Hoàng Sa là của Việt Nam VNMEDIA
Đôi lời vào chuyện:
Cộng đồng người Việt ở Ba Lan nói riêng và ở Nga, Đông Âu nói chung mang tính đặc thù khác hẳn các cộng đồng người Việt ở các nước Tây Âu và Hoa Kỳ.
Số lượng người Việt ở đây cỡ vài trăm ngàn, nhưng cả bên Ta lẫn phía “Tây” bản xứ, đều không thể nào đưa ra số lượng chính xác, cho dù độ sai số thống kê, xác suất có thể cho phép tới 10% – 20%.
Bởi vì người Việt sang đây bằng muôn vàn kiểu cách, nhiều nhất theo các đường giây dịch vụ chuyển người (hay buôn người) trong giai đoạn thập niên 90 của thế kỷ trước. Ở Ba Lan số người sống không có giấy tờ cư trú hợp pháp, sống chui nhủi trước pháp luật ước tính khoảng 50-60%, thậm chí 70% tổng số cộng đống.
Phải suýt soát 100% người Việt ở Nga và Đông Âu ra đi từ miền Bắc. Vì thế người ta nói khu vực này là sân sau của Hà Nội. Có thèm thì cũng không thể tìm được rau diếp cá, chao, bún bò Huế, bánh canh, chả quế… trong các chợ châu Á.
Người Việt ở đây không phải tị nạn cộng sản, cũng chẳng phải ra đi tìm đường cứu nước, mà cam chịu kiếp tha hương để tự cứu mình và gia đình, kiếm tiền là chính, chuyện vận mệnh dân tộc, đất nước đã có Đảng và Nhà nước lo. Vì thế, cộng đồng này là một đàn Cừu chính hiệu trước nhà cầm quyền Hà Nội. Số người dám công khai nói thẳng, nói thật như “sao buổi sớm”, còn dám đối đầu với chế độ thì chỉ “lạc loài dăm bảy đứa”, thứ vua liều này “như lá mùa thu”.
Khá nhiều người Việt ở đây làm ăn thành đạt, giàu có, nhà cao, cửa rộng, xe hơi sang trọng, con cái du học Anh, Mỹ. Lắm người rủ nhau về nước đầu tư, mở ngân hàng, xây khách sạn, nhà ở, trường học tư… Thường dân nếu có giấy tờ thì cỡ nào một hai năm cũng cố về thăm nhà một lần.
Ai cũng có những mối quan hệ thân sơ với người trong nước, có người là Con Cháu Các Cụ, bè bạn các ông nhớn, đại gia đang phất. Cho nên, tôi la cà bên họ ké chuyện, lượm lặt thông tin vỉa hè. Ở cái xứ Việt dở dở, ương ương ngày nay, chạy theo mốt sống Tây-Mỹ ào ào nhưng lai căng số 1, vì cái đuôi A-la-mít vẫn cứ tòi ra ngoài, thượng thì bất chính, hạ thì loạn xì ngầu, mạnh ai nấy đớp, cóc và ễnh ương hè nhau nhảy lên ngôi vua. Vì thế, tin vỉa hè đôi khi mới là tin độc, đáng tin. Còn tin chính thức thì cứ đọc một tờ báo quốc doanh là đủ, vì tờ nào cũng viết giống y chang nhau.
Họ nói làm nhà báo trong nước hiện nay, nếu được đặt trúng chỗ, khôn khéo nép mình theo lề phải và có chút máu điếm đàng, lưu manh thì kiếm được bộn tiền. Vụ án lớn nhất nào của Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thời mở cửa kinh tế cũng dính đến các nhà báo, từ Nam Cam đến Pờ Mu 18.

Dinh thự của Sơn Báo ở Hà Nội - Foto: LDĐ
Trong bài viết của mình “Sự đểu cáng thời vươn ra biển lớn”, tôi có nói đến nhân vật Sơn. Anh ta làm ở báo Quân đội Nhân dân, nên gọi là Sơn Báo. Nếu so sánh cái nhà sàn trong Dinh Chủ tịch của ông Hồ Chí Minh ở khu Ba Đình với nhà của Sơn Báo thì chẳng khác gì kiểu đem vôi so với phấn, so L… con đĩ với môi thợ kèn. Mỗi chậu kiểng trong vườn Sơn Báo trị giá vài chục ngàn đôla. Tôi hỏi tay bạn làm báo sao mà giàu kinh khủng đến thế, hắn nháy mắt đểu và nói rằng đó là nghệ thuật, ảo thuật mà chỉ dân nhà báo Việt Nam thời tư bản đỏ cai trị mới phù phép, thao tác được.
Cuối tuần rảnh rỗi, tôi lang thang trên các Blog trong nước kiếm chác tin nóng thì đọc được bài của bà Hồ Thu Hồng, cựu Phó Tổng biên tập tờ Thể thao Văn hóa, nói về nhà báo Huy Đức, người có Blog Osin khá tiếng tăm.
Tôi đã gặp một số người ở Washington DC, nơi Huy Đức đã tá túc hoặc đi lại trong thời gian qua Mỹ. Mọi người có vẻ dành cho Huy Đức những cảm tình đặc biệt. Tôi cũng thích văn phong của Huy Đức trong một số bài mang tính hiện thực xã hội.
Tin Huy Đức bị gác bút, không làm cho Sài Gòn Tiếp thị được bàn đến khá nhiều trên các trang nhà trong tuần vừa qua.
Bối cảnh khó hiểu của các vụ nhận tội, xin khoan hồng của một loạt những “người hùng” Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim, làm tôi không khỏi ngờ vực. Còn có tin rằng, có người trong họ là do chính nhà cầm quyền cộng sản nhào nặn và dựng lên, qua mặt tất cả những ai ngây ngô vì yêu dân chủ, tự do quá, phát cuồng, nên hễ cứ ai nói gì thuận nhĩ mình là vỗ tay đại. Coi chừng có ngày bị hố to!
Nay nghe bà Hồ Thu Hồng nói về Huy Đức lại giật mình. Có vẻ như thuyết âm mưu đang thu nạp được nhiều tín đồ, coi chừng gần bằng các tín đồ của học thuyết Mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh!
Thôi, thận trọng chẳng bao giờ thừa, nhưng tuyệt đối không nên nhìn đâu cũng thấy vi trùng như bác sĩ. Như vậy sẽ chẳng bao giờ tự định hình tư duy mình được.
Ngẫm nghĩ về Sơn Báo lòng lại dặn lòng hãy cẩn thận. Các nhà văn nô, điếm bút trong chế độ cộng sản từ hồi xửa hồi xưa vẫn nổi tiếng mất vệ sinh, rất hay ỉ bậy và đái bậy vào tường nhà người khác khi có ai đụng đến các ông chủ đang nuôi cơm họ hàng ngày.
Để làm một nhà làm báo tử tế, có nhân cách rất khó, lại càng khó hơn trong các chế độ toàn trị, độc tài, kiểm duyệt thông tin chặt chẽ và nhà báo viết mà phạm thượng là có thể đi đời cả sự nghiệp, thậm chí ngồi tù.
Vậy xin đề nghị các bạn đọc bài dưới đây của bà Hồ Thu Hồng và chúng ta cùng nhau tìm hiểu, mổ xẻ hoặc ít nhất là cứ lắng nghe.
Lê Diễn Đức
*****
Osin Huy Đức Hồ Thu Hồng Blog
---
“Nỗi niềm” Trương Thái Du
----------------------
Mao, một chuyện Tàu
Phan Văn Song
Xem phim “Mao, một chuyện Tàu” của Adrian Maben và vài cảm nghĩ về Việt Nam.

