Trần Gia Phụng – Diễn tiến biến động miền Trung
Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1-11-1963, Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ngày 26-10-1956 bị bãi bỏ. Không có luật căn bản quốc gia, các tướng lãnh tự do tranh giành quyền hành, liên tiếp gây nhiều binh biến, khiến cho tình hình VNCH không ngừng bị xáo trộn. Trong hoàn cảnh đó, một biến động chính trị rộng lớn bùng nổ cả ở Sài Gòn lẫn các tỉnh miền Bắc VNCH, mà trước khi đất nước bị phân chia, là miền Trung Việt Nam, nên dân chúng thường quen sự kiện nầy là Biến động miền Trung.
I. Nguyên nhân
Nguyên nhân trực tiếp đưa đến sự bộc phát Biến động miền Trung từ tháng 3 năm 1966 là vụ trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh quân đoàn I và Vùng I Chiến thuật, bị cách chức.
Nguyễn Chánh Thi nguyên là đại tá tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Ông tham gia cuộc đảo chánh chống tổng thống Diệm ngày 11-11-1960, nhưng thất bại. Ông lưu vong sang Phnom Penh (Nam Vang). Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, ông về nước ngày 16-11-1963. Một tháng sau, ông được cử làm tư lệnh phó Quân đoàn I, dưới quyền chỉ huy lúc đầu của trung tướng Đỗ Cao Trí, rồi của trung tướng Nguyễn Khánh kể từ sau tháng 1-1964.[1] Lúc đó Quân đoàn I chịu trách nhiệm an ninh các tỉnh thành Quảng Trị, Thừa Thiên, Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Ngày 30-1-1964, đại tá Nguyễn Chánh Thi vào Sài Gòn giúp trung tướng Nguyễn Khánh, thực hiện cuộc chỉnh lý, đưa Nguyễn Khánh lên cầm quyền. Trở về Quân đoàn I, Nguyễn Chánh Thi được cử làm tư lệnh Sư đoàn I Bộ Binh ngày 7-2-1964, rồi thăng chuẩn tướng ngày 29-5-1964.
Nắm được quyền lực, Nguyễn Khánh tìm cách củng cố địa vị, ban hành Hiến chương ngày 16-8-1964 tại Vũng Tàu nên thường được gọi là Hiến chương Vũng Tàu (HCVT). Hiến chương gặp nhiều chống đối, nhất là giới tín đồ Phật giáo và sinh viên học sinh. Các đảng phái như Đại Việt, Dân chủ Xã hội, Việt Nam Quốc dân Đảng đều lên tiếng công kích. Nhiều cuộc biểu tình xảy ra trên toàn quốc, mạnh nhất là ở Huế, Đà Nẵng và Quy Nhơn. Tại Huế, Hội đồng Nhân dân Cứu quốc do bác sĩ Lê Khắc Quyến thành lập, đả kích nặng nề HCVT. Cuối cùng, trong cuộc biểu tình lớn lao ngày 25-8-1964 tại Sài Gòn, Trung tướng Nguyễn Khánh xuất hiện và hô to khẩu hiệu: “Đả đảo Hiến chương Vũng Tàu”. Thế là HCVT bị dẹp bỏ.
Sau biến cố nầy, trung tướng Dương Văn Đức và thiếu tướng Lâm Văn Phát tổ chức binh biến ngày 13-9-1964 nhằm lật đổ Nguyễn Khánh. Một lần nữa, Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn giúp trung tướng Nguyễn Khánh dẹp cuộc “biểu dương lực lượng” nầy. Nguyễn Chánh Thi được thăng thiếu tướng ngày 21-10-1964 và trở thành tư lệnh Quân đoàn I ngày 14-11-1964.
Trong khi đó, sau những tranh chấp giữa các tướng lãnh, Hội đồng các tướng lãnh giao chính quyền cho phía dân sự. Phan Khắc Sửu được chọn làm quốc trưởng ngày 24-10-1964 và Trần Văn Hương làm thủ tướng ngày 31-10-1964. Chẳng bao lâu, Phan Huy Quát lên thay Trần Văn Hương ngày 16-2-1965. Ba ngày sau, thiếu tướng Lâm Văn Phát và đại tá Phạm Ngọc Thảo lại đảo chánh ngày 19-2-1965. Nguyễn Chánh Thi về Sài Gòn giúp chính phủ Phan Huy Quát, ổn định tình thế.
Vì cuộc tranh chấp giữa quốc trưởng Phan Khắc Sửu và thủ tướng Phan Huy Quát, quân đội trở lại nắm quyền. Ngày 19-6-1965, Đại hội đồng Quân lực thành lập Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (UBLĐQG) do trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch và Ủy ban Hành pháp Trung ương (UBHPTƯ) do thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch.
Riêng Nguyễn Chánh Thi, ông vẫn giữ chức tư lệnh Quân đoàn I và được thăng trung tướng tháng 10-1965. Vốn là người ngay thẳng, trung tướng Thi công khai chỉ trích những việc mà ông cho là bất công, tham những, nhất là ông nhắm vào hai tướng Nguyễn Văn Thiệu (quốc trưởng) và Nguyễn Cao Kỳ (thủ tướng). Vì vậy, trung tướng Thi gây nhiều tranh cãi đối với tập đoàn các tướng lãnh chính phủ trung ương.
Trong cuộc họp Đại hội đồng Quân lực tại bộ Tổng tham mưu ngày 11-3-1966, các tướng lãnh quyết định cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ phép, ra nước ngoài chữa bệnh mũi, mà theo tướng Thi trong hồi ký Việt Nam: một trời tâm sư, ông cho biết ông chẳng bị bệnh gì cả.
Ngoài ra, lúc đó có dư luận cho rằng trung tướng Thi bị loại ra khỏi chức vụ có thể còn vì một lý do khác. Nguyên vào ngày 1-12-1965, trung tướng Thi gởi thư lên chủ tịch UBLĐQG Nguyễn Văn Thiệu, chính thức đề nghị là Quân lực VNCH phải Bắc tiến, nắm thế chủ động trên chiến trường, mới có thể chiến thắng cộng sản.[2] Ông cũng công khai đề nghị như thế với người Mỹ.
Chủ trương nầy đã từng được Nguyễn Khánh đưa ra ngày 19-7-1964 và Nguyễn Cao Kỳ nhắc lại ngày 20-7-1965, gọi là “Ngày toàn dân đoàn kết chuẩn bị giải phóng miền Bắc”, nhưng không được người Mỹ chấp thuận. Nguyễn Cao Kỳ vội bỏ chủ trương nầy nên được người Mỹ tiếp tục ủng hộ. Nay trung tướng Nguyễn Chánh Thi kêu gọi thêm một lần nữa. Trung tướng Thi đang giữ chức tư lệnh Quân đoàn I kiêm tư lệnh vùng I Chiến thuật, vùng giáp ranh với Bắc Việt. Phải chăng việc nầy đi ra ngoài chính sách của người Mỹ, nên việc cách chức tướng Thi có liên hệ đến chuyện Bắc tiến và người Mỹ?
