Thứ Ba, 5 tháng 1, 2010

Tân niên của Trung Quốc (Paul Krugman)

Tân niên của Trung Quốc (Paul Krugman)

“…một số quốc gia đã chủ trương những biện pháp bảo hộ rất khiêm nhường chỉ vì Trung Quốc từ chối không thả lỏng để đồng NDT tăng giá. Những biện pháp bảo hộ trên hoàn toàn thích đáng…”
Lúc này thường là thời điểm để các học giả uyên thâm đưa ra những dự đoán cho năm mới. Những dự đoán của tôi nghiêng về lãnh vực kinh tế toàn cầu: Tôi cho rằng năm 2010 sẽ là năm của Trung Quốc. Nhưng tiên đoán này không chứa đựng điều gì tốt đẹp cả.

Đối với Trung Quốc, chắc chắn những vấn đề lớn lao đều liên quan đến hiện tượng thay đổi khí hậu. Nhưng hôm nay, đề tài tôi muốn nói đến là chính sách tiền tệ.



Trung Quốc đã trở thành một cường quốc thương mại và tài chính. Nhưng quốc gia này không ứng xử như những cường quốc kinh tế khác. Ngược lại, Trung Quốc đeo đuổi chính sách trọng thương. Họ cố gắng duy trì, một cách gượng gạo, tình trạng bội thu khá cao của cán cân thương mại. Nói một cách thẳng thừng, với hiện trạng khủng hoảng toàn cầu, chính sách này không khác gì một hành động cướp bóc.

Có thể trình bày chính sách này như sau: Khác với những đơn vị tiền tệ được thả nổi (đồng USD, Euro hay Yen), đồng Nhân Dân Tệ (NDT) được neo vào USD theo tỉ lệ hối đoái nhất định – 6.8 NDT/1.0 USD.

Với tỉ lệ hối suất này, nền công nghiệp Trung Quốc thụ hưởng được một hoàn cảnh thuận lợi với mức giá thành thấp so với các đối thủ thương mại. Hệ luỵ của nó là một cán cân thương mại thặng dư khổng lồ.

Bình thường, nguồn lợi tức (chủ yếu bằng USD) đến từ bội thu sẽ nâng cao giá trị của NDT, trừ khi dòng chảy vào này được bù trừ bằng luồng tư bản được giới tư nhân Trung Quốc huy động đầu tư ở ngoại quốc. Thật ra thì các doanh nhân quốc tế đang cố gắng đem tiền vào Trung Quốc để đầu tư chứ không có hiện tượng đem tiền ra khỏi Trung Quốc.

Hơn nữa, Bắc Kinh đang hạn chế nguồn tư bản nhập vào Trung Quốc, mặc dù chính quyền vẫn mua vào USD để đầu tư ra ngoại quốc, góp phần gia tăng quỹ dự trữ ngoại tệ lên đến 2 ngàn tỉ USD.

Chính sách này tuyệt hảo cho các liên doanh nhà nước chuyên về xuất cảng. Nó không hẳn là tốt đẹp cho người tiêu thụ Trung Hoa. Nhưng nó có tác động ra sao đối với chúng ta?

Trong quá khứ, số lượng ngoại tệ của Trung Quốc đã được chuyển vào Hoa Kỳ để thu mua trái phiếu và công phiếu Liên Bang. Vì vậy, hiện tượng gia tăng tích trữ ngoại tệ của Bắc Kinh đã được bào chữa rằng chính nó đã góp phần hạ thấp tỉ lệ lãi suất Hoa Kỳ – Dẫu rằng, lãi suất thấp đã là mồi lửa cho hiện tượng thổi phòng bong bóng địa ốc.

Nhưng hôm nay, lối bào chữa này không còn tính thuyết phục nữa. Thế giới đang bị ứ đọng bởi nguồn tư bản rẻ rúng đang tìm cơ hội để đầu tư: Tỉ lệ lãi suất ngắn hạn đã giảm xuống gần 0%. Tỉ lệ lãi suất dài hạn có cao hơn, nhưng nó cao vì giới đầu tư cho rằng chẳng chóng thì chầy chính sách «lãi suất 0%» sẽ phải chấm dứt. Hiện nay, việc Trung Quốc huy động ngoại tệ để mua trái phiếu hay công phiếu Hoa Kỳ chẳng có tác động gì trên lãi suất. Nếu có, tác động cũng sẽ rất hạn chế.

Trong lúc đó, bội thu thương mại của Trung Quốc đang cướp đi những nhu cầu mà thế giới đang cần một cách cấp bách trong tình hình trì trệ hiện nay. Theo tính toán sơ sài của tôi, chính sách trọng thương của Trung Quốc huỷ hoại khoảng 1.4 triệu công ăn việc làm tại Hoa Kỳ.

