Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Ải Nam Quan

-Son Tran

Ải Nam Quan « – Tin Nổi Bật « Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam
chuacuuthe.com
VRNs(18.03.2014) – California, USA – Nhiều thập niên gần đây, khi nhà cầm quyền Cộng Sản đã để lộ dã tâm bán nước, hiện nguyên hình là một “CHÍNH PHỦ BÙ NHÌN” của Tầu Chệt, thì vấn đề Ải Nam Quan lại rộ lên từ Nam chí Bắc, từ đất Tổ sang đến các cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Tùy theo vị trí của những nguồn dư luận, mà một trong hai khuynh hướng đối lập nhau được thể hiện. Với những người yêu nước, dù ở trong nước hay ở hải ngoại, thì Ải Nam Quan là của TA, trong khi Hà Nội và các tâm điểm thảo luận do Chính Phủ Bù Nhìn Cộng Sản tổ chức thì lại cho rắng đó là của TẦU. Dĩ nhiên, tuyệt đại đa số người Việt hải ngoại thì luôn bảo vệ Đất Tổ và không nhân nhượng trong lập trường cho rằng Ải Nam Quan là của TA, chỉ trừ một thiểu số rất ít ỏi, những kẻ vong bản, gàn dở,…, thì mới cong lưng, cúi đầu chấp nhận lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam mà cho rằng Ải Nam Quan vốn dĩ là do TẦU xây nên, thì nay TẦU chiếm giữ cũng là hợp lý thôi.
Những  tay gàn dở đã hùa theo Tầu để dựa vào hiệp ước Thiên Tân ký năm 1885 mà cho rằng “CHÍNH VIỆT NAM ĐÃ KÝ KẾT HIỆP ƯỚC THIÊN TÂN và chấp nhận rằng Ải Nam Quan là của Tầu. Hiệp ước quốc tế này đã chứng minh rằng Ải Nam Quan là của TẦU. Ngoài ra, cái kiến trúc Ải Nam Quan từ xưa đến nay đều do Tầu xây cho nên, theo đúng lý lẽ thì Ải Nam Quan là của Tầu!” Chủ nhân của lý luận gàn dở ấy quên rằng khi đó, Pháp đã đô hộ Việt Nam và vì muốn hòa giải với Tầu, nên Thực Dân Pháp đã ép ta, lúc đó chẳng có sức mạnh nào cả, phải ký kết, không ký cũng không được.
Đến đây ta phải minh định rõ ràng hai điểm khác nhau: Kiến trúc Ải Nam Quan và Dải Đất trên đó Ải Nam Quan được xây dựng. Vì thế, khi nói đến chuyện tranh chấp ai là chủ Ải Nam Quan thì phải phân biệt: Chủ cái kiến trúc đó, và Chủ Đất. Một khi đã là “Ải” hay “Trấn Biên Thùy” thì nói đến sự sử dụng chung của cả hai bên biên giới.
Do đó khi nói: “Giang Sơn ta từ Ái Nam Quan đến Mũi Cà Mâu”, không có nghĩa là Giang Sơn từ bên kia, phía Bắc của Ải Nam Quan kéo dài đến Mũi Cà Mâu, (tức là cái kiến trúc Ải Nam Quan thuộc về Ta)  mà chỉ có nghĩa là “Đất” của ta tính từ Trung Tâm Điểm của Ải Nam Quan, nói đơn giản hơn, nếu đem Ải Nam Quan ra cưa làm đôi, thì Việt Nam và Tầu, mỗi nước chiếm một nửa phần đất, mà trên đó Ải Nam Quan được xây dựng! Cũng giống như khi nói: “Tôi đi từ Hà Nội đến Sài gòn”, không có nghĩa là “tôi đi từ biên giới phía Bắc của Hà Nội đến Sài Gòn”, mà có thể từ biên giới phía Nam của Hà Nội, hay từ giữa lòng Hà Nội mà đi…
Hơn nữa, chính chữ “Ải” đã nói lên rằng đó là cái cửa ra vào ở đường biên giới. Theo Tự Điển Nguyễn Văn Khôn, Ải = Frontier pass. Ải có thể là một cấu trúc lớn, cũng có thể chỉ là một chòi canh, một cánh cửa giao thương giữa hai nước có lính gác. Tại nhiều “cửa Ải” ở Trung đông, đôi khi chỉ là một cái rào cản bằng kẽm gai, lính gác hai bên kéo qua kéo lại. Như thế, Ải không thuộc về bất cứ Một nước nào mà phải thuộc về cả hai quốc gia nằm hai bên Ài, nếu chỉ có một Ải chung.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng dải đất trên đó mà Ải Nam Quan được xây dựng là của TA một nửa: Nửa phía Nam thuộc về Ta, nửa phía Bắc thuộc về Tầu.
140317007
Nhiều sự kiện liên quan đến Ải Nam Quan đã minh chứng rằng Ải Nam Quan có một nửa (xẻ theo chiều ngang) là của Ta, và một nửa của Tầu như sau:
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan:
Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là “Ðại Nam Quan”, phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề “Trấn Nam Quan”, dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ “Trung ngoại nhất gia”, dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có “Chiêu đức đài”, đằng sau đài có “Ðình tham đường” (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có “Ngưỡng đức đài” của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ.
Theo “Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ” của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Ðỗ Ðình-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926):
Cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km; đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số 162 là Ðồng-Ðăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên Tàu. Như vậy từ Ðồng-Ðăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km.
Quyển “Phương Ðình Dư địa chí” của Nguyễn Văn Siêu (bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự-Do xuất-bản, Saigon, 1960) thì ghi:
Cửa hay ải Nam-Quan, đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy (hay Pha-Dữ), ở về phía bắc châu Văn-Uyên, trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường (tỉnh Quảng-Tây) bên Trung-quốc muốn vào nước An-Nam phải qua cửa quan này“.
-Về các sự kiện lịch sử liên quan đến Ải Nam Quan:
a) Năm 981, sau khi vua Đinh Tiên Hoàng của nước ta (tên lúc đó được gọi là “Đại Cồ Việt”) bị ám sát, vua nhà Tống là Tống Thái Tông sai Hầu Nhân Bảo tấn công nước ta qua đường Lạng Sơn, đã dừng chân ở phía Bắc của Ải Nam Quan, rồi mới truyền lệnh cho mũi tấn công thứ nhất là từ Ải Nam Quan, trong khi các mũi tấn công khác thì tìm đường khác mà xâm nhập. Việc này đã minh định là từ bên này cửa của Ải Nam Quan là đất của Ta.
b) Năm 1077, một lần nữa, Tống Thần Tông sai Quách Quỳ tấn công nước ta, lúc đó gọi là Đại Việt. Quân Tống cũng xếp hàng bên kia Ải Nam Quan rồi mới tiến xuống Ải Quyết Lý rồi tiếp theo là Ai Chi Lăng. (Ải Quyết Lý và Ải Chi Lăng là hai nơi cửa ngõ quan trọng được trấn giữ bởi một số quan lính ta. Hai Ải này không phải là Ải Biên Giới nên hoàn toàn do ta làm chủ).
c) Tiếp sau đó, đã hai lần vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Kubilai) saiThoát Hoan tấn công Đại Việt bằng đường bộ qua Lạng Sơn năm 1284, 1287. Quân lính cũng phải đi qua ải Nam Quan mà xâm nhập nước ta.
d) Năm 1774, sau khi Ải Nam Quan được Tầu dổi tên là Trấn Nam Quan, thì Ðốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Ðang cho tu bổ Ngưỡng Đức Đài nằm về phía nam của Trấn Nam Quan, phía nước mình.
e) Năm 1788, theo lời cầu viện của thân mẫu của Lê Duy Kỳ, vua nhà Thanh là Càn Long (1736-1795) cử Tôn Sĩ Nghị cầm đại quân sang Đại Việt, đi bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi xuống, Sầm Nghi Đống đi qua đường Cao Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh vào đường Tuyên Quang. Đoàn quân viễn chinh nhà Thanh bị vua nhà Tây Sơn là Quang Trung đánh tan, phải chạy về vào đầu năm kỷ dậu (1789).
140317006
Ngoài ra, còn hai câu chuyện mang tính lịch sử liên quan đến Ải Nam Quan, đã chứng minh rằng Ải Nam Quan là của Ta: 
1-Vào khoảng 1406-1417, thế kỷ 15, Nguyễn Phi Khanh bị quân Tầu bắt về Tầu. Nguyễn Trãi đi theo cha tới Ải Nam Quan, thì phải dừng lại, vì Nguyễn Phi Khanh dặn con phải trở về, lo đuổi quân Tầu, báo thù cho cha. Nguyễn Trãi vừa khóc vừa quay về và đầu quân dưới trướng Lê Lợi vào năm 1417. Như thế, Ải Nam Quan đã có từ trước thế kỷ 15.
2- Trước đó, vào năm 1308, thế kỷ 14, Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Tầu, đến cửa Ài Nam Quan bị quân Nguyên bắt chui vào cánh cửa nhỏ. Ông chống lại, thì bọn quan canh cửa đưa câu đối, nếu đối được thì họ sẽ mở cửa. Câu đối có nội dung như sau:
Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan
(nghĩa là: Tới cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường cứ qua)
Một vế đối hóc búa đến 4 chữ quan và 3 chữ quá? Mạc Đĩnh Chi thấy khó, nhưng ông đã nhanh trí dùng mẹo để đối như sau:
Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh Tiên sinh tiên đối
(nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, xin mời Tiên sinh đối trước).
Vế đối của ông có 4 chữ đối và 3 chữ tiên, đúng với yêu cầu câu đối của viên quan ấy. Mạc Đĩnh Chi tìm được vế đối hay, khiến người Nguyên phải phục và liền mở cửa ải để đoàn sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi qua biên giới.
Như thế, dải đất phía Nam của Ải Nam Quan nguyên thủy được xây dựng là thuộc của Ta, còn Tầu chỉ có cái kiến trúc nằm trên mảnh đất đó.
Đến khi Hiệp Ước Thiên Tân được ký, thì Tầu đã di chuyển Ải Nam Quan vào sâu trong nội địa Tầu rồi, và đã xây một cái kiến trúc mới nằm ngay trong đất của TA.
Năm 1972, Chiến dịch Linebacker II do Nixon chỉ huy nhằm đánh thẳng vào đầu não Bắc Việt bằng bom. Bắc Việt cầu cứu Tầu. Lập tức Tầu đã lợi dụng chuyện này, cho lập một hàng rào phòng thủ bằng Hỏa Tiễn Sam, rồi dồn quân cắm sâu vào nội địa Bắc Việt với lý luận là phải bảo vệ hàng rào phòng thủ này. Khi cuộc ném bom chấm dứt bằng Hiệp Định Paris 1973, Tầu “quên” không rút quân khỏi những vùng đã đóng quân trước đây, và chiếm luôn những đỉnh cao đó.
Đến trận Chiến Tranh Biên Giới Việt Trung, 1979, Tầu đã tung quân tấn công 6 tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, cũng khởi điểm từ Ải Nam Quan (mới) và lập nhiều đồn mới về phía Nam của Ải Nam Quan.
Ngày 5 tháng 3 năm 1979, sau khi chiến tranh kết thúc, Tầu rút quân về nước, nhưng cũng “quên” không trả đất và vẫn chiếm giữ vùng đất phía nam ải Nam Quan. Vì thế, trạm hải quan của Bắc Việt phải một lần nữa dời xuống phía nam ải nầy, sâu trong lãnh thổ Việt Nam khoảng 300 đến 400m về phía Nam.  
Điều nhục nhã cho lịch sử Việt là vào ngày 30 tháng 12 năm 1999, tại Hà nội, Nguyễn Mạnh Cầm, Ngoại Trưởng của Bắc Việt và Đường Gia Triển của Trung quốc chính thức ký ‘Hiệp ước biên giới trên đất liền’, xác nhận Ải Nam Quan thuộc về Tầu.
Như thế, dài đất mà trên đó xây Ải Nam Quan (cũ) là của hai nước Việt và Tầu. Sau này, Tầu lấn sân, xây Ải Nam Quan vào sâu trong đất của ta cả ngàn mét, và được Pháp công nhận. Vậy, công trình Ải Nam Quan (mới) là do người Tầu xây thật, nhưng dải đất mà trên đó Tầu xây Ải Nam Quan lại là của Việt Nam. Đó là sự chiếm đoạt giang sơn Tổ Quốc Ta rõ ràng.
Người Việt sau này có ý muốn đòi lại Ải Nam Quan, là muốn đòi lại mảnh đất mà trên đó, Tầu xây dựng cái Ái Nam Quan kia, chứ còn cái công trình xây cất bẳng gạch, xi măng đó thì đúng là của Tầu thiệt, không ai thèm đòi.
Giả sử mà bọn Tầu Ô kia mà chịu trả đất, thi ta nhất định giật sập cái Ải đó, hoặc biến cái kiến trúc đá đó thành một cái cầu tiêu khổng lồ cho dân Việt xử dụng, và sẽ xây một công trình khác, trên đúng chỗ mà xưa kia ông cha ta đã gọi là Ải Nam Quan cũ từ thế kỷ trước thế kỷ thứ 14.
Hiện nay, những kẻ nào lý luận theo kiểu Cộng Sản Tầu và Cộng Sản Việt Nam mà cho rằng Ải Nam Quan là của Tầu, đều là những kẻ vọng ngoại, phản quốc, đáng bị trừng trị theo Luật Hồng Đức là “lăng trì” hay cho 4 ngựa phân thây, tài sản bị xung công, vợ con bị đầy lên khu nước độc. Nếu chiếu theo Luật Hồng Đức như thế thì cả 15 tên thuộc Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đều phải bị xử “lăng trì” hết vì tất cả đã đồng ý bán nước cho kẻ thù kinh niên là Tầu Cộng. Mong điều này sớm đến. 
Chu Tất Tiến