Không có tài liệu nào có thể xác quyết điều nầy, nhưng không phải tự nhiên mà ngay sau khi bị buộc nghỉ việc trong cuộc họp tại bộ Tổng tham mưu (11-3-1966), trung tướng Thi nhận được thư của đại tướng William Westmoreland cũng đề ngày 11-3-1966, nhân danh bộ Quốc phòng Mỹ, mời tướng Thi sang Hoa Kỳ chữa bệnh.[3] Sao lại có sự trùng hợp nhịp nhàng như thế?
Sau cuộc họp ngày 11-3-1966, trung tướng Thi bị giữ lại ở Sài Gòn. Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân, tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh được cử lên thay. Chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, chỉ huy trưởng Biệt động quân, ra Huế thay thiếu tướng Chuân.
II. Diễn tiến biến động
Biến động miền Trung năm 1966 có thể tóm lược qua bốn giai đoạn sau đây:
1. Cuộc tranh đấu phát khởi
Khi Đài phát thanh Sài Gòn thông báo quyết định của HĐQL cho trung tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ phép và ra nước ngoài chữa bệnh mũi, dân chúng Vùng I Chiến thuật hiểu ngay là trung tướng Thi bị cách chức. Đây là cơ hội thuận lợi để những phần tử vốn âm thầm chống chính phủ quân nhân bấy lâu nay, kích động và phát động các cuộc biểu tình chống đối.
Tức thì, ngày 12-3, cuộc biểu tình bộc phát tại Đà Nẵng, nơi Quân đoàn I đóng bản doanh. Cuộc biểu tình lan ra Huế ngày hôm sau 13-3. Người biểu tình càng ngày càng đông và đủ mọi thành phần: thanh niên, sinh viên, học sinh, công chức, tiểu thương, có cả quân nhân nữa. Đại đa số những người nầy là Phật tử. Những người biểu tình tổ chức thành Lực lượng Tranh thủ Cách mạng (LLTTCM). Những ngày sau đó, càng ngày biểu tình càng dữ dội. Lực lượng TTCM tổ chức tổng đình công, chiếm đài Phát thanh ở Huế cũng như Đà Nẵng.
2. Chính phủ điều đình
Trong khi biểu tình tiếp diễn, chính phủ trung ương kiếm cách thương thuyết, vừa tại vùng I Chiến thuật, vừa tại Sài Gòn. Ngày 16-3, chính phủ đưa trung tướng Nguyễn Chánh Thi ra Đà Nẵng để nhờ tướng Thi kiếm cách yên dân. Sự có mặt của tướng Thi làm cho tình hình êm dịu bớt. Ngày 1-4, chính phủ trung ương gởi trung tướng Phạm Xuân Chiểu ra điều đình. Nhóm biểu tình chống chính phủ giữ trung tướng Chiểu làm con tin một thời gian ngắn.
Tại Sài Gòn, ngày 17-3-1966, đại sứ Cabot Lodge (làm đại sứ lần thứ hai) gặp thượng tọa Thích Trí Quang, trong khi các tướng Thiệu, Kỳ gặp thượng tọa Thích Tâm Châu. Các lãnh tụ Phật giáo đồng ý ngưng biểu tình với điều kiện phía chính phủ giữ lời hứa tổ chức bầu cử và tiến đến chính phủ dân sự. Ngày 19-3-1966, Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) tuyên bố không chống đối chính phủ mà chỉ đòi hỏi bầu cử và thành lập chính phủ dân sự.[4] Tuy nhiên, các cuộc biểu tình vẫn tiếp diễn. Tại Sài Gòn, cuộc biểu tình tối mồng 2-4-1966 trước Đài phát thanh trở nên hỗn loạn.
Hôm sau, 3-4-1966, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch UBHPTƯ, tuyên bố là cộng sản đã xâm nhập vào các phong trào tranh đấu ở miền Trung và sẽ dùng võ lực để tái lập an ninh tại Đà Nẵng. Lời tuyên bố nầy làm cho cuộc tranh đấu bùng lên mạnh mẽ.
Ngày 5-4-1966, Nguyễn Cao Kỳ ra Đà Nẵng, đem theo hàng ngàn chiến binh bằng cầu không vận Mỹ, nhưng bị quân lính địa phương theo nhóm biểu tình ngăn chận, không cho ra khỏi phi trường. Vị chỉ huy Thủy quân Lục chiến (TQLC) Mỹ tại Đà Nẵng phải can thiệp, mới tránh đụng độ giữa hai bên.[5]
Lúc đó, thị trưởng Đà Nẵng (bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn) cùng tư lệnh Biệt khu Quảng Đà và Trung đoàn 51 Bộ binh (đại tá Đàm Quang Yêu), Địa phương quân, Nghĩa quân, Quân cảnh, công chức Đà Nẵng tuyên bố ly khai với chính phủ trung ương. Tại Huế, chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, trung tướng Nguyễn Chánh Thi cũng về theo pheo tranh đấu.
Ngày 8-4-1966, hai tiểu đoàn TQLC được gởi tiếp ra Đà Nẵng. Bộ Ngoại giao Mỹ phản đối và yêu cầu chính phủ VNCH giải quyết tranh chấp bằng thương lượng chứ không bằng quân sự.[6] Có thể vì vậy, thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ chưa quyết định tấn công và ngày 9-4. UBLĐQG cử trung tướng Tôn Thất Đính ra Đà Nẵng làm tư lệnh Quân đoàn I, thay thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân. Vài ngày sau, Tôn Thất Đính về phe tranh đấu.
Để làm êm dịu tình hình, ngày 12-4-1966, UBLĐQG triệu tập Đại hội Chính trị Toàn quốc, gồm chủ tịch các Hội đồng tỉnh và thị xã, đại diện các đoàn thể, đảng phái, đại diện các tôn giáo, nhưng Phật giáo và Ky-Tô giáo không dự. Trong ngày chót của Đại hội (14-4-1966), trung tướng Nguyễn Văn Thiệu công bố sắc luật số 14/66, tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến (QHLH) qua phổ thông đầu phiếu trong vòng từ 3 đến 5 tháng, theo đó QHLH có nhiệm vụ soạn thảo và biểu quyết hiến pháp VNCH. Đồng thời UBLĐQG chấp thuận 10 đề nghị dân chủ hóa của Đại hội. Hai quyết định nầy là một cách nhượng bộ kín đáo những đòi hỏi của phe tranh đấu nhằm dân chủ hóa đất nước, mà chính quyền không bị mất thể diện.
Sau những hứa hẹn nầy, phía Phật giáo tuyên bố tạm ngưng tranh đấu. Ngày 17-4-1966, thượng tọa Thích Trí Quang từ Sài Gòn ra Huế để dàn xếp và kêu gọi đình chỉ biểu tình. Tuy nhiên, một số phần tử cực đoan, và có thể có sự xúi giục của cộng sản, phản đối quyết định tạm ngưng nầy.