Adrian Maben - Foto: OnTheNet
Hôm thứ tư 02/09/2009, vào 20 giờ 45 trên đài Truyền Hình Pháp Arte có chiếu một cuốn phim nghiên cứu, “Mao, một câu chuyện Tàu”. Phim gồm 4 tập, mỗi tập một giờ. Ngày 02/09 chiếu hai tập, ngày 09/09 chiếu hai tập. DVD sẽ ra bán vào cuối tháng 9, nếu ai muốn mua để làm tài liệu.
Đầy đủ, thật là công phu, bộ phim bốn tập về Mao Trạch Đông do Adrian Maben thực hiện, theo cuốn sách về tiểu sử của Mao của Philippe Short (2005, Nhà sách Fayard-Paris) là một hiện tượng lớn của ngành truyền thông đầu mùa thu nầy.
Cuốn phim là một bài lịch sử rõ ràng, hấp dẫn, dắt khán giả đi vào những khúc mắc, những khó khăn, những bất bình thường với quan niệm Tây Âu, đi vào lịch sử, đi vào thời cuộc, nhưng đấy là cuộc sống binh thường hằng ngày của ¼ nhân loại.
Bắt đầu bằng cuộc “Vạn Lý Trường Chinh” và sự chinh phục Đảng Cộng sản Trung Quốc kỳ Đại hội lần thứ VIII năm 1945, Mao đã dẫn dắt nhân dân Trung Quốc vào một con đường thật sự phiêu lưu mà cuối cùng phải nói là thật sự bi đát.
Mỗi chặng đường của nửa thế kỷ lịch sử Trung Quốc vừa qua được kể lại và chứng minh một cách rõ ràng. Bộ phim cũng được nghiên cứu và dàn dựng với đầy đủ tài liệu hình ảnh, dàn dựng thực hiện công phu trong vòng bốn năm trời. Rất khó khăn!
- “Những thương thuyết với nhà cầm quyền Trung Quốc không phải dễ dàng. Chúng tôi muốn thực hiện một cuốn phim không có sự dòm ngó kiểm duyệt của cơ quan tuyên truyền Trung Quốc. Và Trung Quốc ngày nay không ngừng thay đổi và viết lại lịch sử của họ” – Nhà thực hiện phim kể lại.
Cũng vì thế mà nhiểu biến cố, nhiều dữ kiện và sự việc đã được “quên” và đã xóa khỏi ký ức tập thể của lịch sử Trung Quốc, ví dụ như Cuộc Cách Mạng Văn Hóa vào những năm 1960. Những người trách nhiệm quản lý các văn khố Tàu coi như Cách Mạng Văn hóa không bao giờ xảy ra.
Như vậy để đề cao vai trò của nhóm làm phim Pierre – André Boutang, đã theo dõi, hướng dẫn việc thực hiện ráp phim của nhóm Arte. Nhờ thế, những giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Trung Quốc đã được lục lạo, tìm kiếm, và hình ảnh đưa lên trong phim chưa bao giờ có trước đây.
Khán giả đã được nhìn thấy những cảnh dã man của những cuộc đấu tố công cộng, trong thời kỳ Cách mạng Văn Hóa, những hình ảnh các lãnh đạo trách nhiệm Đảng Cộng sản hay cơ quan hành chánh bị nhóm Hồng Vệ binh hay quần chúng hoành hành đấu tố. Khán giả được chứng kiến những hình ảnh bất hủ của Jiang Qing (Giang Thanh), người vợ thứ tư và cũng là một tay đàn bà ác ôn, thấy lại hình ảnh của một nàng minh tinh điện ảnh hạng hai vào những năm 1930. Khán giả cũng được chứng kiến những cảnh thương tâm của nạn đói ( 38 triệu người chết) năm 1959, do sai lầm của chính sách Đại Nhảy Vọt, trong tập 3.
Sau khi được nhìn những hình ảnh nầy, chúng ta ngạc nhiên đặt câu hỏi tại sao tất cả những hình ảnh và kể cả những mẩu chuyên về những cuộc phiêu lưu của họ Mao nầy sau không được, hay rất ít thấy trên các màn ảnh, sách báo Âu Tây? Vì khó khăn tìm tài liệu? Hay…?
Câu hỏi nầy người viết cũng đặt về Hồ Chí Minh và Việt Cộng. Tội ác to như thế, lường gạt thiên hạ như thế, mà ngày nay thông tin lịch sử thế giới vẫn nín khe. Bưng bít? ngại ngùng? Hay thương hại? Nếu thương hại, nên dành các “thương hại” cho dân nhân Việt Nam vì họ mới thật sự là những nạn nhân.
Vì những câu hỏi trên nên ngày nay, những tài liệu nghiên cứu về lịch sử cận đại Tàu thời đại Mao hay lịch sử cận đại Việt Nam về thời đại Hồ Chí Minh là một bãi sa mạc.
Cho nên, hôm xem phim, chúng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác và cuối cùng tôi rất xúc động. Là một người thích đọc sách, khảo cứu, nhưng đọc chưa đủ, nghe vẩn chưa đủ, nay thấy bằng mắt, hình ảnh nó đập vào mắt, đập vào trí não. Biết vậy mà nay thấy còn hơn vậy nữa, không thể tưởng thưởng nổi. Văn hóa hiền hòa Tàu, văn hóa văn học Khổng Tử , văn hóa truyền thống Phật giáo… đâu cả rồi? Sao toàn là cái ác không vậy?
Sự xóa bỏ sự thật của lịch sử cận đại Tàu về Mao cũng do chánh sách Đảng Cộng sản Tàu. Trung Cộng ngày nay, một mặt cố gắng phát triển kinh tế nước Tàu, làm giàu (bằng mọi giá), một mặt củng cố địa vị độc quyền của Đảng Cộng Sản, bành trướng chủ nghĩa Hán tộc, dùng hình ảnh Mao để giữ an ninh, hòa giải trong toàn dân. Ai mở hủ mắm Mao ra có thể bị nguy hiểm ngay.
Dân tộc Á Đông ta, chưa đủ trưởng thành dân chủ để làm một việc như Kroutchev hay Gorbachev mà không hề mang tính trả thù, gây máu đổ chết chóc. Nước Mỹ sau cuộc nội chiến Nam Bắc không có trả thù. Việt Nam ta văn hóa hiền hòa như vậy mà sau cuộc nội chiến Nhà Quang Trung-Nhà Nguyễn, Vua Gia long đã sai người đào mả Vua Quang Trung, đốt xác, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn đi. Việt Cộng Bắc Việt sau ngày 30/4/75, cũng không thể tha thứ làm hòa với dân chúng miền Nam. Văn hóa Á Đông cộng với não trạng cộng sản chỉ có biết giết, trả thù và hành hạ dân mà thôi.
Ngày nay ở Trung Cộng, Mao được sùng bái, được thần thánh hóa như một anh hùng dân tộc. Căn nhà của tuổi thơ của Mao ở Shaoshan và lăng tẩm nơi trưng bày xác Mao được ướp vẫn là những nơi được Đảng Cộng sản Tàu tổ chức cho dân chúng đi xem. Và lịch sử Tàu không nói đến những việc làm sai trái của Mao. Một huyền thoại được viết lên để lường gạt cả một dân tộc. Làm như nhân dân Tàu phải cần một huyền thoại giả tạo như vậy để tồn tại.