Nguồn: Mai Thái Lĩnh – Ải Nam Quan trong hiện tại (2)
Bài viết này là phần thứ hai của một tiểu luận mà phần đầu là bài viết “Ải Nam Quan trong lịch sử” (đã được công bố trên các trang mạng talawas và Bauxite Việt Nam vào đầu tháng 8 năm 2009). Thế nhưng, khi bước vào tìm hiểu tình hình của khu vực ải Nam Quan hiện nay, bất cứ ai cũng gặp phải khó khăn trong việc sưu tầm tư liệu. Đề tài này cho đến nay vẫn còn thuộc lĩnh vực “bí mật Nhà nước”, các cấp có thẩm quyền của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc đều tìm cách bưng bít, che giấu sự thật. Điều này có thể ảnh hưởng ít nhiều đến tính chất khách quan, khoa học của quá trình nghiên cứu.

Vì thế chỉ có thể coi đây là một nỗ lực khiêm tốn nhằm phá thủng bức màn sương khói đã phủ lên khu vực này từ hơn nửa thế kỷ nay. Trên con đường tìm ra “sự thật về ải Nam Quan”, có lẽ cần có sự đóng góp nhiều hơn nữa của những người Việt Nam yêu nước. Tác giả hy vọng sẽ có sự tiếp tay của những người cộng sản yêu nước – nhất là những người nắm trong tay những bằng chứng xác thực, không thể chối cãi nhưng cho đến nay, vì những lý do nào đó, vẫn chưa thể hoặc chưa dám nói lên toàn bộ sự thật.

