế trở ra, không ai biết mình đâu. Sân khấu hai miền Bắc - Nam vẫn chưa thông thương, khổ thế đấy”.

Trốn chui trốn lủi công an, vòng vèo một lúc, chúng tôi mới về đến nhà bác Phương. Phương bắt tay tôi: “Có quà miền Nam cho Trang nhưng lại không để ở đây. Ngày mai nếu Phương vội không qua được, Trang qua nhà Phương mà lấy nhé. Trưa Phương bay, xuống sân bay sẽ gọi Trang ngay”.

Tôi không ngờ đó là cái bắt tay cuối cùng của Phương với tôi.
Trưa, rồi chiều, không thấy Phương gọi. Ngày giáp Tết bận rộn, tôi định khoảng 7h tối sẽ gọi Phương hỏi thăm. 7 giờ kém 16 phút, điện thoại réo, đầu dây bên kia báo cho tôi cái tin kinh hoàng: Phương đã mất. Tôi hốt hoảng: Máy bay rơi à? Không, Phương chết vì cảm lạnh.

Thường trong một gia đình, có đứa con nào chết đi, người ta hay nói đó là đứa con ngoan nhất, giỏi nhất, hoặc là con một. Đến mức cứ nghe có ai chết trẻ, tôi lại nhếch mép cười: “Chắc lại con (trai) một, hay là đứa tốt nhất trong mấy anh chị em chứ gì?”. Như thể ai chết sớm đều là người tốt cả.


Nhưng với Phương thì điều đó đúng thật. Phương tốt bụng và nhiệt tình với bạn bè biết bao nhiêu. Cái áo mưa Phương tặng mình hôm ở Sài Gòn, mình để lại thành phố rồi. Quyển sách Phương tặng, Trang vẫn còn giữ đây. Số điện thoại của những người Phương giới thiệu cho Trang gặp để phỏng vấn, Trang còn chưa kịp liên hệ. Mà Phương còn nói, Phương hay đi xem tử vi ở chỗ một anh này hay lắm, anh ấy bảo Phương năm 2007 may mắn, rực rỡ lắm. Khi nào Trang vào Sài Gòn, Phương đưa địa chỉ anh ấy để Trang đến xem thử nhé.


Phương ơi, Phương ơi…


Sao tôi giận cái tay xem tử vi kia thế? Phương mất đúng ngày cuối cùng của năm 2007 âm lịch!

Bạn bè tôi có nhiều người cũng chết sớm. Hai cô chết vì bệnh, một cậu tự sát, một cậu tai nạn giao thông. Tôi cũng đã quen với việc nhận tin ai đó đột tử. Ngày trước có lần tôi kêu la với bạn: “Mạng người ở ta rẻ thế nhỉ?”. Ông bạn trả lời theo phong cách… lố bịch: “Thì đến cái mạng em còn rẻ nữa là mạng người!”. Sự sống chết, nhất là ở nước mình, quá mong manh. Vì thế, tôi không đến nỗi sốc quá khi nghe tin Phương mất. Cái chết có thể đến với bất kỳ ai trong chúng ta, bất kỳ lúc nào.

Nhưng tôi biết, sẽ còn rất lâu nữa tôi mới dám đặt chân vào sân khấu Idecaf để xem kịch, bởi vì tôi không thể quên được ở đó MỘT GƯƠNG MẶT.

Trắc nghiệm

“Hắn” là số ít, “họ” là số nhiều.

1. Nguồn gốc của hắn: Tiểu nông - Mục tiêu cuộc đời: Tiểu chủ - Hành vi: Tiểu xảo - Tư cách: Tiểu nhân - Làm ăn: Tiểu thương - Suy nghĩ: Tiểu trí - Tư tưởng: Tiểu bá.
2. Tình cảm không dào dạt hơn cái ao làng - Nhìn quá ngọn tre là chóng mặt - Chỉ uống nước giếng khơi mới không đau bụng - Một ngày không ăn mắm tôm không chịu được - Phát minh lớn nhất là cải tiến xe công nông - Ý nghĩa cuộc đời là ăn miếng dồi chó - Mong ước lớn nhất là sống được hơn người - Sợ nhất là chết không được toàn thây.

