Cần luận thuyết thích hợp cho Việt Nam phát triển mạnh
<<::: an-luan-thuyet-thich-hop-cho-viet-nam-phat-trien-manh="" b="" bi="" c="" can-luan-thuyet-thich-hop-cho-viet-nam-phat-trien-manh="" di="" epi="" gi="" http:="" i...="" i="" khi="" l="" m="" n="" nam="" ng="" o="" oinoi-doingoai="" ome="" r="" t="" tu="" tuanvietnam.net="" u="" v="" vi="" www.baomoi.com="" xu="">>.
Bước sang thế kỷ mới, thực tiễn đã vượt lên, chúng ta có trách nhiệm phải nhận thức lại, tìm hiểu nghiên cứu, rút ra những cái mới từ thực tiễn hiện đại; điều chỉnh bổ sung cho lý thuyết kinh điển phù hợp với hoàn cảnh đương đại.
LTS: Nhân dịp Ban Tuyên giáo Trung ương mở cuộc vận động tìm chủ thuyết phát triển cho đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh, CTV Trường Giang gửi bài viết hưởng ứng. Để tôn trọng tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông. Mời độc giả cùng thảo luận.
Đảng ta ngay trong những ngày đầu thành lập đã chọn một học thuyết làm ngọn cờ lý luận cho hoạt động cách mạng của mình: học thuyết Mác - Ăng ghen. Chúng ta đã thực hiện học thuyết Mác thành công trong những bước đi ban đầu theo tinh thần vận dụng sáng tạo của Lê nin. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh của chúng ta đã tinh tường hiểu được tinh thần chống áp bức bóc lột, mang lại tự do cơm áo cho người lao động của Mác, đã nhanh chóng nắm bắt thấm nhuần cương lĩnh giải phóng dân tộc thuộc địa của Lê Nin, đã cùng Đảng dẫn dắt toàn dân đứng dậy, phá tan xiềng gông của thực dân Pháp, phát xít Nhật, bè lũ phong kiến phản động và chống lại thắng lợi cả bọn đế quốc Mỹ xâm lược sau này.
Công cuộc đấu tranh, giành độc lập tự do của nhân dân Việt Nam đã trở thành một tấm gương chói sáng, góp phần tích cực động viên các dân tộc thuộc địa ở các châu lục vùng lên tự giải phóng mình. Bản đồ thế giới đã được vẽ lại với nhiều thay đổi sáng sủa. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt.
Nhưng đáng tiếc, dường như chúng ta chưa hiểu thật đầy đủ ý tưởng của Mác, Ăng ghen - hai học giả vĩ đại của thế kỷ 19. Và đặc biệt khi bước sang những thập niên cuối thế kỷ 20, thực tiễn đã có nhiều biến đổi lớn, nhất là về kinh tế, khoa học - công nghệ, các mối quan hệ xã hội, bang giao quốc tế..., công việc nghiên cứu lý luận của ta vẫn chìm đắm trong chiều hướng triển khai, hiện thực hoá những chuẩn mực có sẵn trong học thuyết kinh điển của thế kỷ 19 mà chưa mạnh dạn nghiên cứu cái mới của của hiện tại để xây dựng những chuẩn mực mới, điều chỉnh, bổ sung, thậm chí xoá bỏ những chuẩn mực cũ đã lỗi thời, lạc hậu. Thỉnh thoảng, một vài cán bộ quản lý vẫn còn lớn tiếng phê phán những nghiên cứu trái với chiều hướng suy nghĩ truyền thống hoặc phân tích khác với lý thuyết kinh điển.
Mác viết bộ Tư bản (le Capital) tập 1thời còn trẻ. Nội dung bộ sách này đến với ta sớm và được khai thác phát huy mạnh mẽ. Nhưng dù sao, bộ sách đó (Tư bản tập 1) cũng mới chỉ là những suy nghĩ bước đầu về chủ nghyĩa tư bản khi Mác - Ăng ghen chỉ mới biết đến 3 nước tư bản Đức, Pháp, Anh trong thời kỳ sơ khai của chủ nghĩa Tư bản và cũng chỉ mới qua cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Đến sau này, khi nhiều tuổi, có một số điều kiện thuận lợi, Mác có đi rộng ra một số nơi (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ...), tiếp xúc mới một số tập đoàn tư bản, một số học giả lớn, đọc sách của Hê ghen, Saint Simon, Aritstote, Khổng Tư, Nho giáo, Phật giáo thấy rõ vai trò của khoa học công nghệ, Mác có thêm cơ sở thực tế và lý luận để tư duy sâu sắc và chính xác hơn về chân dung chủ nghĩa Tư bản và cuộc cách mạng vô sản. Mác đã tự phủ định một số ý kiến đã viết hoặc phát biểu trong thời trẻ của mình. Song thời kỳ này, Mác đã già yếu và cũng nghèo hơn, Ăng ghen cũng khong còn giúp được nhiều như trước vì bà vợ cũng kinh doanh thua lỗ. Do vậy, Mác, Ăng ghen không tự in ấn phát hành sách được như tập 1 bộ Tư bản; tập 2, 3 cũng chỉ còn ở dạng bản thảo chưa hoàn chỉnh, Mác chỉ tranh thủ viết báo, phát biểu tại một số diễn đàn, đặc biệt tranh luận ở câu lạc bộ Pruđông... Tất cả những tài liệu này nằm lang thang ở các nước châu Âu, chỉ đến Việt Nam bằng sự ghi chép vào sổ tay của một số người ham hiểu biết.
Về già, Mác và cả Ăng ghen đã đặt lại những vấn đề khá cơ bản như nhấn mạnh quyền tự do cá nhân (ngay trong tuyên ngôn đảng cộng sản, bản thảo thứ nhất, thứ hai, Mác đều ghi bằng chữ đậm: "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho phát triển tự do của cộng đồng", chứng tỏ Mác rất coi trọng tự do cá nhân. Ý này Mác đã phát biểu rất nhất quán tại câu lạc bộ Pruđông nhiều lần. Từ đó, ta có thể khẳng định Mác từ sau 1860, không hề có tư tưởng xây dựng một chế độ thủ tiêu hoàn toàn mọi quyền cá nhân. Phải chăng ở đây có sự hiểu lầm khi truyền bá lại hay dịch sai từ Community của Mác. Điều này dẫn chúng ta đến một số sai lầm thu hẹp quyền sở hữu cá nhân, quyền tự do cá nhân lúc này nơi này, lúc khác nơi khác.
Đặc biệt, trong những tháng ngày cuối đời, khi thấy sức khoẻ của mình đã sút kém nhiều, Mác đã phát biểu nhắn nhe lại với những người trong phong trào cộng sản một cách thiết tha, rằng những điều ông dự đoán cho một xã hội sau chủ nghĩa tư bản là những điều có thể xảy ra chứ không phải là những điều tất yếu phải xảy ra. Và thật buồn, nếu có ai đó sau này cứ lắp lại y nguyên những điều trong sách hay tài liệu để lại của ông.
Chính chúng ta không thấm nhuần tinh thần này nên đã không coi trọng nghiên cứu cái mới trong thực tiễn hiện nay để xem xét lại những chuẩn mực trong các luận thuyết kinh điển. Rõ ràng thực tiễn mới đã vượt lên, không ít những vấn đề trong học thuyết Mác cần phải được điều chỉnh, bổ sung.
Mác khẳng định mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội, thúc đẩy sự vận động của lịch sử. Mác phân tích giai cấp Tư bản (những ông chủ) bóc lột đến tận xương tuỷ giai cấp vô sản (những người làm thuê) nên bùng nổ thường xuyên cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt. Chính giai cấp vô sản là tác nhân lịch sử, là kẻ đào mồ chôn chủ nghĩa Tư bản. Mác phân tích Tư bản bóc lột công nhân, tích luỹ tư bản chủ yếu là thu lợi nhuận từ thặng dư giá trị tức là phần lao độngd ư thừa không được hưởng tiền công của người lao động. Tầng lớp chủ ngày càng giàu lên và người làm thuê ngày càng nghèo đói; mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc; do đó cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt, mạnh mẽ dẫn đến cuộc cách mạng vô sản.
Thực tế ngày nay, sự chênh lệch giàu nghèo giữa chủ và thợ vẫn còn nhưng mối quan hệ giữa chủ và thợ không căng thẳng như ngày xưa. Nhiều ông bà chủ cũng biết rút kinh nghiệm, điều chỉnh thái độ và chính sách quyền lợi đối với thợ thuyền. Ở một số nước, trong thợ thuyền, có một số người giàu lên, có xe hơi, có nhà tầng, có tiền mua cổ phiếu khá nhiều, trở thành cổ đôn lớn, tham gia và Hội động quản trị nhà máy hoặc công ty. Phần tích luỹ của chủ từ cái mà Mác gọi là thặng dư giá trị không đáng là bao so với phâầnlợi lộc từ sự cải tiến tổ chức sản xuất, cung cách quản lý, áp dụng khoa học, kỹ thuật mới, sử dụng công nghệ tiên tiến.... Tính hợp tác thân thiện giữa chủ và thợ gnày càng tăng. Mâu thuẫn giữa chủ với thợ và cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn đó vẫn còn nhưng không thành một cuộc chiến diệt nhau, dẫn đến một cuộc cách mạng bằng bạo lực, chôn vùi chủ nghĩa tư bản. Chính khoa học, công nghệ đang phát triển gia tốc, ngày càng đóng vai trò động lực chủ yếu thúc đẩy mọi sự phát triển xã hội, thúc đẩy sự vận động của lịch sử. Cái mới này trong thực tiễn đang sáng rực lên như một viên ngọc thời đại. Không khái quát, đúc kết nó thành một quy luật mới, xoá bỏ nhận thức cũ đã lỗi thời là có tội với lịch sử.
