Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2010

Chuyện khôn dại và Sống

Ừ thì cũng đã nghe rồi, khôn cũng chết, dại cũng chết, ...nhưng liệu có phải biết mới sống không ...????

Việc LCD chỉ bị có 5 năm, hẳn là ứng vào câu, biết thì sống, đã biết 'play the game'.

Còn THDT bị tới 16 năm do hăng say tranh cãi chăng ???? Đâu có ai muốn tranh cãi với THDT đâu !!! Dù sao nhờ có sự tương phản này mà mọi người nhận rõ tính 'kịch' của cái gọi là xét xử .....

Những gì ngoài lề sau này được báo CA đưa tin đã giúp người đọc hiểu họ muốn nói gì...
ừ, thì 4 người này có gì là 'tinh hoa', hihi, liệu có thể bấm độn xem sẽ bị kết án bao năm ??? hihi, ra tòa còn bị chọc quê đến vậy ???? Hay là, muốn lật đổ thì liệu có cái nhìn vĩ mô không ? có biết xây nhà không ???? ...
Dù sao, cũng phải nói tới các khát vọng thay đổi của họ chứ ? CHANGE WE NEED !
Chắc là nói change là có người khó chịu .



------
Cái nhìn khác:

“Xây dựng” Lê Công Định thành tâm điểm của vụ bắt bớ là chủ ý của Công an Việt Nam

Lê Nguyên Hồng – Thành viên Khối 8406 Việt Nam
Phiên toà ngày 20/01/2010 tại Sài Gòn - Ảnh: BBC
Ledienduc’s Blog: Hai bài viết của tôiNhững nhà dân chủ thích sống nhụcNhững hiệp sĩ thực thụ và những `anh hùng’ ngã ngựađã được rất nhiều bạn đọc quan tâm và có nhiều ý kiến đóng góp, công khai trên diễn đàn có mà gửi theo địa chỉ email cũng nhiều.
Là một người viết báo công khai, độc lập, tôi luôn bảo lưu và chịu trách nhiệm nghiêm túc về chính kiến của mình đưa ra trong các bài viết, tôn trọng tuyệt đối những nguyên tắc cơ bản về đạo đức truyền thông trong sáng.
Tuy nhiên, không phải bao giờ các nhận định của tôi trước các sự kiện xảy ra cũng được ủng hộ, ngược lại, nhiều khi còn bị phê phán, nặng nhẹ tuỳ theo từng thời điểm và nội dung bài viết.
Tác giả Lê Nguyên Hồng viết cho tôi như sau: “Nói chung, có người cho rằng anh phê phán hơi nặng Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung. Nhưng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của anh trong hai bài viết ấy. Lẽ ra hai vị “anh hùng” nói trên còn phải bị chỉ trích nặng hơn vì họ đã thực sự công khai phản bội lại đồng đội của mình. Thật là không công bằng khi có nhiều người đã bênh vực hai người này (trong đó có tôi)… Trá hàng hay bỏ ngũ thì tạm có thể chấp nhận được, nhưng những kẻ phản bội thì phải cần bị lên án!”.
Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả bài “Những ai thất bại?” của ông Lê Nguyên Hồng” dưới đây.
Theo tôi, đây là một bài viết với những phân tích cụ thể, nghiêm túc, là bài học kinh nghiệm quý báu đối với phong trào tranh đấu cho dân chủ, tự do tại quốc nội.
Tựa bài trên Ledienduc’s Blog do tôi đặt.
Lê Diễn Đức

****

Những ai thất bại?

Nhắc đến chuyện thất bại, ai ai cũng không bao giờ muốn điều đó đến với mình, nhưng đôi khi những gì ta không thích, nó vẫn cứ đến. Nếu thất bại mà chưa được xác định bằng hai chữ “hoàn toàn” thì vẫn còn có cơ hội làm lại. “Thua keo này ta bày keo khác”, người xưa muốn nhắn nhủ chúng ta rằng, đừng bao giờ nên nản chí!
Có lẽ là chưa bao giờ một việc xảy đến cho một vài cá nhân đấu tranh chống cộng sản ở Việt Nam lại được nhiều người, nhiều tổ chức quan tâm như vụ công an Việt Nam bắt giam các ông Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Lê Công Định (LCĐ). Chỉ trong khoảng hơn môt tuần lễ, các tin tức xuất phát từ báo chí của nhà nước CSVN đã khơi mào cho một “phong trào viết về Lê Công Định” của báo chí tự do. Hàng loạt bài viết, bài bình luận của những tác giả công khai tên tuổi thật, và rất nhiều tác giả chỉ dùng bút danh, đã bày tỏ quan điểm của mình về việc luật sư Lê Công Định bị bắt giam. Người ta gần như quên mất rằng, trong vụ bắt bớ này còn có hai vị đều có trình độ học vấn tương đương với LCĐ, thậm chí ông Trần Huỳnh Duy Thức còn là “chị ba” tức là về mặt thứ bậc trong tổ chức của nhóm này, ông ta cao hơn LCĐ.
Đối với ông Lê Thăng Long, dư luận cũng không biết gì nhiều hơn là ông ta cùng tốt nghiệp đại học Bách Khoa với ông Trần Huỳnh Duy Thức ở Sài Gòn. Thái độ của ông Lê Thăng Long ra sao trước việc bị bắt, không ai biết, báo chí của nhà nước CS cũng chỉ nhắc sơ qua là bắt ông Lê Thăng Long vào ngày 04/06/2009. Công an cũng không đưa ra được một bằng chứng nào về việc ông Lê Thăng Long đã nhận tội. Riêng ông Trần Huỳnh Duy Thức, thì báo CAND có đưa tin kèm theo việc LCĐ đã nhận tội, là ông ta cũng đã nhận tội (?).
Ngay từ ngày 13/06/2009 báo CAND đã vô tình tiết lộ về thái độ của ông Trần Huỳnh Duy Thức trong bài “Bắt Khẩn Cấp Luật Sư Lê Công Định” như sau: “Trần Huỳnh Duy Thức khi bị an ninh điều tra thực hiện lệnh bắt, khám xét thì đã có những lời lẽ coi thường luật pháp, xấc xược và bất hợp tác”.
Như vậy là đã rõ, Ông Trần Huỳnh Duy Thức đã có thái độ kiên quyết phản ứng trước vụ băt bớ này. Tuy chưa hề từng bị công an bắt bớ một lần nào, nhưng thái độ dũng cảm không hề sợ hãi của ông Trần Huỳnh Duy Thức đã được chính công an thừa nhận. Tuy báo chí quốc doanh nói là Trần Huỳnh Duy Thức đã nhận tội, nhưng họ đã không thể đưa ra một bản tường trình, hoặc một giấy tờ gì minh chứng cho việc này.
Theo suy luận, trái với trường hợp LCĐ, công an đã không có được điều họ muốn từ ông Trần Huỳnh Duy Thức. Và như vậy, chúng ta đã có cơ sở để ca ngợi “Chị Ba” là người có đủ dũng khí đấu tranh!
Riêng đối với ông Lê Công Định, không hiểu có một duyên cớ gì mà người ta cứ “thích” nhắc đến tên ông ta?