3. Nếp sinh hoạt của những người như họ? Một người thì trùm chăn ngủ - nếu hai người thì tổ chức nấu nướng - ba người thì nói xấu người khác - bốn người trở lên thì họ chia bè “đánh nhau”. (Cái này không hẳn đúng, hai người thì vẫn trùm chăn ngủ chứ nhỉ, phải ba người trở lên mới làm những việc khác.

Này này, mọi người đừng nghĩ nhảm, thì nói chuyện một lát thể nào chả có người kêu mệt và buồn ngủ, thế không ngủ thì làm gì?)

4. Những người như họ, hễ chỉ có một thì có khi không rơi xuống hố, hai người thì đào hố bẫy người, có ba người đi với nhau thì có thể hơn một người sẽ rơi xuống hố do chính họ đã đào lên.


5. Hắn ham học nhưng để làm quan chứ không nhằm cải tạo cuộc sống. (Với riêng Trang the Ridiculous thì câu này không đúng vì tôi... có ham học đâu)

6. Họ con chấy cắn đôi khi nghèo khổ, nhưng họ chỉ mong con lợn nhà hàng xóm lăn ra chết.

7. Họ đánh nhau kiểu hội đồng từ sau lưng mà không dám đối mặt đánh nhau trên đấu trường.


8. Trong diễn đàn thì họ ngậm miệng, nhưng bàn thối chuyện ngoài quán nước.


9. Bao nhiêu tinh lực của họ dành cho sự lẩn lách để tồn tại - bởi vậy họ ưa những hình thức phi chính thống.


10. Đi đến đâu họ cũng lập chợ quê mà không thể làm ăn lớn. (Họ muốn làm ăn lớn lắm ý chứ - vì sĩ diện - mà không được)


11. Họ hay nói tình nghĩa nhưng dễ đánh nhau vỡ đầu vì món lợi nhỏ.


12. Họ cởi gan cởi ruột nhưng phong cách sống rất khép kín.


13. Hắn cười hinh hích để tự thưởng cho ý nghĩ của mình hơn là cười tươi với cái hay của người khác - hắn sướt mướt với cái thua thiệt của mình để hằn học với niềm vui của người khác.


14. Hắn coi cái gì cũng là nhỏ mà bỏ qua trong khi hắn không định nghĩa được cái lớn là gì. Việc lớn thì kinh, việc nhỏ thì khinh, việc bình thường thì không thích.


15. Họ có nhiều sáng kiến nhỏ nhưng không có khả năng biến những cái đó thành hàng hóa cạnh tranh.


16. Hắn vừa sùng ngoại vừa bài ngoại.


17. Hắn có khuynh hướng bới thù trong bạn hơn là tìm bạn trong thù.


18. Hắn rất khó dung nạp và đồng thuận với sự khác biệt.


19. Hắn rất "tinh tướng" vì không biết mình biết người.


20. Hắn luôn nghi ngờ, không phải để nhận thức lại thế giới mà chẳng thực tin vào cái gì. (Ừm, cái này thì trúng không giấu mặt vào đâu được)


21. Họ "dàn hàng ngang mà tiến" không hẳn vì sự hăng hái hay dũng cảm mà vì họ khiếp sợ cái đằng sau họ, và để sẵn sàng tranh nhau một cái gì đó phía trước.


22. Hắn có khả năng phi thường biến cái chính thống thành cái phi chính thống, để cái Tà của hắn tha hồ phát triển. (
Ừm, cái này nữa, lại trúng không che được)

23. Hắn nhìn nhận đánh giá thế giới qua con mắt hấp háy gỉ nhoèn của mình và qua cái vốn hiểu biết "ếch ngồi đáy giếng" và đo vũ trụ bằng đơn vị dao quăng. Hắn bám vào cái thực tế chưa phát triển để thải loại cái lý thuyết phát triển để mong được yên thân.


