Thứ Hai, 18 tháng 1, 2010

Sự thoái trào của dân chủ: Đòi hỏi tự do

Sự thoái trào của dân chủ: Đòi hỏi tự do (phần I)
Một xu hướng suy giảm tự do toàn cầu đáng ngại dẫn tới những suy nghĩ nghiêm túc về những điều kiện cần để dân chủ có thể phát triển

Hơn bao giờ hết kể từ sau Chiến Trang Lạnh, dân chủ tự do đang cần được bảo vệ. Lời cảnh báo được đưa ra gần đây bởi Arch Puddington, một người Mỹ có thâm niên đấu tranh cho quyền tự do chính trị và dân sự trên toàn thế giới.
Trong tuần này, lý do khiến ông lo ngại đã trở nên rõ ràng. Freedom House, một tổ chức vận động hành lang có trụ sở ở Washington DC, nơi ông Puddington làm giám đốc nghiên cứu, đã tìm thấy trong bản đánh giá thường niên mới nhất của nó, rằng tự do và nhân quyền
đang rút lui trên quy mô toàn cầu trong 4 năm liền liên tiếp. Bản báo cáo nói đây là giai đoạn chủ nghĩa tự do bị suy yếu dài nhất kể từ khi tổ chức này bắt đầu các báo cáo của mình gần 40 năm trước.
Freedom House phân loại các quốc gia thành ba loại: 'tự do', 'bán tự do' và 'không tự do', dựa trên hàng loạt các chỉ số phản ánh niềm tin của tổ chức này rằng tự do chính trị và nhân quyền là hai thứ có sự liên kết với nhau. Cùng với sự trung thực và công bằng trong hệ thống bầu cử, các quốc gia này được đánh giá trên các phương diện như sự trong sạch của tòa án, sự độc lập của các tổ chức công đoàn. Trong số những phát hiện gần đây nhất, các chính quyền toàn trị không chỉ đông đúc hơn, mà họ còn tự tin và có ảnh hưởng nhiều hơn.
Trong bản báo cáo của nó có tựa đề "Tự do trên thế giới năm 2010: Sự xói mòn toàn cầu đối với tự do", tổ chức vận động hành lang Hoa Kỳ này phát hiện thấy sự đi xuống của chủ nghĩa tự do diễn ra vào năm ngoái trên 40 quốc gia (ở Châu Phi, châu Mỹ Latinh, Trung Đông và khối Sô Viết cũ), trong khi tự do đi lên ở 16 quốc gia khác. Số lượng các nền dân chủ bầu cử giảm mất 3 nước, còn 116, với Honduras, Madagascar, Mozambique và Niger từ bỏ bầu cử dân chủ, trong khi Maldives lại bắt đầu bầu cử dân chủ. Điều này khiến số quốc gia bầu cử dân chủ đạt ngưỡng thấp nhất kể từ năm 1995, cho dù nó vẫn còn khá hơn nhiều con số của năm 1990 là 60 quốc gia.
Nhìn chung, những phát hiện cho thấy có sự thay đổi lớn so với cách nghĩ đầy phấn chấn cách đây 20 năm, khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ ở Sô Viết, cộng với sự sụp đổ của chủ nghĩa apartheid, khiến nhiều người tin rằng dân chủ tự do đã chiến thắng vĩnh viễn. Đối với những học giả hàng đầu như Francis Fukuyama của Hoa Kỳ, đó là lúc mà mọi thứ đều rõ ràng rằng tự do chính trị, thúc đẩy bởi tự do kinh tế, đã đánh dấu một giai đoạn tối cao của sự phát triển của xã hội loài người: "Điểm tận của lịch sử", chí ít là về mặt đạo đức [hoặc tư tưởng].
Những ngày đầu tiên sau sự sụp đổ của Liên bang Sô Viết, Liên Sô và các láng giềng của nó đón nhận hàng loạt các cố vấn phương Tây, giảng giải không chỉ về nền tảng của nền kinh tế thị trường, mà còn các cơ chế của nền dân chủ đa đảng. Và chỉ sau một thời gian ngắn, những chuyên gia này đã kiếm được những người sẵn sàng lắng nghe.