________________



Vào cuối thế kỷ 19, do Việt Nam bị mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp, cuộc thương lượng để phân định đường biên giới đã diễn ra không phải giữa nhà Nguyễn và nhà Thanh mà là giữa chính phủ Pháp với nhà Thanh. Do hoàn cảnh chính trị của thời đó, các văn kiện ký kết về biên giới không phải là một hiệp ước bất bình đẳng gây bất lợi cho nhà Thanh như phía Trung Quốc thường rêu rao mà trong thực tế, đã gây thiệt hại cho phía Việt Nam. Mãi đến hơn mười năm sau, nghĩa là sau cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895), Trung Quốc mới chịu thiệt thòi gây ra bởi sức ép của Nhật Bản và các cường quốc phương Tây. Không thể đánh đồng Hiệp ước Thiên Tân năm 1885 với các hiệp ước bất bình đẳng sau này.

Sau khi Hiệp ước Thiên Tân được ký kết (9.6.1885), một ủy ban phân định biên giới được thành lập, bao gồm các thành viên được chỉ định của hai bên Pháp và Trung Hoa. Việc phân định ranh giới đã diễn ra từ cuối năm 1885 cho đến giữa năm 1887. Ngày 26.6.1887, một văn kiện xác định đường biên giới mới được ký kết tại Bắc Kinh giữa chính phủ Pháp và nhà Thanh, có tên gọi là Công ước về việc phân định đường biên giới giữa Trung Hoa và Bắc Kỳ (Convention relative à la délimitation de la frontière entre la Chine et le Tonkin). Đến năm 1895, hai bên ký thêm một Công ước bổ sung (Convention additionnelle) nói riêng về đoạn biên giới giữa Bắc Kỳ và tỉnh Vân Nam. Cả hai công ước này là những văn bản pháp lý chính thức xác định đường biên giới Việt-Trung mãi cho đến cuối thế kỷ 20.

Như tôi đã trình bày trong bài viết trước đây, tại khu vực ải Nam Quan, đường biên giới đã bị đẩy lùi về phía nam, làm cho Việt Nam mất đi 100 m ngay trước cửa ải Nam Quan. Nhưng sự thiệt hại này là không đáng kể, vì về phía lãnh thổ Việt Nam, người Pháp vẫn còn giữ được các điểm cao khống chế ải Nam Quan. Mặt khác, nhìn vào các tấm ảnh chụp vào đầu thế kỷ 20 (ảnh 1), chúng ta thấy khoảng cách giữa cổng nhỏ (của Việt Nam) và cổng lớn (của Trung Quốc) rất ngắn, từ bờ tường thứ nhất có thể nhìn thấy bờ tường thứ hai bằng mắt thường một cách dễ dàng.
Ảnh 1: Ải Nam Quan đầu thế kỷ 20


Câu hỏi đặt ra là: hơn 100 năm sau, liệu đường biên giới pháp lý được ấn định bởi Công ước Pháp-Thanh có được giữ vững hay không?

I) MẤT ĐẤT TẠI ẢI NAM QUAN – TỪ TIN ĐỒN ĐẾN SỰ THẬT:

Vào khoảng đầu năm 2001, dư luận về việc “mất đất tại ải Nam Quan” đã bùng lên từ trong nước ra đến hải ngoại. Cuộc tranh luận đó đã không thể đem đến kết quả rõ ràng, bởi lẽ do thông tin bị bưng bít, cả phía bênh vực lẫn phía chống đối đều không có được những tài liệu khách quan. Trong khi đó, Đảng và Chính phủ của Việt Nam vẫn một mực khẳng định “không có chuyện mất đất”, rằng dư luận về việc mất đất chỉ là tin đồn vô căn cứ do luận điệu xuyên tạc, có ác ý của những phần tử cơ hội, bất mãn trong nước hoặc những người phần tử phản động tại hải ngoại.

Giờ đây, nhìn lại sự việc một cách khách quan, cần phải thừa nhận rằng dư luận về việc “mất đất” tại khu vực này, bất luận nảy sinh từ đâu, đều dựa trên một thực tế: có sự thay đổi về đường biên giới ngay trước mặt Hữu Nghị Quan. Kể từ khi đường biên giới tại khu vực này được thông thương, rất nhiều người đặt chân đến nơi đây đã nhìn thấy một sự thật: đứng từ vị trí của cột mốc số 0, người ta không thể nhìn thấy Hữu Nghị Quan bằng mắt thường như trước nữa; nói cách khác là đường biên giới đã bị đẩy lùi về phía Việt Nam.

1. Những thay đổi diễn ra tại Hữu Nghị Quan:

Đầu năm 2002, khi cuộc tranh luận về ải Nam Quan bắt đầu diễn ra gay gắt, một thanh niên ở Hà Nội đã đến thăm cửa khẩu Hữu Nghị và sau đó gửi bài lên Internet để tường thuật lại cuộc viếng thăm đó, kèm theo một số hình ảnh. Trên trang mạng Giao điểm, một tác giả có bút danh là Bàn Tân Định đứng trên lập trường bênh vực Đảng Cộng sản Việt Nam đã sốt sắng giới thiệu bài viết này cùng một số hình ảnh kèm theo để bác bỏ nguồn tin “Việt Nam mất ải Nam Quan”. Bản thân chàng thanh niên đó cũng hoàn toàn tin tưởng rằng “ải Nam Quan” vẫn còn đó, và đường biên giới không hề thay đổi. Thế nhưng chính lời tường thuật và những tấm ảnh đăng kèm lại trở thành bằng chứng cho thấy đường biên giới bị đẩy lùi về phía nam, vào trong lãnh thổ của Việt Nam[1].

Dựa vào lời kể của chàng thanh niên có bút danh là Văn Khoa đó, chúng ta được biết tại đường biên giới giữa hai nước có một “cột mốc số 0”, phía sau là một cây si mà theo truyền thuyết là do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trồng vào năm 1965 (ảnh 2).
Ảnh 2: “Cột mốc số 0” và cây si (2002)


Ảnh 3: Trạm xuất nhập cảnh của Trung Quốc (2002)


Điều đáng nói là đứng từ vị trí của “cột mốc số 0” (thật ra là “cột Km số 0”), người ta không thể nhìn thấy Hữu Nghị Quan mà chỉ có thể nhìn thấy thấp thoáng “tòa nhà mái tròn”, tức Trạm xuất nhập cảnh của phía Trung Quốc (ảnh 3). Phải đứng từ chỗ tòa nhà mái tròn này, chúng ta mới có thể nhìn thấy được Hữu Nghị Quan (ảnh 4). Như vậy, ta có thể ước lượng khoảng cách từ vị trí của cột Km số 0 đến Hữu Nghị Quan tối thiểu phải là 200m – tính theo đường chim bay[2].
Ảnh 4: Hữu Nghị Quan nhìn từ cửa trước của Tòa nhà mái tròn (2002)


Cuộc tranh luận trên Internet đã diễn ra hết sức gay gắt, kẻ bênh người chống. Chính trong quá trình tranh luận mà một tác giả người Việt ở hải ngoại (Trương Nhân Tuấn) đã gắng công tìm kiếm tư liệu và chứng minh được rằng theo Hiệp ước Pháp-Thanh, khoảng cách đó (giữa ải Nam Quan và đường biên giới) chỉ có thể là 100m, nếu xa hơn thì điều đó có nghĩa là ta đã mất thêm đất đai ở khu vực này.
Ảnh 5: “Cột mốc số 0” và di tích của “cây si” (2005)