Có một vấn đề mà Mác nhắc đến như một sản phẩm của chủ nghĩa Tư bản và sẽ chấm dứt, bị chôn vùi cùng với chủ nghĩa Tư bản bằng cuộc cách mạng vô sản là kinh tế thị trường. Không, thực tiễn mới cho thẩy sức sống bền vững của nền kinh tế thị trường. Nó là sản phẩm của lịch sử đương đại, nó đang trở thành một dòng chảy mạnh tạo đà cho lịch sử phát triển, gia tốc, tạo môi trường cho hàng hoá, của cái vật chất ngày càng dồi dao, phong phú, đưa nhân loại đến một thế giới văn minh, phồn thịnh. Nó không thể bị chấm dứt. Chủ nghĩa tư bản cũng không phải đang giãy chết. Nó đang tự biến đổi mình, thích hợp dần với tính chất của thời đại. Tên của chính thể, tê của chủ nghĩa không còn là sự quan tâm nhiều của mọi người. Mục tiêu xã hội, nội dung cuộc sống (giàu mạnh, văn minh, độc lập, tự do, dân chủ) mới là sự lựa chọn thực sự của nhân loại tiến bộ, của lương tri con người. Đó là một nhận thức mới, một bài học thời đại. Thực tiễn mới không cho phép ta nuôi giữ những quan niệm cũ đã trở thành lạc hậu.
Mác đã từng tiên đoán, thế giới cuối cùng đều đi đến chủ nghĩa cộng sản. Mác tư duy theo 5 hình thái kinh tế xã hội, theo quy luật tất định. Nhưng thực tế ngày nay, với sự phát triển phi thường của khoa học kỹ thuật, với sự sáng tạo phi thường của con người, với sự biến đổi đa dạng, nhanh chóng, bất ngờ của thiên nhiên mà con người không thể kiểm soát hết được thì quy luật tát định không còn là nhận thức hiện đại. Hiện nay ta không có thể khẳng định được chủ nghĩa cuối cùng của loài người là chủ nghĩa gì. Trí óc của con người đang cố vươn tới làm chủ tương lại nhưng khẳng định là tương lai đã nằm trong tay ta là một sự ngộ nhân, là ảo tưởng.
Nói những điều trên đây là để tự kiểm điểm lại mình chứ không phải để phê phán Mác. Mác đã quá vĩ đại. Giữa giai đoạn lịch sử, con người còn mù mịt về nhận thức xã hội như thế mà Mác đã mổ xẻ phân tích chủ nghĩa tư bản được như thế là một thành tựu khai trí lớn lao đến nhường nào. Nhưng bây giờ ta nghiên cứu thực tiễn mới để kiến lập một luận thuyết mới thích hợp với thời đại, tạo điều kiện cho đất nước phát triển mạnh là trách nhiệm thiêng liên của con người có trách nhiệm với đời.
Cần xây dựng một luận thuyết hiện đại, thích hợp với Việt Nam phát triển. Đó là mệnh lệnh của thời đại. Một luận thuyết mang tính tổng hợp,kết tinh cao tri thức của nhânloại thế kỷ 21, đặc biệt là những ý tưởng triết học mới của những cái đầu tư duy thông minh, hiện đại mà hàm chứa đủ những tinh hoa còn thơm ngắt của kho tàng tư tưởng kinh điển trong quá khứ... sẽ là ngọn cờ, là kim chỉ nam hành động của toàn dân ta trên con đường đi tới tương lai. Luận thuyết đó phải bao gồm 6 nội dung lớn sau đây:
Tôi thiết nghĩa, chúng ta chỉ cần xác định đúng mục tiêu và quyết tâm thực hiện cho kỳ được mục tiêu đó là đặt lắm, để quá nhiều thì giờ tranh cãi về cái tên thì chẳng ích gì.
***
Tóm lại Mác, Ăng ghen, Lê nin, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường cách mạng đúng đắn. Chúng ta đã học tập và làm theo một cách tích cực, nghiêm túc. Bước sang thế kỷ mới, thực tiễn đã vượt lên, chúng ta có trách nhiệm phải nhận thức lại, tìm hiểu nghiên cứu, rút ra những cái mới từ thực tiễn hiện đại; điều chỉnh bổ sung cho lý thuyết kinh điển phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đương thời. Đây cũng là điều mong muốn của các bậc tiền bối.
Gần đây, Ban Tuyên giáo Trung ương cũng có mở cuộc vận động tìm chủ thuyết phát triển cho đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh. Hy vọng bài viết này được coi là sự hưởng ứng tích cực lời kêu gọi của Đảng ta.
Trên 500 tiểu thương vây kín UBND TP Đà Nẵng
Đại biểu Quốc hội muốn NHNN ngày càng độc lập hơn
Sẽ có khu kinh tế xuyên biên giới Việt-Trung
Hà Tĩnh: Hơn 300 triệu đồng xây chợ rồi “bỏ hoang”
(VnMedia) - Chợ Cẩm Sơn (Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh) có tổng nguồn vốn đầu tư trên 300 triệu đồng, do UBND xã Cẩm Sơn làm chủ đầu tư. Sau khi hoàn thành, chợ chỉ hoạt động được ít phiên rồi…bỏ hoang!
(16/11/2009)
Đường thủng lỗ, nước phun lên thành vòi Ngôi Sao
3h sáng nay, tại ngã tư liên lỉnh lộ 25B- Vành đai phía đông, thuộc phường Thạnh Mỹ Lợi, quận 2, TP HCM người dân phát hiện mặt đường thủng lỗ lớn, nước phun từ dưới lên nhưng không rõ nguyên nhân. Mãi đến 5h sáng, lực lượng thanh niên xung phong làm ...
Ống nước vỡ đục thủng mặt đường Liên tỉnh lộ 25BNgười Lao Động
Vỡ đường ống nước, đường tỉnh lộ bị thủng lớnVNExpress
Thủng lớn ở đường kết nối công trình cầu Phú MỹBáo Đất Việt
Về "Concept Paper" của Học viện Ngoại giao
Barack Obama: 'Trung - Mỹ không nhất thiết phải là đối thủ’------ Đất Việt
Bản đồ kinh tế thế giới đang thay đổi?
Obama says al Qaeda still greatest threat to U.S.
SHANGHAI (Reuters) - U.S. President Barack Obama on Monday called al Qaeda the biggest threat to U.S. security, as his aides stepped up pressure on Afghanistan and Pakistan to cooperate with Washington's strategy in the troubled region.
ANALYSIS: Taiwan closely watches Obama's China trip
Chinese quiz Obama on internet freedom
Obama in Asia: Five Things the U.S. and China Differ On--- TIME
China's Economic Recovery: Miracle or Mirage?--- TIME
Obama's Dilemma: Where Are the Afghan Security Forces?--- TIME The U.S. exit strategy in Afghanistan is based on transferring control to local forces. That is unlikely to happen anytime soon
Lãnh đạo đối lập Campuchia mất quyền miễn tố
Obama nhắc Trung Quốc về nhân quyền
Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm VN
<<::: an-luan-thuyet-thich-hop-cho-viet-nam-phat-trien-manh="" b="" bi="" c="" can-luan-thuyet-thich-hop-cho-viet-nam-phat-trien-manh="" di="" epi="" gi="" http:="" i...="" i="" khi="" l="" m="" n="" nam="" ng="" o="" oinoi-doingoai="" ome="" r="" t="" tu="" tuanvietnam.net="" u="" v="" vi="" www.baomoi.com="" xu="">>.
Bước sang thế kỷ mới, thực tiễn đã vượt lên, chúng ta có trách nhiệm phải nhận thức lại, tìm hiểu nghiên cứu, rút ra những cái mới từ thực tiễn hiện đại; điều chỉnh bổ sung cho lý thuyết kinh điển phù hợp với hoàn cảnh đương đại.
LTS: Nhân dịp Ban Tuyên giáo Trung ương mở cuộc vận động tìm chủ thuyết phát triển cho đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh, CTV Trường Giang gửi bài viết hưởng ứng. Để tôn trọng tính đa chiều của truyền thông, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông. Mời độc giả cùng thảo luận.
Đảng ta ngay trong những ngày đầu thành lập đã chọn một học thuyết làm ngọn cờ lý luận cho hoạt động cách mạng của mình: học thuyết Mác - Ăng ghen. Chúng ta đã thực hiện học thuyết Mác thành công trong những bước đi ban đầu theo tinh thần vận dụng sáng tạo của Lê nin. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh của chúng ta đã tinh tường hiểu được tinh thần chống áp bức bóc lột, mang lại tự do cơm áo cho người lao động của Mác, đã nhanh chóng nắm bắt thấm nhuần cương lĩnh giải phóng dân tộc thuộc địa của Lê Nin, đã cùng Đảng dẫn dắt toàn dân đứng dậy, phá tan xiềng gông của thực dân Pháp, phát xít Nhật, bè lũ phong kiến phản động và chống lại thắng lợi cả bọn đế quốc Mỹ xâm lược sau này.
Công cuộc đấu tranh, giành độc lập tự do của nhân dân Việt Nam đã trở thành một tấm gương chói sáng, góp phần tích cực động viên các dân tộc thuộc địa ở các châu lục vùng lên tự giải phóng mình. Bản đồ thế giới đã được vẽ lại với nhiều thay đổi sáng sủa. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao rõ rệt.
Nhưng đáng tiếc, dường như chúng ta chưa hiểu thật đầy đủ ý tưởng của Mác, Ăng ghen - hai học giả vĩ đại của thế kỷ 19. Và đặc biệt khi bước sang những thập niên cuối thế kỷ 20, thực tiễn đã có nhiều biến đổi lớn, nhất là về kinh tế, khoa học - công nghệ, các mối quan hệ xã hội, bang giao quốc tế..., công việc nghiên cứu lý luận của ta vẫn chìm đắm trong chiều hướng triển khai, hiện thực hoá những chuẩn mực có sẵn trong học thuyết kinh điển của thế kỷ 19 mà chưa mạnh dạn nghiên cứu cái mới của của hiện tại để xây dựng những chuẩn mực mới, điều chỉnh, bổ sung, thậm chí xoá bỏ những chuẩn mực cũ đã lỗi thời, lạc hậu. Thỉnh thoảng, một vài cán bộ quản lý vẫn còn lớn tiếng phê phán những nghiên cứu trái với chiều hướng suy nghĩ truyền thống hoặc phân tích khác với lý thuyết kinh điển.
| "Cần luận thuyết thích hợp cho Việt Nam phát triển mạnh?" |
Về già, Mác và cả Ăng ghen đã đặt lại những vấn đề khá cơ bản như nhấn mạnh quyền tự do cá nhân (ngay trong tuyên ngôn đảng cộng sản, bản thảo thứ nhất, thứ hai, Mác đều ghi bằng chữ đậm: "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho phát triển tự do của cộng đồng", chứng tỏ Mác rất coi trọng tự do cá nhân. Ý này Mác đã phát biểu rất nhất quán tại câu lạc bộ Pruđông nhiều lần. Từ đó, ta có thể khẳng định Mác từ sau 1860, không hề có tư tưởng xây dựng một chế độ thủ tiêu hoàn toàn mọi quyền cá nhân. Phải chăng ở đây có sự hiểu lầm khi truyền bá lại hay dịch sai từ Community của Mác. Điều này dẫn chúng ta đến một số sai lầm thu hẹp quyền sở hữu cá nhân, quyền tự do cá nhân lúc này nơi này, lúc khác nơi khác.