Lê Công Định trước toà án hôm 20/01/2010 - Ảnh: OnTheNet
Mọi chuyện cũng lại bắt đầu từ báo CAND của nhà nước CSVN. Tựa đề các bài viết của họ đều đưa cái tên Lê Công Định lên hàng đầu, không những thế nội dung bên trong của các bài báo đó cũng đề cập đến nhân vật LCĐ nhiều hơn. Thậm chí như trong bài viết “Khởi Tố Bị Can Đối Với Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long”, tuy tựa đề không nói gì đến LCĐ nhưng nội dung lại chỉ vẻn vẹn có 7 dòng (kể cả lời dẫn và một dòng chỉ có 2 chữ) là nói về hai ông Lê Thăng Long Và Trần Huỳnh Duy Thức, còn lại “tràng giang đại hải” là nói về LCĐ. Như vậy, việc công an “xây dựng” LCĐ lên trở thành tâm điểm của vụ bắt bớ này là hoàn toàn có chủ ý.
LCĐ đã “lập công” để chuộc cái… vô tội của mình, bằng cách hợp tác tốt với công an. Xin được trích dẫn báo CAND ngày 16/06/09 đã viết trong bài “Lê Công Định Và Mưu Đồ Phản Loạn”: “LCĐ nói năng nhỏ nhẹ, lịch sự tôn trọng sự làm việc của các nhân viên an ninh điều tra. Được các nhân viên này đánh giá là “tương đối tích cực” bởi đã mau mắn khai ra địa chỉ của 15 hộp thư mà Định thường dùng và mật danh của một số đối tượng phản động ở nước ngoài… Một đoạn khác: Là luật sư nên rất hiểu luật, vì vậy từng trang tài liệu in ra Định đều ghi rất cẩn thận “tài liệu này được in ra từ máy tính của tôi”…
Có vẻ như ông LCĐ không bị một áp lực đe dọa nào từ phía công an ngay trong lúc khám xét và kiểm tra máy tính tại văn phòng của ông ta ở số 11 đường Phan Kế Bính, Sài Gòn. Theo quy định của nhà cầm quyền CSVN về một cuộc tổ chức khám nhà thì cần có rất nhiều ban bệ, nào là Viện Kiểm Sát, công an khu vực, đại diện UBND phường, đại diện tổ dân phố, mặt trận tổ quốc vv…, và một số người làm chứng. Vậy thì, trước mặt đông người và rất nhiều người không quen biết nhau như vậy, công an không dám có một hành động gì hăm dọa đương sự cả. Có thể kết luận, ông LCĐ đã hoàn toàn tự nguyên hợp tác với công an, khi đã mau mắn khai ra 15 địa chỉ Email và ký xác nhận vào các tài liệu được in ra từ máy tính cá nhân của mình.
Thực ra, người viết bài này không hề có ý định (và không có quyền có ý định) phán xét điều gì về tư cách đấu tranh của LCĐ. Trước hết cần khẳng định rằng, LCĐ là người vô tội, việc công an Việt Nam bắt giữ ông ta là một việc làm hoàn toàn phi pháp. Dù ông ta có thể bị công an khống chế từ trước khi bị bắt để dùng làm “chim mồi” đi chăng nữa, thì ông ta cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi.
Và nếu có, thì sự việc ấy cũng chỉ mới xảy ra cách nay không lâu (ít nhất là phải sau tháng 02/2008), vì vào ngày 22/02/2008 LCĐ còn viết một bài thơ đấu tranh khá hay, thể hiện quan điểm về chiến tranh Nam – Bắc của mình với tựa đề “Cuộc Chiến Vô Nhân”, xin trích: “Người ta chôn ngàn người vô tội/Và tự hào chiến thắng vinh quang/Than ôi những chiến binh/Đếm huân chương đỏ ngực/Vì xả súng bắn đồng bào không tấc sắt/Miệng vẫn nhăn nhở cười/Trong diễu hành kỷ niệm 40 năm sau…/Lịch sử gần đến lúc sang trang/Những nghi ngờ vững bền rồi sẽ mất/Máu đòi trả máu/Quy luật muôn đời không bao giờ thay đổi”…
Như vậy, với những vần thơ trên (chưa phổ biến công khai), cùng với 7 bài viết đăng trên một số báo kể cả của quốc doanh và hải ngoại, tuy quan điểm chính trị của LCĐ không rõ ràng trong các bài viết đó, thậm chí nó còn có vẻ rất thân CS trong bài “Tại Sao Không Nên Sợ Đa Nguyên”.
Nhìn chung, dù các bài báo của LCĐ mang tính chuyên ngành hơn là quan điểm chính trị đấu tranh, chúng ta vẫn nghiêng về xu hướng coi ông ta là một người có tư tưởng đối lập với cộng sản.
Tuy vậy, là một người đấu tranh thiếu kinh nghiệm, nên LCĐ sụp đổ nhanh chóng là điều đương nhiên.
Một số giả thuyết cho rằng LCĐ có một tư thế “hở sườn” nào đó, một “gót chân Asin” nào đó, mà từ đó công an an ninh Việt Nam “điểm huyệt” ông ta dễ dàng đến vậy. Tôi cho rằng lý do này không thuyết phục lắm. Quả thật ông LCĐ chưa có thành tích đấu tranh gì nhiều, tầm ảnh hưởng về chính trị của LCĐ đối với phong trào đấu tranh trong nước, có thể nói là hầu như chưa có gì. Nếu giống như nhiều vụ việc bắt bớ các tổ chức “phản động” trước đây, công an Việt Nam cứ im lặng mà triệt hạ, và họ rất dè dặt với báo chí. Thì không mấy người Việt trong nước biết đến LCĐ với tư cách là một người đấu tranh.
Ngay trong ngành luật, tuy LCĐ được biết đến bởi từng tham gia bảo vệ quyền lợi cho việc xuất khẩu cá Ba Sa, rồi bào chữa cho các vị luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, nhà báo tự do Điếu Cày, nhưng kết quả bào chữa các vụ này chưa như mong đợi. Tất nhiên phải kể đến việc tòa án hiện nay ở Việt Nam thực ra đâu cần đến luật sư, vì mọi bản án đều dường như đã được “bỏ túi” từ trước. Về bản “Tân Hiến Pháp” thực ra cũng không phải là do LCĐ sáng tác, mà là do ông Nguyễn Sỹ Bình soạn thảo rồi đưa cho LCĐ góp ý, còn bản “Điều Lệ Đảng Dân Chủ Việt Nam” cũng vẫn là ông Nguyễn Sỹ Bình đưa cho LCĐ tham khảo mà thôi. Thêm nữa, 18 năm sau khi tốt nghiệp đại học luật Việt Nam, du học qua hai nước, nhưng chúng ta cũng chưa nghe thấy một công bố nào về đề tài nghiên cứu chuyên ngành luật của LCĐ.
Liệu có hơi vội vàng khi nói đến thất bại? Và ai thất bại?
Xin được trả lời rằng, dù màn kịch LCĐ viết tường trình nhận tội và xin khoan hồng là có thật, và báo chí của nhà cầm quyền CSVN có làm rùm beng về vụ triệt hạ được một tổ chức “phản động” quan trọng, với nhân vật LCĐ là một luật sư “nổi tiếng”. Nhưng dư luận từ nội bộ những người đấu tranh trong nước, nhất là những người có tên tuổi công khai, đều cho rằng việc LCĐ sụp đổ là điều dễ hiểu. Và dù họ đã tiên liệu được điều này, nhưng thậm chí vẫn bị bất ngờ bởi sự việc diễn ra quá chóng vánh đến như vậy!
Có người đưa ra giả thuyết mong manh rằng, thú tội là cách tránh bị tra tấn đánh đập của LCĐ, ông ta sẽ phản cung trước tòa án. Chuyện bị tra tấn chắc chắn là không xảy ra, nhất là đối với những người ôn hòa như LCĐ. Cho dù kế hoạch này là có thật thì nó vẫn bị phá sản ngay từ phút đầu, bởi những hiệu ứng tai hại của nó đã gây nên sự tổn thất lớn về tinh thần của quần chúng. Đặc biệt, việc khai nhận theo cách “tuốt tuồn tuột, tất tần tật” không giống một người trá hàng của LCĐ đã là một đòn chí tử, đánh mạnh vào uy danh và lòng tốt của Liên Minh Châu Âu và Mỹ đã dành cho chính ông ta!
Một vấn đề cần nhận ra là, đây chính là một đòn tâm lý mà nhà cầm quyền CSVN chủ động đánh vào ý chí của những tư tưởng đấu tranh giành dân chủ hóa đất nước, đánh vào niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ các nhà dân chủ. Họ đã cố tình vẽ ra một LCĐ như là một lãnh tụ thực sự, “lãnh tụ” này đã tự nguyện quy hàng, thì giống như câu chuyện chiến tranh thời cổ đại, tướng hàng thì lính cũng nên hàng theo (!)
Từ hàng chục năm nay, nhân dân Việt Nam cũng cần biết ơn liên minh EU và Hoa Kỳ đã luôn bênh vực mhững người Việt bị nhà nước VNCS vi phạm nhân quyền. Nhưng cũng thật trớ trêu thay, khi họ bắt đầu lên tiếng đòi công bằng cho LCĐ, thì ông ta lại đi công nhận là mình có tội. Vì vậy, nhà cầm quyền CSVN mới có cớ cao giọng chỉ trích, rồi công khai tuyên bố rằng bộ ngoại giao Hoa Kỳ và đại diện ngoại giao EU tại Việt Nam đã vô cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thật là một câu chuyện dở khóc dở cườì, giống như việc mọi người hô hào nhau đi cứu người sắp chết đuối, và oán trách kẻ xấu đã xô đẩy anh ta ngã xuống ao, thì anh ta lớn tiếng nói là “tôi không sao đâu, chỉ vì tôi đang… bắt trộm cá, người ta nói rằng cứ ngồi bờ ao là trộm cá”?!
Nhưng không! Đây không thể là một thất bại của phong trào đấu tranh giành đa nguyên đa đảng, giành tự do dân chủ văn minh tại Việt Nam!
Đây chỉ là thất bại của cá nhân LCĐ khi ông ta không chiến thắng được chính bản thân mình. LCĐ không thể đại diện, và chưa hề chính thức là đại diện cho (dù chỉ) một nhóm đấu tranh nào. Việc LCĐ chấp nhận hoàn cảnh hiện nay không có gì là xấu, vì ông ta hoàn toàn có quyền, ông ta tự nguyện đấu tranh rồi tự chấp nhận thất bại cho riêng mình mà thôi.
Trong nhóm ba người bị bắt, LCĐ đã tường trình thú tội. Nhưng đối với hai người là Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long, thì công an đã không thể có được bản “tường trình” theo kiểu thú tội như LCĐ, bởi nếu có thì báo chí của công an đã “kịp thời” loan tải. Mọi người đều có quyền tin rằng, cho đến hôm nay các ông Trần Huỳnh Duy Thức và Lê Thăng Long vẫn đứng vững. Chúng ta hãy nhớ đến những con người dũng cảm, đã hoặc đang trong chốn lao tù như linh mục Nguyễn Văn Lý, các vị Lê Thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Hồ Thị Bích Khương, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Xuân Nghĩa…