Trung Quốc từ chối nhìn nhận vấn đề này. Gần đây Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã gạt ngang những phàn nàn đến từ ngoại quốc khi ông tuyên bố: «Một mặt, quý vị muốn đồng NDT tăng giá và, mặt khác, quý vị cũng chủ trương áp dụng mọi hình thức thuế quan bảo hộ». Thật ra, một số quốc gia đã chủ trương những biện pháp bảo hộ rất khiêm nhường chỉ vì Trung Quốc từ chối không thả lỏng để đồng NDT tăng giá. Những biện pháp bảo hộ trên hoàn toàn thích đáng.
Photobucket - Video and Image Hosting
Có chắc là thích đáng không? Tôi thường được nghe hai lập luận chủ trương không thách thức Trung Quốc. Cả hai lập luận đều không đứng vững.

- Đầu tiên, có những người lên tiếng cho rằng chúng ta không nên chọn lựa giải pháp chạm trán vì Trung Quốc sẽ trút hết mọi tàn phá vào nền kinh tế Hoa Kỳ bằng cách bán tống bán tháo lượng USD mà họ dự trữ. Suy luận này hoàn toàn sai lầm không chỉ vì, làm như vậy, Trung Quốc sẽ tự giáng cho mình những tổn thất khổng lồ. Hơn thế nữa, những nhân tố đã tạo điều kiện cho chính sách trọng thương Trung Quốc gây thiệt hại đang trở thành những nguyên nhân hạn chế khả năng tài chính của Trung Quốc.

Như đã đề cập trên, thế giới đang bi ứ đọng bởi nguồn tư bản rẻ rúng. Vì vậy, không có lý do để lo ngại rằng lãi suất Mỹ sẽ tăng vọt nếu Trung Quốc đem nguồn USD ra bán lấy bán để. Hành động này chỉ có thể làm USD yếu đi so với các đồng tiền khác. Như vậy tác động sẽ rất tích cực chứ không tiêu cực cho khả năng cạnh tranh và cho công ăn việc làm tại Mỹ. Rõ ràng nếu Trung Quốc quyết định hành động như vậy, chúng ta sẽ gửi đến Bắc Kinh những lời cảm tạ chân thành.

- Song song đó cũng có lập luận cho rằng, trong mọi tình huống, phản ứng bằng chính sách thuế quan bảo hộ là một hành vi xấu xa. Nếu quý vị đồng tình với quan điểm này, quý vị đã hấp thụ môn kinh tế sơ đẳng từ những người thiếu hiểu biết. Thật vậy, mọi nguyên tắc, mọi quy luật sẽ không còn giá trị nào khi nạn thất nghiệp lên cao và khi chính phủ không phục hồi được tình hình toàn dụng nhân công.

Xin phép được trích dẫn một đoạn từ bài luận văn kinh điển của Paul Samuelson, người vừa qua đời cách đây không lâu nhưng cũng là người góp phần sáng tạo ra môn khoa học kinh tế hiện đại. Ông cho rằng: «Với tình trạng công ăn việc làm thấp hơn là cao… tất cả lý lẽ đã bị lố bịch hoá của hệ phái trọng thương đều trở nên xác thực». Lý lẽ của hệ phái trọng thương có thể tóm tắt như sau: những quốc gia hỗ trợ cho xuất cảng đều cướp đi công ăn việc làm ở các nước khác. Rồi Samuelson chứng minh rằng hiện tượng thiếu cân xứng trong tỉ lệ hối đoái làm nảy sinh những vấn nạn cho chủ thuyết tự do mậu dịch. Câu trả lời thích nghi nhất cho những vấn đề này là đem hệ thống hối đoái trở lại với trạng thái bình thường đáng lẽ phải hiện hành. Nhưng chính trạng thái này đã bị Trung Quốc ngăn cản không cho xảy ra.

Nói cho cùng, chủ thuyết trọng thương của Trung Quốc ngày càng trở nên một vấn đề phức tạp. Các nạn nhân của chủ thuyết này không còn gì để mất trong cuộc chạm trán mậu dịch. Vì vậy, tôi khẩn khoản thôi thúc chính phủ Trung Quốc xét lại thái độ ương bướng của mình. Bằng không, tình trạng bảo hộ mà Bắc Kinh đang than phiền, mặc dù tầm vóc vẫn còn hạn chế, sẽ trở nên to tát hơn.
Paul Krugman
Nguồn: The New York Times, ngày 31.12.2009.
Nguyễn Huy Đức chuyển ngữ