Có lẽ để đối phó với dư luận, từ năm 2005, phía Trung Quốc đã làm một cuộc đại trùng tu nhằm làm biến dạng hoàn toàn bộ mặt của Hữu Nghị Quan. Trước hết, họ đốn bỏ “cây si Phạm Văn Đồng”, để lại cột Km số 0 cùng với gốc cây si trơ trụi bên vệ đường. Đáng chú ý là trong tấm ảnh này (ảnh 5), cột Km số 0 là một cột mốc hoàn toàn khác. Trên cột mốc mới, dòng chữ “HN – Quan” được thay bằng dòng chữ “Hữu Nghị”. Mặt khác, nhằm tạo cho người ta có “cảm tưởng” là đứng từ cột mốc này vẫn có thể nhìn thấy cửa quan, từ năm 2006, phía Trung Quốc đã phá hủy hoàn toàn tòa nhà mái tròn để xây lại một trạm kiểm soát xuất nhập cảnh mới, đồng thời mở rộng toàn bộ khu vực từ cột Km số 0 đến Hữu Nghị Quan, làm thành một quảng trường rộng lớn (ảnh 6)
Ảnh 6: Khu vực Hữu Nghị Quan đang được trùng tu (tháng 5 - 2006)


Ảnh 7: Đường hành lang dẫn đến trạm xuất nhập cảnh mới


Để tạo ra vẻ hoành tráng và hiện đại cho khu vực Hữu Nghị Quan, phía Trung Quốc còn xây một hành lang dẫn từ biên giới mới đến trạm xuất nhập cảnh (ảnh 7). Mặc dù vậy, cái ảo giác gần gũi với Hữu Nghị Quan cũng không thể che giấu được sự thật: đứng từ cột Km số 0, người ta không thể nhìn rõ Hữu Nghị Quan. Bằng con mắt thường, ta có thể ước lượng khoảng cách đó phải từ 200 đến 300m, lấy mức tối thiểu, khoảng cách đó phải là hơn 200m (xem ảnh 8). Và như vậy có nghĩa là trước mặt Hữu Nghị Quan, đường biên giới đã bị đẩy lùi ít nhất là 100m về phía nước ta.
Ảnh 8: Quảng trường trước Hữu Nghị Quan nhìn từ phía Trung Quốc


(Còn tiếp)

© 2010 Mai Thái Lĩnh

© 2010 talawas blog


[1]Bàn Tân Định, “Bàn về biên giới Việt Nam – Trung Quốc: Vấn đề dữ kiện”, Giao điểm 2002: http://www.giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/biengioi_one.htm. Bài viết của sinh viên lấy tên là Văn Khoa được Bàn Tân Định giới thiệu ở chú thích số 12.

[2] Các ảnh chụp được công bố qua bài “Hình ảnh chụp ở Ải Nam Quan giữa tháng Hai năm 2002”, Giao điểm 2002: http://www.giaodiemonline.com/thuvien/doithoai/biengioi_pic.htm

Nguồn: Mai Thái Lĩnh – Ải Nam Quan trong hiện tại (1)

(xem kỳ 1) Kỳ 2:

2) Từ “cột Km số 0” đến “điểm nối ray”

Các cấp có thẩm quyền của Việt Nam đã nói gì về cái-gọi-là “cột mốc số 0”?

Chiều ngày 28.1.2002, ông Lê Công Phụng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) đã dành cho nữ phóng viên Thu Uyên của trang web VASC Orient[1] một cuộc phỏng vấn về vấn đề biên giới Việt-Trung. Bài trả lời phỏng vấn này xuất hiện trên Internet không được bao lâu thì bị bóc gỡ, nhưng nhiều người ở hải ngoại đã kịp chép lại để lưu trữ và cho tới nay vẫn được lưu truyền trên Internet, không thấy ai chính thức lên tiếng phủ nhận.

Lập luận căn bản của ông Lê Công Phụng khi giải thích về đường biên giới tại ải Nam Quan là lý thuyết về “hai cửa khẩu”:

“Trong sử sách, trong văn thơ đều nói đất của chúng ta kéo dài từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau. Mục Nam Quan ở đây nếu nói là cái cổng thì cũng là một cách, nhưng nếu nói là khu vực thì cũng là một cách nói. Giống như đại đa số các cửa khẩu biên giới, ”cửa khẩu” theo nghĩa rộng thường bao gồm hai cửa khẩu.”[2]

Như tôi đã phân tích trong bài viết “Ải Nam Quan trong lịch sử”, lý thuyết về “hai cửa khẩu” không xuất phát từ quan niệm của người xưa mà là “sáng tác” của người thời nay, dựa trên thực tế là ở cửa khẩu biên giới thường có hai trạm gác. Nhưng ông Lê Công Phụng lại dựa vào lý thuyết này để giải thích về đường biên giới tại Mục Nam Quan (tức là tên mới của ải Nam Quan được đặt sau năm 1954):

“Ví dụ như ở Bắc Luân thì hai cửa khẩu cách nhau khoảng 100m. Còn các khu vực trên đất liền, sát với sông suối, thì tùy địa hình của từng bên. Chúng ta cũng biết là ải Nam Quan là cuối khúc sông. Nếu chúng ta bắt đầu tính biên giới từ chân tường hoặc chia đôi cửa mục Nam Quan thì cũng không được. Còn cột mốc số không – nhân dân Lạng Sơn báo cáo với Trung ương, Chính phủ và các nhà đàm phán rằng cột mốc có từ khi những người già còn chưa ra đời. Chúng ta tôn trọng cơ sở pháp lý đã có, tôn trọng thực tiễn, nhất là vì lâu nay quản lý đã như vậy. Cho nên hiện nay chúng ta công nhận mục Nam Quan là của Trung Quốc, cách cột mốc số 0 trên 200m. Tính cột mốc số 0 trở về phía Nam là lãnh thổ của Việt Nam. Từ cột mốc số 0 trở về phía Bắc là của Trung Quốc.”[3]

Như vậy là theo ông Lê Công Phụng, “cột mốc số 0” cách Mục Nam Quan (tức Hữu Nghị Quan ngày nay) trên 200m. Nói cách khác, đại diện của Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức thừa nhận Việt Nam mất thêm hơn 100 m ngay phía trước Hữu Nghị Quan.

Điều khiến nhiều nhà nghiên cứu thắc mắc là tại sao ông Lê Công Phụng chỉ nói đến “cột mốc số 0” mà không nói đến “cột mốc số 18”? Bởi vì “cột mốc số 18” mới là cột mốc biên giới ở ải Nam Quan, còn “cột mốc số 0” thật ra chỉ là “cột Km 0”, một trụ xi-măng của ngành giao thông dựng bên lề đường để đánh dấu điểm khởi đầu của con đường bộ xuyên-Việt. Trụ Km của ngành giao thông không thể thay thế cho cột mốc biên giới, vì trụ Km có thể thay đổi vị trí khi người ta thay đổi đường giao thông, trong khi trụ địa chính lại có tọa độ địa lý chính xác trên bản đồ.