Trần Huỳnh Duy Thức điềm tĩnh phán bác cáo trạng tại toà án hôm 20/01/2010 - Ảnh: OnTheNet
Chúng ta cũng ghi nhận tiếng nói của những con người có quan điểm chính trị đấu tranh cương quyết, đanh thép, trên mọi diễn đàn báo chí, các đài phát thanh, nhất là trước mặt công an, khiến công an cũng phải kiêng nể kính phục. Đó chính là những lời phản kháng, lời tuyên bố đầy can đảm và trí tuệ của các vị Trần Anh Kim, Đỗ Nam Hải, Nguyễn Khắc toàn, linh mục Phan Văn Lợi…Và còn rất nhiều, rất nhiều những tấm gương đấu tranh dũng cảm kiên cường khác, mà trong khuôn khổ bài viết này, tôi không thể liệt kê ra hết được. Chính những con người ấy mới thực sự xứng đáng là những lãnh tụ tinh thần của những người đấu tranh hiện nay ở Việt Nam. Chúng ta không thể chạy theo sự dẫn đường bởi báo chí của nhà cầm quyền CSVN, để tôn ông này bà nọ lên hàng “lãnh tụ”, chỉ vì họ có chút học vị học hàm, mà quên rằng, thủ lĩnh trong đấu tranh dứt khoát và trước tiên phải là những người can đảm!