Nói về chuyên chính vô sản, nói về phương thức đấu tranh, thời trẻ, Mác và Ăng ghen thường hay nói đến bạo lực, coi đó là phương thức duy nhất, là bà đỡ của lịch sử nhưng đến thời già, cả Mác và Ăng ghen đều suy nghĩ lại và khẳng định chủ yếu là bằng hoà bình, giai cấp công nhân mà đại diện là đảng cộng sản sẽ thắng do sự gương mẫu và tư tưởng tiên tiến của mình. Đây là một sự chuyển biến về tư tưởng cách mạng của 2 vị.
Về quyết định luận kinh tế mà thời trẻ, Mác và Ăng ghen hay nói, cho rằng kinh tế là quyết định tất cả, hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc, vật chất quyết định tinh thần.... thì khi về già, 2 ông đã tự phủ định. Ăng ghen nói : "xét đến cùng mới là kinh tế". Ý nói cứ giành chính quyền, xây dựng thượng tầng kiến trúc, xác định chính thể, rồi sẽ định hướng xây dựng kinh tế. Nếu xem kinh tế là nền móng thì phải biết cái toà lầu bên trên gồm có mấy tầng, cấu trúc như thế nào thì mới tính được kết cấu nền móng. Tinh thần, có khi tác động rất lớn đến vật chất. Mác đồng tình với Hê ghen luận điểm này. Đây cũng là một thay đổi lớn trong cách nhìn nhận sự vật về sự tương quan của chúng. Ý tưởng đó của 2 ông cũng chưa đến Việt Nam.Đặc biệt, trong những tháng ngày cuối đời, khi thấy sức khoẻ của mình đã sút kém nhiều, Mác đã phát biểu nhắn nhe lại với những người trong phong trào cộng sản một cách thiết tha, rằng những điều ông dự đoán cho một xã hội sau chủ nghĩa tư bản là những điều có thể xảy ra chứ không phải là những điều tất yếu phải xảy ra. Và thật buồn, nếu có ai đó sau này cứ lắp lại y nguyên những điều trong sách hay tài liệu để lại của ông.
Chính chúng ta không thấm nhuần tinh thần này nên đã không coi trọng nghiên cứu cái mới trong thực tiễn hiện nay để xem xét lại những chuẩn mực trong các luận thuyết kinh điển. Rõ ràng thực tiễn mới đã vượt lên, không ít những vấn đề trong học thuyết Mác cần phải được điều chỉnh, bổ sung.
Mác khẳng định mâu thuẫn giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội, thúc đẩy sự vận động của lịch sử. Mác phân tích giai cấp Tư bản (những ông chủ) bóc lột đến tận xương tuỷ giai cấp vô sản (những người làm thuê) nên bùng nổ thường xuyên cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt. Chính giai cấp vô sản là tác nhân lịch sử, là kẻ đào mồ chôn chủ nghĩa Tư bản. Mác phân tích Tư bản bóc lột công nhân, tích luỹ tư bản chủ yếu là thu lợi nhuận từ thặng dư giá trị tức là phần lao độngd ư thừa không được hưởng tiền công của người lao động. Tầng lớp chủ ngày càng giàu lên và người làm thuê ngày càng nghèo đói; mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc; do đó cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt, mạnh mẽ dẫn đến cuộc cách mạng vô sản.
Thực tế ngày nay, sự chênh lệch giàu nghèo giữa chủ và thợ vẫn còn nhưng mối quan hệ giữa chủ và thợ không căng thẳng như ngày xưa. Nhiều ông bà chủ cũng biết rút kinh nghiệm, điều chỉnh thái độ và chính sách quyền lợi đối với thợ thuyền. Ở một số nước, trong thợ thuyền, có một số người giàu lên, có xe hơi, có nhà tầng, có tiền mua cổ phiếu khá nhiều, trở thành cổ đôn lớn, tham gia và Hội động quản trị nhà máy hoặc công ty. Phần tích luỹ của chủ từ cái mà Mác gọi là thặng dư giá trị không đáng là bao so với phâầnlợi lộc từ sự cải tiến tổ chức sản xuất, cung cách quản lý, áp dụng khoa học, kỹ thuật mới, sử dụng công nghệ tiên tiến.... Tính hợp tác thân thiện giữa chủ và thợ gnày càng tăng. Mâu thuẫn giữa chủ với thợ và cuộc đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn đó vẫn còn nhưng không thành một cuộc chiến diệt nhau, dẫn đến một cuộc cách mạng bằng bạo lực, chôn vùi chủ nghĩa tư bản. Chính khoa học, công nghệ đang phát triển gia tốc, ngày càng đóng vai trò động lực chủ yếu thúc đẩy mọi sự phát triển xã hội, thúc đẩy sự vận động của lịch sử. Cái mới này trong thực tiễn đang sáng rực lên như một viên ngọc thời đại. Không khái quát, đúc kết nó thành một quy luật mới, xoá bỏ nhận thức cũ đã lỗi thời là có tội với lịch sử.
Có một vấn đề mà Mác nhắc đến như một sản phẩm của chủ nghĩa Tư bản và sẽ chấm dứt, bị chôn vùi cùng với chủ nghĩa Tư bản bằng cuộc cách mạng vô sản là kinh tế thị trường. Không, thực tiễn mới cho thẩy sức sống bền vững của nền kinh tế thị trường. Nó là sản phẩm của lịch sử đương đại, nó đang trở thành một dòng chảy mạnh tạo đà cho lịch sử phát triển, gia tốc, tạo môi trường cho hàng hoá, của cái vật chất ngày càng dồi dao, phong phú, đưa nhân loại đến một thế giới văn minh, phồn thịnh. Nó không thể bị chấm dứt. Chủ nghĩa tư bản cũng không phải đang giãy chết. Nó đang tự biến đổi mình, thích hợp dần với tính chất của thời đại. Tên của chính thể, tê của chủ nghĩa không còn là sự quan tâm nhiều của mọi người. Mục tiêu xã hội, nội dung cuộc sống (giàu mạnh, văn minh, độc lập, tự do, dân chủ) mới là sự lựa chọn thực sự của nhân loại tiến bộ, của lương tri con người. Đó là một nhận thức mới, một bài học thời đại. Thực tiễn mới không cho phép ta nuôi giữ những quan niệm cũ đã trở thành lạc hậu.
Mác đã từng tiên đoán, thế giới cuối cùng đều đi đến chủ nghĩa cộng sản. Mác tư duy theo 5 hình thái kinh tế xã hội, theo quy luật tất định. Nhưng thực tế ngày nay, với sự phát triển phi thường của khoa học kỹ thuật, với sự sáng tạo phi thường của con người, với sự biến đổi đa dạng, nhanh chóng, bất ngờ của thiên nhiên mà con người không thể kiểm soát hết được thì quy luật tát định không còn là nhận thức hiện đại. Hiện nay ta không có thể khẳng định được chủ nghĩa cuối cùng của loài người là chủ nghĩa gì. Trí óc của con người đang cố vươn tới làm chủ tương lại nhưng khẳng định là tương lai đã nằm trong tay ta là một sự ngộ nhân, là ảo tưởng.
Nói những điều trên đây là để tự kiểm điểm lại mình chứ không phải để phê phán Mác. Mác đã quá vĩ đại. Giữa giai đoạn lịch sử, con người còn mù mịt về nhận thức xã hội như thế mà Mác đã mổ xẻ phân tích chủ nghĩa tư bản được như thế là một thành tựu khai trí lớn lao đến nhường nào. Nhưng bây giờ ta nghiên cứu thực tiễn mới để kiến lập một luận thuyết mới thích hợp với thời đại, tạo điều kiện cho đất nước phát triển mạnh là trách nhiệm thiêng liên của con người có trách nhiệm với đời.
Cần xây dựng một luận thuyết hiện đại, thích hợp với Việt Nam phát triển. Đó là mệnh lệnh của thời đại. Một luận thuyết mang tính tổng hợp,kết tinh cao tri thức của nhânloại thế kỷ 21, đặc biệt là những ý tưởng triết học mới của những cái đầu tư duy thông minh, hiện đại mà hàm chứa đủ những tinh hoa còn thơm ngắt của kho tàng tư tưởng kinh điển trong quá khứ... sẽ là ngọn cờ, là kim chỉ nam hành động của toàn dân ta trên con đường đi tới tương lai. Luận thuyết đó phải bao gồm 6 nội dung lớn sau đây:
- Mục tiêu xã hội là xây dựng một cuộc sống giàu mạnh văn minh, dân chủ độc lập
Tôi thiết nghĩa, chúng ta chỉ cần xác định đúng mục tiêu và quyết tâm thực hiện cho kỳ được mục tiêu đó là đặt lắm, để quá nhiều thì giờ tranh cãi về cái tên thì chẳng ích gì.
- Tổ chức một bộ máy nhà nước pháp quyền nhân dân, một hệ thống tổ chức chính trị chặt chẽ, có năng lực hoạt động, tập hợp được rộng rãi các tầng lớp xã hội, phát huy đặc biệt giới trí thức và doanh nghiệp, coi đây là 2 lực lượng nòng cốt của xã hội hiện đại.
- Tập trung đẩy mạnh sản xuất bằng công nghệ cao, tăng nhanh số hàng hoá chất lượng, thực hiện kế hoạch thương mại đa phương, hoà nhập vào cuộc giao lưu quốc tế tích cực.