3. Chính phủ cương quyết tái lập an ninh
Vào đầu tháng 5-1966, thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ cho biết sẽ bầu cử QHLH vào tháng 10-1966 thay vì tháng 8, và chính phủ quân nhân sẽ cầm quyền thêm một năm nữa. Tức thì LLTTCM phản ứng, tổ chức biểu tình phản đối khắp miền Trung, tái chiếm đài phát thanh và các cơ sở khác. Lần nầy, với sự thỏa thuận ngầm của chính phủ Hoa Kỳ[7], thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ quyết định tái lập an ninh Đà Nẵng và Huế.
Chính phủ trung ương nhờ tàu vận tải Mỹ đưa 40 xe tăng và thiết vận xa đến Đà Nẵng ngày 14-5-1966. Ngày hôm sau 15-5, chính phủ gởi 5 tiểu đoàn Nhảy dù đến Quân đoàn I. Chỉ trong một giờ, quân Nhảy dù tái chiếm Đài phát thanh Đà Nẵng. Trung tướng Tôn Thất Đính chạy ra Huế.
Ngày 16-5-1966, thiếu tướng Huỳnh Văn Cao được cử ra Đà Nẵng làm tư lệnh Quân đoàn I. Hôm sau 17-5-1966, tại phi trường Phú Bài (Huế), Huỳnh Văn Cao bị thiếu úy Nguyễn Trọng Thức mưu sát, nhưng ông Cao thoát nạn nhờ viên xạ thủ trực thăng Mỹ bắn chết Thức. Sau biến cố nầy, Huỳnh Văn Cao xin nghỉ chức tư lệnh Quân đoàn I. Thiếu tướng Trần Thanh Phong tạm thay, cho đến khi thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Sư đoàn II Bộ binh, nhận chức tư lệnh Quân đoàn ngày 31-5-1966.
Chính phủ trung ương cử thiếu tướng Cao Văn Viên ra Vùng I Chiến thuật, chỉ huy cuộc tái kiểm soát Đà Nẵng và Huế. Khi quân Nhảy dù và TQLC xuất hiện, lực lượng ly khai yếu thế dần dần. Ngày 23-5, nhóm ly khai tại chùa Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng (trên đường Ông Ích Khiêm) buông súng. Thị trưởng Nguyễn Văn Mẫn bị bắt. Trung đoàn 51 Bộ binh bị chận lại ở phía nam Đà Nẵng. Đại tá Đàm Quang Yêu cũng bị bắt ngày 25-5-1966.
Trong khi đó, tại Sài Gòn, chính phủ trung ương triệu tập Đại hội Quân Dân ngày 24-5-1966 tại rạp hát Thống Nhất, gồm khoảng 1,000 đại diện quân đội, hội đồng tỉnh, thị xã, đảng phái, công chức, báo chí… để trình bày về tình hình Đà Nẵng và tình hình miền Trung.
Ngày 31-5-1966, một phái đoàn gồm 6 lãnh tụ Phật giáo do thượng tọa Thích Tâm Châu dẫn đầu, hội đàm với 6 tướng lãnh trong UBLĐQG. Ủy ban LĐQG hứa sẽ tổ chức bầu cử QHLH vào ngày 11-9-1966 và mở rộng UBLĐQG thêm 10 chính khách dân sự. Đó là các ông: Trần Văn Đỗ, Phạm Hữu Chương, Phan Khoang, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Ngọc Trân, Trần Văn Ân, Văn Thành Cao, Nguyễn Lưu Viên, Quan Hữu Kim, Huỳnh Văn Nhiệm. Ngày 6-6-1966, những chính khách dân sự dự họp lần đầu với UBLĐQG.
4. Bàn thờ Phật xuống đường
Ngày 26-5-1966, tại Huế diễn ra tang lễ thiếu úy Nguyễn Trọng Thức, người mưu sát bất thành thiếu tướng Huỳnh Văn Cao. Đoàn biểu tình đốt Phòng Thông tin và thư viện Hoa Kỳ tại Huế, tiêu hủy khoảng 5,000 quyển sách. Huế hoàn toàn hỗn loạn. Trung tá tỉnh trưởng Thừa Thiên kiêm thị trưởng thành phố Huế, phải dời văn phòng ra ngoại ô. Ngày 1-6-1966, cuộc biểu tình đập phá tiếp Tòa lãnh sự Mỹ tại Huế một lần nữa.
Trước áp lực của lực lượng chính phủ, thượng tọa Thích Trí Quang, lãnh tụ Phật giáo tranh đấu, tung ra biện pháp cuối cùng là yêu cầu đồng bào đưa bàn thờ Phật xuống đường ngày 6-6-1966 trong khắp thành phố Huế, để ngăn chận lối đi của quân chính phủ. Nhiều thành phố miền Trung cũng hưởng ứng chiến dịch nầy: Quảng Trị, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Đà Lạt, Ban Mê Thuột, Pleiku… Cần chú ý là lúc đó, không phải tất cả Phật tử đồng thuận với biện pháp đưa bàn thờ Phật xuống đường.
Ngày 8-6-1966, thượng tọa Thích Trí Quang tuyệt thực trước tỉnh đường Thừa Thiên, nhưng chưa đầy 24 giờ sau, Thích Trí Quang kiệt sức phải, vào bệnh viện. Quân Nhảy dù và TQLC đến Huế từ ngày 8-6, nhưng chưa dẹp bàn thờ Phật. Ngày 10-6-1966, một tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến (CSDC) được đưa ra Huế tăng cường. Ngày 16-6-1966, đại tá Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc An ninh Quân đội kiêm tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia, đích thân chỉ huy quân Nhảy dù và CSDC, khiêng bàn thờ trả lại dân chúng và nhà chùa, khai thông đường đi trong thành phố Huế.
Phe ly khai rút về chùa Diệu Đế, chùa Từ Đàm và vào trong thành Nội, hoàng thành nhà Nguyễn trước đây. Lực lượng Nhảy dù, TQLC và CSDC lần lượt giải tỏa dễ dàng ba địa điểm nầy vào các ngày 18 và 19-6-1966. Thượng tọa Thích Trí Quang được đưa vào Sài Gòn ngày 21-6-1966. Tại các tỉnh Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, phong trào tranh đấu tan rã nhanh chóng. Biến động miền Trung xem như chấm dứt.
III. Hậu quả
Số người chết và bị thương trong biến động miền Trung lên khá cao. Riêng tại Đà Nẵng, trong cuộc đụng độ đầu tiên giữa phe tranh đấu và lực lượng Nhảy dù ngày 15-5-1966, số người chết lên đến khoảng 150 người và số người bị thương lên khoảng 700 người.[8] Trong việc chính phủ đưa quân tái kiểm soát Huế, số người chết và bị thương không được biết, số người ly khai bị bắt là 190 quân nhân, 109 công chức, 35 nhân viên cảnh sát.[9]
Đại đa số những người tham gia biến động nầy là Phật tử, nhưng GHPGVNTN chưa có một hệ thống giáo quyền chặt chẽ để kiểm soát các tăng ni và Phật giáo đồ như giáo hội Ky-Tô giáo La Mã, nên những lãnh tụ Phật giáo không kiểm soát được phong trào Biến động miền Trung, và đôi khi bị cuốn hút theo phong trào.