Linh mục Nguyễn Văn Lý dõng dạc tố cáo CSVN đàn áp nhân quyền và tự do tôn giáo khiến công an phải bịt miệng tại phiên toà ngày 30/03/2007 - Ảnh:OnTheNet
Thời gian sẽ lấp đầy những mất mát, thiếu sót, rồi người ta sẽ quên đi những vui buồn thường tình. Qua vụ việc của LCĐ nhiều người cũng đã kịp nhận ra rằng, trong cách mạng, nhất là với đặc thù văn hóa, đặc thù tôn giáo, và đặc thù nhận thức có nhiều nét riêng của người Việt. Việc một ai đó được công nhận là một thủ lĩnh đấu tranh, không thể dễ dãi và đơn giản, họ cần phải trải qua thực tiễn xương máu, phải chứng tỏ được bản lĩnh, năng lực thực sự, và đặc biệt là phải thu phục được nhân tâm của số đông.
Thông thường, một tổ chức ban đầu của cách mạng muốn có sức sống bền vững, thì nó phải được xây dựng và phát triển theo quy mô từ nhỏ đến lớn, từ thấp lên cao, chứ không thể “đốt cháy” giai đoạn. Những vị trí lãnh đạo phong trào phải là những người ưu tú, đã từng trải và được quần chúng công nhận, đề cử, chứ không thể do một vài cá nhân tự tung hô, tự xưng tụng nhau lên một cách tùy tiện. Và nếu muốn tạo hình lên một ông Bụt, thì tốt nhất là không nên tạo bộ râu tóc bạc phơ trước, vì như vậy ma quỷ sẽ đoán biết đây có thể sẽ là ông Bụt trong tương lai, chắc chắn nó sẽ tìm cách phá hủy trước khi ông Bụt thành hình.
“Thất bại chính là mẹ của thành công”, mong rằng đối với phong trào đấu tranh giành dân chủ hóa đất nước, hướng đến một thể chế chính trị đa nguyên đa đảng tại Việt Nam. Những người đấu tranh cũng sẽ lần lượt vượt qua tất cả những khó khăn trên con đường đi tìm chân lý của mình! ■
Nguồn: Bài nhận được từ tác giả. Hình minh hoạ trong bài của Ledienduc’s Blog.
--
  • Bài nẩy lửa: Crony Commies (Rushford Report 25-1-10) - "Những người cộng sản có móc nối", về liên hệ kinh doanh của Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long.. và ... Nguyễn Bảo Hoàng (rể ông NT Dũng). Cần dịch ngay! ◄◄◄
Mặt thật của giới kinh doanh Hoa kỳ đối với phong trào đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam
Mãi cho đến khi an ninh gõ cửa nhà họ vào năm ngoái, Lê Công Định, Lê Thăng Long, và Trần Huỳnh Duy Thức vẫn còn là những người đại biểu giỏi và sáng giá nhất của thế hệ chuyên gia mới lên tại Việt Nam. Định, 41 tuổi, một luật sư được đào tạo ở Mỹ, đã gia nhập vào cộng đồng giới ưu tú về doanh thương và pháp luật của Việt nam từ tuổi 30, ông còn là một thành viên tích cực của PTMHK (Phòng Thương mại Hoa Kỳ) tại TP Hồ Chí Minh. Sự ngưỡng mộ mà cộng đồng doanhg nghiệp ở Mỹ dành cho Định chính là từ việc ông là hiện thân hóa sự tiến bộ của Việt Nam bằng con đường dẫn đến sự cai trị của luật pháp. Những người bạn Long, Thức của Định là những doanh nhân Internet trẻ tuổi vốn đã đóng một vai trò quan trọng trong thập kỷ của việc phát triển bộ phận công nghiệp thông tin mới nổi của Việt Nam. Họ đã dấn thân vào nghành công nghệ nhằm tạo thuận lợi cho người dân Việt Nam được tự do giao tiếp với nhau bằng điện thoại và máy vi tính về bất cứ khi nào có điều gì xảy ra trên thế giới. Do đó, Long và Thúc rất thích các mối quan hệ tốt với cộng đồng doanh nghiệp công nghệ cao ở Hoa Kỳ, nhất mối liên quan đến quan hệ đối tác của họ với Cisco Systems (cũng là một thành viên nổi bật của Phòng Mỹ tại Việt Nam) một cỗ máy mạng ở Thung lũng Silicon Hoa Kỳ. Khả năng chuyên môn của ba người bạn trẻ Việt Nam còn chứng minh niềm tin chung của họ rằng đất nước ở thế giới thứ ba nghèo khổ của mình có thể trở thành một xã hội ngày càng phồn vinh hơn về kinh doanh.

Là một phần của công cuộc hiện đại hóa đất nước, Định, Long và Thức cũng đã không dấu diếm niềm tin của họ rằng lợi ích tốt nhất của Việt Nam chính là phát triển nền dân chủ đa đảng dân chủ tự do. Họ đã hy vọng một ngày những công dân Việt Nam, như các đối tác của họ ở các xã hội hiện đại khác có được ưu thế của luật pháp, sẽ được hưởng các quyền tự do ngôn luận và một quốc hội mà Đảng Cộng sản cầm quyền hiện hành đang từ chối. Tất nhiên, Bộ Chính trị - chi phối bởi những nhân vật cứng rắn đang tranh giành vị trí của mình khi đại hội đảng đang đến gần hơn vào năm tới - không hề muốn như thế. Sau một phiên toà phô diễn kiểu cộng sản cổ điển vào ngày 20 Tháng 1 tại TP Hồ Chí Minh (TP vẫn còn được biết đến nhiều hơn bằng tên gọi Sài Gòn) ba con người ủng hộ dân chủ một cách ôn hòa đã nhận lãnh các bản án nghiêm khắc. Thức, hiện 43 tuổi, bị xử 16 năm, rõ ràng là đã bị trừng phạt vì đã kịch liệt phản đối cho sự vô tội của mình. Theo một bản dịch từ đài BBC, một dịch vụ Việt ngữ có thẩm quyền, Thức đã cáo buộc rằng lời "nhận tội" của ông đã xảy ra dưới áp lực có liên hệ đến sự "trừng phạt về thể xác", một loại cáo buộc mà tòa án không thích nghe đến. Long, 42 tuổi, bị xử năm năm về tội đồng phạm. Định - người mà như các bạn bè của mình có thể đã phải nhận lãnh án tử hình - cũng đã nhận một bản án tưong đối nhẹ nhàng hơn là năm năm tù. Các thẩm phán dường như đã bị ảnh hưởng bởi sự thừa nhận, ăn năn của Định là mình đã bị lôi kéo bởi các khái niệm về tự do của phương Tây trong thời gian theo học ở nước ngoài, và vì là một luật sư nên bây giờ ông hiểu được rằng ủng hộ dân chủ đa đảng là vi phạm pháp luật Việt Nam.

Bởi vì quan điểm ấy, về sự công khai của nó, chính là sự xúc phạm, phản ứng đối với bản án cũng đã nhanh chóng là một nghiêm trọng. Ngày 21/1 Đại sứ Hoa Kỳ Michael Michalak đã phản đối rằng "những lời kết án đã đi ngược lại bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền đồng thời đặt ra những câu hỏi nghiêm trọng đối với cam kết của Việt Nam về luật pháp và cải cách". Cơ quan đầu não của Liên hiệp Âu châu tại Hà Nội đã phát hành một tuyên bố chung lên án phiên tòa và các án phạt như "một bước thụt lùi lớn và đáng tiếc cho Việt Nam". Các đại sứ của Liên Hiệp Âu châu (EU) nhận định các bản án "không phù hợp với các quyền cơ bản của tất cả những người vốn có các ý kiến và muốn bày tỏ chúng một cách tự do và ôn hòa, theo điều 19 của bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền liên quan đến các quyền quốc tế về dân sự và chính trị, mà Việt Nam là một thành phần. Các tổ chức Tổ chức ủng hộ có tiếng tăm như Human Rights Watch và Tổ chức Ân xá quốc tế cũng lên tiếng bày tỏ mối quan tâm sâu sắc của họ qua sự kiện bất công này.