Phan Văn Song

Hội nghị Thượng đỉnh Asean 2007 - Ảnh Reuters
Những tháng cuối năm 2009, Đông Nam Á được thế giới chú ý đến một cách đặc biệt. Những đề nghị của Úc, của tân thủ tướng Nhật Yukio Hatoyama, muốn biến ASEAN thành một thị trường chung như thị trường Châu Âu, là những đầu đề nóng bỏng cho những chuyện thời sự cuối năm.
Rồi với những đề nghị của cuộc họp ASEAN +3 (Trung Cộng, Nhật, Đại Hàn), Đông Á cũng muốn nhảy vào sống chung với Đông Nam Á. Những quốc gia Tiểu Long (Đông Á) cũng muốn “ăn có” hay “xí phần” của những quốc gia Tiểu Hổ? Nhưng ASEAN +3 cũng có nghĩa là ASEAN có chút máu Tây. ASEAN +3 là ASEAN cộng thêm cả ANZUS (Australia, New Zealand, USA). Ba anh Tây của Thái Bình Dương, bổn cũ lặp lại của thời chiến tranh lạnh be bờ của SEATO (Liên Phòng Đông Nam Á) + với ANZUS dạo nào.
ASEAN+3 Đông Á hay ASEAN+3 Tây? ASEAN- cô dâu quá đẹp, lấy Tây hay lấy Tàu? Đường tình duyên trắc trở, Đông Nam Á sao giống Việt Nam quá vậy, thân phận Thúy Kiều, yêu Kim Trọng, nhưng vì nghèo, vì gia đình, chỉ có một đường duy nhứt là bán mình, nhưng thằng Tây bên thằng Tàu là những đối tượng như thế nào?…
Đại Văn Hào Nguyễn Du tài tình lấy chuyện Kim Vân Kiều để kể tâm sự đời mình đã vô tình biến Kim Vân Kiều làm điển hình cho vận mạng đất nước Việt Nam. Nhưng Cụ Nguyễn Du kết luận câu chuyện dễ dàng là cho Thúy Kiều trầm mình tự tử nhưng được Phật cứu mạng. Vận mạng Việt Nam ta giờ đây, ngay cả muốn tự tử cũng không thể được, vì đã trầm mình xuống sông Tiền Đường của chủ nghĩa cộng sản quốc tế rồi.
Trở lại với Đông Nam Á và các quốc gia Tiểu hổ.
Đông Nam Á có thể tự lực tự cường không? Một thị trường chung Đông Nam Á có thể đương đầu với hai anh láng giềng khổng lồ trung khu vực là Ấn Độ và Trung Cộng không? Một bên Con Voi, một bên Con Rồng, liệu những Con Cọp Nhỏ có thể sống nổi không?
Còn Việt Nam? Trong thế địa lý tiền đồn chiến lược be bờ cho một tham vọng bành trướng bá quyền của Trung Cộng về phương Nam mỗi ngày một hung hăng, làm sao giữ được độc lập, tự túc, tự cường? Làm sao giữ được lãnh thổ, lãnh hải, biên giới, hải đảo?…
Năm Con Cọp, năm bản lề
Nền kinh tế thế giới, sau cơn bệnh khủng hoảng trầm thoái kinh tế 2008-2009, cần một thời gian để phục hồi. Những nhà nước tư bản Âu Mỹ cứu vãn bằng các biện pháp như, một mặt cho cho vay (tức phải in thêm tiền) và bảo trợ các công ty tài chánh, mặt khác bung ra những gói kích cầu để bù trừ mức giảm sút tiêu thụ gây ra bởi kinh tế đình trệ, nạn thất nghiệp… G7, G20 đã nhóm họp để ứng cứu nền kinh tế, nhưng có vẻ không phải lúc nào cũng suôn sẻ.
2010 là năm người bệnh kinh tế thế giới đang cần thời gian điều dưỡng, nhưng khổ thay, dân chúng không còn thời gian và nhẫn nại để chờ đợi nữa.
Ngày nay thế giới đang có 1 tỷ người nghèo đói. Hội Nghị Thượng đỉnh FAO (Food and Agriculture Organization -Tổ Chức Quốc Tế Lương thực và Nông Nghiệp Thế giới) trong hai ngày từ 16 đến 18 tháng 11 năm 2009 đã không được một vị nguyên thủ quốc gia nào của nhóm G7 hay G20 nào chú ý đến.
Vậy thì thử đặt câu hỏi. Vai trò của Mỹ? Chuyến công du châu Á của Tổng Thống Obama trong dịp cuối năm 2009 sẽ đem lại gì cho hoà bình thế giới (cho đúng với mong ước của các thành viên Hội đồng giải Nobel khi quyết định trao giải Nobel Hòa Bình cho Tổng Thống Obama!)? Và sẽ làm gì để cân bằng kinh tế hay chính trị ở ASEAN?
Còn với Việt Nam ta? Những tuyên bố lay hoay của Vị Tư lệnh Hạm đội 7 của Mỹ về những hoạt động thăm dò khoa học trên Biển Đông hay Tây Thái Bình Dương, bất kể những vùng ấy đã được Trung Cộng xem là thuộc vùng đặc nhiệm kinh tế (ZEE) của mình; hay hiện tượng gởi một Trung tá Hải quân gốc Việt Nam chỉ huy một khu trục hạm tối tân đến thăm Việt Nam để tạo một điển hình, hù anh láng giềng phương Bắc của Việt Nam – đều chỉ mang giá trị của những lời tuyên bố hay một cuộc viếng thăm hữu nghị. Nó cũng giống như những cử chỉ nho nhỏ, marketing quảng cáo lấy lòng dư luận, kiểu Tổng Thông Clinton đi ăn phở hay Trung tá Hùng đi ăn bún bò Huế – Phở ở khu Eden hay Cali!
Trước đây, cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu đã từng có cả lá thư của Tổng Thống Huê Kỳ cùng thời hứa sẽ không bao giờ bỏ rơi miền Nam Việt Nam, như một lá bùa hộ mệnh cho miền Nam, nhưng kết quả thế nào chúng ta cũng đã biết… Chúng ta đã là những nạn nhân của những hứa hẹn ấy! “Những lời hứa hẹn chỉ có hiệu lực với những ai tin vào những lời hứa hẹn” – Jean de La Fontaine.
Hiệp hội ASEAN
ASEAN thoát thai từ tổ chức SEATO thời chiến tranh lạnh, để cùng các đồng minh của Việt Nam Cộng Hòa Mỹ, Úc Châu, New Zeland (khối ANZUS) be bờ chống họa xâm lăng đỏ của Trung Cộng và Cộng sản Bắc Việt. Năm 1967, tại Bangkok, năm quốc gia: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore và Philippines quyết định thành lập một Hiệp hội phi quân sự kiểu SEATO, với mục đích gắn bó tương tác phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, hành chánh… hầu giữ vững nền an ninh và hòa bình cho vùng (Hiến chương và tinh thần Bangkok 1967). Sau chiến tranh Việt Nam, Brunei gia nhập (1984). Tiếp đến Việt Nam (1995), Miến Điện, Lào (1997) và Cambodia (1999) nhập cuộc. Hiện nay có tất cả 10 quốc gia.