- Thiết lập một cơ chế xã hội khoa học, hợp lý, thông thoáng, phát huy được mọi tài năng, bảo đảm được sự bình đẳng, tự do chân chính của mọi công dân, bảo đảm cho hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tam quyền phân lập, cho các tổ chức chính trị xã hội được hoạt động một cách chủ động độc lập theo ý nguyện của lòng dân để tạo nê sự đồng thuận xã hội cao, một quyết tâm mạnh mẽ của toàn xã hội, xoá bỏ tiêu cực, bảo vệ và xây dựng đất nước.
- Hết sức coi trọng xây dựng nền khoa học công nghệ hiện đại và phát triển với quy mô lớn nền giáo dục năng động, đào tạo ngày càng có hiệu quả các nguồn lực giầu sức sáng tạo, xoá bỏ nhanh chóng thực trạng tiến dích dắc của ngành khoa học công nghệ ta và thảm trạng trì trệ bảo thủ của ngành giáo dục hiện nay. Trên thực tế, không có một sự phát triển nào mà không sử dụng kết quả của giáo dục, không áp dụng khoa học, công nghệ mới. Do đó, khoa học, công nghệ và giáo dục phải luôn luôn được coi là ưu tiên hàng đầu, là động lực chủ yếu thúc đẩy sự vận động lịch sử nhanh chóng đi tới tương lai.
- Xây dựng một nền kinh tế thị trường phồn thịnh, lành mạnh. Nền kinh tế thị trường là sản phẩm của lịch sử hiện đại - nó có sức sống mạnh mẽ, có giá trị trường tồn và luôn luôn biến đổi theo xu hướng thời đại và chính sách của mỗi nhà nước. Không nên quan niệm nó chỉ là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản và càng không nên coi số phận của nó chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sức sống của nó, vú nuôi của nó là hệ thống sản xuất hàng hoá.
***
Tóm lại Mác, Ăng ghen, Lê nin, Hồ Chí Minh đã mở ra con đường cách mạng đúng đắn. Chúng ta đã học tập và làm theo một cách tích cực, nghiêm túc. Bước sang thế kỷ mới, thực tiễn đã vượt lên, chúng ta có trách nhiệm phải nhận thức lại, tìm hiểu nghiên cứu, rút ra những cái mới từ thực tiễn hiện đại; điều chỉnh bổ sung cho lý thuyết kinh điển phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đương thời. Đây cũng là điều mong muốn của các bậc tiền bối.
Gần đây, Ban Tuyên giáo Trung ương cũng có mở cuộc vận động tìm chủ thuyết phát triển cho đất nước trong thời đại Hồ Chí Minh. Hy vọng bài viết này được coi là sự hưởng ứng tích cực lời kêu gọi của Đảng ta.
Trên 500 tiểu thương vây kín UBND TP Đà Nẵng
(NLĐO)- Lúc 13 giờ 30 ngày 16-11, trên 500 tiểu thương ở Khu B Siêu thị Đà Nẵng (tên khác là siêu thị Bài Thơ - đường Điện Biên Phủ, TP Đà Nẵng) đã đồng loạt kéo đến trụ sở tiếp dân của UBND TP Đà Nẵng để phản đối việc Công ty Cổ phần Thương mại và Dịch vụ Bất động sản Bài Thơ thông báo đẩy toàn bộ 536 hộ kinh doanh ở đây đi nơi khác để nâng cấp, mở rộng siêu thị thành Trung tâm mua sắm Đà Nẵng.
Đại biểu Quốc hội muốn NHNN ngày càng độc lập hơn
(TBKTSG Online) - Nhiều đại biểu Quốc hội trong phiên thảo luận tại hội trường hôm 16-11 đã yêu cầu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải được giữ vai trò độc lập hơn trong các vấn đề điều hành chính sách tiền tệ nếu Luật Ngân hàng (sửa đổi) được thông qua vào giữa năm 2010.
Sẽ có khu kinh tế xuyên biên giới Việt-Trung
Hà Tĩnh: Hơn 300 triệu đồng xây chợ rồi “bỏ hoang”
(VnMedia) - Chợ Cẩm Sơn (Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh) có tổng nguồn vốn đầu tư trên 300 triệu đồng, do UBND xã Cẩm Sơn làm chủ đầu tư. Sau khi hoàn thành, chợ chỉ hoạt động được ít phiên rồi…bỏ hoang!(16/11/2009)
3h sáng nay, tại ngã tư liên lỉnh lộ 25B- Vành đai phía đông, thuộc phường Thạnh Mỹ Lợi, quận 2, TP HCM người dân phát hiện mặt đường thủng lỗ lớn, nước phun từ dưới lên nhưng không rõ nguyên nhân. Mãi đến 5h sáng, lực lượng thanh niên xung phong làm ...
Ống nước vỡ đục thủng mặt đường Liên tỉnh lộ 25BNgười Lao Động
Vỡ đường ống nước, đường tỉnh lộ bị thủng lớnVNExpress
Thủng lớn ở đường kết nối công trình cầu Phú MỹBáo Đất Việt
Về "Concept Paper" của Học viện Ngoại giao
Hôm cuối tuần, tôi có vài nhận xét ngắn [1] về tiếng Anh trong cái “Concept Paper” của Học viện Ngoại giao Việt Nam, dựa trên một đoạn văn ngắn trong blog của Đinh Tấn Lực [2]. Hôm nay, một bạn đọc giới thiệu toàn văn của cái paper đó cũng trên blog của ĐTL. Tôi lại tò mò đọc qua, và “phát hiện” vài điều thú vị. Trong entry này, tôi sẽ tóm tắt vài nhận xét chính như sau:
Thứ nhất, thiếu ý tưởng. Thật vậy, cái gọi là bài báo về khái niệm (concept paper) này chỉ vỏn vẹn có 2 trang, và thiếu ý tưởng. Viết một bài báo khoa học mang tính khái niệm mà chỉ 2 trang giấy thì đó là dấu hiệu cho thấy hoặc là tác giả rất “cao thủ” trong viết văn (vì phải là người giỏi viết văn mới có khả năng diễn tả những khái niệm cao siêu một cách ngắn gọn), hoặc là tác giả không có ý tưởng gì đáng kể để phát biểu. Tôi nghiêng về cách giải thích thứ hai hơn. Đoạn văn đầu nói về những phát triển trong vùng Biển Đông phù hợp với xu hướng hợp tác trong vùng, nhưng tác giả không cho biết đó là những phát triển gì. Tuy đoạn thứ nhất hàm ý cho rằng những phát triển trong quá khứ là ok, nhưng đoạn thứ hai thì nói là các nước trong vùng đã có những nỗ lực để đem lại ổn định tình hình, nhưng chẳng biết tình hình gì! Thật ra đoạn thứ 2 này không có thông tin. Đoạn văn thứ 3 nói về sự khát khao (tác giả dùng động từ “desire”) về hợp tác và giải pháp cho những tranh chấp, nhưng không thấy nói tranh chấp gì trước đó cả. Đây là đoạn văn mang tính khẩu hiệu, chứ cũng chẳng có ý nghĩa gì đáng ghi nhận. Đoạn văn thứ 4 liệt kê một số hội thảo trong quá khứ, và hội thảo sắp đến tại Hà Nội như là một cơ hội cho các học giả trong vùng ASEAN và quốc tế, nhưng cơ hội để làm gì thì không thấy nói đến. Nói tóm lại, phần mở đầu chẳng có thông tin gì đáng ghi nhận cả.
Dấu hiệu thiếu ý tưởng còn thể hiện qua cách viết “etc” (vân vân) trong câu: “Such an endeavor has been pursued by various scholarly efforts including the South China Sea workshops series sponsored by Canadian International Development Agency and research projects such as the conference on “South China Sea: Towards A Cooperative Management Regime” held by S. Rajaratnam School of International Studies, Nanyang Technological University in Singapore in 2007 etc” (đáng lẽ phải có dấu phẩy trước “etc”). Khi không có ý tưởng gì rõ ràng, hay quên, hay lười biếng kiểm tra, người ta hay sử dụng “etc”. Trong khoa học, đây là điều tối kị, vì người đọc đánh giá rằng tác giả lười biếng và không xem trọng người đọc.
Thứ hai, mục tiêu rất mù mờ. Cả 3 mục tiêu như phát biểu trong phần “THE OBJECTIVES” có thể nói là rất mù mờ. Chẳng hạn như “to discuss, share and gain new insights from their researches and expertise” (thảo luận, chia sẻ, và thu thập những kiến thức chuyên sâu qua nghiên cứu), hay “to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics” (nuôi dưỡng tình đồng chí giữa các nhà khoa bảng làm việc về chủ đề Biển Đông), hay “to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea” (đóng góp giải pháp khả dĩ cho sự tranh chấp ở Biển Đông trên quan điểm học thuật). Thú thật, đọc 3 mục tiêu này tôi chẳng hiểu tác giả nói gì cả. Thế nào là giải pháp khả dĩ trên quan điểm học thuật?
Thứ ba, cách hành văn bằng tiếng Anh có quá nhiều thiếu sót. Trong entry trước [1] tôi đã đề cập đến một số thiếu sót về văn phạm và cách hành văn, nhưng vẫn chưa đủ. Sau đây là vài sai sót khác:
(a) Sai văn phạm. Trong câu “The themes of discussion include, but not restrict to the followings” có 3 điểm sai. Điểm sai thứ nhất là dùng động từ “not restrict” không đúng (chẳng ai viết “the themes not retrict to”). Điểm sai thứ hai là không ai viết followings cả. Danh từ following có thể dùng để nói đến một nhóm đối tượng hay nhóm người, nhưng không có “s”. Điểm sai thứ 3 là thiếu dấu phẩy sau chữ “restrict to”. Câu này đáng lẽ phải viết là: “The workshop themes include, but are not restricted to, the following:”, hay “The workshop themes include, but are not limited to, the following:”, hay “The workshop will focus on, but will not be limited to, the following principal topics:” Câu sau cùng theo tôi là thích hợp nhất, vì chúng ta nói đến thì tương lai và chữ following được sử dụng rõ ràng hơn như là một tính từ.