Nhưng các bằng hữu trước đây của Định, Long, và Thức trong cộng đồng doanh nghiệp ở Mỹ đã khiến bị dư luận chú ý vì sự im lặng của họ. Các nhà lãnh đạo hàng đầu của PTMHK và các cơ quan kết nghĩa của họ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã kiến quyết từ chối thể hiện bất cứ mối quan tâm nào, ngay cả - ở ngoài lề- về số phận các đồng nghiệp cao quý cũ của mình. Điều này không chỉ là một sự ngẫu nhiên mà là một thái độ có cân nhắc cẫn thận. Trong suốt sáu tháng qua, các nhà lãnh đạo PTMHK đã từ chối những yêu cầu bình phẩm của họ về các vụ đàn áp những người Việt nam bất đồng chính kiến hiện nay (để biết thêm chi tiết xin đọc thêm An Inconvenient Man, tường trình của Rushford ngày 21 tháng 9, 2009). Trong một điện thư cuối tuần qua, tôi đã hỏi xem có phải vị Giám đốc điều hành PTMHK thuộc các tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh lo ngại đến ấn tượng không thể tránh khỏi về ông và các đồng nghiệp của ông đã tạo ra đã phản ánh mối ưu tiên hàng đầu của cộng đồng doanh nghiệp Mỹ là sự ổn định về chính trị , theo phong cách của Bộ Chính trị. Herb Cochran cho biết ông sẽ kiểm tra lại với uỷ ban của mình cùng với bộ phận kết nghĩa của PTMHK tại Hà Nội. Hóa ra kết quả là các uỷ ban này đều đã không màng đến việc cải chính các nhận xét đồn đãi- dù là cải chính trong sự kín đáo. Do đó câu kết luận không thể tránh khỏi chính là cái tín hiệu mà cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam đã gửi đến các nhà lãnh đạo hàng đầu tại Hà Nội là có chủ tâm. Quả thực là các cuộc đàn áp những người chống đối đang hưởng được sự hỗ trợ ngầm của các đoàn thể Hoa Kỳ.

Lời giải thích ở sự ngượng ngập khởi đầu xem ra đủ đơn giản. Các tổ chức như Exxon Mobil, Citi, Emerson Electri, và Chevron nằm trong các ủy ban của PTMHK ở Hà Nội và TP. HCM không hề nằm trong danh sách những trái tim đang rướm máu của bất cứ thành phần nào. Nhưng đối với bất kỳ ai quan tâm đến việc nền kinh tế Việt Nam hiện đang hướng về đâu và cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ sẽ phù hợp vào đó như thế nào thì thật là còn nhiều điều để mà nói đến. Cộng đồng doanh nghiệp Mỹ đã phát triển quan hệ sâu sắc với chính quyền Cộng sản cầm quyền, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và các cơ quan (tham nhũng) của chính phủ mà họ kiểm soát. Những quan hệ này cho thấy đã đủ sâu sắc khiến hiện nay người Mỹ đang nhìn ra lợi ích chung của họ với các nhà lãnh đạo kinh tế của Việt Nam như là một sự song phương cần yếu. Đối với phương cách mà Việt Nam đang phát triển kinh tế, ta không cần phải chia xẻ cái quan điểm về thế giới có tính khó hiểu của nhà làm phim chống lại các tổ chức kinh doanh Michael Moore để có thể hiểu được sự hội tụ của nền chính trị và kinh tế bất ổn. Bạn có thể gọi đấy là Chủ nghĩa cộng sản thân thiết chí cốt.

Đây là cách Chủ nghĩa Cộng sản thân thiết hoạt động ra sao:

Trong cuộc chiến tranh bắn giết của Mỹ ở Việt Nam, thời kỳ nối dài từ năm 1950 cho đến khi các lực lượng kiên định của Hồ Chí Minh nổi lên chiến thắng vào năm 1975, những người Mỹ đầu tiên đã đến để công bố niềm tin của họ rằng họ là những người chiến binh lý tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Hiện nay, như cả thế giới đều đã biết, dần dần những người Mỹ đã lún sâu hơn và càng sâu hơn vào một đất nước mà họ không thật sự hiểu biết, cho đến khi họ bị mắc kẹt trong hậu quả của sự mất mát bi thảm về nhân mạng cho cả đôi bên. Trong nhiều năm gần đây hơn khi các nhà lãnh đạo (đáng khen) của Việt Nam bắt đầu mở cửa nền kinh tế của họ, cộng đồng doanh nghiệp Mỹ tự xuất hiện như một nhà cải cách kinh tế, mong muốn đến giải cứu một nền kinh tế thất bại chủ nghĩa Marx-Lenin. Có nhiều sự thật đáp ứng cho luận điệu ấy. Nhưng dần dần, trong hơn thập kỷ vừa qua, các tập đoàn kinh doanh có vẻ như đã bị lôi kéo vào mối quan hệ ngày càng gần gũi hơn với những người cộng sản cũ vốn vẫn đang nắm giữ quyền lực kinh tế trong nước. Những ngày này, những cải cách kinh tế chính mà PTMHK tại Việt Nam ủng hộ là những gì trực tiếp ảnh hưởng đến sự sống còn của các tập đoàn kinh doanh của mình. Còn đối với những người ủng hộ dân chủ một cách hòa bình như Định, Long và Thức, PTMHK có vẻ như đã chia xẻ cùng quan điểm của Bộ Chính trị: họ chính là những người đang gây khó khăn cản trở.

***

Ngày 17 tháng 6/ 1999, trong buổi điều trần trước Hạ viện Mỹ và Ủy ban Phương cách và Phương tiện, ủy viên Greig Craft của PTNHK tại Hà nội đã phát biểu với các ý nghĩa thật lý tưởng. Đây là thời gian cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ đã vận động hành lang để Quốc hội Hoa Kỳ chấp thuận mở rộng quan hệ thương mại song phương với Việt Nam, mà cuối cùng đã đưa quốc gia vùng Đông Nam Á này gia nhập được vào Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007. "Ngoài việc theo đuổi các cơ hội về giao thương, tất cả chúng ta đều có mối quan tâm liên tục để thúc đẩy nhân quyền và tự do dân chủ trên khắp thế giới". Craft đã nói với nhà lập pháp. "Quá trình phát triển kinh tế tất yếu cũng dự báo rõ ràng cho công cuộc tự do hóa về chính trị ở Việt Nam".

Craft vẫn còn đang hoạt động tại Việt Nam, và vẫn còn được ở trong danh sách các thành viên của PTMHK. Ông cũng vẫn tuyên bố các lý tưởng của mình, và trong những ngày này vẫn đang tìm cách quảng bá cho một tổ chức nhân đạo ông thành lập nhằm khuyến khích những người Việt điều khiển xe gắn máy ở mọi nơi chốn mang mũ an toàn. Nhưng ông Craft lý tưởng này đã không trả lời một yêu cầu của nhà báo vào đầu tháng này hỏi liệu ông có sẽ vẫn giữ những lời cam kết của mình trước Quốc Hội mười một năm trước rằng Việt Nam sẽ cho phép công dân của họ nhiều tự do hơn hay không. Cả những nhà lãnh đạo hiện thời của PTMHK cũng không sẵn lòng giải quyết chủ đề này.