24. Hắn phân thân biến hóa khôn lường theo cái cách của con sâu rau.


25. Hắn có thể nhẫn nại trong chiến tranh nhưng rất nôn nóng trong hòa bình.


26. Hắn gấp gáp hưởng thụ những sản phẩm văn minh của nhân loại, nhưng nền văn minh lại tự đặt dấu hỏi có nên cho hắn xếp chung hàng không?


27. Hắn rất thích phát ngôn như cãi nhau vì chẳng hiểu cái gì đến nơi đến chốn, chỉ muốn tỏ ra mình có vai trò quan trọng - giống như chó “sủa ma”.


28. Hắn có thể nói được những lời to tát, có cánh nhưng hắn không thể che giấu được sự tự ti, nhược tiểu.


29. Họ chỉ cần một dúm người cũng có thể làm nên một sự hỗn độn, tạo nên một vụ việc, một sự hư cấu, một sự hủy hoại môi trường. Và mỗi người trong họ đều thấy bế tắc hoang mang trong chính dúm người đó.


30. Trong cộng đồng của họ, mọi nghịch lý đều được coi là đương nhiên, ở đó "Quái" đi với "Quái" là thường. Và họ mất rất nhiều tâm lực để thỏa hiệp, chung sống với những nghịch lý đó để rồi bị giằng xé phân thân.


31. Hôm qua họ từng "Tiếng hát át tiếng bom" - cái chết không khiến cho họ sợ hãi, nhưng rất sợ sự chuyên chế mà họ cũng tích cực góp phần tạo nên như hôm nay.


32. Họ từng đánh thắng oanh liệt nhiều ngoại xâm nhưng họ đã góp phần tạo ra nội xâm rất nhiều lần, để rồi lại phải chống ngoại xâm.


33. Họ định đi? Một người họ không dám đi, hai người họ đi loăng quăng, ba người họ mất cả ngày để bàn xem nên đi đâu, bốn người trở lên thì họ không đi đâu nổi, thế là họ ở nhà cất lên bài hát Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng.


34. Họ đã tạo ra và đứng trong hàng ngũ trí thức: Nói rất hay, nhưng cái hay không có thật; nói rất đúng, nhưng cái đúng không phát triển. Họ học môn bắt rồng, rồi cũng hiểu ra trên đời không có rồng, thế là tìm cách dạy lại con cháu môn bắt rồng để kiếm sống.


35. Hắn không hiểu rõ về bản thân và cội nguồn của mình. Hắn lớn lên trong sự hư danh và dương dương tự đắc.


36. Hắn rất giỏi trong việc tầm thường hóa những khái niệm, những phạm trù thiêng liêng và sáng tạo nên những khảo dị theo kiểu dân dã.
(Lại trúng không che được, thôi từ nay chừa )

37. Họ du nhập vào nhiều học thuyết, và họ du di giữa các học thuyết đó theo cách của người Bohemian.


38. Hắn không có tín ngưỡng chính thống, nhưng mê tín đến mức cực đoan, hắn gán cho Thánh Thần, Trời Phật những thuộc tính của chính hắn. Hắn đã làm quá nhiều điều không đàng hoàng đến mức tâm linh của hắn không yên ổn.


39. Hắn có thể bình tĩnh nằm hầm địa đạo hàng chục năm, nhưng khi trèo lên mặt đất thì hắn rất manh động.


40. Hắn luôn ngộ nhận 99% là của mình, mặc kệ một % còn lại là của ai đó. Hắn thường đuối sức, thỏa hiệp, nản lòng ở những phần trăm cuối cùng.


41. Hắn học rất nhiều nhưng luôn có khuynh hướng tách rời giữa lý thuyết với thực tiễn. Bởi vậy cái việc học của hắn trở thành hủ nho, cái việc hành của hắn trở thành chắp vá, cái kết quả của hắn thật thảm hại.