(b) Chọn từ không thích hợp. Để minh họa cho nhận xét đó, chúng ta có thể đọc câu văn này: “Boosting greater cooperation in the South China Sea-related issues and suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all – therefore are desired.” Có nhiều vấn đề trong câu này. Thứ nhất, ở đây tác giả sử dụng 2 từ gerund (boosting và suggesting), nhưng từ boosting có vấn đề, vì nó mang tính informal của giới báo chí, và nên nhớ rằng trong tiếng Anh kiểu Mĩ động từ boost còn có nghĩa là “ăn cắp”. Thứ hai, danh từ issues (vấn đề) mà làm qualifier cho cooperation (hợp tác) thì quả là dị kì. Có ai nói “đẩy mạnh hợp tác trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông” không? “Hợp tác trong các vấn đề” nó chẳng có ý nghĩa gì cả! Thứ ba, động từ desire mà để đến cuối câu là một cách đặt từ bất bình thường. Ngay cả sử dụng động từ desire cũng là một cách chọn từ không hay, vì nó có nghĩa đòi hỏi một cái gì đó rất cấp thiết, và nó còn có nghĩa là … đòi hỏi sex nữa. Thứ tư, rất ít ai đặt trạng từ phía trước động từ to be (như kiểu … therefore are desired), mà phải đặt sau động từ đó (như are therefore desired).
Còn câu “suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all” lại có vài vấn đề khác. Thứ nhất là giải pháp cho tranh chấp nào mà tác giả nói là “the dispute”. Trên kia, đâu có thấy nói tranh chấp (dispute) nào đâu! Tôi chẳng thấy ai (ngoại trừ người không thạo tiếng Anh) viết là “acceptable for all” cả; nhưng tôi thấy người ta viết “acceptable to all”. Đó là chưa kể đến câu “suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all” đã là không chuẩn văn phạm rồi. Viết kịch thì ok, nhưng viết văn bản ngoại giao thì tôi e rằng không xem được. Có thể sửa lại, chẳng hạn như: “suggesting solutions that are practically acceptable to all disputing parties”.
Thật ra, theo tôi thấy, đoạn văn “Boosting greater cooperation in the South China Sea-related issues and suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all – therefore are desired” cần phải viết lại bằng cách tách biệt hai câu văn rành mạch hơn. Còn tách biệt và dùng từ như thế nào thì là một vấn đề khác.
Ngoài ra, còn một chỗ dùng từ không chính xác là câu này: “The international workshop – themed ‘South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development’”. Theme là một danh từ chứ không phải động từ. Trong vài trường hợp (rất rất hiếm), người ta dùng theme như là một động từ nhưng chỉ địa điểm, chứ không chỉ một chủ đề bao giờ.
Thật ra, còn nhiều chỗ mà cách dùng từ ngữ chưa chuẩn, nhưng khó mà đếm xuể ở đây. Chẳng hạn như lúc thì “Organizers”, lại có lúc “Co-Organizers” (mà trong thực tế có thể thay bằng cụm từ “Organizing Committee” là đủ). Hay như đoạn này “The workshop’s participants are expected to (i) discuss, share and gain new insights from their researches and expertise, (ii) to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics, and (iii) to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea” cũng có nhiều điều đáng bàn vì nhiều từ trong đoạn này chưa chuẩn mấy, thậm chí có phần xúc phạm hay trịch thượng (như động từ “… expected to”).
(c) Sử dụng mạo từ “THE” không đúng. Tên của mỗi phần trong bài viết đều có THE, như: THE BACKGROUND, THE OBJECTIVES, và THE PROPOSED TOPICS. Tôi phục vụ trong ban biên tập của một số tập san khoa học và có nhiều cơ hội tiếp xúc với những bài báo khoa học, nhưng chưa bao giờ (xin nhấn mạnh: chưa bao giờ) thấy tác giả nào sử dụng THE một cách rộng rãi như thế.
Nhưng ngược lại, có những chỗ đáng lẽ phải có “the” thì tác giả lại bỏ sót. Chẳng hạn như tác giả quên “the” trong những tên của tổ chức sau đây: Canadian International Development Agency, S. Rajaratnam School of International Studies, Vietnamese Lawyers Association, và Asia-Pacific.
(d) Sai sót trong cách dùng “to”. Trong phần mục tiêu, tác giả viết “The workshop’s participants are expected to (i) discuss, share and gain new insights from their researches and expertise, (ii) to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics, and (iii) to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea.”Thấy gì qua câu này? Nhìn kĩ sẽ thấy tác giả dùng to trong câu văn đầu như là “mẫu số” cho 3 động từ theo sau, nhưng rất tiếc là tác giả quên nên trong phần (ii) và (iii) tác giả lại dùng to một lần nữa! Do đó, câu văn đọc là: “The workshop’s participants are expected to to foster ...” và “The workshop’s participants are expected to to contribute …”! Thật là độc đáo!
(e) Sai chính tả. Đáng lẽ là “MATTER” thì tác giả lại viết là “MATER”. Thật ra, cũng chẳng ai viết "Organizing matters" cả (vì matter có nhiều nghĩa, kể cả nghĩa "vấn đề", "vật chất"), mà có thể viết ngắn gọn là "Logistics" là đủ. Còn "logistic" trong câu "For logistic and other questions" thì cũng sai, vì logistic là tính từ.
Chữ "secretariat" tuy không sai về chính tả, nhưng không đúng về nghĩa. Secretariat là văn phòng thư kí, chứ không có nghĩa là "secretarial support" là tác giả muốn nói đến.
Nói tóm lại, mang tiếng một “concept paper” (tên nghe rất to tát), nhưng nội dung chưa đầy 2 trang giấy, mà có đến hàng chục lỗi lầm và sai sót về từ ngữ, văn phạm, thậm chí chính tả. Nhưng điều quan trọng hơn là thiếu ý tưởng, nó cho thấy tác giả hình như chẳng biết nói gì cho đến nơi đến chốn. Thật khó mà chấp nhận được một văn bản như thế lại được phát tán cho các đồng nghiệp quốc tế dưới danh nghĩa Học viện Ngoại giao Việt Nam.
Trong chúng ta, ai cũng kinh qua ít nhất là một vài sai sót tiếng Anh, vì nói cho cùng đó đâu phải là tiếng mẹ đẻ, và vài sai sót nhỏ thì có thể thông cảm được. Một văn bản chính thức từ một “học viện” mà có phạm phải vài lỗi lầm tiếng Anh vẫn có thể thông cảm, nhưng nếu có quá nhiều lỗi như trong trường hợp này thì đối tác có thể nghĩ rằng tác giả xem thường họ.
Trong bài trước, Đinh Tấn Lực có một nhận xét rất đáng chú ý: “Khách mời chính yếu và thượng đẳng danh dự, đứng hàng đầu bảng danh sách này là GS Ji Goxing, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Chiến Lược (của Trung Quốc) tại Thượng Hải. Có tổng cộng khoảng trên dưới 30 khách mời trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, cộng thêm khoảng 40 khách mời quốc tế, và phía chủ nhà gồm 9 hoặc 10 Gs/Ts Việt Nam, phần lớn thuộc Học viện Ngoại giao và Đại học Hà Nội. Không được mời tham dự là những học giả đầy khả năng và tâm huyết về chủ đề Biển Đông [3], như các nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã, Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Quang A, Đinh Kim Phúc, Hoàng Việt, cùng các cựu thành viên của Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Việt Nam (IDS) cũ.”
Đó là một điều rất buồn. Tôi thấy trong vấn đề tranh chấp này, Việt Nam ta thật là “lép vế”. Chẳng hạn như trong số 129 working papers về nghiên cứu Biển Đông, chỉ có 1 paper duy nhất từ Việt Nam (“Globalization and its Implications for Southeast Asian Security: A Vietnamese Perspective” của Nguyễn Phương Bình)! Ngay cả cái tựa đề cũng … nhẹ hều (nếu không muốn nói là vô thưởng vô phạt). Do đó, không ngạc nhiên khi giới quan sát quốc tế nhận xét rằng: “The Chinese and Vietnamese claims to sovereignty in the South China Sea are both based on historical claims of discovery and occupation. The Chinese case is better documented”. Có lẽ vì khả năng tiếng Anh của “phe ta” quá yếu chăng?
Có lẽ có bạn sẽ cho rằng tôi đang làm cái việc "vạch lá tìm sâu", nhưng thật ra, tôi chẳng cần "vạch lá" đâu cả. Tất cả những gì tôi nêu rất hiển nhiên, chỉ cần đọc qua là thấy ngay. Tôi cũng chẳng rành gì tiếng Anh mà còn phát hiện ra những sai sót đó, thì đối với dân ngoại giao nhà nghề chắc còn thấy nhiều lỗi hơn nữa. Những sai sót quá hiển nhiên này là điều đáng tiếc.
Để kết thúc bài nhận xét ngắn này, tôi xin trích một câu nói của Khổng Tử liên quan đến vấn đề ngôn ngữ: “Nếu ngôn ngữ không đúng, thì những gì nói ra sẽ không phản ảnh chính xác ý của người nói; nếu ý của người nói không được phản ảnh chính xác, thì những gì cần phải làm sẽ không thực hiện được; và những gì không thực hiện được đạo đức và nghệ thuật sẽ suy đồi.” Đã đến lúc các quan ngoại giao ta phải rành tiếng Anh hơn nữa để đất nước và dân tộc được nhờ.
NVT
Chú thích:
[1] http://tuanvannguyen.blogspot.com/2009/11/tieng-anh-cua-bo-ngoai-giao-thoi-hoi.html
[2] http://dinhtanluc.blogspot.com/2009/11/sau-thong-iep-tu-mot-tuong-cai-luong-ho.html
[3] http://bauxitevietnam.info/c/5388.html
Nguyên văn của cái "Concept Paper" đó là:
CONCEPT PAPER
International Workshop on
“The South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development”
Co-Organizers: The Diplomatic Academy of Vietnam and Vietnamese Lawyers Association.
Time and Venue: Hanoi, Vietnam, 26-27 November, 2009.
I . THE BACKGROUND
Developments in and related to the South China Sea have by and large been consistent to the overall contemporary trend toward greater cooperation in Asia-Pacific.
Efforts have been made by regional countries to stabilize the situation and seek the opportunities for cooperation in the South China Sea area. These efforts have resulted in,among others, the ASEAN Declaration on the South China Sea in 1992, the adoption in 2004 of the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea (DOC) according towhich all signing parties pledged to seek peaceful solutions to disputes and conduct maritime cooperation in order to maintain regional stability in the South China Sea under the principles of the Charter of the United Nations, the 1982 UN Convention on the Law of the Sea, the Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia, the Five Principles of PeacefulCoexistence, and other universally recognized principles of international law.