Cám ơn nhà thực hiện phim đã đưa những nhân chứng sống để dẫn chứng các dữ liệu. Những nhân chứng đã từng là những người cộng sự, hoặc con cháu nối tiếp của những nhân vật tên tuổi: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Lâm Bưu, Giang Thanh…
Các nhân chứng nầy và đặc biệt sự có mặt của tác giả Philippe Short với cuốn tiểu sử về Mao giúp khán giả có cái nhìn phân tích khoa học trước những dữ kiện rất thực tế đang dồn dập xáo trộn nội tâm chúng ta.

DVD về Mao
Mong sao nhiều người Việt Nam sẽ tìm xem phim này qua DVD để biết được chuyện Tàu, liên hệ với Việt Nam để hiểu nhiều hơn về đất nước mình.
Và mong sao có một nhà sử học tầm cỡ và một nhà thực hiện phim làm một bộ phim trung thực, thực tế và đầy đủ về nhân vật Hồ Chí Minh và cuộc phiêu lưu bi đát của Việt Nam.
Mong lắm!
Pháp, tháng Chín 2009
<<<::: ch="" dvd="" h="" minh="" ng="" r="" s="" t="" th="" v="" y="">>>>
Joseph Stiglitz: Ngân hàng đang đương đầu với vấn đề tệ hơn so với trước khủng hoảng-- CafeF
Chính khách Nga “bức xúc” vì hàng nhái của Trung Quốc
Từ tủ sách gia đình tại phủ của Công chúa Ngọc Sơn (con vua Đồng Khánh, em vua Khải Định, cô ruột vua Bảo Đại) ở 31 Nguyễn Chí Thanh, TP Huế, nhà Huế học Phan Thuận An vừa tìm thấy thêm một Châu bản của triều Nguyễn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa.
(14/9/2009)
Lê Diễn Đức (14/9/2009)
Đôi lời vào chuyện:
Cộng đồng người Việt ở Ba Lan nói riêng và ở Nga, Đông Âu nói chung mang tính đặc thù khác hẳn các cộng đồng người Việt ở các nước Tây Âu và Hoa Kỳ.
Số lượng người Việt ở đây cỡ vài trăm ngàn, nhưng cả bên Ta lẫn phía “Tây” bản xứ, đều không thể nào đưa ra số lượng chính xác, cho dù độ sai số thống kê, xác suất có thể cho phép tới 10% – 20%.
Bởi vì người Việt sang đây bằng muôn vàn kiểu cách, nhiều nhất theo các đường giây dịch vụ chuyển người (hay buôn người) trong giai đoạn thập niên 90 của thế kỷ trước. Ở Ba Lan số người sống không có giấy tờ cư trú hợp pháp, sống chui nhủi trước pháp luật ước tính khoảng 50-60%, thậm chí 70% tổng số cộng đống.
Phải suýt soát 100% người Việt ở Nga và Đông Âu ra đi từ miền Bắc. Vì thế người ta nói khu vực này là sân sau của Hà Nội. Có thèm thì cũng không thể tìm được rau diếp cá, chao, bún bò Huế, bánh canh, chả quế… trong các chợ châu Á.
Người Việt ở đây không phải tị nạn cộng sản, cũng chẳng phải ra đi tìm đường cứu nước, mà cam chịu kiếp tha hương để tự cứu mình và gia đình, kiếm tiền là chính, chuyện vận mệnh dân tộc, đất nước đã có Đảng và Nhà nước lo. Vì thế, cộng đồng này là một đàn Cừu chính hiệu trước nhà cầm quyền Hà Nội. Số người dám công khai nói thẳng, nói thật như “sao buổi sớm”, còn dám đối đầu với chế độ thì chỉ “lạc loài dăm bảy đứa”, thứ vua liều này “như lá mùa thu”.
Khá nhiều người Việt ở đây làm ăn thành đạt, giàu có, nhà cao, cửa rộng, xe hơi sang trọng, con cái du học Anh, Mỹ. Lắm người rủ nhau về nước đầu tư, mở ngân hàng, xây khách sạn, nhà ở, trường học tư… Thường dân nếu có giấy tờ thì cỡ nào một hai năm cũng cố về thăm nhà một lần.
Ai cũng có những mối quan hệ thân sơ với người trong nước, có người là Con Cháu Các Cụ, bè bạn các ông nhớn, đại gia đang phất. Cho nên, tôi la cà bên họ ké chuyện, lượm lặt thông tin vỉa hè. Ở cái xứ Việt dở dở, ương ương ngày nay, chạy theo mốt sống Tây-Mỹ ào ào nhưng lai căng số 1, vì cái đuôi A-la-mít vẫn cứ tòi ra ngoài, thượng thì bất chính, hạ thì loạn xì ngầu, mạnh ai nấy đớp, cóc và ễnh ương hè nhau nhảy lên ngôi vua. Vì thế, tin vỉa hè đôi khi mới là tin độc, đáng tin. Còn tin chính thức thì cứ đọc một tờ báo quốc doanh là đủ, vì tờ nào cũng viết giống y chang nhau.
Họ nói làm nhà báo trong nước hiện nay, nếu được đặt trúng chỗ, khôn khéo nép mình theo lề phải và có chút máu điếm đàng, lưu manh thì kiếm được bộn tiền. Vụ án lớn nhất nào của Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thời mở cửa kinh tế cũng dính đến các nhà báo, từ Nam Cam đến Pờ Mu 18.

Dinh thự của Sơn Báo ở Hà Nội - Foto: LDĐ
Cuối tuần rảnh rỗi, tôi lang thang trên các Blog trong nước kiếm chác tin nóng thì đọc được bài của bà Hồ Thu Hồng, cựu Phó Tổng biên tập tờ Thể thao Văn hóa, nói về nhà báo Huy Đức, người có Blog Osin khá tiếng tăm.
Tôi đã gặp một số người ở Washington DC, nơi Huy Đức đã tá túc hoặc đi lại trong thời gian qua Mỹ. Mọi người có vẻ dành cho Huy Đức những cảm tình đặc biệt. Tôi cũng thích văn phong của Huy Đức trong một số bài mang tính hiện thực xã hội.
Tin Huy Đức bị gác bút, không làm cho Sài Gòn Tiếp thị được bàn đến khá nhiều trên các trang nhà trong tuần vừa qua.
Bối cảnh khó hiểu của các vụ nhận tội, xin khoan hồng của một loạt những “người hùng” Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Trần Anh Kim, làm tôi không khỏi ngờ vực. Còn có tin rằng, có người trong họ là do chính nhà cầm quyền cộng sản nhào nặn và dựng lên, qua mặt tất cả những ai ngây ngô vì yêu dân chủ, tự do quá, phát cuồng, nên hễ cứ ai nói gì thuận nhĩ mình là vỗ tay đại. Coi chừng có ngày bị hố to!
Nay nghe bà Hồ Thu Hồng nói về Huy Đức lại giật mình. Có vẻ như thuyết âm mưu đang thu nạp được nhiều tín đồ, coi chừng gần bằng các tín đồ của học thuyết Mác-xít và tư tưởng Hồ Chí Minh!
Thôi, thận trọng chẳng bao giờ thừa, nhưng tuyệt đối không nên nhìn đâu cũng thấy vi trùng như bác sĩ. Như vậy sẽ chẳng bao giờ tự định hình tư duy mình được.
Ngẫm nghĩ về Sơn Báo lòng lại dặn lòng hãy cẩn thận. Các nhà văn nô, điếm bút trong chế độ cộng sản từ hồi xửa hồi xưa vẫn nổi tiếng mất vệ sinh, rất hay ỉ bậy và đái bậy vào tường nhà người khác khi có ai đụng đến các ông chủ đang nuôi cơm họ hàng ngày.