Muời quốc gia, nhưng mười phương thức tổ chức khác nhau, không đồng gốc tôn giáo, không đồng gốc văn hóa, đồng sàng nhưng dị mộng. Mâu thuẫn và nghịch lý đầy rẫy.
Cũng vì khác biệt nhau nên tất cả đều đồng ý không được phép nói chuyện của nhau. Việt Nam độc tài độc đảng đàn áp dân chủ, ASEAN no care, không cần, Miến Điện và Cao Miên quân phiệt, ASEAN no care, không màng, Brunei Thái Lan quân chủ lập hiến, ASEAN cũng no care, không ý kiến, Philippines và Indonesia bầu cử thiếu dân chủ, ASEAN no care, làm ngơ, và no comment luôn!
Khi rủi ro, hai hội viên như Thái lan và Cambodia xung đột vừa qua, ASEAN chỉ biết… chắc lưỡi lấy làm tiếc! (Số là Cambdia mời cựu Thủ tướng Thaksin Shinawatra làm cố vấn. Ông Thaksin đang bị Thái Lan truy nã về tội tham nhũng, Thái đòi Cambidia dẫn độ, Thủ tướng Hun Sen không đồng ý. Thái Lan chơi tới luôn, hai quốc gia triệu hồi đại sứ về nước. Cũng may, thế kỷ XXI không có cái màn chém Sứ quân, nếu không hai cái đầu của hai Sứ thần nầy, nếu sống dưới thời Chiến Quốc hay Tam Quốc đã rụng rồi.
ASEAN rất có nhiều tham vọng, đầu tiên là tham vọng kinh tế, muốn tất cả các hội viên của Hiệp hội thành những quốc gia Tiểu Hổ, như những quốc gia từng được gọi là Tiểu Long của vùng Đông Á (Đại Hàn, Đài Loan và ngày nay Trung Cộng). Nhật Bản từ lâu đã được thế giới đưa vào hàng quốc gia phát triển kiểu Âu Mỹ rồi. Còn Ấn Độ thường được gọi là Con Voi nhỏ (Tiểu Tượng).
Đông Nam Á là nơi gặp gỡ giữa hai hướng kinh tế và chính trị khác nhau. Một nền kinh tế quốc tế mở, sống động và hỗn loạn của bối cảnh toàn cầu hóa, cùng các thể chế chính trị khép kín và rụt rè.
Một bên là tỷ lệ phát triển kinh tế, sản lượng gia tăng tạo thêm giàu có, của cải vật chất, ổn định an ninh, củng cố giáo dục, một bên là những bộ máy chính trị xơ cứng, hẹp hòi, chống mọi thay đổi tư tưởng hay hướng đi của chính trị xã hội mà việc phát triển kinh tế đang đòi hỏi. Mặc dù với những mâu thuẫn ấy, từ những năm 1960 cho đến khoảng những năm 1990, Đông Nam Á cũng đã phát triển nhờ kiểm soát được, nhưng rất chừng mực. Từ khi nông thôn ngày càng bị đô thị hóa, người dân càng có kiến thức và chuyên môn, cái hố sâu giữa phát triển kinh tế và bộ máy chính trị càng bị đào sâu.
Phương cách kinh tế nầy có thật sự đem lại phát triển và tăng trưởng không?
Nếu trên góc độ của tỷ lệ tăng trưởng đơn thuần mà nói, thì câu trả lời là có. Nhưng tăng trưởng mà không mang lại những cơ chế cốt yếu như Sức đầu tư hay Phát triển kỹ nghệ – (xin phép viết hoa vì đấy là những dữ kiện cốt yếu), thì cần phải xem xét. Nếu đi sâu vào vấn đề, chúng ta sẽ nhận thấy mô hình phát triển của nền kinh tế Đông Nam Á, một – rất lệ thuộc đến các yếu tố ngoại quốc, hai – chỉ chuyên nhiệp đến vài loại ngành nghề và cuối cùng rất hạn chế về địa lý, chỉ vài vùng đặc biệt chuyên nghiệp mà thôi.
Chúng ta chớ quên rằng lá phổi của Đông Nam Á là nông nghiệp, một quốc gia như Thái Lan, 60 % dân số sống ở nông thôn. Nếu khách quan, cố gắng vẽ một bức tranh sinh hoạt sống động của nền kinh tế Thái Lan, chúng ta có thể nói – với tất cả những dè dặt do sự đa dạng trong bang giao giữa các quốc gia trong vùng và do ngay tại Thái Lan – là, Thái Lan ngày nay hội nhập vào tuồng hát kinh tế quốc tế, nhưng với những tài tử nội địa.
