*Tham luận đọc tại hội thảo “South China Sea in the Vietnamese Context”,
Yale University, 18 tháng 11 năm 2009.
I. Đặt vấn đề
Biển Đông (East Sea) là tên gọi của Việt Nam cho “South China Sea” (tên gọi thông thường của tiếng Anh), là một biển phụ của Thái Bình Dương, rộng khoảng 3,5 triệu km2. Đấy cũng là biển lớn nhất trong năm đại dương. Biển Đông được bao bọc bởi mười nước và vùng lãnh thổ, gồm Việt Nam, Trung Quốc, Philippin, Inđônêxia, Brunây, Malaixia, Xinhgapo, Thái Lan, Campuchia và Đài Loan.
Biển Đông có hàng trăm quần đảo, các đảo nhỏ, các bãi đá ngầm, giàu tài nguyên khoáng sản và thủy sản. Biển Đông có vị trí chiến lược ở Đông Á và Đông Nam Á, có các tuyến thương mại quốc tế quan trọng giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương – trong đó đặc biệt eo biển Malacca - một trong các tuyến hàng hải thương mại lớn nhất của thế giới. Ngoài ra cần lưu ý Biển Đông còn là vùng kinh tế trực tiếp của khoảng 300 triệu cư dân các nước tại đây.
Vì rất nhiều lý do lịch sử để lại, nhất là những ký kết có nhiều điểm sau này gây tranh cãi giữa các cường quốc liên quan đến kết thúc chiến tranh thế giới II, những diễn biến lịch sử tại khu vực này trong những năm sau đó cũng như trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, đồng thời cũng vì những mâu thuẫn hiện tại về các lợi ích kinh tế, chính trị và chiến lược của các nước có liên quan trong vùng, ngày nay những tranh chấp trên Biển Đông rất phức tạp. Trong suốt thời gian từ sau chiến tranh thế giới II đến nay, đã xảy ra không ít xung đột vũ trang, đánh chiếm đảo và nhiều hành động tranh chấp khác trong vùng biển này, tình hình thậm chí nhiều khi rất căng thẳng.
Đặc biệt nghiêm trọng là biến cố năm 1956 khi Trung Quốc và Đài Loan đã dùng vũ lực chiếm một số đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, năm 1974 chiếm toàn bộ các đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa, năm 1988 chiếm thêm 6 điểm và một số bãi đá ngầm của quần Trường Sa. Trung Quốc thường xuyên có nhiều hoạt động tàn sát hoặc ngược đãi ngư dân Việt Nam, ngăn cản sự hợp tác của các công ty nước ngoài trong việc nghiên cứu và khai thác tài nguyên trên lãnh hải và thềm lục địa của Việt Nam.
Tranh chấp hiện có giữa các quốc gia trong vùng là:
· Tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc, Đài Loan.
· Tranh chấp chủ quyền toàn bộ hay một phần Trường Sa giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei.
· Tranh chấp các vùng biển giữa Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia.
· Liên quan đến những tranh chấp kể trên là tranh chấp trên hàng loạt vấn đề hệ trọng khác giữa các quốc gia trong vùng về lãnh thổ, lãnh hải, thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế, không phận và không gian trên Biển Đông...
Trong quá trình xảy ra những tranh chấp kể trên, với các bằng chứng lịch sử không thể tranh cãi, Việt Nam đã nhiều lần khẳng định chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, lãnh hải Việt Nam, vùng đặc quyền kinh tế, và thềm lục địạ nằm ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam theo đúng Công ước về Luật biển năm 1982 (UNCLOS - sau đây gọi tắt là Luật biển Quốc tế năm 1982). Ngày 06-05-2009 Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc để khẳng định lập trường nói trên của mình.
Do các cuộc lấn chiếm đảo bằng vũ lực và nhiều tranh chấp quyết liệt của Trung Quốc, đặc biệt là do yêu sách của Trung Quốc về cái gọi là “vùng lưỡi bò” chiếm khoảng 80% diện tích toàn Biển Đông, tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển Đông hiện nay là nhạy cảm nhất, nóng bỏng nhất. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ Việt – Trung năm 1990, quan hệ giữa hai nước vẫn từng thời kỳ lại nổi lên những tranh chấp căng thẳng trên biển đảo, kể cả sau khi đã hoàn thành việc phân định vịnh Bắc Bộ (25-12-2000).
Đáng chú ý là sau khi hoàn thành việc cắm mốc biên giới trên bộ tháng 12-2008 (theo Hiệp định biên giới Việt – Trung ký kết 1999), mặc dù phía Trung Quốc nhiều lần chính thức cam kết tìm kiếm những giải pháp hòa bình, họ vẫn tiếp tục gây những căng thẳng mới đối với Việt Nam trên Biển Đông, dù phía Việt Nam đã tự kiềm chế hết mức.
Trên đây là tóm tắt tình hình Biển Đông liên quan đến Việt Nam diễn ra cho đến nay.
Một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp tại Biển Đông, thỏa hiệp được tối đa các nước có liên quan trong vùng và được cùng nhau chấp nhận, sẽ là điều rất đáng mong muốn. Song hiện nay và có lẽ còn rất lâu, thậm chí rất rất lâu nữa, mong muốn này mới có thể trở thành hiện thực. Khi nào đạt được giải pháp ấy sẽ là vấn đề của thời gian, của tương lai. Đứng trước thực tế như vậy, từng nước nói riêng và tất cả các nước trong vùng nói chung cần lựa chọn gì cho Biển Đông: Biển của hòa bình, hay nổi sóng?
Đấy là câu hỏi được đặt ra, không cho phép chờ đợi.
Dưới đây, xin trình bầy một số suy nghĩ chung quanh câu hỏi này, với tính cách là một công dân trong khu vực, không đại diện cho ai ngoài chính bản thân người viết.
II. Biển Đông hôm nay ở trong một thế giới khác với hôm qua
Một là, cuộc khoảng kinh tế thế giới hiện nay, đặc biệt tại quốc gia đầu tàu là Mỹ, dẫn tới sự suy yếu của toàn bộ các nền kinh tế phương Tây và tác động đến mọi nền kinh tế khác trên thế gới. Cuộc khủng hoảng này kết thúc giai đoạn phát triển năng động nhất của thế giới phương Tây kể từ sau chiến tranh thế giới II – giai đoạn phát triển trong bối cảnh hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ và trong thế thượng phong của chủ nghĩa tân tự do. Giai đoạn phát triển năng động ấy ấn tượng đến mức người ta đã nghĩ đến sự cáo chung của lịch sử (điển hình là Francis Fukuyama), được hiểu là chủ nghĩa tân tự do và mô hình của nó là tồn tại duy nhất vì nó duy nhất đúng!
Câu hỏi lớn mà cuộc khủng hoảng này đặt ra là: Kinh tế thế giới rồi đây sẽ phải đi theo hướng nào? Câu trả lời vẫn còn ở phía trước.
Hai là, song song với hiện tượng trên, nước Mỹ, với sự tham gia của các đồng minh của họ, đã làm và đã đạt được gì trong chiến lược toàn cầu dưới hai nhiệm kỳ của tổng thống Bush? Thực tế cho thấy kết quả cuối cùng là vai trò và ảnh hưởng của Mỹ với tính cách là siêu cường duy nhất nói riêng, và của thế giới phương Tây nói chung đã giảm sút đáng kể: về vị thế quốc tế, về so sánh thực lực, về các giá trị, về mô hình phát triển v.v.
Hai vấn đề vừa nêu trên buộc Mỹ và phương Tây phải chấp nhận những thay đổi lớn chưa từng có. Thắng cử của tổng thống Obama, của thủ tướng Nhật Hatoyama và nhiều hiện tượng chính trị và kinh tế khác ở các nước phương Tây khẳng định thực tế này.