Ngày hôm nay, ý tưởng những nhà chính trị ở các quốc gia hậu cộng sản sẵn sàng lắng nghe những bài giảng từ đối tác phương Tây của họ tỏ ra là điều đáng buồn cười. Có những bằng chứng cho thấy các quốc gia toàn trị lại đang đưa ra những lời khuyên bảo. Ví dụ vào tháng Mười, Đảng Nước Nga Thống Nhất, người ủng hộ điện Kremli, đã tổ chức cuộc gặp gỡ kín mới nhất với Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Bất chấp sự tương phản lớn giữa hai quốc gia - không mấy ai ở Nga nghĩ rằng mô hình Trung Quốc có thể áp dụng cho Nga - người Nga vẫn thích thú lắng nghe "những kinh nghiệm xây dựng hệ thống chính trị thống trị bởi một Đảng" của Trung Quốc, theo như một báo cáo viết về cuộc gặp gỡ.
Đối với những nhà quan sát chủ nghĩa tự do ở phương Tây, điều đáng lo ngại là sự nghiệp dân chủ tự do không chỉ chịu ảnh hưởng chính trị ngược chiều, mà còn cả những cuộc tấn công về mặt học thuật. Các quốc gia bán tự do, không dám chắc phải đi con đường nào, tỏ ra không thuyết phục rằng con đường tự do là con đường của tương lai. Và ở phương Tây, nhiều nhà bình luận đã nhanh chóng chấp nhận những yếu điểm của dân chủ - và thực tế rõ ràng rằng các cuộc bầu cử tự do thường đem lại điều tồi tệ hơn là tốt đẹp, khi thiếu vắng các điều kiện cho một hệ thống chính trị hoạt động tốt. Đó là một dấu hiệu cho giai đoạn mà Humphrey Hawksley, một phóng viên Anh Quốc, đã viết trong cuốn sách có tựa đề: "Dân chủ chết người: Bầu cử có gì là hay?"
Một tranh cãi mang sắc thái khác, chống lại sự quảng bá dân chủ bầu cử trong khi trả giá bằng các mục tiêu khác, đã được đưa ra bởi một số nhà quan sát khác. Paul Collier, một giáo sư Oxford, đã cho rằng dân chủ thiếu vắng các yếu tố thiết yếu khác, ví dụ như nền tảng pháp trị, có thể ngăn cản tiến trình phát triển của quốc gia. Mark Malloch-Brown, nguyên giám đốc Chương trình Phát Triển Liên Hợp Quốc, vẫn tin rằng dân chủ là động lực để phát triển kinh tế, nhưng ông cho rằng ở các quốc gia như Afghanistan, phương Tây đã tập trung quá nhiều vào những thứ thủ tục như bầu cử đa đảng - và đã không chấp nhận ý tưởng rằng những cách đồng thuận khác có thể tồn tại. Tại đại học California, Randall Peerenboom bảo vệ "mô hình Đông Á", theo đó phát triển kinh tế tự nhiên là phải đi trước dân chủ.
Cho dù các học giả có nói gì đi nữa, thì có những lý do rõ ràng tại sao chính quyền phương Tây lại khoái cổ vũ dân chủ, và sự sẵn sàng lắng nghe của các quốc gia khác đã giảm xuống. Trong nhiều khu vực (bao gồm cả các khu vực thuộc phe Phương Tây), sự lật đổ Saddam Hussein ở Iraq, và cuộc chiến đẫm máu sau đó, đã khẳng định nghi ngờ của nhiều người rằng cổ vũ dân chủ như một mục tiêu của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ là che dấu mưu đồ xấu xa, hoặc đơn giản là không thành thực.