42. Khi gặp sự không thuận lợi hắn thường tìm kiếm nguyên nhân từ bên ngoài chứ ít khi phân tích nguyên nhân nội thân, vì vậy hắn thiếu cầu thị, không tiến bộ và đi đến ngộ nhận về bản thân.


(Bàn về văn hóa ứng xử của người Việt Nam - Nguyễn Tất Thịnh).

Trò lố của năm




Entry cuối của năm này Trang the Ridiculous xin dành để điểm lại một vài sự cố lố bịch nhất của cá nhân trong năm 2008.
Một ngày mùa đông, nhân có ít tiền trong túi quần, Trang the Ridiculous ra cửa hàng nội thất mua bộ salon. Tự biết là thẩm mỹ của mình chẳng ra cái khỉ gì nên tôi nèo một anh bạn đi cùng làm cố vấn… đại khái trông hai người cũng khá giống một cặp vợ chồng đi sắm nội thất chuẩn bị ở riêng, chỉ khác cái là ở đây cô vợ đứng đực như bị Down, chồng bảo gì nghe nấy. Bộ salon trị giá 7,5 triệu, theo thỏa thuận, tôi đặt trước 500.000 đồng, còn 7 triệu chờ khi giao hàng (một tuần sau) sẽ trả nốt.

Chiều tối, tôi phóng xe xuống Đông Kim Ngưu thăm Z81. Đang lạng lách, len lỏi thì một xe máy chở hàng từ phía trong vượt lên tạt ngang mặt. Đánh “xoảng” một cái, Trang the Ridiculous đo đường ngay lập tức. Ngồi dậy, chưa kịp rút chân ra khỏi xe thì cái túi nhét trong giỏ đã bị một bàn tay trong đám đông lao qua nhẹ nhàng nhấc mất.

Trời mùa đông tối nhanh, đường đông, mắt một thời bị cận, thêm cái đau bổ sung, tôi không tài nào nhìn ra biển số xe của chú trộm, và quả thật là cũng không có ý định làm ầm lên. “Bad luck, mate. Lấy túi phóng viên thì chả có cái mẹ gì đâu mate ạ”. Tôi đủng đỉnh đứng dậy, cám ơn những người đi đường tốt bụng dựng xe giúp nhưng vụng về đứng chắn tầm nhìn. Rồi nổ máy đi tiếp tới nhà Z81. Chỉ hơi bực mình vì đây là lần đầu tiên trong đời bị giật túi - tôi vốn có tính cẩn thận, giữ đồ đâu ra đấy, chưa bao giờ đi đâu mà để quên, đánh mất đồ hay bị lừa, bị trộm cắp v.v. Lần này, tổng thiệt hại cũng không nhiều, mất chứng minh thư và ít visiting card.

Chiều tối hôm sau là đám cưới em Bilun, toàn tòa soạn rộn rịp đi dự. Trang the Ridiculous và Bũng Ruồi đến muộn nhất. Lúc đi mới biết tầm quan trọng của cái túi: Không có chỗ để phong bì. Tôi bèn nhét phong bì vào cuốn “Hãy làm đi” của FPT Arena, ngoài bìa in hình Adam và Eva to vật. Sau thấy không ổn, sách thì đỏ rực, bìa thì hình vẽ vi phạm nghiêm trọng quy chế biểu diễn… cầm cuốn này vào đám cưới e là quá đồi trụy. Nhìn quanh quất, thấy trên bàn có cuốn “Văn hóa Doanh nghiệp”, Trang the Ridiculous liền kẹp phong bì vào sách, rồi kẹp sách vào nách, hân hoan lên taxi đi dự cưới Bilun.


Tôi đi bộ đủng đỉnh suốt từ cổng công viên Lenin vào tới nhà hàng Gió Mới bên trong.