Ba là, trong tình hình thế giới nói trên, các cường quốc Trung Quốc, Nga, Ấn-độ - và một phần nào nữa là một số nền kinh tế đang nổi lên ở châu Mỹ La-tinh, tiếp tục mạnh lên. Đặc biệt trong thập kỷ vừa qua Trung Quốc ngày càng củng cố và phát huy vị thế của mình với tính cách là “công xưởng thế giới”, là chủ nợ lớn nhất thế giới, và bây giờ đang đi rất nhanh trên con đường trở thành cường quốc quân sự.
Tác động cộng hưởng của 3 hiện tượng vừa trình bày trên phải chăng đã chấm dứt thời kỳ hậu chiến tranh lạnh – mà điểm nổi bật là Mỹ từ vị thế siêu cường vượt trội, để chuyển dần sang một cục diện quốc tế đa cực, trước mắt là cục diện một siêu đa cường? Ở mức độ nhất định trên phương diện kinh tế, sự suy yếu của đồng USD cùng với sự nổi lên của một số đồng tiền khác cũng góp phần tạo nên cục diện quốc tế nói trên.
Như vậy, phải chăng Biển Đông đang bước vào một thế giới với địa kinh tế và địa chính trị rất khác so với trước?
Nói riêng về khu vực Biển Đông trong bản đồ địa chính trị thế giới hiện nay, còn phải lưu ý đến câu hỏi: Sức mạnh kinh tế và quân sự tại chỗ của Trung Quốc và sự suy giảm thực lực và ảnh hưởng của Mỹ phải chăng là hai yếu tố khiến cho khu vực địa lý này đã tiềm tàng xu thế lưỡng cực? Nếu thực trạng này được xác nhận, Biển Đông và các quốc gia trong vùng sẽ có thêm nhiều vấn đề phức tạp mới.
Trong quá khứ, các nước nhỏ trong khu vực Đông Nam Á đã tích lũy được cho mình không ít những kinh nghiệm và những cái giá phải trả cho cái thế lưỡng cực thời kỳ chiến tranh lạnh trước kia, nhất là thời kỳ ấy tại khu vực này vẫn có các cuộc chiến tranh nóng cục bộ. Khác chăng hiện nay xu thế lưỡng cực có thể hình thành tại vùng Đông Nam Á hiện nay không có hoặc chưa có cục diện chiến tranh lạnh, nhưng những vấn đề xu thế lưỡng cực ngày nay đặt ra cho các nước nhỏ trong khu vực này có lẽ sẽ cùng chung một hệ quả: các nước nhỏ luôn luôn phải gánh chịu tác động giành giật giữa hai cực. Không loại trừ khả năng trong bối cảnh mới này quyền lực bao gồm cả quyền lực mềm Trung Quốc có thể giành thêm một lợi thế nào đó – nhất là ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các nước chậm phát triển hơn trong khu vực. Trước mắt Trung Quốc đang muốn đẩy mạnh sử dụng đồng nhân dân tệ trong thương mại song phương tại đây để mở rộng ảnh hưởng của mình – nhất là đối với các nước kém phát triển hơn trong vùng.
III. Trung Quốc đang đi quá nhanh trên con đường trở thành siêu cường, hay chỉ vì ảnh hưởng của Mỹ giảm sút nhanh?
Xét riêng về mặt địa chính trị, câu hỏi này được đặt ra không đơn thuần chỉ liên quan đến tốc độ chuyển dịch tư thế chính trị hiện nay của hai nước này trên thế giới.
Thực chất của câu hỏi này đụng chạm đến phương thức “đi” của hai quốc gia quan trọng nhất này – nước lớn và đông dân nhất thế giới và chẳng bao lâu nữa sẽ có quy mô kinh tế lớn thứ hai thế giới, và nước hiện nay vẫn từng và vẫn còn đứng trước nó! Tốc độ trước hết và chủ yếu chỉ là kết quả chạy đua giữa hai nước, còn phương thức đi của hai nước thì lại tác động đến toàn thể thế giới còn lại.
Nói thô thiển, phương thức đi của một bên dẫn đến việc trở thành công xưởng thế giới và chủ nợ lớn nhất thế giới, với những phương thức đối với bên trong là gần như phát triển với bất cứ giá nào, còn đối với bên ngoài thì điểm nổi bật là chủ nghĩa thực dân mới của Trung Quốc được thừa nhận là thành công hơn chủ nghĩa thực dân mới của các nước thực dân cũ... Tuy nhiên, tại các nước Trung Quốc đến, cũng bắt đầu xuất hiện sự phản kháng nhất định của nhân dân sở tại. Trong khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, có nhiều ý kiến coi kinh tế Trung Quốc là một điểm sáng vì tính năng động của nó và thừa nhận: Trung Quốc đang kiếm lợi tốt nhất trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay.
Phương thức đi của bên kia – tiêu biểu là cuộc chiến tranh Iraq. Có thể nhận xét khái quát: Tính chính đáng của cuộc chiến tranh này không có sức thuyết phục, kết cục cuộc chiến tranh này đem lại nhiều tổn thất và gánh nặng cho người dân các nước Iraq, Mỹ và đồng minh, đồng thời khiến cho quyền lực Mỹ suy giảm nhanh. Ngày nay ảnh hưởng Mỹ bị thu hẹp rõ rệt, nước Mỹ phải chấp nhận thay đổi trên các phương diện kinh tế, chính trị và ngoại giao. Đương nhiên sự phá sản của chủ nghĩa tân tự do trong kinh tế Mỹ cũng góp phần quan trọng vào thực trạng này. Tham gia vào kết cục hiện nay của nước Mỹ phải chăng còn có sự ngạo mạn của quyền lực trong hai nhiệm kỳ thời tổng thống Bush: cái gì tốt cho Mỹ sẽ tốt cho các nước khác, quy một số nước vào “trục ma quỷ”... Sự ngạo mạn này sẽ dẫn nước Mỹ và thế giới đi tới đâu, nếu giả thiết rằng tổng thống Bush đạt được các mục tiêu trong chiến tranh Iraq? Trong tranh cử, không phải ngẫu nhiên Obama đặt vấn đề nước Mỹ phải xem lại mình và phải thay đổi và cho rằng có thể thay đổi. Tuy nhiên, câu hỏi “Mỹ có thể thay đổi được hay không, thay đổi như thế nào?” vẫn ở phía trước. Kinh nghiệm lịch sử từ xưa đến nay chưa cho thấy một đế chế nào có thể tự thay đổi. Nhưng có lẽ Mỹ có thể thay đổi, lý do là đến nay Mỹ mới chỉ là siêu cường chứ chưa phải là đế chế, nghĩa là vẫn chưa có cái Pax Americana trên thế giới!
Nói thẳng thắn, hai phương thức “đi” của hai bên như vậy gây ra rất nhiều hậu quả tai hại cho chính nhân dân nước họ và cho thế giới còn lại. Cả hai phương thức đi như vậy góp phần riêng của nó vào cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, để lại nhiều hệ quả chính trị khác mà thế giới còn lại đang phải gánh chịu. Đây là những vấn đề rất đáng được mổ xẻ để rút ra những kết luận cho những điều cần tránh cho thế giới trong hiện tại và tương lai.