Ở Afghanistan, một quốc gia khác mà liên minh do Hoa Kỳ dẫn đầu đang tiến hành chiến tranh dưới danh nghĩa dân chủ hóa, tham nhũng và những hành động thiếu trung thực của đội nghĩ lãnh đạo chính trị địa phương, và sự gian dối trong cuộc bầu cử năm ngoái, đã khiến nhiều người xấu hổ. Ở Trung Đông, sự nhiệt tình cổ vũ dân chủ của Hoa Kỳ đã bị dội nước lạnh sau cuộc bầu cử ở Palestine năm 2006, khi Hamas dành phần thắng và lên nắm quyền. "Quyền lực mềm" của EU đối với các quốc gia Đông Âu cũng giảm dần khi sự mệt mỏi trong tiến trình kết nạp thành viên ngày càng tăng.
Nhưng có lẽ lý do lớn nhất tại sao sức hút mạnh mẽ của dân chủ lại giảm dần là sự đi lên của Trung Quốc - và niềm tin rằng những ai bắt chước con đường của Trung Quốc cũng sẽ tạo ra một nền kinh tế năng động mà không cần phải nới lỏng kiểm soát quyền lực. Trong nhiều bài diễn văn chính trị bóng bẩy ở các chính quyền toàn trị, sự thích thú sao chép thủ thuật của Trung Quốc có thể được thấy rõ.
Ví dụ, đảng Baath đang cai trị Syria nói về "một nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng trong khi duy trì ổn định. Đảng CS Việt Nam đã bắt chước cải cách kinh tế của Trung Quốc, nhưng nó chính là một trong những quốc gia bị lên án bởi Freedom House năm nay vì đã đàn áp tự do. Iran đã mời các chuyên gia luật pháp và các nhà kinh tế Trung Quốc tới. Có rất ít điểm giống nhau giữa một nước cộng hòa Hồi Giáo và một nước Cộng sản, nhưng cả hai tỏ ra đều đồng ý rằng phải tránh xa: Tự do kiểu phương Tây.
Ngay cả Cuba, trong khi vẫn nắm chặt tư tưởng Marxist, đã bắt đầu tỏ ra quan tâm đến những cải cách kinh tế của Trung Quốc. Và từ cách nhìn của nhiều quốc gia nghèo, đặc biệt là châu Phi, hợp tác với Trung Quốc, cả về kinh tế lẫn chính trị, đem lại nhiều lợi ích: chí ít là Trung Quốc sẽ không tìm cách giảng cho họ về quyền tự do cá nhân và tự do chính trị. Sự khủng hoảng kinh tế tòan cầu - và khả năng vượt qua khủng hoảng của Trung Quốc - đã rõ ràng tạo ra một sức quyến rũ nhất định. Quyền lực của Trung Quốc (và hệ quả là việc ít quan tâm đến nhân quyền hơn) là điều có thể cảm nhận được ở Trung Á. Nhưng những nhà bất đồng chính kiến trong khu vực này để ý thấy rằng, không phải chỉ sự ảnh hưởng của Trung Quốc khiến sự nghiệp của họ trở nên vất vả hơn; mà còn do các chính quyền phương Tây thường trộn lẫn những mối quan tâm đạo đức của mình với mối quan tâm vì thương mại.
Sự thoái trào của dân chủ: Đòi hỏi tự do (phần II)

Không có khuynh hướng khoan dung và điều khiển những sự khác biệt, các nhóm đối địch có thể dễ dàng biến nền dân chủ thành một cuộc tranh dành quyền lực tàn nhẫn mà đích đến cuối cùng là xóa bỏ thể chế tự do.

Những lập luận thuyết phục

Với tình hình ngày này dân chủ không thể tiến lên bằng con đường quân sự hay áp đặt kinh tế của phương Tây, chúng ta chỉ còn biết mong đợi vào chiến thắng qua một cuộc tranh luận thực sự cởi mở. Nói cách khác, các quốc gia đang dao động, và các xã hội còn nghi ngờ, phải được thuyết phục rằng tự do chính trị là điều có lợi nhất.