Từ đó, Biến động miền Trung làm chia rẽ các lãnh tụ Phật giáo và làm suy giảm tiềm lực khối Phật giáo. Nguyên khi thượng tọa Thích Trí Quang phát động đợt tranh đấu cuối cùng vào đầu tháng 6-1966, các lãnh tụ Phật giáo ôn hòa ở Sài Gòn phản đối. Thượng tọa Thích Tâm Châu, sau khi tham dự hội nghị World Fellowship of Buddhists (Hội Thân hữu Phật tử Thế giới), trở về Sài Gòn ngày 29-5, thì Việt Nam Quốc Tự, trụ sở Viện Hóa đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống Nhất (GHPGVNTN), bị phe quá khích chiếm đóng. Bản thân Thích Tâm Châu bị đe dọa, phải bỏ Việt Nam Quốc Tự đi tỵ nạn. Thượng tọa Tâm Châu nhiều lần lên tiếng chống lại việc đưa bàn thờ Phật xuống đường.[10] Từ đó, hố chia rẽ giữa hai nhóm ôn hòa và quá khích càng ngày càng sâu rộng, làm cho khối Phật giáo yếu hẳn đi. Một lãnh tụ Phật giáo khác là thượng tọa Thích Thiện Minh bị thương nặng vì bị mưu sát ngày 1-6-1966, mà không tìm ra thủ phạm.
Chắc chắn Cộng sản Việt Nam (CSVN) không bỏ qua cơ hội để lợi dụng Biến động miền Trung, xúi giục những hành vi quá khích trong đám đông, nhằm phá hoại chính quyền, gây rối loạn xã hội và nhất là làm mất uy tín tổ chức Phật giáo, gây chia rẽ giữa Phật giáo với Phật giáo, giữa Phật giáo với các tôn giáo khác, với chính quyền và cả với người Mỹ.
Cần chú ý là CSVN rất lo sợ tất cả những tổ chức quy củ và có hậu thuẫn quần chúng. Ở Việt Nam, các tổ chức có hậu thuẫn quần chúng mạnh mẽ nhất chính là giáo hội các tôn giáo. Đối với tôn giáo, ngoài vấn đề triết thuyết và giáo lý, CSVN rất chú trọng đến sức mạnh quần chúng (tín đồ), thực lực của các tôn giáo. Cộng sản trên thế giới nói chung chống giáo hội Ky-Tô giáo vì sợ khối lượng tín đồ đông đảo của giáo hội nầy. Ở Việt Nam, sau năm 1945, vì lo sợ ảnh hưởng của Cao Đài giáo đối với nông dân miền Đông Nam Việt và ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo đối với nông dân miền Tây Nam Việt, nên CSVN đã tìm tất cả các cách để triệt hạ hai tôn giáo nầy.
Sau khi thành lập năm 1964, GHPGVNTN là giáo hội có khối lượng tín đồ đông đảo khắp nước, được hậu thuẫn rộng rãi, nhất là trong giới lao động và dân chúng nông thôn. Vì vậy, GHPGVNTN trở thành một sức mạnh chính trị đáng ngại đối với CSVN. Không thể đánh phá GHPGVNTN như đã từng hãm hại Đức thầy Huỳnh Phú Sổ và Phật giáo Hòa Hảo sau năm 1945, CSVN kiếm cách phá hoại và gây chia rẽ để cho GHPGVNTN phân hóa và yếu đi. Có như thế, CSVN mới giành được độc quyền lãnh đạo quần chúng.
Trong những cuộc biểu tình, phe tranh đấu đưa ra những biểu ngữ chống Mỹ, lại đốt Phòng Thông tin Hoa Kỳ tại Huế, làm cho người Mỹ càng thêm ủng hộ chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Khối Phật giáo Việt Nam cũng mất uy tín trước dư luận thế giới. Ngày 17-6-1966, Hội Phật giáo Thế giới tuyên bố không ủng hộ khối Phật giáo Việt Nam vì tăng ni hoạt động chính trị.[11]
Một hậu quả ít ai chú ý là sau khi chính phủ tái kiểm soát miền Trung, một số người, trong đó có thanh niên, sinh viên, học sinh, sợ bị chính quyền quân sự trả thù, đã “nhảy núi” năm 1966, tức lên miền rừng núi theo du kích cộng sản. Những sinh viên thanh niên nầy sau trở về Huế quấy phá và giết hại đồng bào trong biến cố Tết Mậu Thân vào đầu năm 1968.
Hậu quả trầm trọng nhất của Biến động miền Trung là chính phủ VNCH phải dồn sức để ổn định xã hội ở thành phố, khiến nỗ lực chống cộng bị suy giảm. Quân nhân ngoài tiền tuyến, nhất là quân nhân Phật tử không an tâm chiến đấu vì hậu phương bị xáo trộn. Nhờ thế, du kích cộng sản có cơ hội tăng cường hoạt động và phát triển ở nông thôn và miền rừng núi.
Cuối cùng, Biến động miền Trung vẫn đem lại một kết quả quan trọng về phương diện dân chủ hóa là đã thúc đẩy nhà cầm quyền quân sự nhanh chóng tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến ngày 11-9-1966, nhằm soạn thảo hiến pháp. Hiến pháp được ban hành ngày 1-4-1967, làm nền tảng cho nền Đệ nhị Cộng hòa Nam Việt Nam. Có tất cả 11 liên danh ứng cử tổng thống và phó tổng thống ngày 3-9-1967, trong đó liên danh quân đội của Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đã thắng cử. Tuy các ứng cử viên đối lập cho rằng cuộc bầu cử gian lận, nhưng “đa số trong 22 quan sát viên Hoa Kỳ và 93 quan sát viên của 21 quốc gia đều nhận rằng cuộc bầu cử có nhiều dấu hiệu tự do”.[12] Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy thì nhận định: “Cuộc bầu cử tổng thống năm 1967 có thể được coi là lương thiện và tự do.”[13] Có người cho rằng nếu phe dân sự biết đoàn kết thì có thể thắng cuộc bầu cử nầy.[14]
Kết luận
Tóm lại, Biến động miền Trung không phải là một biến cố địa phương mà là một sự kiện quan trọng có tầm vóc quốc gia. Đặt vụ Biến động miền Trung năm 1966 trong hoàn cảnh lịch sử đầy xáo trộn sau năm 1963, nguyên nhân sâu xa ban đầu của biến động là những đòi hỏi dân chủ hóa đất nước, thiết lập quốc hội lập hiến, trở lại chính phủ dân sự. Việc cách chức trung tướng Nguyễn Chánh Thi chỉ là cái cớ làm bùng nổ các cuộc biểu tình.
Biến động miền Trung tuy đã thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa VNCH, nhưng ngược lại Biến động miền Trung đã làm suy yếu GHPGVNTN và nhất là làm suy yếu tiềm lực của chiến đấu của Quân lực VNCH. Trách nhiệm sâu xa nhất về biến động nầy là những người muốn mưu cầu quyền lực bằng con đường không thông qua thể chế dân chủ. Trong khi đó kẻ có lợi nhất trong Biến động miền Trung không ai khác hơn chính là CSVN.