Tổng thống Obama tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hiệp quốc ngày 23-10-2009 tuyên bố: “...đã đến lúc thế giới phải chuyển sang một hướng mới. Chúng ta phải dấn thân vào một thời đại tiếp cận mới dựa trên quyền lợi chung và cùng tôn trọng nhau...”. Tại diễn đàn Đối thoại chiến lược và kinh tế Mỹ - Trung (khai mạc phiên đầu tiên tại Washington ngày 27-09-2009 tổng thống Obama còn cho rằng “mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ định hình cho thế kỷ 21.” Nếu nước Mỹ định biến những lời nói thành việc làm có lợi cho thế giới, chắc chắn sẽ phải xem lại phương thức “đi” của mình trong suốt thời kỳ hậu chiến tranh lạnh.
Trong điện chúc mừng phiên họp đầu tiên của diễn đàn Mỹ - Trung nói trên, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào viết: “Cả Trung Quốc và Mỹ gánh vác trên vai trách nhiệm quan trọng về những vấn đề trọng đại liên quan đến hòa bình và sự phát triển của nhân loại.” Chắc chắn sẽ có nhiều câu hỏi hóc búa đặt ra đối với sự cam kết này, liệu Trung Quốc sẽ trả lời được? Từ những gì đang diễn ra ở Tân Cương liên kết với những gì diễn ra trên Biển Đông trong thời gian gần đây, việc Trung Quốc đưa ra các câu trả lời có sức thuyết phục thật không dễ. Hơn nữa Trung Quốc hiện nay đang có lực lượng quân sự - bao gồm cả hải quân – mạnh nhất tại Biển Đông, mạnh áp đảo so với toàn bộ lực lượng của tất cả các nước trong vùng cộng lại. Mặc dù đang trong thời bình ngân sách quốc phòng Trung Quốc vẫn liên tục tăng mạnh. Riêng trên Biển Đông, Việt Nam đã có kinh nghiệm năm 1988, sau đó Philippines đã có kinh nghiệm năm 1995 về tiềm năng quân sự của Trung Quốc...
Trong khi chưa có các câu trả lời rõ ràng và thuyết phục mà thiện chí trên thế giới mong đợi, điều rõ hơn là Trung Quốc sắp tới sẽ có ảnh hưởng chi phối ngày càng lớn đối với thế giới. Sự thật rõ ràng này lại đặt ra những câu hỏi mới.
Dù sao, liên quan đến tốc độ cũng phải nói: Trung Quốc vừa qua đã “đi lên” rất nhanh, trong đó có nguyên nhân Mỹ “đi xuống” rất nhanh. Ở Mỹ hiện nay có không ít ý kiến mổ xẻ hiện tượng “cuộc chay đua Mỹ - Trung” – xin tạm gọi như vậy - đang diễn ra này. Câu chuyện ngụ ngôn ngày xưa về cuộc chạy thi giữa thỏ và rùa gợi lên nhiều băn khoăn cho ngày nay.
Hiện tượng “tốc độ” như vậy rất nhạy cảm với Biển Đông, vì hiện tượng này kích thích xu thế lưỡng cực tại đây. Trong bối cảnh đi xuống của Mỹ, xu thế này nói lên điều gì? Liệu có xuất hiện tình huống các nước nhỏ trong khu vực Biển Đông có thể lại rơi vào thế trở tay không kịp chăng? Như vậy Biển Đông có thể kém ổn định hơn trước về một số phương diện nào đó? Báo chí Trung Quốc có không ít tiếng nói cho rằng hiện nay là thời cơ tốt nhất đánh chiếm thêm một số đảo trên Biển Đông. Tiếng nói cực đoan hơn thì cho đây là cơ hội vàng của Trung Quốc “giải quyết” dứt điểm vấn đề Biển Đông! Trong khi đó Trung Quốc gần đây tiếp tục chính thức khẳng định yêu sách vùng “lưỡi bò”!
IV. Phát triển hòa bình và siêu cường
Là bậc thầy của sự lắt léo trong ngôn ngữ ngoại giao, mấy năm gần đây lãnh đạo Trung Quốc đã thay cụm từ trỗi dậy hòa bình bằng cụm từ phát triển hòa bình để nói về chiến lược của mình. Việc thay đổi cách diễn đạt như vậy nhằm xoa dịu lo ngại của nhiều người trên thế giới, trước hết của các nước láng giềng. Tuy vậy, siêu cường đang hình thành Trung Quốc hiện là một trong những đề tài thời sự nóng bỏng trên thế giới và trong khu vực Đông Nam Á.
Chắc chắn vẫn còn một khoảng cách khá xa giữa siêu cường đang hình thành là Trung Quốc và siêu cường đang tồn tại là Mỹ. Có không ít ý kiến cho rằng vì những giá trị riêng của Trung Quốc, vì Trung Quốc là nước của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, v.v... nên rất khó cho Trung Quốc có thể giành lấy vai trò lãnh đạo thế giới. Hơn nữa dân chủ là xu thế ngày càng mạnh ở mọi quốc gia – kể cả ở Mỹ. Song dân chủ lại là gót chân Achile của Trung Quốc, và có lẽ chính điều này – chứ không phải khoảng cách phát triển so với Mỹ – đang loại trừ hay là ít nhất đẩy lùi ra xa khả năng xuất hiện một Pax Sinica. Vả lại, nếu Pax Americana chỉ là chuyện không tưởng, thì làm sao có được Pax Sinica. Thế giới ngày nay quá chật, quá nhiều vấn đề chung của toàn thể cộng đồng quốc tế, nhân loại ngày càng có nhiều giá trị chung có lẽ đến mức không còn chỗ cho bất kỳ một đế chế nào.
Tuy nhiên với nghĩa nào đó, thế giới trong thế kỷ 21 này đang có siêu cường 1, siêu cường 2, siêu cường 3... với nhiều điều phiền toái mới. Ngay ở Mỹ đã xuất hiện câu hỏi: Liệu thế giới có quay lại thời kỳ chiến tranh lạnh? Liệu nước Mỹ có trở lại chủ nghĩa bảo thủ?..
Hiển nhiên Biển Đông tiềm tàng xu thế lưỡng cực. Vì thế dễ hiểu: Người dân các nước trong khu vực Biển Đông nhìn cục diện thế giới mới đang hình thành này với con mắt có lẽ cảnh giác hơn so với nhiều nơi khác trên thế giới.
Điều cần lưu ý là các nước trong khu vực Biển Đông là láng giềng của cái công xưởng thế giới. Các nước Biển Đông có nhiều cơ hội làm ăn với cái công xưởng thế giới, đồng thời cũng trực tiếp chịu sức nóng và mọi phế thải khác cái công xưởng thế giới này phả ra chung quanh – từ các sản phẩm kém chất lượng, hàng nhập lậu, đến những tác động của quyền lực mềm... Lịch sử cái công xưởng thế giới này kể từ khi thai nghén và ra đời có nhiều sự kiện cho thấy nó đã trải qua những thời kỳ phát triển với bất cứ giá nào – từ cách mạng văn hóa, đến Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân Cương, tập trung phát triển miền duyên hải... Lịch sử cái công xưởng thế giới này có không ít các trường hợp nó hành xử theo quan điểm mục tiêu biện minh cho biện pháp – trong kinh tế bắt đầu từ chuyện “mèo trắng mèo đen”, trong đối ngoại có cuộc chiến tranh 17-02-1979, sự thâm nhập vào châu Phi, châu Mỹ Latinh.., và nhiều ví dụ khác nữa...