Số phận của dân chủ tự do
Vậy ngày nay những người bảo vệ cho con đường dân chủ phải thuyết phục như thế nào? Như nhiều nhà triết gia đã nói, những luận điểm mạnh mẽ nhất bảo vệ cho một môi trường cạnh tranh chính trị tự do là phủ định. Dân chủ không nhất thiết tạo ra những chính sách tuyệt hảo, nhưng nó có thể canh gác chống lại những ý định xấu xa, xét từ một gã độc tài tàn bạo (mà các thể chế toàn trị "ôn hòa" dễ dàng trượt ngã theo hướng này) cho tới sự tham nhũng tài sản công.
Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (TI), một tổ chức giám sát tham nhũng, đã nói tất cả - trừ 2 - trong số 30 quốc gia ít tham nhũng nhất thế giới là các nền dân chủ (trong đó trừ Singapore và Hong Kong, và hai quốc gia này được coi là bán dân chủ). Các thể chế độc tài có xu hướng chiếm xếp hạng cao trong thang điểm tham nhũng (Trung Quốc đâu đó ở khoảng giữa), và dễ dàng có thể thấy tại sao. Những lãnh đạo chính trị có quyền lực to lớn, lại không bị đe dọa bởi các cuộc bầu cử công bằng và tự do, có thể dễ dàng thoát khỏi sự kiểm soát của công chúng với tiền đầy trong túi. Một kẻ mạnh thường cố duy trì quyền lực của mình bằng cách cung phụng cho những người ủng hộ mình bằng tiền từ ngân sách công, cũng như mua chuộc kẻ thù của mình, dẫn đến sự phân bổ sai trái những nguồn lực khổng lồ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng rất dễ dàng tìm thấy các nền dân chủ tham nhũng - thật vậy, ở một nơi đổ nát như Afghanistan thì các cuộc bầu cử đôi khi có vẻ chỉ để tạo ra những điều tồi tệ hơn. Hoặc xét các nước thuộc Cộng hòa Sô Viết cũ. Nga là một quốc gia độc tài và có vấn đề lớn với tham nhũng; Ukraina thì dân chủ hơn, các cuộc bầu cử sắp tới là một cuộc thi thực sự dành quyền lực, với kết quả chưa biết trước - nhưng nó cũng có vấn đề tham nhũng khá lớn. Ukraina không có "Kremli", không có một chính phủ áp đặt quyền lực độc tôn lên tất cả các đối thủ, nhưng điều đó không làm cho nó sạch sẽ hoặc được quản trị tốt hơn.
Còn về lập luận rằng phát triển kinh tế, chí ít là trong những giai đoạn đầu tiên, tốt hơn hết là phải có một nhà độc tài tốt bụng? Lý Quang Diệu, cựu thủ tướng Singapore, đã từng khẳng định rằng dân chủ sẽ dẫn tới "điều hành hỗn loạn", làm gián đoạn quá trình tích lũy vật chất. Nhưng không có bằng chứng nào cho thấy các quốc gia độc tài, xét trung bình, phát triển nhanh hơn so với các nền dân chủ. Đối lại với mỗi thành công độc tài (cũ) Đông Á như Đài Loan hoặc Nam Hàn, lại có một Ai Cập hay một Cameroon (hoặc một Bắc Hàn hay một Myanmar), vừa khắc nghiệt, vừa phát triển chậm chạp.
Mối liên hệ giữa hệ thống chính trị và tăng trưởng là điều khó thiết lập. Nhưng vẫn có một số bằng chứng rằng, xét trung bình, dân chủ làm tốt hơn. Một nghiên cứu của Morton Halperin, Joseph Siegle và Michael Weinstein cho Hội đồng Quan Hệ Đối Ngoại (CFR), sử dụng dữ liệu của Ngân hàng Thế giới từ 1960 tới 2001, tìm thấy rằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm là 2,3% đối với các nền dân chủ, và 1,6% cho các chế độ độc tài. Các nghiên cứu khác, tuy nhiên, ít rõ ràng hơn.