Nguồn: Trích Trần Gia Phụng, Việt sử đại cương tập 6.
© 2009 Trần Gia Phụng
© 2009 talawas blog
[1] Trước tháng 11-1963, thiếu tưóng Trí làm tư lệnh quân đoàn I, thiếu tướng Khánh làm tư lệnh quân đoàn II. Sau cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963, hai ông đều được thăng trung tướng và theo lệnh chính phủ mới, hai ông đổi chỗ nhau từ tháng 1-1964.
[2] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự. California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-32.
[3] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự. California: Nxb. Anh Thư, 1987, tr. 344.
[4] Chính Đạo, Tôn giáo và chính trị, Phật giáo 1963-1967, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 210.
[5] Stanley Karnow, Vietnam a History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 446.
[6] Chính Đạo, sđd. tr. 215.
[7] Chính Đạo, sđd. tr. 221.
[8] Chính Đạo, sđd tr. 220.
[9] Đoàn Thêm, 1966 Việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 119.
[10] Đoàn Thêm, sđd. tr. 115.
[11] Đoàn Thêm, sđd. tr. 116.
[12] Đoàn Thêm, 1967 Việc từng ngày, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr. 197.
[13] Hoàng Cơ Thụy trích dẫn, Việt sử khảo luận cuốn 6, Paris: Nam Á 2002, tr. 3339.
[14] Hoàng Cơ Thụy, sđd. tr. 3339.
Sau khi bài “Đôi điều với Liên Thành về Biến động miền Trung” được công bố rộng rãi trên diễn đàn báo chí, ông Liên Thành đã mời tôi trực tiếp đối chất với ông trên diễn đàn ra sách của ông tại Sacramento ngày 8-11-2009. Tôi cũng đã đáp lễ trả lời từ chối vì xét thấy chưa cần thiết.
Tiếp theo chỉ một ngày sau đó là chiến dịch i-meo tấn công và chụp mũ cá nhân tôi nổi lên ồ ạt và liên tục. Tất cả gồm một mớ i-meo vá víu lại thành một bài tạp lục đủ thể loại như kể chuyện, bình văn, ý kiến, vu vạ, bịa đặt… nhằm mạ lỵ đời tư, chụp mũ cộng sản. Tệ hại hơn nữa là sự ngụy tạo người quen, người thân, người đồng hương, người làng và thậm chí, ngụy tạo luôn cả thư “thú tội” của tôi bằng một lối viết dung tục hạ đẳng, nhằm gây mâu thuẫn chính trị và tôn giáo về cá nhân tôi.
Người cầm bút Việt Nam thường được ví như những nhà văn đứng giữa hai lằn đạn (writers caught in the crossfire). Nếu không nắm bắt được đâu là nguồn thông tin cần tham khảo học hỏi, và đâu là nguồn dư luận như ma quỷ hiện giữa ban ngày cần thản nhiên và vứt bỏ, thì có lẽ nên chọn một thú tiêu dao nào khác đầy sương khói và mơ mộng hơn là viết chuyện đời thường.
Khi viết tới những dòng nầy, tôi liên tưởng tới một luận điểm trong thư mời tranh luận của ông Liên Thành gởi cho tôi. Đó là điểm ông xác định thái độ khinh bỉ và ghê tởm đối với những con chuột chui rúc, đục khoét, tung vãi những nguồn thông tin láo khoét và xuẩn động: Không dám ra mặt ngoài ánh sáng để nói với nhau ba mặt một lời mà ươn hèn đặt điều trong bóng tối.
Giới lừa bịp đã coi thường và đánh giá công luận quá thấp vì nhầm lẫn thời điểm truyền thông đại chúng chính xác và nhanh như chớp mắt hôm nay với thời kỳ rỉ tai, đồn miệng, phóng uế ngoài ngõ… thời Ba Giai Tú Xuất còn đi quanh chọc cười thiên hạ.
Ma giữa ban ngày
Đọc những email mà tôi vừa gọi là “chùm thư hổ lốn” nói trên, tôi thấy vừa quen quen, vừa là lạ. Quen vì bắt gặp toàn người thật, việc thật. Nhưng lạ vì sự biến ảo tài tình nói không thành có. Những nhân vật đều là những người thật bằng xương, bằng thịt mà lại là ma; những sự việc hoang tưởng lại hóa ra như thật.
Hiện tượng ma hiện giữa ban ngày không phải là chuyện đồng bóng phù thủy thời xa xưa mà đang xảy ra lồ lộ ngay trên xứ Huê Kỳ ở thế kỷ 21. Số là chuyện như vầy:
Ở làng Hương Cần, quả thật, có Nguyễn Văn Lũy là huynh trưởng Gia đình Phật tử, có Nguyễn Ánh là xã đội trưởng, có người làng tên Nguyễn Phi là em bà con với Nguyễn Văn Lũy, có Cao Văn Nhớ ở xóm Giữa, có Trần Kiêm Đoàn là người làng Liễu Cốc Hạ sát nách Hương Cần. Và, sau 1975, có lắm việc lao động tập thể như việc thanh niên đi vác Gi sắt để làm sân khấu văn nghệ tuyên truyền. Thôi thì cứ tạm tưởng tượng như là có một sân khấu văn nghệ như thế. Việc vác vật liệu xây dựng sân khấu là người thật việc thật, nên khai thác chuyện nầy là tạo được sự chú ý và tin tưởng của người ngoài đối với người trong cuộc. Sân khấu mở màn. Tất cả người và việc hiện ra sống động mà ai cũng hình dung được. Trong khung cảnh đó, chỉ cần tưởng tượng để ngụy tạo ra một Trần Kiêm Đoàn hay một thầy tu, một nhân vật Ất Giáp Bính Đinh nào đó… mang dép râu, đội nón cối, lên sân khấu “chửi Mỹ Ngụy” thì thật là vừa vặn cho tâm lý tò mò theo bén gót Tôn Ngộ Không vào động Hoa Sơn tìm yêu quái. Tuy là sản phẩm của tưởng tượng, nhưng có sức thuyết phục cao vì đánh động vào nhu cầu tò mò của người đọc. Kẻ bị ngụy tạo hay quần chúng hoài nghi không cách nào chứng minh được. À, nhớ ra rồi! Tôi cảm thấy tiểu xảo nầy quen quen vì hầu như nội dung của tập sách Biến động miền Trung đã được xây dựng trên thủ pháp của người và ma trong mê hồn trận “tình báo” thông tin như thế. Tuyệt vời! Chính bà xã tôi, người đã sống bên cạnh tôi hơn 40 năm mà cũng phải thốt lên: “Thiệt tài tình quá! Nếu em không phải là vợ anh thì em cũng cho những điều bịa đặt về anh là thật, hay ít lắm thì cũng hoang mang nghi ngờ không biết anh có hành động như thế hay không. Chỉ tội cho người không có làm mà bị hàm oan hoặc đã chết, hoặc không muốn nói hay không thể tự mình nói lên tiếng nói bạch hóa cho sự chụp mũ bất lương đó. Nếu có ai đó mà bị buộc tội xâm phạm tình dục theo lối thông tin tình báo nầy thì chỉ có cái mền, cái gối có mắt có tai và biết nói năng thì may ra mới lên tiếng minh oan được cho kẻ hàm oan bị ném hỏa mù.”