Một điều đáng lưu ý khác: Năm này qua năm khác có không ít các đánh giá, các dự báo về nguy cơ khủng hoảng hay thậm chí sụp đổ của nền kinh tế Trung Quốc. Những đánh giá hay dự báo này lúc thì viện dẫn hệ thống ngân hàng Trung Quốc yếu kém, lúc thì nêu lên những căng thẳng ở nông thôn, tình trạng ô nhiễm môi trường, lúc thì nêu ra tình trạng quan liêu tham nhũng, nguy cơ phân hóa và nguy cơ phân rã... Cho dù những đánh giá hay dự báo này có nhiều dữ liệu làm căn cứ, song hầu như đã bỏ qua một thực tế: Về nhiều mặt Trung Quốc còn là một thế giới của chính nó, nghĩa là Trung Quốc có nhiều khả năng độc đoán tập trung nguồn lực và sức mạnh để giải quyết một vấn đề cấp bách nào đó khi cần thiết. Khả năng này của Trung Quốc lớn hơn so với nhiều nước khác. Thực tế này giải thích tại sao khi cần thiết Trung Quốc có thể, dám thực thi và thực thi được những biện pháp rất cực đoan như đã biết, mặc dù nội trị Trung Quốc đang tồn tại nhiều vấn đề nan giải. Thực tế này cũng giải thích tại sao bất chấp các đánh giá, các dự báo bi quan như thế cái công xưởng thế giới này vẫn đang tiếp tục hành trình của nó trên đường trở thành một siêu cường – mặc dù nó có đến đích được hay không, đến như thế nào vẫn là câu chuyện ở phía trước.
Song trước sau vẫn xin nhấn mạnh: cái thế giới Trung Quốc này vẫn cần thế giới nếu không hơn thì cũng không kém các cường quốc khác. Thế giới cũng thừa nhận Trung Quốc có vai trò của một cường quốc đang lên ngày càng quan trọng trên mọi lĩnh vực trong đời sống của trái đất này. Trung Quốc có khả năng lớn và trách nhiệm lớn góp phần mình vào những vấn đề có liên quan đến hòa bình, an ninh và phát triển của thế giới. Trên thực tế, mặc dù có thực tâm hay không hoặc vì một lợi ích riêng nào đó, Trung Quốc đã cùng với cộng đồng quốc tế làm nhiều việc trong những vấn đề chung như chống khủng bố, vấn đề vũ khí nguyên tử của Bắc Triều Tiên, hợp tác trong chống khủng hoảng kinh tế thế giới...
Trung Quốc hiện nay vẫn chủ trương tiếp tục tích lũy sức mạnh, tránh đụng độ, ra sức tăng cường ảnh hưởng của mình. Nhìn chung, Trung Quốc tranh thủ hòa bình để tạo thuận lợi cho sự phát triển của chính mình, tiếp tục tìm kiếm hợp tác, đồng thời tạo cơ hội mở rộng quyền lực mềm như đang diễn ra ở khắp các châu lục. Trên nhiều phương diện, Trung Quốc biết mình còn nhiều điểm yếu nên tiếp tục giấu mình, chưa vội tranh giành vai trò lãnh đạo thế giới.
Nói ngắn gọn: Trung Quốc vẫn còn trong giai đoạn cần thời gian để mạnh thêm, để các đối thủ của mình tiếp tục yếu đi. Song đi liền với cách tiếp cận hòa bình bình này, thường xuyên là các bước đi “nóng” (hot perfomances) để mở rộng quyền lực “cứng” của mình – nhất là đối với các nước láng giềng, đặc biệt là ở Đông Nam Á – nơi so sánh lực lượng tại chỗ nghiêng hẳn về Trung Quốc. Điều kiện để có những “bước đi nóng” là khi xuất hiện các cơ hội cho phép; giới hạn của những “bước đi nóng” là củng cố và không được phá vỡ mục tiêu trở thành siêu cường của Trung Quốc. Nhiều thập kỷ nay cho thấy Trung Quốc là bậc thầy của cách tiếp cận nhiều chiều như vậy đối với thế giới đương đại, thu hoạch được những kết quả ngày càng lớn. Thực tế này ngày càng thách thức tất cả các đối thủ của Trung Quốc, đồng thời uy hiếp nghiêm trọng các nước nhỏ chung quanh.
Bình luận trên nhật báo Giải phóng quân Nhân dân (Trung Quốc) ngày 12-03-2009, đại tá Giải phóng quân Trung Quốc Hoàng Thôn Luận (một nhà báo có tên tuổi) viết:
“...Quyền lợi quốc gia của Trung Quốc vượt xa ra ngoài biên cương lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Trung Quốc, bao gồm cả các vùng đại dương bao la nơi các tàu chở dầu của Trung Quốc qua lại, cũng như không gian vũ trụ… Quyền lợi quốc gia Trung Quốc mở rộng đến đâu, sứ mệnh của lực lượng vũ trang của chúng ta (Trung Quốc) được mở rộng đến đấy!.. Đứng trước nhiệm vụ lịch sử mới, lực lượng vũ trang của chúng ta (Trung Quốc) không chỉ bảo vệ biên giới lãnh thổ, mà còn phải bảo vệ biên giới quyền lợi quốc gia của chúng ta.” [1]
Người dân trong khu vực Biển Đông rất quan tâm đến những hiện tượng đã xảy ra trong khu vực của mình và được khái quát lại thành quan điểm nêu trong phát ngôn này: Người dân khu vực Biển Đông không muốn biển của mình nổi sóng!
V. Đi tới một Biển Đông hòa bình
Đông Nam Á hiện nay là khu vực kinh tế phát triển năng động trong bối cảnh chung của sự phát triển năng động toàn châu Á. Các nước ASEAN – trong đó có Việt Nam – ý thức sâu sắc điều này.
Mặc dù còn rất nhiều việc phải làm, mặc dù còn xa cái đích trở thành một cộng đồng kinh tế hoàn chỉnh, song đã có nhiều nỗ lực của các nước thành viên làm cho ASEAN ngày nay trở thành một thực thể, một tổ chức có vị thế kinh tế, chính trị ngày càng cao trong cộng đồng quốc tế. ASEAN ngày nay đang mang lại cho các nước thành viên của mình những điều kiện không thể thiếu cho sự nghiệp phát triển của mỗi nước, do đó sự hợp tác mọi mặt giữa các nước thành viên ngày càng gia tăng. Trên thực tế ASEAN đã trở thành một trong các yếu tố quyết định gìn giữ hòa bình và an ninh cho tất cả các nước thành viên và toàn khu vực. Chính thực tế này đang ngày càng nâng cao và hoàn thiện tính cộng đồng của tổ chức này.
ASEAN với tính cách như vậy trở thành một đối tác quan trọng của của tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị, văn hóa ở phạm vi quốc tế và các khu vực và với nhiều nước trên thế giới - đặc biệt là với tất cả các cường quốc và các nền kinh tế lớn. Các diễn đàn của ASEAN như ARF, ASEAN + 3, ASEAN + 1 (trong đó có Trung Quốc).., các hình thức hợp tác kinh tế, chính trị, văn hóa đang diễn ra với tất cả những đối tác này trở thành yếu tố không thể thiếu cho hòa bình, phát triển và an ninh của khu vực và góp phần quan trọng vào hòa bình, hợp tác và phát triển của thế giới nói chung.
Đặc biệt trong những năm gần đây có nhiều nỗ lực lớn của tất cả các quốc gia liên quan đẩy mạnh hợp tác trong các khung khổ ASEAN + 3, ASEAN + 1. vân... vân... Đang có nhiều nỗ lực hướng sự hợp tác này đi tới một dạng cộng đồng kinh tế nào đó bao gồm các nước ASEAN và các nền kinh tế quan trọng trong khu vực. Đơn giản là sự phát triển năng động của châu Á nói chung và đòi hỏi mở rộng quan hệ hợp tác của từng nước riêng lẻ đặt ra yêu cầu này. Tình hình hiện nay có thể cho phép kết luận: Sự phát triển này càng mạnh, sẽ càng có nhiều khả năng củng cố hòa bình và an ninh trong khu vực; khả năng nổi sóng trên Biển Đông sẽ khó hơn hay bị đẩy lùi.