Để làm một nhà làm báo tử tế, có nhân cách rất khó, lại càng khó hơn trong các chế độ toàn trị, độc tài, kiểm duyệt thông tin chặt chẽ và nhà báo viết mà phạm thượng là có thể đi đời cả sự nghiệp, thậm chí ngồi tù.
Vậy xin đề nghị các bạn đọc bài dưới đây của bà Hồ Thu Hồng và chúng ta cùng nhau tìm hiểu, mổ xẻ hoặc ít nhất là cứ lắng nghe.
Lê Diễn Đức
*****
Osin Huy Đức Hồ Thu Hồng Blog
---
“Nỗi niềm” Trương Thái Du
Ngô Minh Trí
Mươi ngày trước, tôi vô tình đọc được một bình luận về bài Bức tường Berlin trên blog QUECHOA. Tác giả của bài bình luận này là Trương Thái Du. Điều khiến tôi bỏ chút thời gian đọc thêm các bài viết của Du là khả năng viết lách và tư tưởng của ông này..
Tôi viết không vì bênh vực Huy Đức, đơn giản chỉ là nhận xét. Bởi với tôi, Huy Đức chứa nhiều dấu hỏi. Tôi chỉ quan tâm các bài viết của Huy Đức, và rõ ràng, trong nhận xét của tôi thì bài viết của Huy Đức cũng mang nhiều ý nghĩa tích cực hơn là tiêu cực.
Trương Thái Du cũng thế, tôi chỉ quan tâm các bài viết để thấy“nỗi niềm” của ông này. Tôi không hề có ý dính dáng vào trận “bút chiến” nào, cũng không muốn dính đến khuynh hướng chính trị của các vị ấy.
Từ khoa chiêu
Ở Huy Đức, khi viết, thường dùng phép quy nạp bằng cách trích dẫn một loạt các sự kiện, số liệu, dẫn chứng… và được tổ chức có hệ thống để đi đến kết luận của mình. Huy Đức tổ chức các dẫn chứng rất bài bản, thông qua đó định hướng suy nghĩ cho người đọc và dần dần truyền tải thông điệp của mình muốn nói. Nhờ đó, tính thuyết phục khá cao, nhiều người tâm đắc. Nhưng tất nhiên, người đọc vẫn cần có sự tỉnh táo, để đánh giá việc định hướng kia, thì mới có được một nhận thức sáng suốt.
Công thức viết tưởng chừng đơn giản ấy nhưng không phải ai cũng làm được, bằng chứng là không có nhiều cây bút như Huy Đức. Tất nhiên, thành công trong viết lách của Huy Đức còn phải kể đến những yếu tố ngoài lề mang tính cá nhân khác, nhưng dẫu sao làm được như thế cũng là hiếm. Nên hãy quên đi những yếu tố cá nhân ấy.
Còn với Trương Thái Du lại khác, ông Du thường có cách thể hiện ngay thông điệp và sau đó hùng biện bằng một vài dẫn chứng tỏ ra khá hùng hồn .
Trong bài Đọc “Bức Tường Berlin” của Huy Đức (*), ông Du nhanh chóng đi vào ngay thông điệp chính: “nhà báo Huy Đức lại sử dụng “độc lập, tự do” như một cái cớ khập khiễng để nhảy múa trên những sử liệu một chiều” và “Lịch sử nào? Lịch sử của “Bức tường Berlin” mà Huy Đức trưng ra là thứ lịch sử theo nhãn quan phương Tây”.
Tiếp sau là một bài hùng biện hùng hồn với bút lực, ngôn từ rất mạnh mẽ. Phải công nhận rằng lối viết của Du khá sắc bén, ngôn từ có tính tác động cao. Từ đó, tác giả bắt đầu dùng ngòi bút khoáy đảo, dẫn dắt người đọc vào một mê hồn trận lý luận để rồi kết thúc bằng một thông điệp đậm tính triết lý: “Ảo tín vào những điều không tưởng của một người lính xuất thân từ nông dân luôn dễ hiểu hơn ảo tín của một nhà báo chính trị xã hội già dặn nơi phồn hoa”.
Kết luận thế, sẽ khiến một số người đọc đặt dấu hỏi về bài viết của Huy Đức. Nhờ đó, bài viết của Trương Thái Du có lẽ có hiệu quả không hề nhỏ. Một số người sau khi tâm đắc với bài Bức tường Berlin của Huy Đức có thể đã phải lung lay trước bài đánh giá của Trương Thái Du.
Đó là điểm mạnh, nhưng để tạo ra được hiệu ứng ấy thì ông Du dùng quá nhiều khoa chiêu trong viết lách. Chính nhờ những khoa chiêu, ông đã “thôi miên” được một số độc giả. Nhưng thôi miên khác với nhận thức lý trí, nó không thể ăn sâu vào tâm trí người khác, nó chỉ là nhất thời.
Tác giả Trương đã nâng quan điểm bằng việc chỉ trách mạnh mẽ “nhãn quan phương Tây”. Ông Du cũng dẫn chứng hẳn hoi để chứng minh quan điểm ấy và mặt xấu của phương Tây là đô hộ, là ách thống trị trung cổ man rợ, là toan tính… Nhưng xoay quanh những điều gọi là chứng minh chỉ là việc áp đặt thiên kiến.
Việc đô hộ về bản chất chỉ là hình thức của việc thiết lập ảnh hưởng của các cường quốc. Tùy vào từng thời điểm lịch sử mà hình thức ảnh hưởng có những mức độ khác nhau, và thế giới càng phát triển, càng tiến bộ, thì tất nhiên những trò áp đặt mang rợ chắc chắn phải giảm dần. Đó là quy tắc bao đời của thế giới, dù tôi hay các bạn không muốn thì vẫn phải thừa nhận nó đang tồn tại, để dẹp bỏ hoàn toàn thì có lẽ còn xa. Và ai cũng hiểu hành xử của bất cứ quốc gia nào đều luôn dựa trên mục đích chính trị của quốc gia đó.
Nếu nhìn vào dẫn chứng của ông Du, so sánh ngược lại, người ta cũng có quyền nhìn nhận việc hiện diện quân sự của Liên Xô lúc bấy giờ trên đất Đông Âu là tương tự với hai chữ “đô hộ”.
Ngay đến cách ông Du đánh giá nghị quyết 1481 của châu Âu, việc đổ quân lên Berlin trong quá khứ, việc “xét lại” lịch sử cũng chủ yếu là nhận định cá nhân mà không kèm theo được dẫn chứng khách quan nào. Nên sẽ là sai nếu xem đó là dẫn chứng khách quan.
Rồi khái niệm “ý chí thống nhất của dân tộc” được Trương Thái Du dùng để giải thích cho việc hòa hợp nước Đức cũng hết sức chung chung. Khi đó chỉ là cảm nhận, không có một viện dẫn nào ngoài phát biểu mang tính cá nhân của tác giả. Thứ duy nhất có thể xem là dẫn chứng cho quan điểm này là người dân hai miền Triều Tiên vẫn nỗ lực hòa hợp. Nhưng, câu hỏi đặt ra là đã hòa hợp được chưa? Và nếu chưa hòa hợp được thì người dân khi được chọn sẽ chọn Nam hay Bắc Triều? Và điều gì cản trở hòa hợp?