Trong chùm thư hổ lốn – nhưng cực kỳ ma mãnh và tinh xảo theo lối “thông tin tình báo” – vừa nói ở trên, những kẻ ngụy tạo thông tin đã tạo ra hai “nhân chứng sống” được dàn dựng lên như người thật, nhưng chỉ là bóng ma hiện giữa ban ngày đã ném hỏa mù làm dư luận bên ngoài chẳng biết đâu là chân, đâu là giả. Trường hợp hai nhân vật Nguyễn Phi và Cao Văn Nhớ trong chiến dịch… công đồn đả viện Trần Kiêm Đoàn tôi cũng nằm trong ma thuật nầy.
Đúng là có anh Nguyễn Phi, em họ của anh Nguyễn Văn Lũy, liên đoàn trưởng Gia đình Phật tử Hương Cần đồng thời với tôi là liên đoàn trưởng GĐPT Liễu Hạ (1962-1967) cùng thuộc hệ thống liên GĐPT Hương Cần. Anh Nguyễn Phi là một sĩ quan quân lực VNCH đã bị đi tù sau 1975, được qua Mỹ theo diện H.O và hiện đang định cư tại thành phố San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ (điện thoại: 408-287-1386).
Đúng là có anh Cao Văn Nhớ, người làng Liễu Cốc Hạ ở cách nhà tôi một xóm. Anh Cao Văn Nhớ, hiện đang còn ở tại làng Liễu Cốc Hạ và đang làm nhân viên trật tự tại quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên (điện thoại nhà: 054-355-7383; điện thoại cầm tay: 0932446266).
Cả hai anh đều ở độ tuổi lục tuần. Sau khi liên lạc và kiểm chứng trực tiếp, cả hai anh đều cho biết là họ chỉ lo sống làm ăn thầm lặng, hoàn toàn không để ý đến chuyện thị phi bên ngoài. Cả hai người đều xác nhận rằng, chưa bao giờ nói với ai hay viết một điều gì về Trần Kiêm Đoàn, về tôn giáo chính trị gì cả.
Nói tóm lại là cơ quan “tình báo thông tin” khuông phò Biến động miền Trung đã ngụy tạo đủ các loại thư email: Thư chụp mũ Việt cộng, thư dựng chuyện bôi xấu đời tư, thư mạ lỵ tục tằn, thư chia rẽ tôn giáo, thư gây hoài nghi cho gia đình bà con dòng tộc… của tôi. Những con ma xó ấy còn ngụy tạo luôn cả thư “tự thú đủ thứ tội” của Trần Kiêm Đoàn gởi Nguyễn Phi và thân hữu!
Với sự phán xét thông thường của công luận thì “một điều bất tín, vạn sự không tin”, nên đến đây có thể phủi tay ném tất cả những mớ thư nặc danh và mạo danh chụp mũ ấy vào sọt rác. Đồng thời, có đủ chứng lý để tố cáo trước pháp luật phường tội phạm mạo danh, bịa chuyện mạ lỵ và hãm hại người vô tội sau khi thẩm tra IP để truy nguyên nguồn gởi. Tuy nhiên, tôi vẫn thấy có trách nhiệm phải đi ra khỏi cái vòng lẩn quẩn “ma hiện giữa ban ngày” đó, vì những điều tôi viết là để mong tránh được viễn ảnh phân hóa cộng đồng, ngăn ngừa khả năng chia rẽ tôn giáo và gây hoang mang dư luận chứ không phải viết để thỏa mãn nhu cầu viết lách tiêu khiển cho cá nhân mình.
Nhóm tạo huyền thoại “ma giữa ban ngày” đã manh động biến người thật thành bóng ma để “làm chứng” cho hoạt động ma nhằm tấn công một Trần Kiêm Đoàn là người thật. Dùng người ma và việc ma gán tội lên đầu người thật mà không cách gì để chứng minh “giải tội” được là tội ác ghê rợn nhất của tập đoàn Stalin đã sử dụng để kết tội, đày ải và giết chết hàng triệu người ở Tây Bá Lợi Á; lẽ nào lại tái hiện ban ngày ban mặt hôm nay?!
Nhưng đây là thế kỷ 21, là ngã tư của thế giới, là thời kỳ khoa học kỹ thuật hiện đại phục vụ con người được thấy và tìm thấy sự thật.
Những sự thật sau đây thuộc về đại chúng vì bất cứ ai thắc mắc cũng có thể tìm thấy và đối chứng dễ dàng. Về số điện thoại của các nhân vật liên hệ, xin vui lòng chỉ sử dụng trong trường hợp cần đối chứng.
Sau đây là phần trả lời ngắn gọn về những Thắc mắc đã nêu ra:
1. Thắc mắc: Thân phụ của tôi là liệt sĩ cộng sản? – Sai!
Ông cụ là lính thợ thời Pháp thuộc ở đồn Tòa Khâm. Sau ngày Nhật đảo chánh năm 1945, ông về quê, ngã bệnh và mất năm 1948, chẳng dính dấp tơ hào nào về chuyện chính trị cả.
2. Thắc mắc: Tôi dính líu với phong trào học sinh sinh viên tranh đấu Huế? – Sai!
Tại Việt Nam trước 1975, tôi là huynh trưởng của Gia đình Phật tử Liễu Hạ (thuộc làng Liễu Cốc Hạ). Tôi không đi lính vì có hai ông anh tại ngũ và có mẹ già nên tạm được hoãn dịch gia cảnh để đi học.
Tự xem mình là một Phật tử độc lập, tôi không ở trong một môn phái hay giáo hội nào của Phật giáo cả. Tôi theo con đường của Phật dạy là lấy pháp giới làm phương tiện nhưng phải tự mình thắp đuốc lên mà đi. Tôi là đệ tử của Ôn Châu Lâm tức là Hòa thượng Thích Viên Quang (1893-1976), được ngài đặt cho pháp danh Nguyên Thọ. Tôi học ở Thầy về ngôn giáo thì ít mà thân giáo thì nhiều. Sau nầy, tôi đã lấy hình ảnh Thầy Châu Lâm để xây dựng cho nhân vật Thầy Tiều trong tác phẩm Tu bụi.
Tôi tham gia phong trào tranh đấu Phật giáo năm 1963 đòi tự do và bình đẳng tôn giáo. Nhưng khi cờ Phật giáo đã tung bay trở lại bình đẳng với các tôn giáo bạn, khi lần đầu tiên có nha tuyên úy Phật giáo cho các chiến sĩ VNCH theo đạo Phật nằm xuống song song với nha tuyên úy Công giáo ở miền Nam, tôi hoàn toàn trở lại với việc sách đèn và không còn tham gia vào hoạt động phong trào nào khác.