Nhưng đó là hình ảnh chung của phần đông các quốc gia Đông Nam Á.
Đông Nam Á, phòng thí nghiệm hay tấm gương phản chiến hiệu quả của Toàn Cầu Hóa?
Được huấn luyện và sinh hoạt ở Âu Châu, Hoa kỳ hay Úc Châu, người Việt Nam Hải ngoại chúng ta thường hay xuất cảng những sơ đồ, quan niệm, suy nghĩ, kể cả những tập tục về phát triển kinh tế nhờ vào Toàn Cầu Hóa. Và chúng ta cũng mong, với lý do ích kỷ là có các quyền lực liên hệ bổ túc cho nhau, làm sao Toàn Cầu Hóa vẫn giữ được cái dạng, cái mô hình đó mãi mãi.
Nhưng thử đặt câu hỏi. Nếu Toàn Cầu Hóa thật tình là cần thiết, là véc-tơ, vai trò, những tài tử nào đã được sử dụng một cách đúng đắn? Có hay không? Toàn Cầu Hóa nền kinh tế, nhưng cái giá xã hội trả có đắt không?
Cả cái giá chính trị nữa? Những từ ngữ như Độc lập chính trị, Dân Chủ, Nhân quyền, Tự do, quyền người dân tự quyết định số phận chính trị và kinh tế mình (autodétermination) gọi tắc là quyền tự quyết) được hiểu thế nào, sử dụng thế nào?
Còn cái giá tài chính? Chúng ta đã nhìn thấy rõ từ hai cuộc khủng hoảng 1997 tại Á Châu và 2008-2009 trên toàn thế giới.
Nhưng chúng ta quên hẳn cái giá của Con Người. Con người đã bị bỏ quên, ngay cả những nước tiền tiến Âu Mỹ. Bằng chứng ngày hôm nay (cuối năm 2009 – đầu năm 2010) 1 tỷ dân trên thế giới đang bị nạn đói. 1 người trên 6 người trên thế giới đang bị đói. Cứ mỗi 6 giây trên thế giới một em bé đang giãy chết vì đói. Thật là khủng khiếp!
Vai trò “con người” trong nền kinh tế toàn cầu hóa bị bỏ quên. Nhân danh Toàn Cầu Hóa, một quan niệm làm ăn phát triển kinh tế hay thương mãi qua hệ thống tín dụng dễ dãi nhưng chật chội, đầy cạm bẩy, khó xoay trở. Giới đầu tư tư bản bị thiệt thòi đã đành, nhưng toàn bộ xã hội bị thiệt thòi nặng hơn (như khủng hoảng do subprimes trong bất động sản năm 2008).
Tổng Thống Philippines gọi những người đi “xuất cảng lao động” là những “anh hùng lao động”, vì 10% dân số Philippines hiện nay đang lao động ở ngoại quốc.
Còn Việt Nam? Bao nhiêu thanh niên, thanh nữ sắp hàng, đút lót để “được đi xuất khẩu lao động”? Nhưng “lao động” là làm nghề gì? Làm Nô lệ ? Làm đĩ điếm? Với những điều kiện gì, luật lệ nào bảo vệ? Ai bảo vệ họ? Nghiệp đoàn lao động Việt Nam , nhà nước của Đảng Cộng sản – Anh nhà thầu Xuất Cảng? Nghiệp đoàn bản xứ? Người lao động Việt Nam không đủ kiến thức, hiểu biết, và ngôn ngữ để đấu tranh quyền lợi của mình với các chủ nhân ngoại quốc, với Tòa Đại sứ Việt Nam, tay sai của Nhà thầu Hà Nội, xem xuất khẩu lao động là quốc sách, tổ chức và kiểm soát?
Có bài nghiên cứu xã hội nghiêm túc nào về những gia đình những người đi lao động ở ngoại quốc, lấy chồng ngoại quốc? Có thống kê nào cho biết con số người Việt Nam đi lao động nước ngoài thực chất là bao nhiêu? Con số các cô gái Việt bị gạt, phải đi làm điếm, làm điếm quá giang (với chiến khán du lịch ba tháng ở Singapore) ở nước ngoài là bao nhiêu?…
Riêng về ngành Giáo dục, trừ Singapore, các quốc gia Đông Nam Á đểu có khuyết điểm. Thống kê Unesco tháng ba năm 2009 cho biết, số trẻ em thất học ở Việt Nam là 1 triệu; ở Philippines 650.000; ở Thái Lan 420.000.