Tom Siebert, chủ tịch chi nhánh của PTMHK tại TP. Hồ Chí Minh, cho biết qua điện thư trong ngày 3 tháng 11 năm 2009 rằng tổ chức này là một tổ chức "phi-chính trị". "Chúng tôi sẽ giới hạn các ý kiến và khuyến nghị của chúng tôi vào những vụ việc có ảnh hưởng trực tiếp đến các vấn đề thương mại và đầu tư giữa Hoa Kỳ và Việt Nam" Khi tôi hỏi Siebert những gì ông sẽ có thể phát biểu ngay lúc này về các mối hoài nghi về thương mại ở điện Capitol, những người đang yêu cầu câu trả lời về những gì hiện đang xảy ra cho công cuộc tự do hoá chính trị vốn đã phải được tiến triển hết sức tốt đẹp, ông đã từ chối không trả lời.

***

Cũng không hề có nhà lãnh đạo nổi bật nào của PTMHK hoặc các bạn bè trước đây của Định sẵn sàng nói đến các vấn đề về nguyên tắc của pháp luật. Fred Burke, viên quản lý điều hành văn phòng tại TP Hồ Chí Minh của Banker & McKenzie, chủ tịch ủy ban pháp lý của PTMHK mà Định là một thành viên của mình cho đến khi bị bắt vào cuối tháng Sáu. Tôi đã chất vấn Burke "Định có phải là bạn của ông không ?" và ông đã không trả lời.

Chính cái danh sách khách hàng của Burke giải thích được nguyên nhân cho sự dè dặt của luật sư (Định). Các viên chức Việt nam của Banker & McKenzie từng đại diện cho những nhà cho vay nợ ngoại quốc quan trọng, những người cần giấy phép chính phủ để hoạt động, bao gồm cả Citibank và Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản. Các tài liệu quảng cáo của Banker & McKenzie nói rằng hoạt động ở việt Nam của công ty đại diện cho "các khách hàng nước ngoài trong những thoả thuận đầu tư trong nước, chẳng hạn như việc mua lại Ngân hàng Đầu tư RHB của 49% trong cổ phần chứng khoán Việt Nam." Một thương vụ khác mà Burke đang tiến hành có liên quan đến việc các trình nạp thay mặt cho Asian Coast Development để xin “giấy phép xây dựng một khu nghỉ mát tích hợp, chẳng hạn như một casino ở Hồ Tràm, có giá trị 4 tỷ USD". Burke cũng đã làm việc trên một thỏa thuận liên quan đến việc tài trợ "nhà máy lọc dầu đầu tiên, thay mặt cho BNP Paribas cho khoản nợ trị giá $ 3 triệu mỹ kim để xây dựng dự án"củ a Việt nam (tổng giá trị lên đến $ 25 tỉ mỹ kim). Burke cũng đã giúp "một hãng sản xuất bia nước ngoài trong vụ mua lại $24 triệu cổ phần tại Việt Nam của tổng công ty Rượu-Bia- Nước giải khát Sài gòn”.

Bởi vì các hoạt động về luật pháp của Burke dường như phụ thuộc rất nặng nề vào việc không để lung lay con thuyền với các thực thể khác nhau của chính phủ Việt Nam, tôi hỏi anh ta trong một e-mail là phải chăng sẽ là sự công bằng để hiểu được điều ấy và để giải thích được sự do dự của ông ngay cả khi nhắc đến cái tên của luật sư Định. Ông đã từ chối không bình luận.

***

Ông Burke, theo như các trích đoạn báo chí hiển thị trên các truy tìm Internet rộng rãi cũng đã từng là một đấu thủ của ngành công nghiệp công nghệ cao đang nổi lên của Việt nam. Vào tháng 12/2004, Burke đã tham gia, cùng với các đại diện của Cisco Systems và các danh nhân khác của PTMHK tại một hội nghị đưọc tài trợ bởi Hiệp hội Máy tính HoChiMinh nhăm nêu bật những khía cạnh pháp lý và thương mại của việc phát triển công nghệ thông tin của Việt Nam. Duy Thức, người đang bị kết tội cũng từng xuất hiện trên bàn chủ tọa ấy diễn giải về các vấn đề kết nối mạng, cùng với Amy Võ, một giám đốc kinh doanh của Cisco Systems. Tất cả những người tham gia trong hội nghị là đại diện của giới ưu tú về nghành công nghệ cao đang lên của Việt Nam.

John Chambers, phát ngôn viên cho bản Giám đốc điều hành của Cisco đã từ chối bình luận về mối quan hệ kinh doanh của Cisco với Thức và Lê Thăng Long. Nhưng trong khi các hồ sơ lưu trữ công cộng còn chưa được hoàn thiện, không nghi ngờ gì rằng hai nhà doanh nghiệp Việt Nam đã có quan hệ chặt chẽ với Cisco và cộng đồng kinh doanh Mỹ.

Bản tường thuật của CNN.com từ Hà Nội ngày 20 tháng ba năm 2001 cho biết Công ty Electronics and Information System của Viẹt Nam (được biết đến bởi tên gọi tắt EIS) đã chuẩn bị kế hoạch về một danh sách cho thị trường chứng khoán non trẻ của TP. Hồ chí minh, lúc ấy mới chỉ có năm công ty. Lê Thăng Long nguyên là phó Tổng giám đốc EIS khi ấy đã nói với các phóng viên rằng công ty ông đã được thành lập năm 1993, và đã trở thành công ty cổ phần vào năm 2000 ". Long cho biết EIS đã thiết lập được một mối quan hệ lâu dài với mạng lưới Cisco Systems khổng lồ và đã tiến hành kinh doanh tại Thái Lan và Singapore với kế hoạch mở rộng hoạt động đến Hoa Kỳ," theo báo cáo của CNN.

Ngày 31 tháng tám năm 2001 Cisco Systems đã ban hành một thông cáo báo chí để chào mừng quan hệ của họ với EIS của Thức và Long. Theo bản thống cáo báo chí, EIS và Cisco đã làm việc để xây dựng “Saigon Software Park với các thiết bị của Cisco” tối tân nhất thế giới. Bản thông cáo này xác định EIS là "một trong những đối tác hàng đầu của Cisco "đồng thời nói rằng công ty Việt Nam này " là nhân tố kết hợp quan trọng cho mạng lưới của SSP”. Trần Huỳnh Duy Thức, người từng là chủ tịch và giám đốc điều hành EIS đã được trích dẫn đến trong bản thông cáo, nói rằng "EIS rất tự hào là người kết hợp dẫn đạo cho dự án này. Với các kỹ năng chuyên môn của đội ngũ nhân viên EIS và ngành công nghiệp hàng đầu của Cisco, cơ sở hạ tầng của SSP đã được triển khai trong một thời gian kỷ lục."