3. Thắc mắc: Sau 1975 tôi được CSVN trọng dụng? – Sai!
Tháng 9-1975, tôi làm phó ban điều hành trường Nguyễn Tri Phương, Huế, phụ trách chia thời khóa biểu và sinh hoạt thanh niên nhà trường vì là “thanh niên trắng” (không đi lính, dưới 30 tuổi). Hai tháng sau, ông Lê Huy Linh từ Bắc vào thay thế phụ trách thanh niên, tôi chỉ còn làm giáo vụ. Trưởng ban điều hành trường là ông Dương Văn Lộc, trung úy VNCH biệt phái; phó ban là ông Nguyễn Văn Tám cũng là thiếu úy VNCH biệt phái. Tháng 7-1977, tôi bị đuổi dạy vì trước 1975 làm việc cho Peter Downs, trong lúc tất cả giáo chức miền Nam vẫn còn được ở lại dạy học.
4. Thắc mắc: Sau 1975 tôi đội nón cối và mang xắc cốt về làng lên sân khấu chửi Mỹ Ngụy? – Sai!
Tôi làm việc ở trường học thành phố Huế, mắc mớ gì lại lên sân khấu nói chuyện chính trị ở làng. Nguyễn Phi đi lính ở miền Nam và đi tù ở miền Nam ngay sau 1975, năm năm sau mới được thả. Tôi bị đuổi dạy năm 1977, nghĩa là nếu giả thử có “lên sân khấu làng” nói năng điều gì đó như Nguyễn Phi (ma) đề cập, thì chỉ xảy ra trong vòng 2 năm khi chưa mất quyền công dân mà thôi. Nếu thế thì Nguyễn Phi làm sao lại vừa đi vác Gi sắt làm sân khấu cho xã đội trưởng Nguyễn Văn Ánh ở Hương Cần, lại vừa ở tù tận trong Nam (xin kiểm chứng với ông Nguyễn Văn Lũy, hiện vẫn còn ở tại làng Hương Cần, người anh mà Nguyễn Phi nói đến trong thư: Điện thoại nhà: 054-506-100. Điện thoại cầm tay: 84-913-439-073).
5. Thắc mắc: Tôi bị thường xuyên nhận diện là đi xe Honda màu đỏ, nhà ở Tây Lộc? – Sai!
Tôi chỉ có một xe Honda xanh từ 1966 đến 1982 bỏ ở làng Hải Nhuận để vượt biên. Tôi chưa bao giờ có nhà hay cư trú ở Tây Lộc cả.
6. Thắc mắc: Ông Trần Kiêm Mai, “bác” họ tôi đang ở Fullerton mắng tôi là “láo khoét” và ông Trần Kiêm Trợ, “chú” tôi ở Sacramento từ tôi vì tôi là VC? – Sai!
Ông Trần Kiêm Mai là anh tôi chứ không phải bác. Anh em chúng tôi thương nhau như bát nước đầy; anh TKM nhiệt tình tán thưởng tất cả sách vở và bài viết của tôi từ trước đến sau (điện thoại ông TKM: 714-495-8474 hay 714-512-9233). Trần Kiêm Trợ là cháu của tôi chứ không phải là chú. Chú cháu chúng tôi thân thương và kính nể nhau cả thành phố Sacramento đều biết (điện thoại TKT: Cầm tay: 916-230-1831. Nhà: 916-691-2171).
7. Thắc mắc: Tôi gả con gái cho cán bộ báo chí cộng sản và kỳ thị tôn giáo? -Sai!
Con rể tôi là Nguyễn Hùng, một thanh niên Công giáo có thân phụ là trưởng Cần lao Nhân vị Quảng Trị thời tổng thống Ngô Đình Diệm. Hùng sống với chú ruột là linh mục NVN suốt thời mới lớn; hiện đang làm việc cho chính phủ tiểu bang California (muốn kiểm chứng xin mời đến nhà thờ Các Thánh Tử Đạo tại Sacramento vào mỗi sáng Chủ nhật để gặp Hùng, người phụ trách các lớp Việt ngữ cho nhà thờ). Khuynh hướng chủ đạo về tôn giáo của tôi rất cởi mở và thông thoáng. Tôi quan niệm đạo là con đường để dẫn đến chân lý chứ không phải là pháo đài để tấn công nhau giành độc quyền đi tìm chân lý. Bởi vậy, hai trong ba chàng con rể của tôi là người Công giáo. Lễ cưới cử hành tại chùa và nhà thờ rất hài hoà và trang trọng với sự tham dự của bà con thuộc cả hai tôn giáo.
8. Thắc mắc: Muốn đối chứng với “Nguyễn Phi” thì gặp BS Hồ Đắc Phương, cháu rể của tôi ở Sài Gòn? – Sai!
Hồ Đắc Phương chẳng biết ai tên là Nguyễn Phi cả. Nguyễn Phi thật ở San Jose đã không nhịn cười được khi nghe tin nầy. Anh lấy làm lạ hỏi vì sao muốn đối chứng với ông Nguyễn Phi giả nào đó lại phải đi gặp bác sĩ chuyên trị bệnh thần kinh Nguyễn Đắc Phương ở Sài gòn là thế nào; muốn chữa bệnh điên chăng?
9. Thắc mắc: Bài thơ “Về Nguồn” ca tụng sự trở về Việt Nam của Phạm Duy? – Sai!
Bài thơ “Về nguồn” làm theo lối cổ phong hát nói, thường hai câu kết luận là ý xương sống toàn bài. Đây là hai câu kết luận: “Qua hết tuần trăng, bóng tối lại về.” Không lẽ “bóng tối lại về” là sự ca tụng chế độ CS, ca tụng sự trở về của PD sao? Tội nghiệp cho thơ tôi thì ít mà tội nghiệp cho sự khập khiễng hồn thơ của những “ma quỷ chống cộng tào tháo” lại nhiều!
10. Thắc mắc: Tôi về đọc tham luận tại Việt Nam và Vesak, tham dự hội nghị Việt Kiều? – Sai!
Tôi chưa bao giờ đọc tham luận một mình hay hợp tác với ai ở Việt Nam cả. Tôi cũng chẳng để ý hay quan tâm đến hội nghị Việt Kiều hay sinh hoạt gì tương tự ở Việt Nam hay bất cứ ở đâu.