Sau hết, một kết luận tổng thể mà tác giả muốn gởi gắm sau một hồi khoáy đảo về “nhãn quan phương tây”, “ý chí thống nhất” là việc dùng chuyện Iraq để một lần nữa phủ định thông điệp về tự do, dân chủ của Huy Đức.
Ai cũng hiểu ý định của Hoa Kỳ tại Iraq là gì, giải phóng dân Iraq khỏi Sadam Hussein chỉ là cái cớ để phục vụ cho mục tiêu chính trị. Nên lẽ ra, ông Du nên dùng dẫn chứng này vào việc lên án tính thực dụng, “con buôn” của chủ nghĩa tư bản thì chính xác hơn. Mà thực ra, chuyện Iraq cũng được Huy Đức nói đến trong bài viết, có kèm theo cả nhận xét cuộc chiến này: “Có lẽ ngay chính người Mỹ, sau những chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, cũng thèm khát hình ảnh của chính mình trên bờ biển Normandy hay ở cái Checkpoint Charlie ấy”.
Qua những phân tích trên, ta thấy ông Du đã tạo ra một trận đồ hỗn loạn giữa cái gọi là dẫn chứng với quan điểm cá nhân phiến diện nhằm thôi miên người đọc. Nếu đánh giá chính xác, bài viết của ông Du không hề có lấy một dẫn chứng khách quan có giá trị nào cả, chưa kể cả việc đặt sai dẫn chứng. Bằng cách áp đặt quan điểm một cách khiên cưỡng, Trương Thái Du, ngược lại, đã rơi vào vũng lầy nhị nguyên tốt – xấu.
Đến đau đáu “nỗi niềm”
Kế sau bài Đọc “Bức Tường Berlin” của Huy Đức, tôi đọc tiếp bốn bài viết của ông Du trên BBC: một bài khảo cứu về nguồn gốc người Việt cổ và nói về bà Trưng – Tiếng trống đồng Mê Linh (2005)(1), Việt Nam và thế giới Trung Hoa (2008)(2), Tên gọi cuộc chiến Việt – Trung 1979 (2009)(3), Thời đại không anh hùng (2009)(4). Tuy chưa có bài nào ông Du dám mạnh miệng chối bỏ về đất nước và con người Việt Nam, nhưng kết nối lại thì tạo ra một chuỗi đáng suy nghĩ. Qua bốn bài ấy, tôi phần nào thấy được thông điệp cốt lõi mà tác giả này đang cố rao giảng.
Trong bài Tiếng trống Mê Linh, ông Du vẫn ca ngợi công trạng của hai bà Trưng. Thế nhưng, trong phần đầu dẫn dắt thì ông này rất nhấn mạnh đến cái gọi là khởi thủy của Việt Nam vẫn chỉ bắt nguồn tại Trung Quốc và là một bộ tộc mà thôi. Ông nhận xét rằng: “Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi”. Dường như cả bài viết là lời biện giải về nguồn cội “đại Hoa” của Việt Nam trong mắt ông Du dù cũng có những đánh giá lịch sử đáng suy nghĩ.
Tiếp theo, bài Việt Nam và thế giới Trung Hoa, ông Du đề cao cái gọi là “thế giới Trung Hoa”, xem nó luôn là một thế lực bao đời trên thế giới. Nếu ai tinh ý, người đó sẽ thấy ngay khái niệm “thế giới Trung Hoa” của ông Du có phần vay mượn từ học thuyết về Sự va chạm giữa các nền văn minh của học giả Mỹ Samuel Huntington. Nhưng điểm khác biệt là ông Du sử dụng “nửa nạt nửa mở”. Bởi Huntington dùng khái niệm ‘nền văn minh” để giải thích các va chạm hiện tại. Còn tại thời điểm kết thúc đệ nhị thế chiến thì Huntington vẫn xem việc phân chia là theo ý thức hệ. Tất nhiên, không ai có thể phủ nhận Trung Quốc vẫn là một cường quốc, tối thiểu là trong khu vực, ở nhiều thời kỳ. Nhưng việc “nâng tầm” như ông Du thì có lẽ hơi vỹ cuồng.
Bài viết ấy, bên cạnh việc ca tụng thế giới Trung Hoa, ông Du còn cố nhấn mạnh Việt Nam bao lâu nay vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cái thế giới ấy, và có phần phụ thuộc rất lớn. Từ đó, ông này đưa ra đề xuất rằng Việt Nam muốn đảm bảo chủ quyền, muốn ngẩng đầu thì cần phải thoát khỏi thế giới Trung Hoa. Nghe có vẻ rất là chân tình và đóng góp ý kiến. Thế nhưng, nếu suy nghĩ sâu hơn thì lối ẩn dụ của bài viết là những truyền bá rất nguy hiểm cho người Việt. Lối ẩn dụ đó chính là xóa sạch mấy nghìn năm của người Việt.
Một mặt đề xuất, một mặt ông Du “dập tắt hi vọng” của chính đề xuất bằng bài Thời đại không anh hùng, để nói Việt Nam hiện nay không có được một nhân vật đủ tạo ra một bước ngoặc thực sự cho dân tộc. Nối kết hai bài, ông Du như muốn nói rằng Việt Nam hãy an phận thuộc “Thế giới Trung Hoa” vì chẳng ai xoay chuyển nổi.
Đó là chưa kể, ông Du nói về việc xem lại tên gọi cuộc chiến Việt Trung 1979. Một ý niệm tiếp, theo ông này gởi gắm, về cuộc chiến đó chỉ là “anh em một nhà đóng cửa dạy nhau”, bác bỏ khái niệm “chống bành trướng Bắc Kinh”.
Bằng tất cả những gì Trương Thái Du thể hiện, tôi chỉ thấy một nỗi niềm đau đáu về cái thế giới Trung Hoa vĩ đại của ông. Với người mang một nỗi niềm như thế, lại nhìn mọi thứ hết sức phiến diện thì thật là nguy hiểm khi nhiều người bị ngòi bút của ông lay động.
Ngô Minh Trí
Các tham khảo:
Bức tường Berlin
Bút chiến quanh bài Bức Tường Berlin
Tiếng trống đồng Mê Linh
Việt Nam và thế giới Trung Hoa
Về tên gọi cuộc chiến Việt – Trung 1979
Thời đại không anh hùng
Tôi viết không vì bênh vực Huy Đức, đơn giản chỉ là nhận xét. Bởi với tôi, Huy Đức chứa nhiều dấu hỏi. Tôi chỉ quan tâm các bài viết của Huy Đức, và rõ ràng, trong nhận xét của tôi thì bài viết của Huy Đức cũng mang nhiều ý nghĩa tích cực hơn là tiêu cực.
Trương Thái Du cũng thế, tôi chỉ quan tâm các bài viết để thấy“nỗi niềm” của ông này. Tôi không hề có ý dính dáng vào trận “bút chiến” nào, cũng không muốn dính đến khuynh hướng chính trị của các vị ấy.
Từ khoa chiêu
Ở Huy Đức, khi viết, thường dùng phép quy nạp bằng cách trích dẫn một loạt các sự kiện, số liệu, dẫn chứng… và được tổ chức có hệ thống để đi đến kết luận của mình. Huy Đức tổ chức các dẫn chứng rất bài bản, thông qua đó định hướng suy nghĩ cho người đọc và dần dần truyền tải thông điệp của mình muốn nói. Nhờ đó, tính thuyết phục khá cao, nhiều người tâm đắc. Nhưng tất nhiên, người đọc vẫn cần có sự tỉnh táo, để đánh giá việc định hướng kia, thì mới có được một nhận thức sáng suốt.