Bảy năm sau, người kế nhiệm ông Lê Công Phụng là ông Vũ Dũng (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) mới đề cập đến “cột mốc số 18”, đồng thời cũng nhắc đến “cột mốc Km 0”, nhưng không nói rõ mối quan hệ giữa hai loại mốc này. Trong cuộc họp báo chiều ngày 24.2.2009, ông tuyên bố như sau:

“Về các mốc Pháp - Thanh, mốc 19 vẫn còn tồn tại và nằm đúng vị trí cũ. Mốc 18 đối diện với mốc 19, do yếu tố thời gian, hai bên đều không thể xác định được. Về điểm nối ray, do bị lệch về phía Việt Nam so với đường biên giới lịch sử, hai bên đồng ý điều chỉnh. Kết quả giải quyết: đường biên giới đi qua Km0 rồi đến mốc 19 cũ và đến điểm cách điểm nối ray 148 mét về phía Bắc.”[4]

Như vậy là theo ông Vũ Dũng, mốc 18 “do yếu tố thời gian” cho nên hai bên không thể xác định được, đành phải dựa vào mốc 19 và cột Km số 0 để xác định đường biên giới. Thế nhưng một cột mốc bằng đá làm sao có thể bị bốc hơi qua thời gian? Hơn nữa, làm thế nào mà cột mốc 18 dựng giữa thanh thiên bạch nhật lại bốc hơi trong khi cũng theo lời vàng ngọc của ông Thứ trưởng, cột mốc 19 “vẫn còn tồn tại và nằm đúng vị trí cũ”? Ông Thứ trưởng cũng lờ đi, không giải thích tại sao cột Km 0 lại có thể thay thế cho cột mốc biên giới số 18?

Để có thể giải thích được điều bí ẩn này, chúng ta phải trở lại với những năm tháng “cơm không lành, canh không ngọt”, khi mà quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trở thành tồi tệ và Đảng Cộng sản Việt Nam buộc lòng phải nói lên sự thật. Vào năm 1979, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra lời tố cáo rằng tại khu vực Hữu Nghị Quan “… phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m trên đường quốc lộ để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột ki-lô-mét 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.”[5]

Đoạn văn mà tôi vừa trích dẫn không phải là lời vu cáo của bọn phản động mà nằm ngay trong bản “bị vong lục”[6] do Bộ Ngoại giao nước CHXHCVN Việt Nam công bố ngày 15.3.1979 tại Hà Nội (ảnh 9). Dựa vào văn bản này, chúng ta có thể hiểu được phần nào sự thật đã diễn ra trước Hữu Nghị Quan.

Sự thật đó là: căn cứ vào Hiệp ước Pháp-Thanh, “mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 m”; nhưng phía Trung Quốc “đã ủi nát cột mốc số 18 để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, đồng thời dời cột mốc ki-lô-mét 0 của đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m”. Nói cách khác, khoảng cách từ cột mốc km số 0 (bị dời đi) đến ải Nam Quan là trên 200 m. Điều này hoàn toàn phù hợp với lời tuyên bố của ông Lê Công Phụng vào năm 2002. Nhưng ông Lê Công Phụng thì một mực cho rằng dư luận về việc mất đất tại ải Nam Quan là do “bà con thiếu thông tin”, còn ông Vũ Dũng thì một mực khẳng định “không có chuyện mất đất!”.
Ảnh 9: Nội dung “bị vong lục” ngày 15.3.1979 liên quan đến ải Nam Quan


Điều cần lưu ý là trong các cuộc tranh cãi về ải Nam Quan, dư luận thường chỉ chú ý đến khoảng cách phía trước Hữu Nghị Quan, nhưng lại ít chú ý đến một khoảng cách khác tại phía đông, tức là điểm nối ray trên đường sắt Đồng Đăng – Bằng Tường. Đây cũng là một chi tiết cho thấy có chuyện “mất đất”.

Trong cuộc họp báo ngày 24.2.2009, Thứ trưởng Vũ Dũng cho biết: “Về điểm nối ray, do có bị lệch về phía Việt Nam so với đường biên giới lịch sử, hai bên đồng ý điều chỉnh. Kết quả giải quyết: đường biên giới đi qua Km0 rồi đến mốc 19 cũ và đến điểm cách điểm nối ray 148 m về phía Bắc.”[7]

Ông Vũ Dũng nói một cách úp mở rằng đường biên giới “bị lệch” ở điểm nối ray, nhưng không thấy phóng viên nào thắc mắc về nguyên nhân làm đường biên giới “bị lệch” ở chỗ này. Không lẽ một điểm nối ray tự nhiên lại bị lệch so với đường biên giới? Trở lại với bản “bị vong lục” năm 1979 của Bộ Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy nguyên nhân “bị lệch” là như sau:

“Năm 1955, tại khu vực Hữu Nghị Quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên, gần Hà Nội, lợi dụng lòng tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt-Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300 m so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho ngành đường sắt hai bên điều chỉnh lại điểm nối ray cho phù hợp với đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay, họ vẫn trắng trợn nguỵ biện rằng khu vực hơn 300 mét đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luận rằng không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”.[8]

Có lẽ cần phải nói thêm đôi chút về “điểm nối ray”. Vào thời đó, đường sắt ở Việt Nam do người Pháp là đường sắt khổ hẹp (narrow gauge)khoảng cách giữa hai đường ray chỉ rộng có 1m, trong khi đường sắt ở Trung Quốc là đường sắt tiêu chuẩn (standard gauge), rộng đến 1,435 m. Có lẽ do phía Trung Quốc hứa hẹn giúp đỡ Việt Nam nâng cấp đường sắt lên thành đường sắt tiêu chuẩn cho nên phía Việt Nam mới phó thác toàn bộ tuyến biên giới ở ải Nam Quan cho nước bạn. Chính sự sơ hở do “trái tim để lầm chỗ”[9] đó đã cho phép Trung Quốc “lợi dụng lòng tin”, đưa điểm nối ray vào sâu “trên 300 mét so với đường biên giới lịch sử”. Về nguyên tắc, điểm nối ray là nơi phân chia tuyến đường sắt về mặt quản lý, về sau đã được phía Trung Quốc coi như điểm xác định lãnh thổ.

Căn cứ vào lời của ông Vũ Dũng, qua việc thực hiện hiệp định biên giới, sau khi “hai bên đồng ý điều chỉnh”, đường biên giới chạy qua một điểm cách điểm nối ray 148 m về phía Bắc. Nhưng ông Thứ trưởng lại cố tình lờ đi, không chịu nói rõ: so với đường biên giới quy định theo Hiệp ước Pháp-Thanh thì ở điểm này, Việt Nam mất đi bao nhiêu mét? Chúng ta hãy nhìn vào tấm ảnh sau đây (ảnh 10) – được công bố chính thức nhân cuộc họp báo. Tuyến đường sắt này là đường sắt đôi (double gauge) dùng cho cả hai loại khổ đường 1 m và 1,453 m (ngành đường sắt nước ta gọi là đường lồng). Theo bản bị vong lục, điểm nối ray nằm cách “trên 300 m” so với đường biên giới cũ. Nay ông Vũ Dũng cho biết đường biên giới mới đi “đến điểm cách điểm nối ray 148 m về phía Bắc”. Điều này có nghĩa là trên tuyến đường sắt ở phía đông-nam của ải Nam Quan, phía Việt Nam vẫn còn mất “trên 152 m” so với đường biên giới cũ.


Ảnh 10: Đường biên giới mới cách điểm nối ray 148m về phía bắc




3. Việt Nam mất bao nhiêu đất đai ở khu vực Hữu Nghị Quan?

Trong bản bị vong lục, ngay ở đoạn kế tiếp, sau khi đã tố cáo việc Trung Quốc phá hủy “mốc biên giới số 18”, dời “cột ki-lô-mét 0” và đưa “điểm nối ray” vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam, còn có một đoạn tiếp theo: “Như vậy họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo Lâm, huyện  Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam dài 3,1 km và vào sâu đất Việt Nam 0,5 km.”[10]
Ảnh 11: Bản đồ khu vực 249 C (Hữu Nghị Quan)


Đoạn này là một đoạn văn cực kỳ khó hiểu, vì trong bản bị vong lục không in kèm tấm bản đồ nào. Người ta có thể đặt câu hỏi: tại sao khu vực lấn chiếm lại dài đến 3,1 km và lấn sâu đến 0,5 km (tức 500 m) trong khi ở đoạn trên, chỉ nói đến con số cao nhất là hơn 300 m? Để có thể hiểu được ý nghĩa của đoạn văn này, có lẽ phải nhờ đến một tấm bản đồ đã được lưu truyền từ nhiều năm qua trên mạng Internet nhưng không ai có thể hiểu rõ được nội dung (ảnh 11). Đó là tấm bản đồ của khu vực được gọi tên là khu vực 249 C (Hữu Nghị Quan). C là ký hiệu mà hai bên đàm phán (Việt Nam và Trung Quốc) dùng để chỉ các khu vực có sự tranh chấp.