Những người tin rằng dân chủ là động cơ của sự tiến bộ thường xuyên nêu luận điểm rằng môi trường tự do là cái cần nhất cho nền kinh tế tri thức, nơi tư duy độc lập và sáng tạo là điều sống còn. Rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà tất cả các nền kinh tế đứng trong top 25 của Chỉ Số Sáng Tạo Toàn Cầu lại là nền dân chủ, ngoại trừ hai thể chế bán dân chủ là Singapore và Hồng Kông.
Trung Quốc, nước đứng thứ 27 trong bảng này, thường được trích dẫn như là một ngoại lệ đặc biệt khỏi quy luật nói trên. Trí tuệ Trung Quốc đã có những bước tiến lớn trong lĩnh vực như điện toán, công nghệ xanh hay du hành vũ trụ. Sự quyết tâm của nhà cầm quyền Trung Quốc trong việc đặt ra dấu ấn riêng của mình trong lĩnh vực cách mạng thông tin đã được nêu bật trong tuần này khi Google, một công ty cung cấp công cụ tìm kiếm, đã nói nó có thể rút khỏi Trung Quốc sau khi một đợt tấn công trên không gian mạng nhắm vào các nhà hoạt động nhân quyền bị phát hiện. Kể từ khi bước vào thị trường Trung Quốc năm 2006, Google đã đồng ý cho kiểm duyệt một số kết quả tìm kiếm, theo sự khăng khăng của chính quyền.
Những người thán phục bàn tay sắt của Trung Quốc có thể kết luận rằng Trung Quốc có thể xoay xở được mà không cần đến những thứ đại loại như Google, vốn bị đánh bại trên thị trường nội địa bởi Bách Độ (Baidu), một công ty của Trung Quốc. Nhưng trong trung hạn, não trạng khăng khăng muốn kiểm duyệt các công cụ tìm kiếm chắc chắn sẽ ngăn cản những nỗ lực sáng tạo. Và không quốc gia nào nên mơ tưởng rằng, bằng cách trở nên độc đoán giống Trung Quốc, họ có thể tự nhiên trở nên năng động như Trung Quốc.
Thế còn về lập luận rằng sự độc tài tạo ra một sự ổn định [chính trị] mà không có nó, kinh tế không thể phát triển? Thực tế, không có bằng chứng nào cho thấy các quốc gia độc tại lại ổn định hơn các quốc gia dân chủ. Ngược lại thì có. Mặc dù các nhà chính trị dân chủ tốn rất nhiều thời gian vào do dự, tranh cãi, to tiếng và phản đối lẫn nhau; những gì họ làm lại củng cố sự ổn định của quốc gia trong trung hạn; nó cho phép các lợi ích, các quan điểm của nhiều người được xã hội lắng nghe trước khi hành động. Theo như Chỉ Số Độ Bất Ổn Quốc Gia (State Fragility Index), được xuất bản hàng năm bởi Trường Đại Học George Mason, và nó nghiên cứu những tham số như "độ hiệu quả chính trị" và an ninh, thì các nền dân chủ có xu hướng làm việc tốt hơn nhiều so với độc tài. Nhà nước Yugoslavia của Tito đã từng ổn định, cũng như Saddam Hussein ở Iraq, nhưng khi chiếc áo chật hẹp giữ cho hệ thống của họ gắn kết với nhau rớt xuống, thì kết quả là những áp lực chất chứa lâu ngày bùng phát, và đó là cơ hội vàng cho những kẻ cực đoan lợi dụng sự hỗn loạn.
Ít nhất, một văn hóa thỏa hiệp [tôn trọng sự khác biệt] - cộng với sự chịu trách nhiệm và giới hạn quyền lực nhà nước lớn hơn - đã giúp cho các nền dân chủ phòng tránh được những sai lầm tai hại, hay những sự tàn ác trái pháp luật, một cách tốt hơn. Những ác mộng đẫm máu làm hàng triệu người chết, như Bước Đại Nhảy Vọt của Trung Quốc, hay những chương trình cưỡng ép nhân dân vào hợp tác xã của Liên Bang Sô Viết, đã có thể thành công chính là nhờ sự tập trung quyền lực vào tay một nhóm nhỏ, mà hoàn toàn không có sự giới hạn nào.