Yet, the South China Sea still remains as one of the areas that could cause regionalinstability. Conflicting territorial claims by parties of the dispute exist. Moreover, they seemto have been compounded by claimants’ development and security needs. Last but not least,the South China Sea’s significance seems to have been wider recognized by many other countries that have stakes in international navigation, maritime safety, natural resource exploitation, environmental protection, and legal effectiveness of the UNCLOS in the area.
Boosting greater cooperation in the South China Sea-related issues and suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all – therefore are desired.
Such an endeavor has been pursued by various scholarly efforts including the South China Sea workshops series sponsored by Canadian International Development Agency and research projects such as the conference on “South China Sea: Towards A Cooperative Management Regime” held by S. Rajaratnam School of International Studies, Nanyang Technological University in Singapore in 2007 etc.
The international workshop – themed “South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development” – jointly initiated and sponsored by the Diplomatic Academy of Vietnam and Vietnamese Lawyers Association offers an additional important opportunity, toward this end, for scholars within the Asia – Pacific region as well as from other parts of the world.
II. THE OBJECTIVES
The workshop’s participants are expected to (i) discuss, share and gain new insights from their researches and expertise, (ii) to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics, and (iii) to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea.
III. THE PROPOSED TOPICS
The themes of discussion include, but not restrict to the followings:
1. Regional and global significance of the South China Sea in the overall context of the international environment.
2. Recent developments in the South China Sea and their implications to peace, stability and cooperation in the region.
3. Ways and means to maintain peace, stability and promote cooperation in the South China Sea.
IV. ORGANIZING MATERS
Workshop participants: Around 40 international scholars from ASEAN countries and China, as well as those from Australia, Canada, France, India, Japan, Norway, Republic of Korea, Russia, Sweden, United Kingdom, Germany, United States will be invited and interact with about local participants.
Funding: The Co-organizers will provide support for the workshop organization, including meeting room, secretariat, documentation, translation, and other facilities.
The organizers will also cover local expenses for invited international participants. The support will include hotel accommodation, local transport and meals during the workshop.
International participants are expected to cover their international travel expenses.
Registration: Participants are invited to register before October 20th, 2009.
- For information regarding to content of this workshop, please contact:
Dr. Tran Truong Thuy
Director, South China Sea Studies Program, Diplomatic Academy of Vietnam
69 Chua Lang, Dong Da, Hanoi
email: truongthuy@mofa.gov.vn, Tel: 84 – 4 – 38344540, ext 105; fax: 84-4-38343543.
- For logistic and other questions, please contact:
Mrs. Ngo Thi Thu Huong
Institute for Foreign Policy and Strategic Studies, Diplomatic Academy of Vietnam
69 Chua Lang, Dong Da, Hanoi
email: huongngo1972@gmail.com, Tel: 84 – 4 – 38344540, ext 129; fax: 84-4-38343543.

Thứ nhất, thiếu ý tưởng. Thật vậy, cái gọi là bài báo về khái niệm (concept paper) này chỉ vỏn vẹn có 2 trang, và thiếu ý tưởng. Viết một bài báo khoa học mang tính khái niệm mà chỉ 2 trang giấy thì đó là dấu hiệu cho thấy hoặc là tác giả rất “cao thủ” trong viết văn (vì phải là người giỏi viết văn mới có khả năng diễn tả những khái niệm cao siêu một cách ngắn gọn), hoặc là tác giả không có ý tưởng gì đáng kể để phát biểu. Tôi nghiêng về cách giải thích thứ hai hơn. Đoạn văn đầu nói về những phát triển trong vùng Biển Đông phù hợp với xu hướng hợp tác trong vùng, nhưng tác giả không cho biết đó là những phát triển gì. Tuy đoạn thứ nhất hàm ý cho rằng những phát triển trong quá khứ là ok, nhưng đoạn thứ hai thì nói là các nước trong vùng đã có những nỗ lực để đem lại ổn định tình hình, nhưng chẳng biết tình hình gì! Thật ra đoạn thứ 2 này không có thông tin. Đoạn văn thứ 3 nói về sự khát khao (tác giả dùng động từ “desire”) về hợp tác và giải pháp cho những tranh chấp, nhưng không thấy nói tranh chấp gì trước đó cả. Đây là đoạn văn mang tính khẩu hiệu, chứ cũng chẳng có ý nghĩa gì đáng ghi nhận. Đoạn văn thứ 4 liệt kê một số hội thảo trong quá khứ, và hội thảo sắp đến tại Hà Nội như là một cơ hội cho các học giả trong vùng ASEAN và quốc tế, nhưng cơ hội để làm gì thì không thấy nói đến. Nói tóm lại, phần mở đầu chẳng có thông tin gì đáng ghi nhận cả.
Dấu hiệu thiếu ý tưởng còn thể hiện qua cách viết “etc” (vân vân) trong câu: “Such an endeavor has been pursued by various scholarly efforts including the South China Sea workshops series sponsored by Canadian International Development Agency and research projects such as the conference on “South China Sea: Towards A Cooperative Management Regime” held by S. Rajaratnam School of International Studies, Nanyang Technological University in Singapore in 2007 etc” (đáng lẽ phải có dấu phẩy trước “etc”). Khi không có ý tưởng gì rõ ràng, hay quên, hay lười biếng kiểm tra, người ta hay sử dụng “etc”. Trong khoa học, đây là điều tối kị, vì người đọc đánh giá rằng tác giả lười biếng và không xem trọng người đọc.
Thứ hai, mục tiêu rất mù mờ. Cả 3 mục tiêu như phát biểu trong phần “THE OBJECTIVES” có thể nói là rất mù mờ. Chẳng hạn như “to discuss, share and gain new insights from their researches and expertise” (thảo luận, chia sẻ, và thu thập những kiến thức chuyên sâu qua nghiên cứu), hay “to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics” (nuôi dưỡng tình đồng chí giữa các nhà khoa bảng làm việc về chủ đề Biển Đông), hay “to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea” (đóng góp giải pháp khả dĩ cho sự tranh chấp ở Biển Đông trên quan điểm học thuật). Thú thật, đọc 3 mục tiêu này tôi chẳng hiểu tác giả nói gì cả. Thế nào là giải pháp khả dĩ trên quan điểm học thuật?
Thứ ba, cách hành văn bằng tiếng Anh có quá nhiều thiếu sót. Trong entry trước [1] tôi đã đề cập đến một số thiếu sót về văn phạm và cách hành văn, nhưng vẫn chưa đủ. Sau đây là vài sai sót khác:
(a) Sai văn phạm. Trong câu “The themes of discussion include, but not restrict to the followings” có 3 điểm sai. Điểm sai thứ nhất là dùng động từ “not restrict” không đúng (chẳng ai viết “the themes not retrict to”). Điểm sai thứ hai là không ai viết followings cả. Danh từ following có thể dùng để nói đến một nhóm đối tượng hay nhóm người, nhưng không có “s”. Điểm sai thứ 3 là thiếu dấu phẩy sau chữ “restrict to”. Câu này đáng lẽ phải viết là: “The workshop themes include, but are not restricted to, the following:”, hay “The workshop themes include, but are not limited to, the following:”, hay “The workshop will focus on, but will not be limited to, the following principal topics:” Câu sau cùng theo tôi là thích hợp nhất, vì chúng ta nói đến thì tương lai và chữ following được sử dụng rõ ràng hơn như là một tính từ.
(b) Chọn từ không thích hợp. Để minh họa cho nhận xét đó, chúng ta có thể đọc câu văn này: “Boosting greater cooperation in the South China Sea-related issues and suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all – therefore are desired.” Có nhiều vấn đề trong câu này. Thứ nhất, ở đây tác giả sử dụng 2 từ gerund (boosting và suggesting), nhưng từ boosting có vấn đề, vì nó mang tính informal của giới báo chí, và nên nhớ rằng trong tiếng Anh kiểu Mĩ động từ boost còn có nghĩa là “ăn cắp”. Thứ hai, danh từ issues (vấn đề) mà làm qualifier cho cooperation (hợp tác) thì quả là dị kì. Có ai nói “đẩy mạnh hợp tác trong các vấn đề liên quan đến Biển Đông” không? “Hợp tác trong các vấn đề” nó chẳng có ý nghĩa gì cả! Thứ ba, động từ desire mà để đến cuối câu là một cách đặt từ bất bình thường. Ngay cả sử dụng động từ desire cũng là một cách chọn từ không hay, vì nó có nghĩa đòi hỏi một cái gì đó rất cấp thiết, và nó còn có nghĩa là … đòi hỏi sex nữa. Thứ tư, rất ít ai đặt trạng từ phía trước động từ to be (như kiểu … therefore are desired), mà phải đặt sau động từ đó (như are therefore desired).
Còn câu “suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all” lại có vài vấn đề khác. Thứ nhất là giải pháp cho tranh chấp nào mà tác giả nói là “the dispute”. Trên kia, đâu có thấy nói tranh chấp (dispute) nào đâu! Tôi chẳng thấy ai (ngoại trừ người không thạo tiếng Anh) viết là “acceptable for all” cả; nhưng tôi thấy người ta viết “acceptable to all”. Đó là chưa kể đến câu “suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all” đã là không chuẩn văn phạm rồi. Viết kịch thì ok, nhưng viết văn bản ngoại giao thì tôi e rằng không xem được. Có thể sửa lại, chẳng hạn như: “suggesting solutions that are practically acceptable to all disputing parties”.
Thật ra, theo tôi thấy, đoạn văn “Boosting greater cooperation in the South China Sea-related issues and suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all – therefore are desired” cần phải viết lại bằng cách tách biệt hai câu văn rành mạch hơn. Còn tách biệt và dùng từ như thế nào thì là một vấn đề khác.
Ngoài ra, còn một chỗ dùng từ không chính xác là câu này: “The international workshop – themed ‘South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development’”. Theme là một danh từ chứ không phải động từ. Trong vài trường hợp (rất rất hiếm), người ta dùng theme như là một động từ nhưng chỉ địa điểm, chứ không chỉ một chủ đề bao giờ.