Khi công bố tấm bản đồ này, trang mạng Diễn đàn ở Pháp đã cho biết tấm bản đồ được đính kèm với một bản thông báo “mật” đề ngày 31.3.2002, có chữ ký của ông Phan Diễn, lúc đó là ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban bí thư Trung ương của ĐCSVN[11]. Chúng ta có thể tin rằng đây là một tấm bản đồ do Trung Quốc vẽ nhưng đã được dùng một cách chính thức trong công tác phân định ranh giới nhằm thực hiện hiệp ước biên giới được ký vào năm 1999.

Trên tấm bản đồ này, vạch màu xanh lá dùng để chỉ đường biên giới mà phía Trung Quốc đòi hỏi, vạch màu đỏ cam là đường biên giới mà Việt Nam yêu cầu (có thể đây chính là đường biên giới cũ theo Hiệp định Pháp-Thanh?); còn vạch màu tím dùng để chỉ đường biên giới hai bên đã thỏa thuận dựa trên hiệp định năm 1999. Nếu tính khoảng cách từ Hữu Nghị Quan đến cột Km 0 trên bản đồ tương đương với 200 m thì khoảng cách lấn chiếm trên tuyến đường sắt là trên 300 m, và vùng lấn chiếm của Trung Quốc (vạch màu xanh lá) tính từ đông sang tây theo chiều ngang xấp xỉ 3,1 Km. Ở khu vực phía tây-nam của Hữu Nghị Quan, chiều rộng của khu vực bị lấn chiếm ở phía tây-nam Hữu Nghị Quan có nơi lên đến 700 hoặc 800 m, nghĩa là lớn hơn con số 0,5 Km.

Để có thể nhìn rõ hơn khu vực trước Hữu Nghị Quan, tôi đã trích một phần của tấm bản đồ nói trên và phóng lớn hơn (ảnh 12). Để giúp độc giả dễ theo dõi, các vùng mà phía Trung Quốc vẫn còn lấn chiếm được đánh dấu bằng sọc màu tím trên bản đồ.
Ảnh 12: Các vùng đất bị mất trước Hữu Nghị Quan


Nhìn vào phần trích bản đồ này, chúng ta thấy đường biên giới mới “đi qua Km0 rồi đến mốc 19 cũ và đến điểm cách điểm nối ray 148 mét về phía Bắc”, đúng như lời ông Vũ Dũng thuyết minh. Tuy nhiên, chúng ta không thể tin vào lời ông Thứ trưởng khi ông này quả quyết rằng “đường biên giới lịch sử tại khu vực này không những đã được tôn trọng mà còn được cụ thể hoá bằng một hệ thống cột mốc mới hiện đại.” Bởi vì căn cứ vào tấm bản đồ này, chúng ta thấy trên tuyến đường bộ, cột Km số 0 đáng lẽ nằm cách Hữu Nghị Quan 100 m (điểm A) đã bị dời đến một điểm cách Hữu Nghị Quan hơn 200 m (điểm B) và cho đến nay, Trung Quốc vẫn không chịu trả lại diện tích đất đã lấn chiếm. Trên tuyến đường sắt, đường biên giới đáng lẽ nằm ở điểm C đã bị dời đến điểm E – cách biên giới cũ hơn 300 m. Sau đàm phán, vì phía Trung Quốc chỉ trả lại 148 m, đường biên giới không thể trở về điểm C mà đi ngang điểm D, nghĩa là vẫn còn cách đường biên giới cũ hơn 152 m.
Ảnh 13: Hai đường hầm cao tốc cạnh Hữu Nghị Quan


Quả đồi mà chúng ta thấy trong tấm ảnh 13 tương ứng với khu đất ở phía đông-nam Hữu Nghị Quan, nằm giữa các điểm A, B và C, D. Đường biên giới đáng lẽ chạy trên đỉnh hoặc sau lưng quả đồi bây giờ lại chạy phía trước, dưới chân đồi. Vào năm 2005, phía Trung Quốc đã cho đào hai đường hầm dưới chân quả đồi đó để làm đường dẫn từ Hữu Nghị Quan đến đường cao tốc đi Nam Ninh – thủ phủ của tỉnh Quảng Tây. Phiến đá nhìn thấy trên ảnh có ghi dòng chữ “Nam cương quốc môn đệ nhất lộ” (Con đường đầu tiên đi qua cánh cửa của đất nước ở biên cương phía nam); đó là một tên gọi mỹ miều của con đường cao tốc mới xây dựng: đường cao tốc Nam Ninh – Hữu Nghị Quan (Nanning-Youyiguan Expressway.[12]
Ảnh 14: Các cột mốc mới trước Hữu Nghị Quan


Nhìn vào tấm ảnh được Bộ Ngoại giao dùng để giải thích các cột mốc mới (ảnh 14), chúng ta thấy cột Km số 0 được thay bằng hai cột mốc mới 1116 và 1117 nằm đối xứng nhau qua quốc lộ 1A. Sau đó, đường biên giới được nối liền với cột mốc 1118 ở vị trí mà ông Vũ Dũng khẳng định là vị trí của “mốc 19 cũ”. Từ cột 1118 đó, đường biên giới sẽ chạy đến một điểm cách điểm nối ray 148 mét về phía Bắc (tức điểm mà tôi ghi là điểm D trên bản đồ). Trong tấm ảnh sau đây (ảnh 15), chúng ta nhìn thấy cột mốc mới mang số 1116 – “vật thay thế” cho cột Km số 0 thời Pháp thuộc:
Ảnh 15: Cột mốc 1116 – “vật thay thế” của cột Km số 0


Người ta cố tình tạo ra vẻ hào nhoáng bên ngoài của cột mốc bằng đá hoa cương này nhằm mục đích che đậy cho việc Trung Quốc chiếm trọn ngọn đồi mà chúng ta nhìn thấy ở phía sau (tức ngọn đồi có hai đường hầm cao tốc chạy dưới chân).
Ảnh 16: Di tích của cột mốc Km số 0


Đến lúc này thì chiếc cột mốc mà ông Lê Công Phụng đã từng gọi là “cột mốc số 0” và sau đó ông Vũ Dũng đính chính lại bằng cách gọi là cột “Km 0”, đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử bạc bẽo của nó. Từ chỗ là trụ Km số 0 của ngành giao thông, nó đã từng được dùng làm “vật thay thế” cho cột mốc biên giới số 18 – do chỗ nước láng giềng vĩ đại đã “lỡ” cho xe ủi nát cái cột mốc “khó thương” này. Để chuẩn bị xóa đi dấu tích, người ta đổ thêm một lớp nhựa đường, biến nó thành một vật vừa xấu xí vừa thừa thãi! (xem ảnh 16). Rồi đây, trụ Km nổi tiếng này (thật ra là “vật thay thế”, vì nó không phải là cột mốc biên giới, cũng không giống với trụ Km mà người ta nhìn thấy vào năm 2002, và càng không thể giống với trụ Km của thời Pháp thuộc) sẽ được “phi tang” để người đời sau không còn nhìn thấy cái tang vật có liên quan đến một vụ cướp đất diễn ra ngay trước Hữu Nghị Quan trong thế kỷ 20.