Tối thiểu là mối quan hệ của Cisco với EIS đã phát triển đến năm 2006, theo các báo cáo công khai sẵn có. Một phát ngôn viên của thị trường chứng khoán Sài Gòn thuật lại rằng EIS đã không bao giờ trở thành một công ty được liệt kê, vì những nguyên nhân không hề được giải thích trong các hồ sơ lưu trữ công cộng hiện có.

***
Liên doanh mới nhất mà Thức và Long đã tham gia vào có liên quan đến một công ty điện thoại internet mà họ hình thành có gốc gác ở Singapore mang tên là One Connection Internet. Theo một tường trình từ Vietnam Net Bridge, dịch vụ quảng cáo điện thoại trực tuyến này tập trung vào các khách hàng tại Việt Nam. Thật dễ dàng để mà tưởng tượng ra nỗi lo sợ của những người cầm quyền đố với công ty này, những kẻ mà, giống như các đối tác tương tự của họ tại Trung Quốc, đã kiên quyết phải kiểm soát cho bằng được việc các công dân của họ giao tiếp với nhau trực tuyến như thế nào.

Năm ngoái, Sở Thông tin và Truyền thông TP Hồ Chí Minh đã thông báo rằng họ đã thẳng tay trừng trị công ty OCI (One Connection Internet), vì đã chào mời các dịch vụ điện thoại internet đến Việt Nam từ Singapore và các nước khác mà không có giấy phép. Thông báo của Bộ Thông tin Việt Nam cho thấy rằng các các giới chức đã lo ngại rằng "điện thoại di động và thuê bao điện thoại cố định từ Mỹ, Canada và Australia đã dùng các thẻ nhựa để thực hiện các cuộc gọi điện thoại Internet đến Việt Nam với một thiết bị thanh toán được cài đặt tại Việt Nam". Thông báo này còn nói thêm rằng "Những cú điện thoại ở nước ngoài gọi đến đã được chuyển qua một cổng truy cập ở Singapore, nơi xác nhận tính hợp lệ của các cú gọi trước khi chuyển tiếp đến một thuê bao của Việt Nam".

Trong khi hầu hết các nhà quan sát sẽ phải vô cùng ngợi khen bất kỳ liên doanh kinh doanh nào như thế nhằm cho phép người dân Việt Nam được giao tiếp với nhau tự do nhưng đối với chính phủ Việt Nam, kinh doanh của Thức và Long là "bất hợp pháp". Đầu năm ngoái, rõ ràng là ngay trước khi Long và Thức bị bắt giữ, thiết bị của OCI đã bị tịch thu.

Năm nay, nhà chức trách Việt Nam đã tăng thêm các nỗ lực của họ để kiểm soát công dân của mình giao tiếp với nhau qua Internet như thế nào, với hành vi mới nhất là ngăn chặn trang mạng giao tiếp xã hội Facebook do Hoa Kỳ sở hữu.

Đối với Cisco Systems, nhiều bản tường thuật báo chí khác nhau cáo buộc rằng công ty này đã giúp chính quyền Trung Quốc áp đặt hệ thống Tường lửa Vĩ đại của họ, một cáo buộc mà công ty này đã chối tội. Không ai có thể biết được nếu như các hoạt động của Cisco là đang hợp tác với chính phủ Việt nam trong những nỗ lực tương tự, mặc dù đã có những nghi ngờ như thế trong cộng đồng (bảo vệ) nhân quyền. (Xin hãy chờ xem)

***

Đối với những thấu hiểu sâu xa hơn vào sự việc chủ nghĩa cộng sản thân tình hoạt động như thế nào trong nền kinh tế Việt Nam ngày nay, hãy xem xét một bản tường thuật ngày 21 tháng 1 bởi Bill Hayton trong tờ Foreign Policy. Hayton là một cựu phóng viên BBC đáng kính tại Hà Nội, người đã bị chính quyền Việt nam từ chối gia hạn giấy phép hoạt động báo chí ngay sau khi ông đệ trình quá nhiều bản báo cáo vốn không chịu phục tùng đảng lãnh đạo.

Trong bản tường thuật của ông trên tờ Foreign Policy, Hayton trích dẫn một ví dụ đanh thép về việc làm thế nào mà "bất chấp một làn sóng của sự giàu có mới, Đảng Cộng sản vẫn chi phối được cả hai lĩnh vực công cộng và tư nhân" tại Việt Nam. Ông lưu ý rằng, "nhiều" doanh nghiệp tư nhân trá hình "hoặc là các doanh nghiệp nhà nước trước đây hoặc vẫn còn một số sở hữu nhà nước và phần lớn vẫn do các đảng viên điều hành". Hayton còn cho biết thêm: "Hầu hết những người điều khiển các đỉnh cao chỉ huy của khu vực tư nhân là những người được đảng chỉ định, gia đình (đảng viên) hoặc thân thích của họ. Thành phần ưu tú của Đảng cộng sản Việt đang chuyển chủ nghĩa tư bản thành một loại kinh doanh gia đình".

Để minh họa cách thức loại doanh nghiệp gia đình ấy hoạt động như thế nào, Hayton đã chỉ ra một đám cưới năm 2008 tại một khách sạn sang trọng ở Sài Gòn mà các cựu chiến binh chiến tranh Việt Nam vẫn còn nhớ rõ, khách sạn Caravelle. Nguyễn Bảo Hoàng, viên giám đốc điều hành các đối tác của IDG Ventures Việt Nam, một công ty đầu tư, đã kết hôn với một cô dâu 27 tuổi tên là Nguyễn Thanh Phương - con gái của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. "Những người đàn ông cô ta kết hôn là một công dân Mỹ, có cha mẹ từng trốn khỏi Việt Nam năm 1975 để thoát những người cộng sản - bây giờ đã quay trở lại cưới con gái của một trong số những người cộng sản ấy" Hayton đã nhận xét như vậy.

IDG Ventures của Nguyễn Bảo Hoàng là một thành viên tích cực của Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam.

Virgina Foote, một thành viên khác của HDTMHK cũng đã từng ve vãn cha Nguyễn Thanh Phương là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trang web cho Foote's Vietnam Partners, một ngân hàng đầu tư, trưng bày một bức ảnh của Foote và Nguyễn Tấn Dũng chụp khi bà và các đối tác Việt Nam đã gặp thủ tướng tại Hà Nội vào ngày 01 tháng 6 Năm 2007.

"Những Giám đốc thượng thặng của nhóm Đối tác ViệtNam có cơ sở tại Hoa Kỳ cam kết đầu tư vào Việt Nam và tìm kiếm sự giúp đỡ của Chính phủ để làm ổn thoả đường đi cho các kế hoạch của họ trong các cuộc hội họp" trang web của Vietnam Partners đã thuật lại. "Trong cuộc họp, Chủ tịch của nhóm đầu tư, Virginia B. Foote, nói rằng bà sẽ thực hiện các nỗ lực lớn hơn để thúc đẩy hợp tác Mỹ-Việt trong các lĩnh vực khác nhau, bên cạnh việc thúc đẩy đầu tư của công ty mình vào thị trường Đông Nam Á."