11. Thắc mắc: Tôi có khuynh hướng thân cộng? - Sai!
Năm 1986, tôi được anh chị em sinh viên đại học CSUS (California State University of Sacramento) bầu làm chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam (VSA). Nhu cầu xác định khuynh hướng chính trị tưởng như mơ hồ nhưng lại thể hiện rất mạnh mẽ khi đối diện với thực tế. Việc đầu tiên của VSA, theo luật lệ của nhà trường, là phải có một giáo sư cố vấn cho Ban chấp hành. Từ các năm học trước, giáo sư cố vấn là một giáo sư Việt Nam trong trường. Tôi cùng các anh em trong ban chấp hành đến tiếp xúc với vị giáo sư người Việt đó để mời làm cố vấn. Giáo sư đồng ý nhưng với điều kiện là trong các buổi sinh hoạt, VSA không được chào cờ và hát quốc ca (thật ra, đây là nếp sinh hoạt chung của sinh viên Mỹ chứ chẳng phải là thái độ chính trị gì cả). Tôi từ chối với lập luận rằng, hồn nước của kẻ tha hương chỉ còn chút biểu tượng là lá cờ. Chúng tôi ở miền Nam chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu tượng. Tôi quyết định không mời vị giáo sư nầy nữa và đi tìm một giáo sư người Mỹ là Dr. Richard Cobb, trưởng khoa Business của trường CSUS làm cố vấn vì ông không phản đối việc VSA chào cờ và hát quốc ca mỗi lần sinh hoạt.
Những năm 1987 và 1988 tại Mỹ mà nổi bật nhất là ở California, một phong trào nổi lên đòi thay đổi cờ vàng 3 sọc đỏ và chọn bài “Việt Nam-Việt Nam” của Phạm Duy làm quốc ca thay cho bài “Tiếng gọi sinh viên” của Lưu Hữu Phước. Tôi đã mạnh mẽ phản đối khuynh hướng nầy. Bài chính luận đầu tiên của tôi trên đất Mỹ về đề tài nầy là bài “Quốc Ca: Tín hiệu hay pháp lệnh” góp ý rằng, mặc dầu khối người Việt tỵ nạn cộng sản tuy không còn lãnh thổ và chính quyền, nhưng vẫn còn những con người quốc gia không cộng sản hiện diện, chúng ta phải duy trì cờ vàng ba sọc đỏ và quốc ca “Này công dân ơi” làm tín hiệu và biểu tượng cho quân dân miền Nam đang lưu vong ở xứ người. Bài viết nầy lần đầu đăng trên Giai phẩm Bách Việt số 2 tháng 4, 1988 của hội Bách Việt, và sau đó được phổ biến rộng rãi trên các báo chí Việt ngữ hải ngoại. Những người trong ban chấp hành Hội Bách Việt thời kỳ 1987, 1988 như bác sĩ Hoàng Gia Hùng, ông Vũ Đình Bôn, ông Huỳnh Hóa, ông Vũ Xuân Đào, ông Lê Thành Việt, ông Đặng Long Quân, ông Nguyễn Lam Sơn… hiện đang có mặt tại thành phố Sacramento. Trong cao trào vận động chính quyền các nước tự do vinh danh cờ quốc gia, tôi là người thứ 3 ký tên trong Thỉnh nguyện thư tại Sacramento gởi chính quyền Hoa Kỳ. Vì đây là bản văn công khai nên bất cứ ai cũng có thể ghé văn phòng lưu trữ văn thư của tiểu bang Cali để yêu cầu sao lục và đối chứng danh sách nầy.
12. Thắc mắc: Chủ trương in ấn và phát hành sách báo không được xác định rõ ràng? – Sai!
Suốt gần 30 năm sống và làm việc tại Mỹ, tôi đã có gần cả chục đầu sách, gần cả trăm bài viết và các cuộc thuyết trình trước cử tọa người Việt cũng như người nước ngoài về các vấn đề liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến Việt Nam. Trọng tâm là về các đề tài văn hóa, giáo dục, văn học, nhân chủng, chính trị, tôn giáo… Đa số các cuốn sách hay bài viết đã đăng trên báo chí Việt ngữ và Anh ngữ hay còn được giữ dưới dạng hồ sơ lưu trữ. Trong các tài liệu nầy, tôi chỉ có 3 điều chính để nói: (1) Vinh danh và giới thiệu văn hóa dân tộc Việt Nam, (2) chống độc tài, áp đặt và ngược đãi bất cứ từ đâu đến và mang bất cứ nhãn hiệu nào, (3) kêu gọi sự hiểu biết nghiêm túc để hóa giải nguyên nhân và hậu quả những xung đột về tư tưởng cũng như hành động.
Về kỹ thuật và phương tiện truyền thông đại chúng, tôi quan niệm rằng, sản phẩm trí tuệ khi đã được viết ra và công bố dưới bất cứ hình thức nào đều trở thành tài liệu công cộng. Bởi vậy, tất cả những sách báo đã in ấn của tôi đều ở dạng “tùy nghi sử dụng, tác giả không giữ bản quyền – No copyright reserved”. Đồng thời, tác giả là người chịu trách nhiệm về nội dung bài viết của mình chứ không phải nhãn hiệu của phương tiện truyền thông.
Khi những bóng ma đã cố tình sử dụng hết những chiêu thức tưởng tượng để phóng ra những đòn phép bôi lem người ngay thì sẽ sản xuất ra vô số “thắc mắc”, 12 điều trưng dẫn trên đây chưa thấm vào đâu. Tôi tin vào đạo lý của con người “thiện ác đáo đầu chung hữu báo” nên rất thanh thản và an lạc trước mọi sự khen chê, thản nhiên về những đòn phép gian tà đang và sẽ xảy ra trong môi trường truyền thông đại chúng. Tạm thời, tôi chỉ mong dư luận nếu muốn biết những khía cạnh liên quan đến quan điểm và khuynh hướng chính trị, tôn giáo, xã hội, học vấn, việc làm… của tôi thì xin vui lòng ghé vào trang thông tin điện tử của tôi ở địa chỉ: www.Trankiemdoan.net
Kết luận
Thế hệ già đang đi qua, thế hệ trẻ đang tới. Nếu thế hệ đàn anh không tự giúp mình và giúp nhau ngoi lên được khỏi cái vòng lẩn quẩn của tâm lý cực đoan, không định hướng, chụp mũ, chống báng, chối bỏ nhau, thế hệ đàn em sẽ trở thành người xa lạ với lý tưởng quốc gia dân tộc mà chúng ta đang ra sức đấu tranh. Người Việt mà nhất là tuổi trẻ ở nước ngoài càng lâu càng có khuynh hướng trở thành “con cháu ngoại” của đất nước và cộng đồng dân tộc tại địa phương mình ở. Có tương kính và tương thân thì tham gia sinh hoạt với “người mình”. Ngược lại, thì sinh hoạt với người xứ khác chẳng thiếu gì trong xã hội Mỹ. Sự tha hóa hay giữ được giống nòi nơi đất khách là trách nhiệm của cộng đồng và thế hệ đàn anh.
Duy thức học Phật giáo trong quá trình phân tích cuộc đấu tranh thiện ác trong tâm thức của mỗi con người đã nói rằng, xung đột nên hóa giải, định kiến nên buông bỏ, hoài nghi nên giải trừ thì tâm ác sẽ tiêu tan, tâm lành mới hiển lộ; cũng như chỉ có ánh sáng mới xua tan bóng tối. Ước mong những con ma sớm trở lại làm người – mẫu người lương thiện.
Sacramento, tháng 11, 2009
© 2009 Trần Kiêm Đoàn
© 2009 talawas blog