Đông Nam Á vẫn còn vướng vít với những nhu cầu ngắn hạn vì phải hoạt động, sinh hoạt, hành động sản xuất nhanh cho kịp với nhu cầu xuất cảng của thị trường và chương trình phát triển dài hạn, cần những đầu tư lớn, những dự án lâu dài, một cơ chế chính trị ổn định, trách nhiệm, quản lý theo dõi thường xuyên, đến nơi đến chốn.
Nhà đầu tư nào cũng muốn có lời nhanh, vì huấn luyện tay nghề cho một chuyên viên rất hao tốn, tốn công tốn của, chậm lấy vốn trở lại. Vì vậy ASEAN phải lựa chọn sự giúp đỡ bằng những gói kích cầu để nến kinh tế mau phục hồi mau chóng (nhưng rồi sẽ cũng gặp những sai trái đã xảy ra) và đầu tư vào ngành giáo dục và huấn nghệ.
Một trong những khủng hoảng hiện nay của Thái Lan là sự thiếu tay nghề chuyên môn, vì thế Thái Lan không thể bước nhanh vào phát triển công nghệ khoa học cao, mũi nhọn. Người Thái Lan biết rõ vấn đề này, nhưng bộ máy chính trị và hành chính quá nặng nề nên không một chính phủ nào có thể vượt qua.
Còn Việt Nam, người viết xin phép miễn bàn, vì không đủ dữ kiện khách quan khoa học do sự bưng bít, do thiếu hẳn thông tin trung thực, nếu không muốn nói đến trình độ non yếu và dốt nát của chính trường Việt Nam.
Cũng đừng quên rằng giai cấp cầm quyền với một tầm nhìn ngắn hạn, họ biết chẳng hưởng lợi lộc gì khi có một quần chúng có kiến thức và giáo dục cao. Tục ngữ có câu “dân ngu dễ trị”, tạo ra một ngành giáo dục cao và hữu hiệu chỉ mang lại những chỉ trích, bàn cãi, có thể đi đến đấu tranh chống đối, gây áp lực gây khó khăn phiền phức cho hệ thống và giai cấp cầm quyền. Ai cũng biết muốn có phát triển phải có nền giáo dục tốt, nhưng ngày nay với những xã hội và văn hóa Á đông và đặc biệt Đông Nam Á (trừ Singapore), quan điểm ấy vẫn cón rụt rè nếu không nói rằng xa lạ. Những khoảng cách giữa các giai cấp đang càng ngày càng được đào sâu. Ngày nay, hiện tượng “thất học” ngày càng lan rộng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2009 đến với Đông Nam Á rất trầm trọng: Tháí Lan, Singapore đều đang trên đường suy thoái, Malaysia đã mất 1 % tăng trưởng GNP… Những con số ấy chỉ đo lường những dữ kiện để kết luận rằng Đông Nam Á vẫn chỉ bám vào thị trường xuất cảng, chưa tạo được thị trường nội địa. Trừ Indonesia với thị trường nội địa khá và một chế độ chính trị tương đối dân chủ, nên có thể gượng qua cầu và có cơ phục hồi nhanh hơn các bạn láng giềng. Dù sao cuộc khủng hoảng nầy cũng dễ thở hơn so với cuộc khủng hoảng năm 1997, cũng chính là nhờ tính cách Toàn Cầu Hóa. Thế nhưng, về lâu về dài Đông Nam Á sẽ bị một tai họa to lớn về môi trường.
Vì cuộc chạy đua cạnh tranh vào thị trường Mỹ, Đông Nam Á sẽ phải lãnh ảnh hưởng của Trung Cộng. Trung Cộng đang có tham vọng biến thị trường Đông Nam Á thành một thị trường hoàn toàn của mình. Ngày hôm nay, Đông Nam Á không còn sức lực kinh tế đủ để tự tạo cho mình một thế đứng độc lập như trong thập niên 80 nữa! Đông Nam Á sẽ phải bắt buộc làm ăn theo kiểu Tàu để sống còn.