Công thức viết tưởng chừng đơn giản ấy nhưng không phải ai cũng làm được, bằng chứng là không có nhiều cây bút như Huy Đức. Tất nhiên, thành công trong viết lách của Huy Đức còn phải kể đến những yếu tố ngoài lề mang tính cá nhân khác, nhưng dẫu sao làm được như thế cũng là hiếm. Nên hãy quên đi những yếu tố cá nhân ấy.
Còn với Trương Thái Du lại khác, ông Du thường có cách thể hiện ngay thông điệp và sau đó hùng biện bằng một vài dẫn chứng tỏ ra khá hùng hồn .
Trong bài Đọc “Bức Tường Berlin” của Huy Đức (*), ông Du nhanh chóng đi vào ngay thông điệp chính: “nhà báo Huy Đức lại sử dụng “độc lập, tự do” như một cái cớ khập khiễng để nhảy múa trên những sử liệu một chiều” và “Lịch sử nào? Lịch sử của “Bức tường Berlin” mà Huy Đức trưng ra là thứ lịch sử theo nhãn quan phương Tây”.
Tiếp sau là một bài hùng biện hùng hồn với bút lực, ngôn từ rất mạnh mẽ. Phải công nhận rằng lối viết của Du khá sắc bén, ngôn từ có tính tác động cao. Từ đó, tác giả bắt đầu dùng ngòi bút khoáy đảo, dẫn dắt người đọc vào một mê hồn trận lý luận để rồi kết thúc bằng một thông điệp đậm tính triết lý: “Ảo tín vào những điều không tưởng của một người lính xuất thân từ nông dân luôn dễ hiểu hơn ảo tín của một nhà báo chính trị xã hội già dặn nơi phồn hoa”.
Kết luận thế, sẽ khiến một số người đọc đặt dấu hỏi về bài viết của Huy Đức. Nhờ đó, bài viết của Trương Thái Du có lẽ có hiệu quả không hề nhỏ. Một số người sau khi tâm đắc với bài Bức tường Berlin của Huy Đức có thể đã phải lung lay trước bài đánh giá của Trương Thái Du.
Đó là điểm mạnh, nhưng để tạo ra được hiệu ứng ấy thì ông Du dùng quá nhiều khoa chiêu trong viết lách. Chính nhờ những khoa chiêu, ông đã “thôi miên” được một số độc giả. Nhưng thôi miên khác với nhận thức lý trí, nó không thể ăn sâu vào tâm trí người khác, nó chỉ là nhất thời.
Tác giả Trương đã nâng quan điểm bằng việc chỉ trách mạnh mẽ “nhãn quan phương Tây”. Ông Du cũng dẫn chứng hẳn hoi để chứng minh quan điểm ấy và mặt xấu của phương Tây là đô hộ, là ách thống trị trung cổ man rợ, là toan tính… Nhưng xoay quanh những điều gọi là chứng minh chỉ là việc áp đặt thiên kiến.
Việc đô hộ về bản chất chỉ là hình thức của việc thiết lập ảnh hưởng của các cường quốc. Tùy vào từng thời điểm lịch sử mà hình thức ảnh hưởng có những mức độ khác nhau, và thế giới càng phát triển, càng tiến bộ, thì tất nhiên những trò áp đặt mang rợ chắc chắn phải giảm dần. Đó là quy tắc bao đời của thế giới, dù tôi hay các bạn không muốn thì vẫn phải thừa nhận nó đang tồn tại, để dẹp bỏ hoàn toàn thì có lẽ còn xa. Và ai cũng hiểu hành xử của bất cứ quốc gia nào đều luôn dựa trên mục đích chính trị của quốc gia đó.
Nếu nhìn vào dẫn chứng của ông Du, so sánh ngược lại, người ta cũng có quyền nhìn nhận việc hiện diện quân sự của Liên Xô lúc bấy giờ trên đất Đông Âu là tương tự với hai chữ “đô hộ”.
Ngay đến cách ông Du đánh giá nghị quyết 1481 của châu Âu, việc đổ quân lên Berlin trong quá khứ, việc “xét lại” lịch sử cũng chủ yếu là nhận định cá nhân mà không kèm theo được dẫn chứng khách quan nào. Nên sẽ là sai nếu xem đó là dẫn chứng khách quan.
Rồi khái niệm “ý chí thống nhất của dân tộc” được Trương Thái Du dùng để giải thích cho việc hòa hợp nước Đức cũng hết sức chung chung. Khi đó chỉ là cảm nhận, không có một viện dẫn nào ngoài phát biểu mang tính cá nhân của tác giả. Thứ duy nhất có thể xem là dẫn chứng cho quan điểm này là người dân hai miền Triều Tiên vẫn nỗ lực hòa hợp. Nhưng, câu hỏi đặt ra là đã hòa hợp được chưa? Và nếu chưa hòa hợp được thì người dân khi được chọn sẽ chọn Nam hay Bắc Triều? Và điều gì cản trở hòa hợp?
Sau hết, một kết luận tổng thể mà tác giả muốn gởi gắm sau một hồi khoáy đảo về “nhãn quan phương tây”, “ý chí thống nhất” là việc dùng chuyện Iraq để một lần nữa phủ định thông điệp về tự do, dân chủ của Huy Đức.
Ai cũng hiểu ý định của Hoa Kỳ tại Iraq là gì, giải phóng dân Iraq khỏi Sadam Hussein chỉ là cái cớ để phục vụ cho mục tiêu chính trị. Nên lẽ ra, ông Du nên dùng dẫn chứng này vào việc lên án tính thực dụng, “con buôn” của chủ nghĩa tư bản thì chính xác hơn. Mà thực ra, chuyện Iraq cũng được Huy Đức nói đến trong bài viết, có kèm theo cả nhận xét cuộc chiến này: “Có lẽ ngay chính người Mỹ, sau những chiến tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, cũng thèm khát hình ảnh của chính mình trên bờ biển Normandy hay ở cái Checkpoint Charlie ấy”.
Qua những phân tích trên, ta thấy ông Du đã tạo ra một trận đồ hỗn loạn giữa cái gọi là dẫn chứng với quan điểm cá nhân phiến diện nhằm thôi miên người đọc. Nếu đánh giá chính xác, bài viết của ông Du không hề có lấy một dẫn chứng khách quan có giá trị nào cả, chưa kể cả việc đặt sai dẫn chứng. Bằng cách áp đặt quan điểm một cách khiên cưỡng, Trương Thái Du, ngược lại, đã rơi vào vũng lầy nhị nguyên tốt – xấu.
Đến đau đáu “nỗi niềm”
Kế sau bài Đọc “Bức Tường Berlin” của Huy Đức, tôi đọc tiếp bốn bài viết của ông Du trên BBC: một bài khảo cứu về nguồn gốc người Việt cổ và nói về bà Trưng – Tiếng trống đồng Mê Linh (2005)(1), Việt Nam và thế giới Trung Hoa (2008)(2), Tên gọi cuộc chiến Việt – Trung 1979 (2009)(3), Thời đại không anh hùng (2009)(4). Tuy chưa có bài nào ông Du dám mạnh miệng chối bỏ về đất nước và con người Việt Nam, nhưng kết nối lại thì tạo ra một chuỗi đáng suy nghĩ. Qua bốn bài ấy, tôi phần nào thấy được thông điệp cốt lõi mà tác giả này đang cố rao giảng.