Các chính phủ dân chủ tự do có thể phạm nhiều sai lầm ngớ ngẩn, nhưng họ ít có khả năng thực hiện việc giết người hàng loạt. Amartya Sen, một người đoạt giải thưởng Nobel kinh tế, đã đưa ra một lập luận nổi tiếng rằng chưa từng có nạn đói lớn nào diễn ra tại các quốc gia có báo chí tự do và các cuộc bầu cử công bằng. Và nghiên cứu của ba học giả CFR cho thấy rằng thảm họa kinh tế (được định nghĩa như là một sự suy giảm là 10% hoặc hơn trong GDP trong một năm) có xác suất xảy ra tại các quốc gia độc tài nghèo nhiều gấp hai lần so với nền dân chủ. Không có cơ quan lập pháp ồn ào hay tòa án mạnh mẽ để duy trì trật tự, các nền độc tài có thể chạy nhanh hơn và dũng cảm hơn. Nhưng họ cũng dễ gặp phải tai nạn hơn.
Dù có nhiều điều làm người ta thất vọng, một chính quyền cởi mở và có trách nhiêm có xu hướng đưa ra những chính sách tốt hơn về lâu về dài. Đó là bởi vì, không có một nhóm quan lại nào, dù thông minh và tử tế đến đâu, có thể chắc chắn rằng cái gì là tốt nhất cho một xã hội phức tạp. Các quốc gia độc tài có xu hướng quá nặng nề ở trên đỉnh: mặc dù các quyết định có thể được thực hiện dễ dàng hơn, các đặc tính của độc tài - bao gồm tính bí mật và sự hoang tưởng của họ - khiến các giải pháp thay thế [hay các quan điểm thay thế] khó lòng xuất hiện. Trên tất cả, các cuộc bầu cử làm cho việc chuyển giao quyền lực diễn ra hợp pháp và bằng phẳng. Các quốc gia độc tài trông có vẻ ổn định dưới một vị lãnh đạo mạnh mẽ, nhưng chúng có thể dễ dàng rơi vào bất ổn, thậm chí hỗn loạn đẫm máu, nếu quá trình chuyển giao quyền lực đi trệch hướng. Bầu cử tự do cũng có nghĩa là các sai lầm về chính sách, thậm chí cả những cái tồi tệ nhất, có thể được điều chỉnh nhanh chóng. Các tư tưởng tươi trẻ có thể được đặt lên bàn, và các nhà chính trị thường bị tống cổ trước khi họ trở nên quá kiêu ngạo.
Nhưng nếu chúng ta học được điều gì từ những phản ứng gần đây chống lại sự nhiệt tình dân chủ, thì đó là hòm phiếu bầu cử - khi đứng một mình - chẳng giải quyết điều gì. Trừ khi luật pháp bảo vệ vững chắc của quyền của các cá nhân và thiểu số, và quyền lực của chính phủ bị hạn chế bằng những cơ chế kiểm tra rõ ràng, ví dụ như những tòa án độc lập và khắc nghiệt; thì một cuộc bầu cử chỉ đơn giản là có thể dẫn tới một "nền chuyên chế của số đông", như Alexis de Tocqueville, một nhà triết gia Pháp, đã nói. Điểm này đặc biệt đúng tại một số quốc gia, nơi mà các chính trị Hồi giáo dường như có khả năng thắng thế trong mọi cuộc bầu cử mở. Ở những nơi như vậy, dân tộc thiểu số - bao gồm cả những người Hồi giáo bất đồng chính kiến - thường thích tiếp tục được nằm dưới sự an toàn tương đối được cung cấp bởi một nhà độc tài.