Rồi lại đi diễu qua hàng chục bàn ăn ở sảnh tầng 1 để đến bàn mình.
Ăn xong, đi ra, rồi với cố tật “vui đâu chầu đấy”, lại nghễu nghện quay vào, lên tầng 2, ăn tiếp, nghe bà con hò hát inh ỏi.
Tay vẫn cầm khư khư cuốn “Văn hóa Doanh nghiệp”. Và chỉ cầm một cuốn sách, không có gì khác - không túi xách, không chìa khóa, không điện thoại, tóm lại là không gì cả, ngoài một cuốn sách.
Kể ra lúc bước vào sảnh, cũng có vài giây Trang the Ridiculous nóng bừng cả mặt khi thấy rất nhiều ánh mắt nhìn mình. Nhưng rồi cũng đành tảng lờ, chặc lưỡi: Mặc kệ!

Để rồi hôm sau, dư luận phản ánh với em Bilun: Này, tòa soạn bên ấy có cái bạn nào chăm đọc nhỉ, đi ăn cưới cũng cầm sách theo. Mà lại còn là sách “Văn hóa Doanh nghiệp” nữa chứ. Văn hóa doanh nghiệp có liên quan gì đến văn hóa đám cưới à?

Nghe Bilun kể lại, Trang the Ridiculous miệng thì cười hềnh hệch nhưng hai tai hình như cũng hơi đỏ. Thôi cũng may là còn được gọi là “bạn”, chứng tỏ những người đoán mình 24-25 tuổi cũng không phải là khen nịnh. Đang trò chuyện, chợt điện thoại réo lên. Đầu dây bên kia là chị bán hàng ở cửa hàng nội thất:

- Này, em là Trang phải không? Em có định đặt bộ salon nữa không đấy?

- ???
- Có cái thằng nào đến đây đòi lại 500.000 tiền đặt cọc này. Nó bảo “con vợ em nó đi đặt salon mà không hỏi ý kiến em, em không cho nó làm nữa. Chị trả lại tiền đặt cọc cho em, hủy bộ salon. Đây biên lai nhận tiền hôm trước đây, chứng minh thư của vợ em đây”.

Trang the Ridiculous tối sầm mặt lại vì tức. Ơ mẹ kiếp, bọn này định ăn cả cặn hả? Đã được túi, được chứng minh thư và visiting card, bây giờ lại muốn ăn cả 500.000 đồng đặt cọc à?

- Chị… chị bắt ngay lấy nó cho em, bắt ngay lấy nó cho em… - tôi nói líu cả lưỡi.
- Gì hả em? Ô, nó, nó chạy mất rồi em ạ. Đấy, chị nghi ngay mà. Chị hỏi: “Nó là vợ mày, sao tao thấy nó đi với thằng khác?”. Thằng ấy lúng túng, chị mới bảo để tao gọi điện cho nó. Chị cầm máy gọi cho em, thế là nó lên xe chạy mất.
Trang the Ridiculous tức tối vô cùng.

Buổi chiều, tôi bèn ra hàng sắt thửa một chiếc nắp đậy giỏ xe, có móc khóa. Lại mua thêm một chiếc khóa số con con. Từ nay tất cả túi xách, sổ, tài liệu, mũ bảo hiểm… đi đường cứ tống hết vào giỏ xe, đậy nắp rồi khóa lại, trộm nhìn chỉ có khóc thôi.


Sáng kiến tai hại. Thậm lố bịch.

Hậu quả là từ hôm đó đến nay, đi đâu, vào những lúc tôi lúi húi mở khóa để lấy đồ ra khỏi giỏ xe, luôn có ít nhất một người đứng nhìn và cười khen: “Cẩn thận thế?”, “Làm cái này hay nhỉ?”, “Sáng kiến sáng kiến”… Có hôm Z81 sốt ruột còn gắt lên: “Khổ lắm, chị không cần khóa đâu, đi vào đi cho nhanh, cẩn thận quá đi mất!”. Tóm lại là gây sự chú ý một cách rất không cần thiết.
Trang the Ridiculous cũng luôn phải dự trữ một nụ cười đáp lại, kèm lời giải thích: “Vâng, tại cháu/ em/ chị bị giật túi mấy lần, đâm ra cứ phải làm thế này cho nó an toàn đấy ạ”. Nghĩ cũng thấy bực mình. Đã biết xã hội Việt Nam là đồng phục cả chùm rồi, còn cứ lố bịch mà chi? Chẳng nhẽ lại hỏi lại: “Nhìn cái === gì mà nhìn? Chỉ là… một cái nắp đậy giỏ xe, có khóa thôi mà”.