Còn nhiều trở ngại lớn trên con đường hoàn thiện cộng đồng ASEAN vì lợi ích của chính mình và vì đòi hỏi hợp tác với thế giới bên ngoài. Trước hết phải kể đến tình trạng phát triển không đồng đều của các nền kinh tế các nước thành viên, vì tính đồng dạng của các nền kinh tế này (do đó khó liên kết bổ sung cho nhau), và một vài nước thành viên còn có một số vấn đề nội trị. Trở ngại lớn nhất của các nước ASEAN không phải là cái nghèo và khoảng cách phát triển lớn so với thế giới bên ngoài (ngoại trừ Singapore là trường hợp đặc biệt), mà là khả năng khắc phục những yếu kém còn nhiều mặt hạn chế - do nhiều yếu tố lịch sử và văn hóa của những nước này.
Nói thẳng thắn, ý chí mạnh mẽ của các nước thành viên ASEAN trở thành một cộng đồng mạnh còn là điều đáng mong muốn. Đặc biệt ở nhiều nước ASEAN kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự còn ở mức thấp, có nơi rất thấp, có nơi những khái niệm này còn là điều xa lạ. Tình trạng này là nguyên nhân dẫn tới thiếu, vắng dân chủ, kìm hãm nghiêm trọng những quốc gia này trên con đường phát triển của mình. Chính tình trạng lạc hậu này cùng với tệ nạn tham nhũng, đồng minh với sự can thiệp và lũng đoạn từ bên ngoài, đang là kẻ thù nguy hiểm của sự phát triển trong số đông các nước ASEAN. Song cái khó nhất là dân chủ chỉ có thể là kết quả của phát triển, chứ không phải của áp đặt!
Tuy nhiên, có thể khẳng định sự thống nhất ý chí của các nước thành viên ASEAN vì một cộng đồng hoàn chỉnh ngày càng cao. Đây là điều cần được các nước thành viên nuôi dưỡng, cổ vũ. Hiện tại và trong tương lai ý chí thống nhất này mới là yếu tố quyết định. Thế giới đang có một ASEAN ngày càng tự tin hơn, có ý chí dựa vào chính mình nhiều hơn. Cục diện thế giới thế kỷ 21 cũng đang đòi hỏi phải có một ASEAN là đối tác có trọng lượng quan trọng trong khu vực của mình cũng như trong hội nhập toàn cầu.
ASEAN có trong tay mình các phương tiện để duy trì hòa bình cho Biển Đông, hy vọng ASEAN biết vận dụng chúng một cách hữu hiệu. Sự hợp tác của thế giới bên ngoài với ASEAN cho một Biển Đông của hòa bình có ý nghĩa rất quan trọng.
Kết thúc tham luận, xin lưu ý:
Nhìn vào bức tranh thế giới toàn cảnh trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, chúng ta thấy: Trung quốc tiến, phương Tây lùi (trước hết là Mỹ); trong không gian giữa 2 thế lực đối cực này lực hút của chúng tác động quyết liệt vào thế giới còn lại với tất cả sự cọ xát, giằng xé và bạo lực. Những tranh chấp tại Biển Đông tự nó đã đủ phức tạp và đang trở nên nhạy cảm hơn trong bối cảnh quốc tế hiện tại (in the present international constellation). Đừng quên rằng khát vọng của loài người ngày nay là hòa bình, phát triển bền vững, về tự do, dân chủ, quyền con người, về bảo vệ môi trường. Quan niệm cho rằng trái đất là ngôi nhà chung của thế giới đang trở thành những nhận thức có giá trị, ngày càng trở nên sâu sắc và phổ cập.
Đấy là thách thức mỉa mai của lịch sử?
Tháng 11, 2009
Nguyễn Trung
Nguồn: Thời đại mới, số 17, tháng 11.2009
Chú thích
[1] Xem Willy Lam (2009)
Tài liệu tham khảo
1. William Inboden, 2009, “What Is Power? And how much of it does America have?”, American Interest, tháng 11-12.
http://www.the-american-interest.com/article.cfm?piece=690
2. Robert Kagan, 2003, Of Paradise and Power – America and Europe in the new World Order”, New York: Alfred A. Knopf.
3. Willy Lam, 2009, China's quasi-superpower diplomacy: Prospects and pitfalls, Washington D.C.: The Jamestown Foundation
4. Lê Minh Nghĩa, 2007, “Những vấn đề về chủ quyền lãnh thổ giữa Việt Nam và các nước láng giềng”, Thời Đại Mới, số 12. http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai12/200712_LeMinhNghia.htm
5. Khadija Sharife, 2009, “China's New Colonialism”. Foreign Policy, tháng 9
http://www.foreignpolicy.com/articles/2009/09/25/chinas_new_colonialism
6. Robert Sutter: “The Obama administration and US Policy in Asia” http://www.amazon.com/Obama-administration-policy-President-Barack/dp/B002PYOMMQ
Hội nghị về Biển Đông bàn tới mối đe dọa của hải quân
South China Morning Post
Hội nghị về Biển Nam Trung Hoa
bàn tới mối đe dọa của hải quân
Các học giả đánh giá: việc tăng cường lực lượng quân sự của Bắc Kinh có thể đe dọa tới Việt Nam nhiều hơn cả
Greg Torode
Việc tăng cường lực lượng quân sự của Trung Quốc là một mối đe dọa tiềm tàng đối với toàn bộ Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, hội nghị lần thứ nhất của các nhà nghiên cứu về vùng Biển Đông [Biển Nam Trung Hoa] đang tranh chấp đã có những nhận định như vậy.
Giáo sư Carl Thayer, một nhà quan sát từng là cựu binh ở Việt Nam, thuộc Học viện Quốc phòng Úc, cũng đã phát biểu trong cuộc hội thảo hai ngày tại Hà Nội rằng việc hoàn thiện căn cứ hải quân Sanya trên hòn đảo tỉnh Hải Nam – nơi trú đóng của hạm đội tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân đang được mở rộng của Trung Quốc – “nhất định có những dính líu chiến lược đối với sự cân bằng quyền lực trong khu vực”.
Một bản thuyết trình được ông Thayer đọc tại đây đã thúc giục sự quan tâm nhiều hơn về ngoại giao giành cho những căng thẳng đang nổi lên gần đây trên vùng Biển Đông đang tranh chấp, nhằm giúp kiểm soát hữu hiệu hơn mối quan hệ Trung Quốc-Hoa Kỳ và sự hợp tác và hòa hợp trong khu vực.
“Việc hiện đại hóa hải quân của Trung Quốc tiêu biểu cho một thách thức và đe dọa tiềm tàng đối với tất cả các nước Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam,” ông Thayer viết. “Trung Quốc là cường quốc trong khu vực có ảnh hưởng vượt trội khi được so sánh với hải quân các quốc gia khác ở Asean.”
Ấn Độ và Úc đã cảm thấy bị thách thức, song hải quân Trung Quốc sẽ không phải là đối thủ trước sức mạnh của hải quân Hoa Kỳ ở khu vực trong một thập kỷ tới.
Hội nghị này, được học viện ngoại giao Việt Nam tổ chức, đã thu hút các học giả từ các nước quanh khu vực châu Á và xa hơn nữa, trong đó có Trung Quốc.
Theo quan sát của giới ngoại giao thì có một cố gắng mới của Việt Nam nhằm quốc tế hóa những tranh chấp trên Biển Đông, đúng lúc Trung Quốc tỏ ra đang củng cố những biện pháp khôn khéo về ngoại giao để áp đặt những yêu sách chủ quyền của mình.
Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với các nhóm đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển, trong khi Philippines, Brunei và Malaysia yêu sách một phần quần đảo Trường Sa. Những yêu sách của Đài Loan thì phản ánh đòi hỏi tương tự Trung Hoa đại lục.
Ông Thayer và các học giả khác đã lưu ý về mối quan ngại đang gia tăng của Hoa Kỳ về những hoạt động của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm động thái của Bắc Kinh từ đầu năm nay nhằm chính thức hóa yêu sách chủ quyền sâu rộng trong lịch sử của nước này chiếm hầu như toàn bộ Biển Đông, vươn xa tới tận hòn đảo Borneo của Brunei.
Chấn giữ giữa những hành lang hẹp quan trọng nhất trên biển của châu Á cũng như những vùng trầm tích dầu lửa và khí gas phong phú tiềm tàng, những hòn đảo không có người ở này đã và đang ngày càng được củng cố với các căn cứ quân sự trong những năm qua trong khi các bên yêu sách tìm cách tăng cường vị thế của mình.
Trung Quốc đã cảnh báo những gã khổng lồ dầu lửa quốc tế hãy chấm dứt các thỏa thuận thăm dò dầu với Việt Nam và Philippines – những kháng nghị mà cho đến nay đã bị phớt lờ – trong khi Bắc Kinh đã tăng cường những hành động phản đối trước hoạt động do thám của quân đội hoa Kỳ ở đây.
Bắc Kinh mới đây cũng đã thành công trong việc ngăn chặn Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á thảo luận về việc củng cố một văn kiện từ năm 2002 kêu gọi ủng hộ một giải pháp hòa bình cho những tranh chấp trên Biển Đông. Thay vào đó, Bắc Kinh muốn những tranh chấp được giải quyết tay đôi với từng quốc gia – một động thái được nhìn nhận như là đang lợi dụng ảnh hưởng ngày càng tăng của mình trong khu vực.
Ông Thayer đã viết rằng Bắc Kinh có thể đang đưa ra tín hiệu “phản ứng mạnh mẽ” của mình trước việc tăng cường mối quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Bắc Kinh có thể cũng bị xô đẩy trước tình trạng ngày càng khát nguồn dự trữ năng lượng ngoài khơi, và tầm quan trọng đang gia tăng của những tuyến hành lang hẹp trên biển Đông Nam Á đối với những lợi ích chiến lược và những tham vọng ‘Cường quốc’ của Trung Quốc”.
Trung Quốc đã từng lưu ý rằng họ sẵn sàng ký kết một hiệp ước thiết lập một khu vực không vũ khí hạt nhân ở Đông Nam Á, song việc trú đóng những tàu ngầm hạt nhân được vũ trang trên Đảo Hải Nam đã làm dấy lên những câu hỏi cần được giải đáp, ông nhận xét thêm.
Các học giả khác đã cảnh báo về những khó khăn còn ở phía trước trong việc giải quyết những tranh chấp hoặc tìm kiếm những hợp tác có ý nghĩa nào đó thuộc phạm vi hoạt động dự báo thời tiết hay tìm kiếm cứu nạn.
“Tôi nghĩ rõ ràng chúng ta phải chấp nhận thực tế là một số xung đột có thể xảy ra không có nghĩa sẽ giải quyết được trong vòng thế hệ này,” nhà nghiên cứu hàng hải Malaysia TS Nazery Khalid đã nói với hãng thông tấn Đức DPA như vậy.
Các học giả Trung Quốc đưa ra một lời biện hộ mạnh mẽ cho những đòi hỏi chủ quyền của Bắc Kinh đối với Biển Đông, theo nhận xét của các đại biểu tham dự, với việc họ nhiều lần nhấn mạnh rằng Trung Quốc đã có một sự hiện diện trên các hòn đảo ở Biển Đông từ những thế kỷ trước.
Ngoài hành lang hội nghị, Li Guoqiang, một học giả thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, đã nói rằng cần phải có nhiều giải pháp hơn để xây dựng trách nhiệm và lòng tin trong số các bên yêu sách chủ quyền trên biển.
Ông cũng đã đóng vai trò làm giảm nhẹ mối lo sợ về những nguy cơ xung đột mới. “Ở thời hiện đại này, không thể nổ ra một cuộc xung đột vũ trang,” ông nói. “Tuy nhiên, có thể có những tranh cãi trong phạm vi nhỏ hơn.”
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2009
------------
Lãnh hải Trung Quốc dưới thời nhà Minh
Theo chính sử Trung Hoa, thì dưới thời nhà Minh các đảo lớn như Ðài Loan, Bành Hồ có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, mà vẫn chưa nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, thì các đảo nhỏ ở nơi xa xôi heo hút như Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc Trung Quốc là điều dễ hiểu. Xét về mặt địa lý hành chánh; miền duyên hải nước này chỉ có vùng phía đông lục địa Trung Quốc và đào Hải Nam. Bởi vậy dù nước này có tham lam đòi hỏi lãnh hải ra đến tận 200 hải lý thì cũng không vươn đến các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa của nước ta; điều này không phải là phỏng đoán mà chính tài liệu của Trung Quốc hiện nay xác nhận rằng từ các hải cảng gần nhất như Du Lâm và Thành Lan tại đảo Hải Nam đến Hoàng Sa khoảng cách đều trên 320 hải lý
Lãnh hải Trung Quốc
dưới thời nhà Minh
Hồ Bạch Thảo
Tìm hiểu lãnh hải Trung Quốc dưới thời nhà Minh cần phải biết qua những phần đất không thuộc nước này, tức các quốc gia láng giềng Trung Quốc tiếp giáp với biển lúc bấy giờ. Qua Minh Sử, bộ chánh sử cuối cùng trong Nhị Thập Tứ Sử, có thể tìm thấy những nước này tại phần Liệt truyện, mục Ngoại Quốc, từ quyển 320 ngoại quốc tập 1, đến quyển 325 ngoại quốc tập 6; tính từ bắc chí nam, có thể lập biểu đồ như sau :
| Tên nước | Tên nước hiện nay | Minh Sử quyển | Ngoại quốc tập | Vị trí |
| Triều Tiên | Triều Tiên | 320 | 1 | Giáp Trung Quốc |
| Kê Lung Sơn | Trung Hoa Dân Quốc | 323 | 4 | Ðài Loan hiện nay |
| Lưu Cầu | thuộc Nhật Bản | 323 | 4 | Nay sáp nhập vào Nhật Bản |
| Nhật Bản | Nhật Bản | 322 | 3 | Nhật Bản |
| An Nam | Việt Nam | 321 | 2 | Giáp phía nam T. Q. |
| Chiêm Thành | thuộc Việt Nam | 324 | 5 | Trung phần |
| Lữ Tống | thuộc Phi Luật Tân | 323 | 4 | Phi Luật Tân |
| Chân Lạp | Căm Pu Chia | 324 | 5 | Căm Pu Chia và nam Việt Nam |
| Tiêm La | Thái Lan | 324 | 5 | Giáp Căm Pu Chia |
| Mãn Thứ Gia (Melaka) | một bang của Mã Lai | 325 | 6 | Melaka |
| Mỹ Lạc Cơ (Malacca) | Singapore | 323 | 4 | Singapore và một phần Mã Lai |
| Bành Hanh | Một bang của Mã Lai | 324 | 5 | Pahang |
| Bột Nê | thuộc Nam Dương, Mã Lai | 325 | 6 | Borneo |
| Tam Phật Tề | thuộc Nam Dương | 324 | 5 | Phía tây Java |
| Tô Môn Ðáp Thứ | thuộc Nam Dương | 325 | 6 |
Sumatra |
| Trảo Oa | thuộc Nam Dương | 324 | 5 | Java |
Tuy Thái Giám Trịnh Hoà từng mang hạm đội đến viếng thăm một số nước nêu trên để đòi hỏi triều cống, nhưng không thực sự chiếm nước nào cả, và một vài nước trong số này cũng không chịu thần phục một cách dễ dàng. Ðiển hình vào năm 1407 chiến thuyền của Trịnh Hoà đến nước Trảo Oa [Java], khi đổ bộ bị phe Tây Vương đánh giết, Minh Thái Tông bèn đem việc An Nam bị đô hộ ra hù doạ để đòi bồi thường 60000 lạng vàng :
Ngày 23 tháng 9 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [23/10/1407]
Tây Vương Ðô Mã Phản nước Trảo Oa sai sứ Á Liệt Gia Ân đến triều cống tạ tội. Trước đây Tây Vương Trảo Oa và Đông Vương Trảo Oa đánh nhau, phe Đông Vương Trảo Oa bị tiêu diệt. Lúc bấy giờ triều đình sai sứ đến các nước Phiên, đi qua phần đất trước đây Đông Vương cai trị; quan quân lên bờ mua bán, bị phe Tây Vương giết 710 [170?] (1) người. Tây Vương biết được nên sợ hãi, đến nay sai người đến tạ tội.