Hy vọng Trung Quốc có đầy đủ sáng suốt và biết rằng, muốn có một sức mạnh kinh tế hữu hiệu kiểu Mỹ phải có những quy luật rõ ràng, mới có thể ngang hàng với, chẳng những Mỹ, mà cả với Tây Âu nữa. Muốn nhưng vậy, Trung Quốc không thể độc quyền Tàu hóa biến mình là một cường quốc Đông Nam Á mà không có sự đóng góp của mô hình và mẫu làm ăn Đông Nam Á.
Vì như vậy Đông Nam Á với vốn liếng đa văn hóa, với những mô hình kinh tế phát triển khác nhau sẽ giúp đỡ nhiều cho nền kinh tế tương lai của Tàu.
Cả Mỹ cũng vậy, vì Mỹ là một quốc gia Thái Bình Dương, Mỹ sẽ cùng với một Đông Nam Á đa dạng, và sẽ cùng, cũng đừng quên, Úc Châu và New Zealand, là hai quốc gia văn hóa Anh trên Thái Bình Dương, hợp tác đồng phát triển, để cạnh tranh với Tàu. Nói tóm lại, trong thế liên lập ngày hôm nay, không ai có thể đứng một mình được cả, Đông Nam Á sẽ là lối thoát cho một anh Tàu dân tộc bành trướng, và là một đồng hành (partner) với Mỹ để cạnh tranh với Tàu.
Được như vậy, Đông Nam Á sẽ có một vai trò rất quan trọng mặc dù mỏng manh.
Hiện nay, một vài lãnh tụ các quốc gia Đông Nam Á đang đeo đuổi một hình thái chính trị mà chúng tôi gọi là “chạy theo”. Họ muốn trở về lại với những năm huy hoàng thuở những năm 60, khi Đông Nam Á chỉ là một vùng nhỏ, một vùng “trung lập”, Đông Nam Á của Hội Nghị Bandung, nằm ngoài chiến tranh be bờ Việt Nam chống bành trướng đỏ. Khổ nỗi, ngày nay không thể có mô hình như thế ấy được nữa, vì Đông Nam Á đang đứng trước một ngã ba đường: hoặc theo Tàu, hoặc theo Mỹ.
Và Đông Nam Á chỉ có một con đường phát triển là con đường chạy theo. Nhưng có thể chạy theo một cách không ngoan, làm sao để hưởng được lợi. Trong khi toàn cầu hóa là một phương thức rất có hại. Toàn cầu hóa nay chỉ là một toàn cầu hóa của một cái nhìn rất hằng ngày, rất thiển cận, vì rất thị trường tiêu thụ, dùng ngay. Dùng ngay, giá rẻ, lời nhanh, quên cả cái chữ tín là cái phẩm và một cơ chế “hậu phục vụ” (service après-vente, maintenance?). Vì thiếu cái quan niệm “hậu phục vụ” ấy mà ngày nay Đông Nam Á có cơ lọt vào ảnh hưởng Trung Cộng. Muốn có một bản sắc đặc biệt Đông Nam Á, Đông Nam Á phải phát triển kinh tế với phẩm lượng cao hơn kinh tế Tàu và có một “service après vente”. Nếu không thì Tàu Ta lẫn lộn. Nếu để Tàu Ta lẫn lộn, hàng hóa Tàu sẽ lấn chiếm thị trường Đông Nam Á và Đông Nam Á sẽ từ từ bị Tàu hóa và nô lệ Tàu.
Một nguy hiểm lớn nữa sẽ dẫn đến khi có sự sai lầm lựa chọn, giữa con đường ngắn hạn – trả lời nhanh với nhu cầu thị trường tiêu thụ – mà quên đi con đường dài hạn với những nghiên cứu, những sáng kiến, những phát minh phát triển khoa học, là dần dần sẽ dẫn đến sự suy thoái ngành kỹ nghệ. Vì chạy theo nhu cầu thị trường, thiếu đồng điệu phát triển bền vững sẽ đem đến một yếu kém về ngành giáo dục và đặc biệt ngành giáo dục khoa học. Đừng nhầm lẫn kỹ nghệ, tay nghề, và nghiên cứu khoa học. Đừng để những bức màn khói như xây dựng nhà máy sản xuất, khai thác khoáng sản, nguyên nhiên liệu, mở rộng đồn điền, che khuất đi sự thật là chúng không phải là lương thực và khoa học cần thiết cho đời sống và phát triễn bền vững.