Trong bài Tiếng trống Mê Linh, ông Du vẫn ca ngợi công trạng của hai bà Trưng. Thế nhưng, trong phần đầu dẫn dắt thì ông này rất nhấn mạnh đến cái gọi là khởi thủy của Việt Nam vẫn chỉ bắt nguồn tại Trung Quốc và là một bộ tộc mà thôi. Ông nhận xét rằng: “Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi”. Dường như cả bài viết là lời biện giải về nguồn cội “đại Hoa” của Việt Nam trong mắt ông Du dù cũng có những đánh giá lịch sử đáng suy nghĩ.
Tiếp theo, bài Việt Nam và thế giới Trung Hoa, ông Du đề cao cái gọi là “thế giới Trung Hoa”, xem nó luôn là một thế lực bao đời trên thế giới. Nếu ai tinh ý, người đó sẽ thấy ngay khái niệm “thế giới Trung Hoa” của ông Du có phần vay mượn từ học thuyết về Sự va chạm giữa các nền văn minh của học giả Mỹ Samuel Huntington. Nhưng điểm khác biệt là ông Du sử dụng “nửa nạt nửa mở”. Bởi Huntington dùng khái niệm ‘nền văn minh” để giải thích các va chạm hiện tại. Còn tại thời điểm kết thúc đệ nhị thế chiến thì Huntington vẫn xem việc phân chia là theo ý thức hệ. Tất nhiên, không ai có thể phủ nhận Trung Quốc vẫn là một cường quốc, tối thiểu là trong khu vực, ở nhiều thời kỳ. Nhưng việc “nâng tầm” như ông Du thì có lẽ hơi vỹ cuồng.
Bài viết ấy, bên cạnh việc ca tụng thế giới Trung Hoa, ông Du còn cố nhấn mạnh Việt Nam bao lâu nay vẫn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của cái thế giới ấy, và có phần phụ thuộc rất lớn. Từ đó, ông này đưa ra đề xuất rằng Việt Nam muốn đảm bảo chủ quyền, muốn ngẩng đầu thì cần phải thoát khỏi thế giới Trung Hoa. Nghe có vẻ rất là chân tình và đóng góp ý kiến. Thế nhưng, nếu suy nghĩ sâu hơn thì lối ẩn dụ của bài viết là những truyền bá rất nguy hiểm cho người Việt. Lối ẩn dụ đó chính là xóa sạch mấy nghìn năm của người Việt.
Một mặt đề xuất, một mặt ông Du “dập tắt hi vọng” của chính đề xuất bằng bài Thời đại không anh hùng, để nói Việt Nam hiện nay không có được một nhân vật đủ tạo ra một bước ngoặc thực sự cho dân tộc. Nối kết hai bài, ông Du như muốn nói rằng Việt Nam hãy an phận thuộc “Thế giới Trung Hoa” vì chẳng ai xoay chuyển nổi.
Đó là chưa kể, ông Du nói về việc xem lại tên gọi cuộc chiến Việt Trung 1979. Một ý niệm tiếp, theo ông này gởi gắm, về cuộc chiến đó chỉ là “anh em một nhà đóng cửa dạy nhau”, bác bỏ khái niệm “chống bành trướng Bắc Kinh”.
Bằng tất cả những gì Trương Thái Du thể hiện, tôi chỉ thấy một nỗi niềm đau đáu về cái thế giới Trung Hoa vĩ đại của ông. Với người mang một nỗi niềm như thế, lại nhìn mọi thứ hết sức phiến diện thì thật là nguy hiểm khi nhiều người bị ngòi bút của ông lay động.
Ngô Minh Trí
Các tham khảo:
Bức tường Berlin
Bút chiến quanh bài Bức Tường Berlin
Tiếng trống đồng Mê Linh
Việt Nam và thế giới Trung Hoa
Về tên gọi cuộc chiến Việt – Trung 1979
Thời đại không anh hùng
----------------------
Mao, một chuyện Tàu
Phan Văn Song
Xem phim “Mao, một chuyện Tàu” của Adrian Maben và vài cảm nghĩ về Việt Nam.

Adrian Maben - Foto: OnTheNet
Đầy đủ, thật là công phu, bộ phim bốn tập về Mao Trạch Đông do Adrian Maben thực hiện, theo cuốn sách về tiểu sử của Mao của Philippe Short (2005, Nhà sách Fayard-Paris) là một hiện tượng lớn của ngành truyền thông đầu mùa thu nầy.
Cuốn phim là một bài lịch sử rõ ràng, hấp dẫn, dắt khán giả đi vào những khúc mắc, những khó khăn, những bất bình thường với quan niệm Tây Âu, đi vào lịch sử, đi vào thời cuộc, nhưng đấy là cuộc sống binh thường hằng ngày của ¼ nhân loại.
Bắt đầu bằng cuộc “Vạn Lý Trường Chinh” và sự chinh phục Đảng Cộng sản Trung Quốc kỳ Đại hội lần thứ VIII năm 1945, Mao đã dẫn dắt nhân dân Trung Quốc vào một con đường thật sự phiêu lưu mà cuối cùng phải nói là thật sự bi đát.
Mỗi chặng đường của nửa thế kỷ lịch sử Trung Quốc vừa qua được kể lại và chứng minh một cách rõ ràng. Bộ phim cũng được nghiên cứu và dàn dựng với đầy đủ tài liệu hình ảnh, dàn dựng thực hiện công phu trong vòng bốn năm trời. Rất khó khăn!
- “Những thương thuyết với nhà cầm quyền Trung Quốc không phải dễ dàng. Chúng tôi muốn thực hiện một cuốn phim không có sự dòm ngó kiểm duyệt của cơ quan tuyên truyền Trung Quốc. Và Trung Quốc ngày nay không ngừng thay đổi và viết lại lịch sử của họ” – Nhà thực hiện phim kể lại.
Cũng vì thế mà nhiểu biến cố, nhiều dữ kiện và sự việc đã được “quên” và đã xóa khỏi ký ức tập thể của lịch sử Trung Quốc, ví dụ như Cuộc Cách Mạng Văn Hóa vào những năm 1960. Những người trách nhiệm quản lý các văn khố Tàu coi như Cách Mạng Văn hóa không bao giờ xảy ra.
Như vậy để đề cao vai trò của nhóm làm phim Pierre – André Boutang, đã theo dõi, hướng dẫn việc thực hiện ráp phim của nhóm Arte. Nhờ thế, những giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Trung Quốc đã được lục lạo, tìm kiếm, và hình ảnh đưa lên trong phim chưa bao giờ có trước đây.
Khán giả đã được nhìn thấy những cảnh dã man của những cuộc đấu tố công cộng, trong thời kỳ Cách mạng Văn Hóa, những hình ảnh các lãnh đạo trách nhiệm Đảng Cộng sản hay cơ quan hành chánh bị nhóm Hồng Vệ binh hay quần chúng hoành hành đấu tố. Khán giả được chứng kiến những hình ảnh bất hủ của Jiang Qing (Giang Thanh), người vợ thứ tư và cũng là một tay đàn bà ác ôn, thấy lại hình ảnh của một nàng minh tinh điện ảnh hạng hai vào những năm 1930. Khán giả cũng được chứng kiến những cảnh thương tâm của nạn đói ( 38 triệu người chết) năm 1959, do sai lầm của chính sách Đại Nhảy Vọt, trong tập 3.
Sau khi được nhìn những hình ảnh nầy, chúng ta ngạc nhiên đặt câu hỏi tại sao tất cả những hình ảnh và kể cả những mẩu chuyên về những cuộc phiêu lưu của họ Mao nầy sau không được, hay rất ít thấy trên các màn ảnh, sách báo Âu Tây? Vì khó khăn tìm tài liệu? Hay…?