Thật ra, không có gì bảo đảm rằng cột mốc số 19 “vẫn còn tồn tại và nằm đúng vị trí cũ” – như lời ông Vũ Dũng đã khẳng định. Hơn thế nữa, căn cứ vào tấm bản đồ 249 C, chúng ta thấy phía Trung Quốc vẫn còn chiếm giữ nhiều vùng đất ở phía tây, tây-nam và đông-bắc của cửa quan này. Do chỗ chưa đủ tài liệu để đối chứng, chúng ta chưa thể xác định một cách chắc chắn ý đồ của việc lấn chiếm này là gì, nhưng căn cứ vào những gì đã diễn ra ở phía đông-nam của Hữu Nghị Quan, chúng ta có thể phỏng đoán mục đích của phía Trung Quốc khi chiếm các dải đất này là: chiếm các cao điểm có thể khống chế khu vực ải Nam Quan.

Như vậy, thực chất của câu chuyện lấn chiếm biên giới ở khu vực Hữu Nghị Quan không chỉ là vấn đề diện tích đất đai bị mất, mà là tầm quan trọng của “vị trí hiểm yếu” có ý nghĩa về mặt quân sự.

Nhưng đến đây thì câu chuyện lại chuyển sang một hướng khác. Qua việc tìm hiểu diện mạo và lịch sử của ải Nam Quan, chúng ta phải đặt lại vấn đề một cách rốt ráo hơn: Hữu Nghị Quan ngày nay có đúng là Ải Nam Quan ngày xưa hay không?

(Còn nữa)

© 2010 Mai Thái Lĩnh

© 2010 talawas


[1] Trang mạng này (có địa chỉ http://www.vnn.vn) do Công ty phát triển phần mềm VASC – một thành viên của Tổng Công ty Bưu Chính Viễn thông VNPT khởi xướng, cũng chính là tiền thân của trang mạng VietNamNet hiện nay (địa chỉ: http://vietnamnet.vn).

[2] Bài phỏng vấn ông nguyên Thứ trưởng Lê Công Phụng do phóng viên Thu Uyên của VASC Orient thực hiện vào ngày 28.1.2002. Tài liệu trích từ Mạng Ý kiến: http://www.ykien.net­. Mặc dù trang web Ý kiến bị phá hoại, vẫn có thể đọc bài này tại địa chỉ: http://home.scarlet.be/mykvn/bnpvhiepdinh.html

[3] Bđd.

[4] Việt-Trung đã phân giới những khu vực nhạy cảm như thế nào?, VietNamNet, thứ Tư 25/02/2009”: http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/02/831965/

[5] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979, tr. 10.

[6] Memorandum: còn được dịch là giác thư, một văn bản ngoại giao không có chữ ký thường được công bố để nói rõ lập trường chính thức của bộ ngoại giao của một quốc gia về một vấn đề nào đó.

[7] “Việt-Trung đã phân giới những khu vực nhạy cảm như thế nào?”, bđd.

[8] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, sđd, tr. 10.

[9] Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
Trái tim lầm chỗ để trên đầu…

(Thơ Tố Hữu)

[10] Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, sđd, tr. 10.

[11] Tấm bản đồ này được công bố trong bài viết của tác giả Nguyễn Ngọc Giao: “Nam Quan: Ải, cửa ải và biên giới”, Diễn đàn, số 128, tháng 4 – 2003). Bài này và bài “Từ Nam Quan đến Bản Giốc”, Diễn đàn, số 129 (tháng 5 – 2003) của cùng tác giả hiện nay không còn được lưu giữ trên trang mạng nói trên. Nhưng tấm bản đồ số 249 C đã  được nhiều tác giả khác sử dụng. Có thể xem trong bài: Trương Nhân Tuấn, “Vấn đề báo Du Lịch tạm đình bản hay là mối nhục Nam Quan”, Thông Luận, 19.4.2009: http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=3699

[12] Đường cao tốc này, khánh thành vào cuối năm 2005, được coi là “đường cao tốc đầu tiên nối liền Trung Quốc với các nước ASEAN”. Thường được các hãng du lịch của nước ta gọi tên là “đường cao tốc Trung Quốc – ASEAN”.

Mai Thái Lĩnh – Ải Nam Quan trong hiện tại (2)

(Xem kì 1kỳ 2)

II. HỮU NGHỊ QUAN CÓ PHẢI LÀ ẢI NAM QUAN?

Cho tới nay, chúng ta vẫn dựa vào tiền đề: “Hữu Nghị Quan ngày nay chính là Ải Nam Quan ngày xưa”. Căn cứ của tiền đề này là những lời giải thích chính thức cho rằng sau năm 1954, ải Nam Quan được đổi tên là Mục Nam Quan (mục : hòa thuận, tin cậy, thân thiết) và sau đó, đổi tên một lần nữa thành Hữu Nghị Quan (cửa quan của tình hữu nghị, người Trung Quốc dịch sang tiếng Anh thành Friendship Pass).

Nhưng giờ đây, sau khi đã nhìn ra được diện mạo thật sự của ải Nam Quan – nhất là qua những hình ảnh chụp được từ thời Pháp thuộc, chúng ta buộc lòng phải đặt nghi vấn: Hữu Nghị Quan ngày nay có phải là ải Nam Quan ngày xưa hay không? Nói cách khác, khi xây dựng lại Hữu Nghị Quan, phía Trung Quốc có xây đúng vào vị trí cũ của ải Nam Quan hay đã dời sang một vị trí khác?

Có một số dấu hiệu cho thấy vị trí của Hữu Nghị Quan hiện nay không trùng khớp với vị trí của ải Nam Quan ngày xưa:

1. Đường biên giới phía trước ải Nam Quan

Như tôi đã trình bày trong bài “Ải Nam Quan trong lịch sử”, căn cứ vào bản đồ của Chapès, đường biên giới phía trước ải Nam Quan sau khi bị đẩy lùi 100 m theo Hiệp định Pháp-Thanh, vẫn là một đường tương đối thẳng.
Ảnh 17: Bản đồ ải Nam Quan thời Pháp (trái) và bản đồ 249 C (phải)


Điều này đã được phản ánh vào các bản đồ của thời Pháp thuộc. Trên ảnh 17, bản đồ bên trái được trích từ bản đồ Lạng Sơn Tây (số 28 Tây) liên quan đến vùng ải Nam Quan[1]. Nhìn vào bản đồ này, ta thấy đường biên giới nối liền từ cột mốc số 18 (B.18) qua cột mốc số 19 (B.19) đến đường sắt là một đường tương đối thẳng, chỉ nghiêng về hướng đông – đông nam theo một góc rất nhỏ. Trong khi đó nếu quan sát bản đồ khu vực 249 C, ta thấy cả đường biên giới mà Việt Nam yêu sách (vạch màu đỏ cam) lẫn đường biên giới đã thống nhất (vạch màu tím) đều là những đường gãy góc rất kỳ lạ. Nếu từ bên trái (hướng tây) chúng ta vạch một đường biên giới với độ nghiêng tương tự như trên tấm bản đồ của thời Pháp thuộc thì đường đó sẽ chạy ở phía bắc, sau lưng địa điểm được ghi là Nam Quan (chấm vuông màu xanh lục).

Sự thay đổi của đường biên giới nơi đây cho thấy khi xây dựng lại Hữu Nghị Quan, phía Trung Quốc đã thay đổi vị trí của cửa quan.