Thật ra, còn nhiều chỗ mà cách dùng từ ngữ chưa chuẩn, nhưng khó mà đếm xuể ở đây. Chẳng hạn như lúc thì “Organizers”, lại có lúc “Co-Organizers” (mà trong thực tế có thể thay bằng cụm từ “Organizing Committee” là đủ). Hay như đoạn này “The workshop’s participants are expected to (i) discuss, share and gain new insights from their researches and expertise, (ii) to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics, and (iii) to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea” cũng có nhiều điều đáng bàn vì nhiều từ trong đoạn này chưa chuẩn mấy, thậm chí có phần xúc phạm hay trịch thượng (như động từ “… expected to”).
(c) Sử dụng mạo từ “THE” không đúng. Tên của mỗi phần trong bài viết đều có THE, như: THE BACKGROUND, THE OBJECTIVES, và THE PROPOSED TOPICS. Tôi phục vụ trong ban biên tập của một số tập san khoa học và có nhiều cơ hội tiếp xúc với những bài báo khoa học, nhưng chưa bao giờ (xin nhấn mạnh: chưa bao giờ) thấy tác giả nào sử dụng THE một cách rộng rãi như thế.
Nhưng ngược lại, có những chỗ đáng lẽ phải có “the” thì tác giả lại bỏ sót. Chẳng hạn như tác giả quên “the” trong những tên của tổ chức sau đây: Canadian International Development Agency, S. Rajaratnam School of International Studies, Vietnamese Lawyers Association, và Asia-Pacific.
(d) Sai sót trong cách dùng “to”. Trong phần mục tiêu, tác giả viết “The workshop’s participants are expected to (i) discuss, share and gain new insights from their researches and expertise, (ii) to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics, and (iii) to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea.”Thấy gì qua câu này? Nhìn kĩ sẽ thấy tác giả dùng to trong câu văn đầu như là “mẫu số” cho 3 động từ theo sau, nhưng rất tiếc là tác giả quên nên trong phần (ii) và (iii) tác giả lại dùng to một lần nữa! Do đó, câu văn đọc là: “The workshop’s participants are expected to to foster ...” và “The workshop’s participants are expected to to contribute …”! Thật là độc đáo!
(e) Sai chính tả. Đáng lẽ là “MATTER” thì tác giả lại viết là “MATER”. Thật ra, cũng chẳng ai viết "Organizing matters" cả (vì matter có nhiều nghĩa, kể cả nghĩa "vấn đề", "vật chất"), mà có thể viết ngắn gọn là "Logistics" là đủ. Còn "logistic" trong câu "For logistic and other questions" thì cũng sai, vì logistic là tính từ.
Chữ "secretariat" tuy không sai về chính tả, nhưng không đúng về nghĩa. Secretariat là văn phòng thư kí, chứ không có nghĩa là "secretarial support" là tác giả muốn nói đến.
Nói tóm lại, mang tiếng một “concept paper” (tên nghe rất to tát), nhưng nội dung chưa đầy 2 trang giấy, mà có đến hàng chục lỗi lầm và sai sót về từ ngữ, văn phạm, thậm chí chính tả. Nhưng điều quan trọng hơn là thiếu ý tưởng, nó cho thấy tác giả hình như chẳng biết nói gì cho đến nơi đến chốn. Thật khó mà chấp nhận được một văn bản như thế lại được phát tán cho các đồng nghiệp quốc tế dưới danh nghĩa Học viện Ngoại giao Việt Nam.
Trong chúng ta, ai cũng kinh qua ít nhất là một vài sai sót tiếng Anh, vì nói cho cùng đó đâu phải là tiếng mẹ đẻ, và vài sai sót nhỏ thì có thể thông cảm được. Một văn bản chính thức từ một “học viện” mà có phạm phải vài lỗi lầm tiếng Anh vẫn có thể thông cảm, nhưng nếu có quá nhiều lỗi như trong trường hợp này thì đối tác có thể nghĩ rằng tác giả xem thường họ.
Trong bài trước, Đinh Tấn Lực có một nhận xét rất đáng chú ý: “Khách mời chính yếu và thượng đẳng danh dự, đứng hàng đầu bảng danh sách này là GS Ji Goxing, Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Chiến Lược (của Trung Quốc) tại Thượng Hải. Có tổng cộng khoảng trên dưới 30 khách mời trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, cộng thêm khoảng 40 khách mời quốc tế, và phía chủ nhà gồm 9 hoặc 10 Gs/Ts Việt Nam, phần lớn thuộc Học viện Ngoại giao và Đại học Hà Nội. Không được mời tham dự là những học giả đầy khả năng và tâm huyết về chủ đề Biển Đông [3], như các nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã, Nguyễn Quang Thắng, Nguyễn Quang A, Đinh Kim Phúc, Hoàng Việt, cùng các cựu thành viên của Viện Nghiên Cứu Chiến Lược Việt Nam (IDS) cũ.”
Đó là một điều rất buồn. Tôi thấy trong vấn đề tranh chấp này, Việt Nam ta thật là “lép vế”. Chẳng hạn như trong số 129 working papers về nghiên cứu Biển Đông, chỉ có 1 paper duy nhất từ Việt Nam (“Globalization and its Implications for Southeast Asian Security: A Vietnamese Perspective” của Nguyễn Phương Bình)! Ngay cả cái tựa đề cũng … nhẹ hều (nếu không muốn nói là vô thưởng vô phạt). Do đó, không ngạc nhiên khi giới quan sát quốc tế nhận xét rằng: “The Chinese and Vietnamese claims to sovereignty in the South China Sea are both based on historical claims of discovery and occupation. The Chinese case is better documented”. Có lẽ vì khả năng tiếng Anh của “phe ta” quá yếu chăng?
Có lẽ có bạn sẽ cho rằng tôi đang làm cái việc "vạch lá tìm sâu", nhưng thật ra, tôi chẳng cần "vạch lá" đâu cả. Tất cả những gì tôi nêu rất hiển nhiên, chỉ cần đọc qua là thấy ngay. Tôi cũng chẳng rành gì tiếng Anh mà còn phát hiện ra những sai sót đó, thì đối với dân ngoại giao nhà nghề chắc còn thấy nhiều lỗi hơn nữa. Những sai sót quá hiển nhiên này là điều đáng tiếc.
Để kết thúc bài nhận xét ngắn này, tôi xin trích một câu nói của Khổng Tử liên quan đến vấn đề ngôn ngữ: “Nếu ngôn ngữ không đúng, thì những gì nói ra sẽ không phản ảnh chính xác ý của người nói; nếu ý của người nói không được phản ảnh chính xác, thì những gì cần phải làm sẽ không thực hiện được; và những gì không thực hiện được đạo đức và nghệ thuật sẽ suy đồi.” Đã đến lúc các quan ngoại giao ta phải rành tiếng Anh hơn nữa để đất nước và dân tộc được nhờ.
NVT
Chú thích:
[1] http://tuanvannguyen.blogspot.com/2009/11/tieng-anh-cua-bo-ngoai-giao-thoi-hoi.html
[2] http://dinhtanluc.blogspot.com/2009/11/sau-thong-iep-tu-mot-tuong-cai-luong-ho.html
[3] http://bauxitevietnam.info/c/5388.html
Nguyên văn của cái "Concept Paper" đó là:
CONCEPT PAPER
International Workshop on
“The South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development”
Co-Organizers: The Diplomatic Academy of Vietnam and Vietnamese Lawyers Association.
Time and Venue: Hanoi, Vietnam, 26-27 November, 2009.
I . THE BACKGROUND
Developments in and related to the South China Sea have by and large been consistent to the overall contemporary trend toward greater cooperation in Asia-Pacific.
Efforts have been made by regional countries to stabilize the situation and seek the opportunities for cooperation in the South China Sea area. These efforts have resulted in,among others, the ASEAN Declaration on the South China Sea in 1992, the adoption in 2004 of the Declaration on the Conduct of Parties in the South China Sea (DOC) according towhich all signing parties pledged to seek peaceful solutions to disputes and conduct maritime cooperation in order to maintain regional stability in the South China Sea under the principles of the Charter of the United Nations, the 1982 UN Convention on the Law of the Sea, the Treaty of Amity and Cooperation in Southeast Asia, the Five Principles of PeacefulCoexistence, and other universally recognized principles of international law.
Yet, the South China Sea still remains as one of the areas that could cause regionalinstability. Conflicting territorial claims by parties of the dispute exist. Moreover, they seemto have been compounded by claimants’ development and security needs. Last but not least,the South China Sea’s significance seems to have been wider recognized by many other countries that have stakes in international navigation, maritime safety, natural resource exploitation, environmental protection, and legal effectiveness of the UNCLOS in the area.
Boosting greater cooperation in the South China Sea-related issues and suggesting possible solutions to the dispute – acceptable for all – therefore are desired.
Such an endeavor has been pursued by various scholarly efforts including the South China Sea workshops series sponsored by Canadian International Development Agency and research projects such as the conference on “South China Sea: Towards A Cooperative Management Regime” held by S. Rajaratnam School of International Studies, Nanyang Technological University in Singapore in 2007 etc.
The international workshop – themed “South China Sea: Cooperation for Regional Security and Development” – jointly initiated and sponsored by the Diplomatic Academy of Vietnam and Vietnamese Lawyers Association offers an additional important opportunity, toward this end, for scholars within the Asia – Pacific region as well as from other parts of the world.
II. THE OBJECTIVES
The workshop’s participants are expected to (i) discuss, share and gain new insights from their researches and expertise, (ii) to foster camaraderie among academics working on the South China Sea-related topics, and (iii) to contribute – from scholarly point of view – to possible solutions to the dispute over the South China Sea.
III. THE PROPOSED TOPICS
The themes of discussion include, but not restrict to the followings:
1. Regional and global significance of the South China Sea in the overall context of the international environment.
2. Recent developments in the South China Sea and their implications to peace, stability and cooperation in the region.
3. Ways and means to maintain peace, stability and promote cooperation in the South China Sea.
IV. ORGANIZING MATERS
Workshop participants: Around 40 international scholars from ASEAN countries and China, as well as those from Australia, Canada, France, India, Japan, Norway, Republic of Korea, Russia, Sweden, United Kingdom, Germany, United States will be invited and interact with about local participants.
Funding: The Co-organizers will provide support for the workshop organization, including meeting room, secretariat, documentation, translation, and other facilities.
The organizers will also cover local expenses for invited international participants. The support will include hotel accommodation, local transport and meals during the workshop.