Câu hỏi nầy người viết cũng đặt về Hồ Chí Minh và Việt Cộng. Tội ác to như thế, lường gạt thiên hạ như thế, mà ngày nay thông tin lịch sử thế giới vẫn nín khe. Bưng bít? ngại ngùng? Hay thương hại? Nếu thương hại, nên dành các “thương hại” cho dân nhân Việt Nam vì họ mới thật sự là những nạn nhân.
Vì những câu hỏi trên nên ngày nay, những tài liệu nghiên cứu về lịch sử cận đại Tàu thời đại Mao hay lịch sử cận đại Việt Nam về thời đại Hồ Chí Minh là một bãi sa mạc.
Cho nên, hôm xem phim, chúng tôi đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác và cuối cùng tôi rất xúc động. Là một người thích đọc sách, khảo cứu, nhưng đọc chưa đủ, nghe vẩn chưa đủ, nay thấy bằng mắt, hình ảnh nó đập vào mắt, đập vào trí não. Biết vậy mà nay thấy còn hơn vậy nữa, không thể tưởng thưởng nổi. Văn hóa hiền hòa Tàu, văn hóa văn học Khổng Tử , văn hóa truyền thống Phật giáo… đâu cả rồi? Sao toàn là cái ác không vậy?
Sự xóa bỏ sự thật của lịch sử cận đại Tàu về Mao cũng do chánh sách Đảng Cộng sản Tàu. Trung Cộng ngày nay, một mặt cố gắng phát triển kinh tế nước Tàu, làm giàu (bằng mọi giá), một mặt củng cố địa vị độc quyền của Đảng Cộng Sản, bành trướng chủ nghĩa Hán tộc, dùng hình ảnh Mao để giữ an ninh, hòa giải trong toàn dân. Ai mở hủ mắm Mao ra có thể bị nguy hiểm ngay.
Dân tộc Á Đông ta, chưa đủ trưởng thành dân chủ để làm một việc như Kroutchev hay Gorbachev mà không hề mang tính trả thù, gây máu đổ chết chóc. Nước Mỹ sau cuộc nội chiến Nam Bắc không có trả thù. Việt Nam ta văn hóa hiền hòa như vậy mà sau cuộc nội chiến Nhà Quang Trung-Nhà Nguyễn, Vua Gia long đã sai người đào mả Vua Quang Trung, đốt xác, lấy tro trộn vào thuốc súng bắn đi. Việt Cộng Bắc Việt sau ngày 30/4/75, cũng không thể tha thứ làm hòa với dân chúng miền Nam. Văn hóa Á Đông cộng với não trạng cộng sản chỉ có biết giết, trả thù và hành hạ dân mà thôi.
Ngày nay ở Trung Cộng, Mao được sùng bái, được thần thánh hóa như một anh hùng dân tộc. Căn nhà của tuổi thơ của Mao ở Shaoshan và lăng tẩm nơi trưng bày xác Mao được ướp vẫn là những nơi được Đảng Cộng sản Tàu tổ chức cho dân chúng đi xem. Và lịch sử Tàu không nói đến những việc làm sai trái của Mao. Một huyền thoại được viết lên để lường gạt cả một dân tộc. Làm như nhân dân Tàu phải cần một huyền thoại giả tạo như vậy để tồn tại.
Cám ơn nhà thực hiện phim đã đưa những nhân chứng sống để dẫn chứng các dữ liệu. Những nhân chứng đã từng là những người cộng sự, hoặc con cháu nối tiếp của những nhân vật tên tuổi: Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Lâm Bưu, Giang Thanh…
Các nhân chứng nầy và đặc biệt sự có mặt của tác giả Philippe Short với cuốn tiểu sử về Mao giúp khán giả có cái nhìn phân tích khoa học trước những dữ kiện rất thực tế đang dồn dập xáo trộn nội tâm chúng ta.

DVD về Mao
Và mong sao có một nhà sử học tầm cỡ và một nhà thực hiện phim làm một bộ phim trung thực, thực tế và đầy đủ về nhân vật Hồ Chí Minh và cuộc phiêu lưu bi đát của Việt Nam.
Mong lắm!
Pháp, tháng Chín 2009
<<<::: ch="" dvd="" h="" minh="" ng="" r="" s="" t="" th="" v="" y="">>>>
Ngành mía đường "bê bết" không chỉ có nguyên nhân từ đường bẩn, đường nhập lậu "sống" cùng đường sạch. Theo các DN, còn bởi các nhà máy đường (NMĐ) tự... diệt lẫn nhau, khi cứ vào vụ là tranh giành vùng nguyên liệu của nhau, hoặc vào vụ sớm, ép mía non thiếu chữ đường.
Kinh tế Việt Nam: Phục hồi nhưng còn quá nhiều thách thức
Theo báo cáo mới nhất về tình hình kinh tế Việt Nam và châu Á tháng 9/2009, Ban Nghiên cứu Kinh tế, Ngân hàng ANZ kết luận, dự cảm về khả năng hồi phục kinh tế của Việt Nam là rất rõ ràng, song còn quá nhiều thách thức vẫn đang ở trước mắt. Báo cáo cho rằng, với mục tiêu hồi sinh nền kinh tế bằng việc kích thích đầu tư và tiêu dùng, Việt Nam sẽ hồi phục và có...
Trung Quốc muốn "mượn" Nhật "đối đầu" Mỹ?
Kinh tế Việt Nam: Phục hồi nhưng còn quá nhiều thách thức
Theo báo cáo mới nhất về tình hình kinh tế Việt Nam và châu Á tháng 9/2009, Ban Nghiên cứu Kinh tế, Ngân hàng ANZ kết luận, dự cảm về khả năng hồi phục kinh tế của Việt Nam là rất rõ ràng, song còn quá nhiều thách thức vẫn đang ở trước mắt. Báo cáo cho rằng, với mục tiêu hồi sinh nền kinh tế bằng việc kích thích đầu tư và tiêu dùng, Việt Nam sẽ hồi phục và có...Trung Quốc muốn "mượn" Nhật "đối đầu" Mỹ?
VIT - Cùng với ảnh hưởng của bão tố tài chính những vụ va chạm thương mại giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và Phương Tây cũng diễn ra mạnh mẽ.
Nga trả 1 tỷ USD để thăm dò dầu mỏ ở Venezuela
Nga trả 1 tỷ USD để thăm dò dầu mỏ ở Venezuela
VIT - Nguồn tin chính thức hôm 13/9 cho biết, một tập đoàn tài chính của Nga vừa thanh toán 1 tỷ USD cho Venezuela để đảm bảo tiến trình thăm dò các mỏ dầu ở Orinoco nằm trong số mỏ dầu có trữ lượng lớn nhất thế giới.
Ông cho rằng kinh tế thế giới còn lâu mới thoát khỏi khó khăn. Theo ông, kinh tế Mỹ đã tăng trưởng nhưng chưa đủ để bù lại cho việc dân số tăng ngày một nhanh.
Chính khách Nga “bức xúc” vì hàng nhái của Trung Quốc
VIT - Sau khi các thương nhân Trung Quốc bị buộc phải rời khỏi chợ Vòm, thị trưởng thành phố Moscow Yuri Luzhkov lại một lần nữa “bức xúc” vì hàng nhái của Trung Quốc, kêu gọi cư dân Moscow và khách du lịch nước ngoài tại Moscow chống lại hàng thủ mỹ nghệ Nga đang bị giả mạo, đặc biệt là búp bê do Trung Quốc sản xuất đã chiếm lĩnh tại thị trường Moscow.