Trang web của Vietnam Partners đã thêm những câu nói mạnh mẽ này về những gì thủ tưóng đã phải phát biểu khi Foote yêu cầu ông giúp đỡ để "làm trôi chảy lối ngõ cho Vietnam Partners: "trong phần trả lời, thủ tướng Dũng đã đánh giá cao sáng kiến đầu tư của Vietnam Partners và thôi thúc các giám đốc điều hành của tổ hợp này làm việc cùng các ban ngành có liên quan cùng chính quyền địa phương để bắt đầu các dự án càng sớm càng tốt". Ở một quốc gia thuộc Thế giới thứ ba như Việt Nam, bạn có thể mang những lời ca tụng kiểu ấy đến cái ngân hàng (nhà nước sở hữu) mà ai cũng biết cả.

Foote từ chối bình luận. (Năm ngoái, khi tôi viết rằng công ty luật pháp trước đây của Định từng được liệt kê là một khách hàng của Vietnam Partners, bà Foote nói rằng bà không còn nhớ nữa). Điều này cho thấy rằng trong mắt các nhà lãnh đạo cộng đồng doanh nghiệp Mỹ, bày tỏ bất cứ sự thông cảm nào cho những người như Lê Công Định, Lê Thăng Long, và Trần Huỳnh Duy Thức, thậm chí trong chốn riêng biệt kín đáo, cũng có thể đe doạ đến mối quan hệ kinh doanh béo bở với chính phủ Việt Nam. Ít nhất là bạn không thể gọi ba người đàn ông bị giam cầm là "những người bạn Cộng sản chí cốt với nhau" được.




Hình phạt và lẽ công bằng

Trong tất cả các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm thì hình phạt là biện pháp nghiêm khắc nhất, được áp dụng phổ biến và có tính lịch sử lâu đời. Tính nghiêm khắc của nó thể hiện ở chỗ, nó có thể tước bỏ các quyền và lợi ích của người bị kết án, thậm chí cả quyền sống. Có thể nói trừng trị là một trong những thuộc tính của hình phạt.

Ngoài sự tác động trực tiếp đến người bị kết án, hình phạt còn tác động đến các thành viên trong toàn xã hội. Sự tác động gián tiếp này giúp xã hội hình thành một ý thức chung về sự tôn trọng pháp luật. Con người có thể sợ hình phạt, đó là tâm lý chung, nhưng để con người có ý thức tôn trọng pháp luật thì hình phạt phải phản ánh được sự cần thiết và tính công bằng của nó. Khi hình phạt không phản ánh được sự công bằng thì niềm tin vào công lý không có, và do đó khó có thể giáo dục một ý thức chung cho toàn xã hội về sự tôn trọng pháp luật.

Điểm lại một số vụ án được dư luận chú ý như: Lương quốc Dũng (tội giao cấu với trẻ em), Bùi Tiến Dũng (tội tham ô, đánh bạc) Huỳnh Ngọc Sỹ (tội cố ý làm trái..) v.v.v. Đa số dư luận cho rằng đây là những vụ án “đầu voi, đuôi chuột”, phản ứng này cho thấy có gì đó không công bằng trong quyết định hình phạt của Tòa án. Hay đúng hơn hình phạt mà những người này nhận được không tương xứng với hành vi nguy hiểm mà họ đã gây ra. Dư luận không cần hiểu nhiều về luật pháp nhưng bằng cách so sánh với các vụ án khác, họ dễ dàng nhận ra sự thiếu công bằng. Ví dụ như trộm một chiếc xe, hoặc tài sản đôi ba triệu cũng có thể bị phạt hai ba năm tù, hoặc cướp giật một chiếc điện thoại cũng bị năm sáu năm tù. Có người còn đưa ra những sự kiện có thật để so sánh: một người cướp hai con vịt bị mấy năm tù giam trong khi đó Bí thư của một tỉnh nọ đi xe tông chết hai người chỉ bị ba năm tù nhưng cho hưởng án treo. Phải chăng sinh mạng hai con người không bằng hai con vịt, hay vì một người là quan chức còn người kia là dân thường?

Mới đây vụ án Lê Công Định, ở đây tôi không bàn về khía cạnh họ có tội hay không có tội, mà chỉ muốn phân tích vài khía cạnh của hình phạt để nhận định về lẽ công bằng. Giới truyền thông đưa tin: “Lê Công Định nhận tội và xin Nhà Nước khoan hồng nên tòa xem xét và tuyên án 5 năm tù giam, riêng Trần Huỳnh Duy Thức quanh co chối tội và bị tuyên mức án 16 năm tù”. Thoạt nghe có vẻ công bằng. Cách xét xử và đưa tin như vậy làm cho dư luận, cho các thành viên còn lại trong xã hội nghĩ rằng: nhận tội thì xử nhẹ, không nhận tội thì bị xử nặng. Đó là sai lầm trong cách tuyên truyền và giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật. Hay đúng hơn ở đây chỉ có tính đe dọa chứ không có tính giáo dục. Cần lưu ý rằng “quanh co chối tội’ hay ‘không nhận tội” không phải là tình tiết tăng nặng hình phạt, mà đó là quyền của bị can. Việc không nhận tội là điều hết sức bình thường tại chốn pháp đình. Việc thường xuyên không nhận tội, bác bỏ các cáo buộc của bị can sẽ nâng chất lượng tranh tụng tại tòa, nâng trình độ của Kiểm sát viên và nâng chất lượng xét xử của Tòa án. Lẽ ra Nhà nước nên tuyên truyền và giáo dục công dân của mình đừng bao giờ nhận tội và cũng không cần phải chứng minh mình vô tội. Đó là giáo dục về lẽ công bằng và tôn trọng pháp luật. Không thừa nhận mình có tội cũng là một cách thức tôn trọng pháp luật. Người bị 16 năm tù, người bị 5 năm, khoảng cách 11 năm là quá lớn, nó phản ánh sự “cá thể hóa” hình phạt của tòa là thiếu công bằng và cảm tính. Xét tổng thể vai trò hai người này là ngang nhau, có chăng chỉ khác nhau giữa việc nhận tội và không nhận tội. Thật là vô lý nếu chỉ vì sự khác nhau này mà khoàng cách là 11 năm tù.

Một trong những nội dung lớn để xây dựng Nhà Nước Quyền đó là xây dựng ý thức tôn trọng pháp luật. Người dân có thể vì sự đe dọa của hình phạt mà không dám vi phạm pháp luật, nhưng đó chưa phải là ý thức tôn trọng pháp luật. Muốn giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật thì hình phạt phải bảo đảm sự công bằng. Người dân sẽ không còn tôn trọng pháp luật và sợ sự đe dọa của hình phạt nếu như Tòa án cứ tiếp tục đưa ra những bản án oan sai, đưa ra những hình phạt nhạo báng công lý.

Tổng số lượt xem trang