International participants are expected to cover their international travel expenses.
Registration: Participants are invited to register before October 20th, 2009.
- For information regarding to content of this workshop, please contact:
Dr. Tran Truong Thuy
Director, South China Sea Studies Program, Diplomatic Academy of Vietnam
69 Chua Lang, Dong Da, Hanoi
email: truongthuy@mofa.gov.vn, Tel: 84 – 4 – 38344540, ext 105; fax: 84-4-38343543.
- For logistic and other questions, please contact:
Mrs. Ngo Thi Thu Huong
Institute for Foreign Policy and Strategic Studies, Diplomatic Academy of Vietnam
69 Chua Lang, Dong Da, Hanoi
email: huongngo1972@gmail.com, Tel: 84 – 4 – 38344540, ext 129; fax: 84-4-38343543.
Barack Obama: 'Trung - Mỹ không nhất thiết phải là đối thủ’------ Đất Việt
Trong bài phát biểu trước hàng trăm sinh viên Trung Quốc tại Thượng Hải hôm nay, Tổng thống Mỹ Barack Obama khẳng định, dù giữa hai nước còn nhiều bất đồng nhưng Washington và Bắc Kinh không nhất thiết phải đối đầu.
VIT - Hai ngày trước, Tổng thống Mỹ Barack Obama có phần khá tất bật. Sau khi vội vàng kết thúc chuyến thăm Nhật Bản, vị tổng thống này lại gấp rút đáp máy bay lên đường sang tham dự hội nghị thượng đỉnh APEC tại Singapore. Sau đó, trước khi bay sang Thượng Hải, ông còn tranh thủ gặp mặt với 10 vị lãnh đạo của 10 nước ASEAN.
Mỹ là một nước siêu cường quốc duy nhất trên thế giới hiện nay, vậy tại sao TT Obama lại phải sắp xếp lịch trình kín như vậy để gặp mặt các vị lãnh đạo thuộc khu vực châu Ấ Thái Bình Dương? Ngoài việc muốn tiếp tục theo đuổi quyền lãnh đạo và tầm ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực này, còn có một điều nữa có liên quan đến sự thay đổi to lớn về cục diện kinh tế chính trị quốc tế. Sự thay đổi này có hai đặc điểm lớn, một là cộng đồng quốc tế đang chuyển hướng từ đối đầu và kìm chế sang đối thoại và hợp tác; Hai là cùng với những thăng trầm của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế khu vực cũng đang trên đà phát triển, đồng thời còn che giấu nhiều điều để tạo ra tương lai cho nền kinh tế thế giới.
Hay nói cách khác, cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế bùng phát vào mùa thu năm ngoái như một chất xúc tác, đã thay đổi mối quan hệ giữa kinh tế toàn cầu và tài chính, bất luận là gì cơ cấu chính trị và kinh tế quốc tế đều đã xuất hiện những tình hình mới không dễ bị coi nhẹ. Hay cũng chính là, bản đồ kinh tế thế giới đã thay đổi. Trong bối cảnh này, cho dù một nước siêu cường quốc như Mỹ cũng không dám xem nhẹ. Còn đối với Trung Quốc, sự thay đổi lại có ý nghĩa gì?
Là một nước có nền kinh tế mới nổi với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, sự phát triển của Trung Quốc đương nhiên phải xem xét đến những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Trước khi bàn về sự thay đổi của các chính sách cụ thể, cần phải làm rõ bản đồ kinh tế thế giới đang chuyển dịch về bên nào. Từ các hội nghị thượng đỉnh diễn ra từ cuối năm ngoái, bất luận là hội nghị lãnh đạo toàn cầu hay hội nghị lãnh đạo khu vực, đều nhấn mạnh một điều, chính là đối thoại và hợp tác, chỉ có đối thoại và hợp tác mới có thể đối phó được với những thử thách chung mà cộng đồng quốc tế đang đối mặt.
Khi nói về Trung Quốc, TT Obama bày tỏ, chúng tôi muốn tiến hành hợp tác có hiệu quả với Trung Quốc trong các vấn đề lợi ích chung, bởi vì không có một quốc gia nào có thể đơn độc đối phó với các thách thức của thế kỷ 21. Mỹ và Trung Quốc nếu có thể cùng nhau đối đầu với các thách thức của toàn cầu, thì hai nước sẽ cùng gặt hái thành công. Đây cũng là lý do tại sao chúng tôi hoan nghênh Trung Quốc phát huy vai trò lớn hơn trên vũ đại chính trị quốc tế. Mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc đặc biệt quan trọng đối với những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Mỹ.
Từ những lời nói trên của TT Obama và “Tuyên ngôn Singapore” tại hội nghị APEC cho thấy, kinh tế thế giới đang hình thành hai đặc điểm lớn, không chỉ ngày càng rõ ràng hơn mà còn đã trở thành một trào lưu phát triển kinh tế; Tức là, đối thoại và hợp tác là một lựa chọn duy nhất để cộng đồng quốc tế đối phó với những thách thức của thế kỷ 21; Còn tự do hóa thương mại - đầu tư và hội nhập kinh tế khu vực là con đường tối ưu nhất, hiệu quả nhất. Đứng trước hai chiều hướng này, bất luận là nền kinh tế phát triển hay nền kinh tế mới nổi đều có thể tìm thấy cơ hội giành thắng lợi riêng cho mình.
Mỹ là một nước siêu cường quốc duy nhất trên thế giới hiện nay, vậy tại sao TT Obama lại phải sắp xếp lịch trình kín như vậy để gặp mặt các vị lãnh đạo thuộc khu vực châu Ấ Thái Bình Dương? Ngoài việc muốn tiếp tục theo đuổi quyền lãnh đạo và tầm ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực này, còn có một điều nữa có liên quan đến sự thay đổi to lớn về cục diện kinh tế chính trị quốc tế. Sự thay đổi này có hai đặc điểm lớn, một là cộng đồng quốc tế đang chuyển hướng từ đối đầu và kìm chế sang đối thoại và hợp tác; Hai là cùng với những thăng trầm của quá trình toàn cầu hóa kinh tế, hội nhập kinh tế khu vực cũng đang trên đà phát triển, đồng thời còn che giấu nhiều điều để tạo ra tương lai cho nền kinh tế thế giới.
Hay nói cách khác, cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế bùng phát vào mùa thu năm ngoái như một chất xúc tác, đã thay đổi mối quan hệ giữa kinh tế toàn cầu và tài chính, bất luận là gì cơ cấu chính trị và kinh tế quốc tế đều đã xuất hiện những tình hình mới không dễ bị coi nhẹ. Hay cũng chính là, bản đồ kinh tế thế giới đã thay đổi. Trong bối cảnh này, cho dù một nước siêu cường quốc như Mỹ cũng không dám xem nhẹ. Còn đối với Trung Quốc, sự thay đổi lại có ý nghĩa gì?
Là một nước có nền kinh tế mới nổi với tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, sự phát triển của Trung Quốc đương nhiên phải xem xét đến những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Trước khi bàn về sự thay đổi của các chính sách cụ thể, cần phải làm rõ bản đồ kinh tế thế giới đang chuyển dịch về bên nào. Từ các hội nghị thượng đỉnh diễn ra từ cuối năm ngoái, bất luận là hội nghị lãnh đạo toàn cầu hay hội nghị lãnh đạo khu vực, đều nhấn mạnh một điều, chính là đối thoại và hợp tác, chỉ có đối thoại và hợp tác mới có thể đối phó được với những thử thách chung mà cộng đồng quốc tế đang đối mặt.
Khi nói về Trung Quốc, TT Obama bày tỏ, chúng tôi muốn tiến hành hợp tác có hiệu quả với Trung Quốc trong các vấn đề lợi ích chung, bởi vì không có một quốc gia nào có thể đơn độc đối phó với các thách thức của thế kỷ 21. Mỹ và Trung Quốc nếu có thể cùng nhau đối đầu với các thách thức của toàn cầu, thì hai nước sẽ cùng gặt hái thành công. Đây cũng là lý do tại sao chúng tôi hoan nghênh Trung Quốc phát huy vai trò lớn hơn trên vũ đại chính trị quốc tế. Mối quan hệ hợp tác với Trung Quốc đặc biệt quan trọng đối với những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Mỹ.
Từ những lời nói trên của TT Obama và “Tuyên ngôn Singapore” tại hội nghị APEC cho thấy, kinh tế thế giới đang hình thành hai đặc điểm lớn, không chỉ ngày càng rõ ràng hơn mà còn đã trở thành một trào lưu phát triển kinh tế; Tức là, đối thoại và hợp tác là một lựa chọn duy nhất để cộng đồng quốc tế đối phó với những thách thức của thế kỷ 21; Còn tự do hóa thương mại - đầu tư và hội nhập kinh tế khu vực là con đường tối ưu nhất, hiệu quả nhất. Đứng trước hai chiều hướng này, bất luận là nền kinh tế phát triển hay nền kinh tế mới nổi đều có thể tìm thấy cơ hội giành thắng lợi riêng cho mình.
ANALYSIS: Taiwan closely watches Obama's China trip
Taipei - Taiwan is closely watching US President Barack Obama's trip to China, fearing that the United States
As Beijing TV runs a lengthy item about Barack Obama’s declining domestic popularity, the president does his best to boost his popularity with the Chinese in a US-style ‘townhall’ event
Obama in Asia: Five Things the U.S. and China Agree On----TIME
Obama in Asia: Five Things the U.S. and China Agree On----TIME
As the most powerful democracy and the most powerful authoritarian state, the U.S. and China are bound to clash -- but it's important also to consider where they are (mostly) in agreement
Obama in Asia: Five Things the U.S. and China Differ On--- TIME
When U.S. President Barack Obama meets Tuesday with Chinese President Hu Jintao, there are several trouble spots between him and his host, and the good relationship could erode if they aren't managed carefully
China's Economic Recovery: Miracle or Mirage?--- TIME
A billionaire hedge fund manager reportedly goes short on the emerging superpower, raising questions about China's future
Obama's Dilemma: Where Are the Afghan Security Forces?--- TIME The U.S. exit strategy in Afghanistan is based on transferring control to local forces. That is unlikely to happen anytime soon
Lãnh đạo đối lập Campuchia mất quyền miễn tố
Obama nhắc Trung Quốc về nhân quyền
Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ thăm VN