Thiên tử sai sứ mang sắc dụ Đô Mã Phản rằng :
“ Ngươi vốn ở biển nam, làm tròn chức cống, Sứ giả qua lại biết lấy lễ đáp lại, Trẫm riêng khen điều đó. Mới đây bọn ngươi cùng Đông Vương gây việc binh đao ; khiến 170 người của Thiên triều sai đến đều chết, tội lỗi rành rành. Vả lại ngươi và Đông Vương đều được triều đình phong tước, nhưng vì sự tham giận, tự tiện tiêu diệt chiếm nước của Đông Vương, trái đạo trời nghịch mệnh, còn tội nào lớn hơn vậy ! Sắp đem quân đi thảo phạt, thì ngươi sai Á Liệt Gia Ân đến kinh khuyết chịu tội. Trẫm nghĩ ngươi biết hối hận, nên dừng binh không tiến ; nhưng nghĩ đến 170 người chết một cách oan uổng, thì làm sao bỏ qua được ! Bởi vậy ngươi phải nộp 6 vạn lạng vàng bồi thường tính mệnh người chết để chuộc tội, mới bảo hộ được đất đai và nhân dân của ngươi .Nếu không tuân thì không thể tránh được việc quân đi hỏi tội ; hãy xem sự việc tại An Nam để làm tấm gương soi ! ”
(Minh Thực Lục v. 11, tr. 997-998; Thái Tông q. 71, tr. 6a-6b)
Cũng vào năm này Tiêm La [Thái Lan] bắt Sứ giả các nước Chiêm Thành, Tô Môn Ðáp Thứ [Sumatra], Mãn Thứ Gia [Melaka] trên đường triều cống Trung Quốc trở về, vua Thái Tông nhà Minh lại một lần nữa đem việc An Nam ra để răn đe :
Ngày 21 tháng 10 năm Vĩnh Lạc Thứ 5 [20/11/1407]
Quốc vương Tiêm La Chiêu Lộc Quần Ưng Đá La Đế Thứ sai bọn Sứ giả Nại Bà Tức Trực Sự Thế dâng biểu cống voi thuần, chim anh vũ, khổng tước; ban cho tiền giấy, y phục. Mệnh bộ Lễ ban cho Vương nước này lụa ỷ dệt kim, lụa là.
Trước đó nước Chiêm Thành sai sứ triều cống, lúc trở về gặp bão phiêu dạt đến nước Bành Hanh [Pahang]. Tiêm La cậy mạnh áp lực Bành Hanh bắt Sứ giả câu lưu, sự việc có kẻ báo cho triều đình biết. Vương các nước Tô Môn Đáp Thứ, Mãn Thứ Gia cũng sai người tố cáo Tiêm La cường bạo, sai lính đoạt ấn tín và bản chế cáo nhận từ triều đình ; người trong nước kinh hãi vì không được sống yên ổn. Do đó ban sắc dụ Chiêu Lộc Quần Ưng Đá La Đế Thứ rằng :
“ Chiêm Thành, Tô Môn Đáp Thứ, cùng nước ngươi bình đẳng nhận mệnh của triều đình; sao ngươi dám tự thị mạnh bắt Sứ giả đến triều đình, chiếm đoạt ấn và bản chế cáo. Đạo trời rành rành làm thiện được phúc, ác gặp tai hoạ ; vết bánh xe đổ của cha con nhà họ Lê (2) tại An Nam còn rõ ràng trước mắt, có thể lấy đó mà soi. Hãy lập tức phóng thích ngay Sứ giả Chiêm Thành, cùng trả ấn, cáo cho Tô Môn Đáp Thứ, Mãn Thứ Gia . Từ nay phải an phận giữ lễ, hoà mục với lân bang, ngõ hầu hưởng được thái bình mãi mãi.”
(Minh Thực Lục, v. 11,tr. 1008-1009; q. 72, tr. 4b-5a)
Lại có thời vua Mãn Tứ Gia [Malaka] không chịu hướng về phương bắc quỳ lạy làm lễ thần phục và bắt Sứ giả Trung Quốc giam đói, rốt cuộc nhà Minh cũng phải làm lơ :
Ngày 17 tháng 6 năm Hoằng Trị thứ 18 [17/7/1505]
...Như trước đây Cấp sự trung Lâm Tiêu đi sứ, vua Mãn Thứ Gia [Melaka] không chịu hướng về phương bắc quỳ lạy, bắt Sứ giả giam đói; nhưng không thể mang quân đi hỏi tội; mệnh vua, quốc thể, thực lấy làm đáng tiếc !...
(Minh Thực Lục v. 61, tr. 72-74; Vũ Tông q. 2, tr. 18b-19b)
Trong các nước ngoại quốc nêu trên, xét về lãnh hải thì vị trí Ðài Loan mà tên thời Minh gọi là Kê Lung Sơn rất quan trọng, nên chúng tôi xin dịch nguyên văn :
Kê Lung Sơn ở phía đông bắc đảo Bành Hồ, nên có tên là Bắc Cảng, lại có tên là Ðông Phiên, cách Tuyền Châu (3) không xa. Ðịa lý nhiều núi và hồ lớn ; có chỗ tụ lại, có chổ tản ra linh tinh. Ðất này không có vua, có 15 xã ; xã đông khoảng 1000 người, xã nhỏ khoảng 6 hoặc 700 người. Không có thuế má, gia đình có nhiều con nắm uy quyền, nhà khác tuân hiệu lệnh. Tuy định cư tại biển, nhưng lại sợ biển, không rành dùng thuyền ; cho đến chết gìà, không thông thương với nước khác.