Một giải thích khác là dân chủ chưa từng thắng thế ở các quốc gia có nền kinh tế chủ yếu là phi thị trường. Sự tồn tại của một bộ máy nhà nước khổng lồ có thể can thiệp vào mọi nơi mọi chỗ trong nền kinh tế có thể gợi ý cho các nhà lãnh đạo sử dụng quyền lực đó để chống lại các đối thủ chính trị của mình. Có toàn quyền kiểm soát nền kinh tế cũng bóp nghẹt cái mà Istvan Bibo, một nhà nghiên cứu chính trị Hungary, gọi là "những vòng tròn nhỏ của tự do" - quyền tự do lập hội và xã hội dân sự, vốn được chấp nhận trong nền kinh tế tự do. Các nền kinh tế thị trường giúp tạo ra tầng lớp trung lưu, tầng lớp này ít bị ảnh hưởng bởi sức ép và sự bảo trợ chính trị của nhà nước.
Có lẽ quan trọng nhất, dân chủ cần những nhà lãnh đạo với xu hướng và khả năng thỏa hiệp: những gì Walter Bagehot, một biên tập viên của The Economist vào thế kỷ 19, gọi là "khuynh hướng thà từ bỏ điều gì đó còn hơn là dùng tới đồng xu cuối cùng". Không có khuynh hướng khoan dung và điều khiển những sự khác biệt, các nhóm đối địch có thể dễ dàng biến nền dân chủ thành một cuộc tranh dành quyền lực tàn nhẫn mà đích đến cuối cùng là xóa bỏ thể chế tự do.
Điều này cho thấy, dân chủ sẽ có nhiều khả năng thành công ở quốc gia mà người dân chia sẻ cảm giác "nhiễu điều phủ lấy giá gương", không tồn tại những rạn nứt chủng tộc hay văn hóa có thể biến các xung độc chính trị thành xung đột vũ trang. Tốt nhất là "mọi người thân thiện với nhau đến mức họ có thể an toàn tranh cãi", như Lord Balfour, một nhà chính trị người Anh thế kỷ 19, đã nói. Đó rõ ràng không phải trường hợp ở Nam Tư trong những năm 1990 hoặc tại Li-băng vào thập niên 1970.
Ngay cả khi các điều kiện cần thiết đã có, dân chủ không dễ dàng thắng thế, nếu như những người ủng hộ nó không chứng tỏ sự thành công của phương pháp điều hành dân chủ. Không một thể chế nào có thể, tự bản thân mình, đảm bảo điều hành tốt. Sự thành công của bất kỳ thể chế chính trị nào, xét cho cùng, phụ thuộc vào việc nó có cung cấp được những thứ cơ bản như an ninh, sự giàu có và công lý. Và tại các quốc gia đang thử nghiệm dân chủ, thực tế hàng ngày quả thực phức tạp hơn những gì mà những người ủng hộ dân chủ nhiệt tâm hay những người hoài nghi thể chế độc tài có thể tưởng tượng.
Tại Kabul, một thanh niên 26 tuổi siêng năng có tên Jamshed nói thay cho nhiều đồng bào của mình, khi anh ta liệt kê những ưu và khuyết điểm của trật tự mới do phương Tây đặt ra. So với cuộc sống dưới thời Taliban, anh ta đánh giá cao những quyền lợi mới mẻ như "tự do nghe nhạc, đi dạo chơi với vợ, được học và làm bất kể điều gì bạn muốn". Nhưng anh ta không thể không nhớ lại rằng "dưới thời Taliban, bạn có thể bỏ tiệm đó để đi cầu nguyện và không ai dám ăn cắp cái gì... bây giờ chính phủ thật là tham nhũng, họ lấy tất cả tiền của bạn".
Jamshed chưa bao giờ đọc John Stuart Mill hay Ayn Rand. Nhưng dù anh ta bị cai trị bởi các giáo sĩ [Taliban] hay những chính trị gia chiến thắng trong cuộc bầu cử kiểu phương Tây, thì anh ta cũng biết rõ điều gì anh ta không muốn.

Tổng số lượt xem trang