Ngày hôm nay hàng vạn mẫu rừng ở Indonesia, và Malaysia đang bị tàn phá để trồng cây có dầu (Palm oil), hàng vạn cánh đồng cỏ ở Argentina bị dẹp bỏ để trồng đậu nành (soja) cho thị trường Tàu, hàng vạn cánh đồng ở Ba Tây dành để trồng hoa colza làm nhiên liệu xe hơi… Trong lúc thế giới đang có một tỷ người chết đói, và hiện tượng hiệu ứng lồng kiếng đang càng ngày càng phát triển.
Cuộc khủng hoảng 1997, và cuộc khủng hoảng năm 2008/2009 chứng minh những bài học đau thương không làm thức tỉnh một ai cả. Vài tiếng kêu của vài tác giả Á Đông không thức tỉnh nổi những con hạm tư bản Âu Mỹ, hay con khủng long Tàu.
Con Rồng Trung Hoa đang lớn mạnh. Con Rồng Trung Hoa đang được mời vào với nhóm nhà ngói G20, để quản lý thế giới. Nhưng thiên hạ không nhìn thấy là con Rồng Trung Hoa đang cùng con Ó Hoa Kỳ chia đôi ảnh hưởng ở Nam Thái Bình Dương trong cái thế G2. Và cuộc công du Đông Nam Á cuối năm 2009, hay cử chỉ gấp mình cúi chào Nhật Hoàng của Tổng thống Hoa Kỳ Obama chỉ là những viên kẹo bọc đường để giúp các Tiểu Hổ Đông Nam Á nuốt dễ dàng chén thuốc đắng G2.
Năm Con Cọp cũng sẽ là năm Việt Nam nắm chức Chủ Tịch Hiệp Hội ASEAN.
Việt Nam còn giấc mơ trở thành một quốc gia Tiểu Hổ không? Hay Việt Nam chỉ là một con mèo con làm miếng mồi ngon cho con Khủng Long Trung Cộng bành trướng bá quyền.
Bỏ thì mất Đảng, vương thì mất nước. Liệu ngày hôm nay nhà cầm quyền Hà Nội có dám đặt tình yêu Việt Nam và dân tộc Việt Nam trên quyền lợi cá nhân và Đảng phái?
Sự lựa chọn đau đớn đấy, nhưng rất rõ ràng. Có lẽ đối với giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay con đường theo chủ, theo Tàu, dễ dàng hơn, xán lạn hơn, biểu sao làm vậy không cần suy nghĩ, con đường quan hoạn thêng thang, nhà cửa to rộng,..
Nhưng còn tương lai người dân Việt Nam?
Hãy nhìn kỹ chính sách thuộc địa từ ngàn năm của Tàu, của dân tộc Tàu, của dân tộc Hán đối với các dân tộc láng giềng Mông, Tạng, Thanh, Hồi … Hãy nhìn kỹ, hãy học bài học chống ngoại xâm của tổ tiên, cha ông của ta và suy nghĩ cho tương lai vận mệnh dân Việt chúng ta.
Việt Nam và cả Đông Nam Á cũng vậy, đang bị hội chứng Kim Vân Kiều. Đại thi hào Nguyễn Du đã dùng tác phẩm đời ông để tả tâm trạng mình đối với chế độ ông đang sống. Nhưng tuyệt tác Kim Vân Kiều cũng là tâm trạng và biểu tượng cho vận mệnh của Việt Nam và của cả Đông Nam Á ngày hôm nay.
Đông Nam Á (và cả Việt Nam) là một cô gái đẹp, đa tài đa sắc, vì thế nàng đang được hay bị hai anh Mỹ và Tàu ve vãn. Lấy Mỹ hay lấy Tàu? Thương Kim Trọng (người cùng xứ, dân tộc) nhưng vì gia đình phải bán mình… Cuối cùng phải trầm mình tự tử xuống sông Tiền Đường. Đông Nam Á thì chưa tự tử, chứ Việt Nam mình tự tử rồi. Tự tử là theo lý thuyết Cộng sản, đem cả dân tộc Việt Nam vào lầm than. Thúy Kiều được Phật độ thoát chết. Còn Việt Nam, còn Đông Nam Á ai độ đây?
Năm Con Cọp nầy không khéo nhiều mộng làm “con Cọp” vùng của các Tiểu quốc Đông Nam Á sẽ bị biến thành những con “Mèo con” làm mồi cho con “Khủng Long Tàu”. ■
———
Ghi chú: Tài liệu tham khảo:
*Đông Nam Á đang sa lưới – L’Asie du Sud-Est prise au piège, Nhà sách Perrin, Paris, 2009
* Sophie Boisseau du Rocher, nghiên cứu sinh ở Trung Tâm Nghiên Cứu về Á Châu (Asia Centre)
© Phan Văn Song & Ledienduc’s Blog

Tổng số lượt xem trang