Vào thời Vĩnh Lạc [1403-1424], Trịnh Hoà đi khắp các biển đông tây, không có nước nào mà không tranh hiến đồ quý ; chỉ có Ðông Phiên trốn không chịu đến. Hoà ghét, đem cho chuông đồng nhỏ bảo đeo vào cổ ; ý coi khinh như là nước chó (cẩu quốc). Nhưng sau đó, dân này lại cho là vật quý, người giàu tìm mua bằng được một vài cái, con cháu hãnh diện bảo là của tổ tiên để lại. Tục chuộng sức mạnh, lúc rảnh tập chạy, một ngày vài trăm dặm, không thua gì phi ngựa ; da chân dày cả phân, đạp qua gai coi như là đất bằng. Trai gái gặp nhau, khỏa thân cũng không kiêng dè. Con gái mặc quần bằng lá cây, gặp người cao tuổi thì đứng quay lưng lại, đợi qua rồi mới cất bước. Con trai xâu tai ; con gái 15 tuổi xuyên môi đến tận răng để trang sức ; tay chân xâm hoa văn, rồi mời cả làng đến ăn mừng, tốn kém mấy cũng không tiếc. Người nghèo không có của để ăn mừng, thì không dám xâm. Về thời tiết, cứ đến mùa cỏ xanh coi là đầu năm. Ðất đai trồng ngũ cốc, nhưng không rành về lúa nước. Sau khi gieo ngũ cốc xuống đất thì dừng việc giết nhau, gọi là làm việc tốt, giúp trời, để mong có miếng ăn. Ðến mùa thu hoạch, cắm cây nêu tre trước cửa, gọi là cắm màu xanh, lúc này gặp người ngoài, ai đi qua thì giết. Trong thôn có thù hằn, hẹn ngày đến đánh ; nếu gặp người khoẻ thì vài người đến khiêu chiến, đánh đến chết mới tan. Gặp người thắng, được chúng khen “ Tráng sĩ có sức thắng người” ; gặp người thua cũng được mừng “ Tráng sĩ không sợ chết ! ” ngày hôm sau lại hoà hảo như cũ.
Ðất nhiều tre, to bằng mấy bàn tay ôm, dài cả chục trượng ; lấy tre làm nhà, dùng cỏ che mái ; nhà vừa rộng vừa dài, cả họ họp nhau ở chung. Không có lịch, chữ viết ; gặp việc quan trọng tụ tập nhau để bàn. Giỏi dùng giáo cán tre, mũi sắt nhọn ; thử đâm hươu, hươu chết ; đâm cọp, cọp chết. Tính vốn sợ biển, bắt cá tại khe mà thôi. Suốt tháng săn hươu, dùng giáo lao trúng, chất như gò đống. Riêng không ăn thịt gà và chim trĩ, chỉ lấy lông làm trang sức. Trong vùng có nhiều khe, chảy ra biển, nước đạm lạt, nên có tên là Ðạm Thủy Dương.
Vào cuối đời Gia Tĩnh [1522-1566], giặc Nuỵ [Nhật Bản] cướp phá Phúc Kiến ; Ðại tướng Thích Kế Quang đánh bại, Nuỵ bèn đóng tại đây, có bọn cướp Lâm Ðạo Càn hùa theo. Sau Ðạo Càn sợ Nuỵ diệt, lại sợ quan quân truy kích; bèn dương buồm thẳng đến Bột Nê [Borneo], khai khẩn đất này, nay tại đó còn có cảng Ðạo Càn. Còn Kê Lung bị Nuỵ cướp đốt, nước tàn phá. Lúc đầu định cư tại bờ biển, gặp nạn giặc Nuỵ, phải rút lui sống tại miền núi. Rồi thuyền đánh cá Trung quốc phiêu bạt đến cảng này, thường đi về giao dịch buôn bán. Vảo cuối đời Vạn Lịch [1573-1619], người Hồng Mao [Hà Lan] ghé tàu thuyền vào, khai khẩn, đặt thương điếm, gọi là Ðài Loan.
Vào năm Sùng Trinh thứ 8 [1635] Cấp sự trung Hà Giai điều trần về việc dẹp yên giặc biển như sau :
“ Từ khi Viên Tiến, Lý Trung, Dương Lộc, Dương Sách, Trịnh Chi Long, Lý Khôi Kỳ, Chung Bân, Lưu Hương tiếp tục làm loạn ; trên biển không có một ngày nào yên ổn. Nay muốn dẹp yên giặc, nếu không phá từ hang ổ thì không thể được. Vậy hang ổ giặc tại đâu ? Ðài Loan vậy. Ðài Loan vị trí tại bên ngoài Bành Hồ, cách các châu Chương, Tuyền khoảng 2 ngày hải trình; đất rộng lại tốt. Trước đây dân nghèo đến đất này, tìm nguồn lợi về cá, muối; sau đó thấy binh uy không tới nơi, nên thường làm đạo tặc. Gần đây Hồng Mao xây thành chỗ này, cùng gian dân buôn bán; đương nhiên trở thành bộ lạc lớn. Nếu dẹp tan nó đi, sau này không gặp can qua nữa. Phải thi hành nghiêm lệnh cấm biển, khiến Hồng Mao không còn chỗ để mưu lợi. bọn gian dân không còn chỗ để kiếm ăn ; rồi mang binh 4 phía, quân ta nhắm chỗ hư nhược mà đánh, thì rất đắc ý. Hồng Mao bỏ chỗ này cút đi, khi đó mới yên biển được.”
Nhưng lời điều trần không được dùng.
Ðất này phía bắc từ Kê Lung, phía nam tới Lãng Kiều, chiều dài hơn ngàn dặm. Phía đông từ Ða La Mãn, phía tây tới Vương Thành có thể hơn 900 dặm. Ðường biển thuận gió, từ Ðạm Thửy, Kê Lung đến cảng Phúc Châu đáp thuyền 5 canh có thể tới; từ cảng Ðài Loan đến Bành Hồ 4 canh có thể tới; từ, từ đảo Bành Hồ đến đảo Kim Môn, 7 canh có thể tới; đông bắc đến Nhật Bản, 70 canh có thể tới ; phía nam tới Lữ Tống [Phi Luật Tân] 60 canh có thể tới. Vì đường biển không kể bằng lý, người đi thuyền chia ngày đêm làm 10 canh, vậy kể canh để suy ra đường dài.
*
Qua những điều đã tìm hiểu, thì dưới thời nhà Minh các đảo lớn như Ðài Loan, Bành Hồ có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, mà vẫn chưa nằm trong lãnh thổ Trung Quốc, thì các đảo nhỏ ở nơi xa xôi heo hút như Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc Trung Quốc là điều dễ hiểu. Xét về mặt địa lý hành chánh; miền duyên hải nước này chỉ có vùng phía đông lục địa Trung Quốc và đào Hải Nam. Bởi vậy dù nước này có tham lam đòi hỏi lãnh hải ra đến tận 200 hải lý thì cũng không vươn đến các quần đảo Hoàng sa và Trường Sa của nước ta; điều này không phải là phỏng đoán mà chính tài liệu của Trung Quốc hiện nay xác nhận rằng từ các hải cảng gần nhất như Du Lâm và Thành Lan tại đảo Hải Nam đến Hoàng Sa khoảng cách đều trên 320 hải lý (4).
Hồ Bạch Thảo
Chú Thích
1.Trong văn bản này bên trên chép 710 người bị giết, phía dưới chép 170 người; xin chép lại để tồn nghi.
2.Lê: tức Lê Quí Ly, hay Hồ Quí Ly.
3.Chương, Tuyền: các châu Chương, Tuyền thuộc tỉnh Phúc Kiến.
4. Trang mạng Trung Quốc chép như sau: 西沙群岛是我国南海诸岛四大群岛之一,现属海南省。位于海南岛东南方。以永兴岛为中心,距 三亚市榆林港约330多海里,距文昌县清澜港也是约330多海里。(Quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa] là một trong 4 quần đảo lớn của nước ta tại Nam Hải, hiện thuộc tỉnh Hải Nam, vị trí tại phía đông nam tỉnh Hải Nam. Dùng đảo Vĩnh Hưng lảm trung tâm ; cách cảng Du Lâm thị xã Tam Á ước 330 hải lý ; cách cảng Thanh Lan, huyện Văn Xương 330 hải lý)