Tôi nói vậy thôi, năm mới, tính cách mới, sẽ không lố bịch nữa. Sẽ giải tán sớm cái giỏ xe “quá cẩn thận”, sẽ không cầm cả cuốn sách dày đi ăn cưới… và quan trọng nhất là sẽ không để bị giật túi nữa.

Thuốc thử màu của đảng ta!Trang-the-Ridiculous

“… Thử thì cũng có phép thử khôn và phép thử ngu. Thiếu gì cách thử mà phải thử như thế vào thời điểm này?…”

Vài ngày trước khi Hà Nội ngập, Trang-the-Ridiculous có gặp một tỉ phú tiền Việt (không tiện nêu tên). Ông cằn nhằn:

- Cả nước đang khủng hoảng kinh tế như thế này cũng giống như lúc một gia đình gặp nguy khốn ấy, ông bố phải làm sao để các con yên tâm: “Các con ơi, yên chí, bố chúng mày giỏi lắm, tài lắm”. Đằng này đã khủng hoảng chết đi, lại tung ra cái chính sách “thắt chặt vòng ngực” (tức dự thảo “vòng ngực 72” của Bộ Y tế), quá bằng bảo: “Các con ơi, yên chí, bố chúng mày vẫn ngu như thường!”.

Trang-the-Ridiculous vội vã buông ngay một câu:
Còn chịu được…!
- Theo chú, liệu đây có phải một phép thử của chính quyền không ạ?

Nhà tỷ phú ngồi thẳng người dậy:

- Thử cái gì?

- Dạ, thử… thử xem sức chịu đựng của dân chúng đến đâu chẳng hạn. Nếu còn chịu được thì ta tiếp tục…

Ông bực bội:

- Thử thì cũng có phép thử khôn và phép thử ngu. Thiếu gì cách thử mà phải thử như thế vào thời điểm này?

Ba phóng viên ngồi nghe, cười rinh rích.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy tôi nói đúng nhá: Chỉ vài ngày sau đó, Bí thư Thành ủy Phạm Quang Nghị đã xác nhận đợt lụt này ở Hà Nội là một cuộc “tổng diễn tập” cho tương lai. Trang-the-Ridiculous lấy thế làm khoái trá lắm. Xin bà con tha lỗi cho tiểu nhân đắc chí, hỏi đểu được một câu thì mừng rỡ đến ba ngày!

*
Sự khoái trá cuối cùng đã bẹp dí khi Trang-the-Ridiculous tôi nói chuyện với anh X. – nhân viên của cơ quan Y, là cơ quan có buổi họp quan trọng vào sáng 1/11 vừa qua. Anh X. bảo: “Em ơi em, họp tổng kết vấn đề tôn giáo gì đâu, trong lúc mưa ngập trời ngập đất thì ‘chúng nó’ ăn nhậu với nhau trong nhà ấy…”

Chẳng hiểu sao cái bản mặt của tôi rất dễ làm người ta phun ra những điều không nên phun - có lẽ do trông nó ngu ngu. Nói xong anh X. nọ mới nhớ ra mình đang gặp một phóng viên, lập tức anh sợ hãi van nài: “Đừng đưa anh lên báo, đừng…”.

Tôi cũng sợ. Đưa lên báo làm gì cơ chứ? Ngay cả phóng lên blog như bây giờ, Trang-the-Ridiculous tôi cũng đã thấy chờn chợn. Thôi thì mong trên thương, dưới thương, bạn đọc thông cảm…

Tổng số lượt xem trang