Điều này cho thấy ý đồ sâu xa của Đảng Cộng sản Trung Quốc khi họ lập luận: “Trấn Nam Quan là của Trung Quốc, do người Trung Quốc xây dựng; từ trước đến nay đường biên giới luôn luôn nằm ở phía Nam của Trấn Nam Quan”. Vị trí của đường biên giới đáng lẽ phải tùy thuộc vào tọa độ địa lý được xác định một cách khoa học lại lệ thuộc vào vị trí của cửa ải. Do vậy, khi “Trấn Nam Quan” bị dời đi nơi khác thì đương nhiên đường biên giới cũng bị dời theo cửa ải.

Thủ đoạn cướp đất này tương tự như thủ đoạn một anh chủ đất nhiều mưu mô: để cướp đất của hàng xóm, ban đêm anh ta lén dỡ ngôi nhà của mình và đem dựng lại trên mảnh đất của người hàng xóm; sáng hôm sau anh ta tuyên bố “đất này là của tôi, vì ngôi nhà của tôi nằm ngay trên mảnh đất này”.

2. Các ngọn đồi ở phía đông và đông-nam ải Nam Quan
Ảnh 18: Ải Nam Quan nhìn từ phía Việt Nam


Nhìn vào các tấm ảnh được chụp vào thời Pháp thuộc, chúng ta dễ dàng nhận thấy các ngọn đồi ở phía đông và đông-nam ải Nam Quan đều có độ cao tương đương với ngọn đồi ở phía tây của ải Nam Quan. Theo bác sĩ Neis, các ngọn đồi này có độ cao trung bình từ 50 đến 60 m (tất nhiên là so với độ cao trung bình ở vùng này chứ không phải so với mặt biển). Như trong tấm ảnh trên đây (ảnh 18), ta thấy ở phía tây là ngọn đồi cao và bức trường thành chạy lên tận dãy núi đá vôi, nhưng ngọn đồi ở phía đông cũng cao không kém.

Điều đáng nói là khi nhìn vào ngọn đồi ở phía đông-nam Hữu Nghị Quan ngày nay, ta thấy đó chỉ là một ngọn đồi rất thấp. Mặc dù người ta đã trồng cây để cố làm tăng thêm chiều cao của nó, ngọn đồi đó vẫn không thể đạt độ cao ngang với các ngọn đồi ở xung quanh ải Nam Quan trước kia (ảnh 19).
Ảnh 19: Quả đồi phía đông-nam Hữu Nghị Quan


Để có thể nhìn rõ hơn, chúng ta có thể xem tấm ảnh chụp quang cảnh khu vực phía đông-nam của Hữu Nghị Quan vào ngày 25.2.2009, nhân dịp một buổi lễ được mệnh danh là “Lễ chào mừng hoàn thành công tác phân giới  cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc” (ảnh 20).
Ảnh 20: “Lễ chào mừng” đường biên giới mới


Trên tấm ảnh này, không phải chỉ ngọn đồi phía đông-nam sát Hữu Nghị Quan mà cả ngọn đồi đối diện về phía nam cũng chỉ là những ngọn đồi thấp, hoàn toàn không giống với các ngọn đồi ở phía đông và đông-nam của ải Nam Quan như trong các tấm ảnh chụp ngày xưa.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn lại tấm bản đồ của Chapès (ảnh 21). Chúng ta thấy ngay trước đường biên giới là một lô-cốt của Pháp đang xây dựng có thể nhìn xuống ải Nam Quan (dòng chữ tiếng Pháp ghi Blockhaus Français en construction). Chính là từ điểm cao này và các điểm cao tương tự mà các nhiếp ảnh gia người Pháp đã chụp được các bức ảnh toàn cảnh về ải Nam Quan – tương tự như ảnh chụp từ máy bay.
Ảnh 21: Trích bản đồ Chapès


Đây chính là một bằng chứng cho thấy Hữu Nghị Quan không nằm đúng tại vị trí của ải Nam Quan.

3. Vị trí của Hữu Nghị Quan trên ảnh chụp toàn cảnh

Bằng cách so sánh môt số ảnh chụp toàn cảnh, ta có thể thấy: địa điểm của Hữu Nghị Quan ngày nay khác với địa điểm của ải Nam Quan ngày xưa.

Trong số các bức ảnh do tác giả Chân Mây[2] sưu tầm, có hai bức ảnh toàn cảnh được chụp từ một cao điểm ở phía tây – tây nam của khu vực ải Nam Quan. Mặc dù được chụp vào hai thời điểm khác nhau, cách nhau khoảng 30 – 40 năm, so sánh địa hình và phong cảnh trong hai bức ảnh, chúng ta dễ dàng nhận ra đây chính khu vực của Hữu Nghị Quan ngày nay.
Ảnh 22: Toàn cảnh khu vực phía nam Hữu Nghị Quan (đầu thế kỷ 21)


Tấm ảnh thứ nhất (ảnh 22) được chụp từ một cao điểm ở phía tây – tây-nam của Hữu Nghị Quan. Theo lời giới thiệu của Chân Mây, đây là ảnh của một cựu chiến binh người Trung Quốc chụp từ một địa điểm được gọi là núi Kim Kê. Quan sát tấm ảnh này, chúng ta thấy cổng Hữu Nghị Quan nằm ở sát phía trái tấm ảnh. Dưới chân của quả đồi phía đông-nam của Hữu Nghị Quan là hai đường hầm dẫn vào đường cao tốc đi Bằng Tường và Nam Ninh. Con đường song song với vạch màu xanh nước biển là đường xe lửa Đồng Đăng – Bằng Tường. Vòng tròn màu vàng, theo chú thích của người cựu chiến binh Trung Quốc, là “cao điểm tranh chấp Trung-Việt, hiện thời do quân ta khống chế; vùng màu xanh lá cây hình tam giác là khu vực gài địa lôi.”
Ảnh 23: Toàn cảnh khu vực phía nam Hữu Nghị Quan vào năm 1940


Tấm ảnh thứ hai (ảnh 23) được chú thích là “do trinh sát Nhật chụp vào năm 1940”. Nếu nhìn vào vị trí của Hữu Nghị Quan ngày nay (ở sát bên trái tấm ảnh, nơi con đường bộ dẫn vào ải Nam Quan), chúng ta không thấy bóng dáng của ải Nam Quan và hai bức trường thành chạy hai bên.

Căn cứ vào tấm bản đồ 249 C, chúng ta thấy khi phía Trung Quốc đưa điểm nối ray vào sâu hơn 300 m trong lãnh thổ của nước ta, họ đã chiếm quả đồi ở phía đông-nam của Hữu Nghị Quan và khống chế ngọn đồi đối diện ở phía nam, tức cao điểm được đánh dấu bằng vòng tròn màu vàng. Đến nay, theo thông báo của Bộ Ngoại giao Việt Nam, họ đã trả lại 148 m trên tuyến đường sắt. Do thiếu tài liệu để đối chứng, chúng ta chưa thể xác định cao điểm này đã được trả lại cho phía Việt Nam hay chưa. Điều có thể xác định chắc chắn là phía Trung Quốc đã chiếm trọn quả đồi ở phía đông-nam của Hữu Nghị Quan, tức là quả đồi có hai đường hầm mà ta nhìn thấy trên ảnh.

Nếu căn cứ vào tấm bản đồ 249 C thì các dải đất được đánh dấu bằng sọc màu tím là diện tích mà phía Trung Quốc vẫn tiếp tục chiếm giữ, không chịu trả lại theo yêu cầu của Việt Nam (ảnh 24). Nhìn vào dải đất bị lấn chiếm ở phía tây và tây-nam của Hữu Nghị Quan, ta thấy ngay cả núi Kim Kê – nơi người cựu chiến binh Trung Quốc đứng chụp ảnh, cũng có thể là đất của Việt Nam trước kia, nhưng về sau đã bị phía Trung Quốc lấn chiếm để dùng làm cao điểm khống chế khu vực này:
Ảnh 24: Các vùng đất còn bị chiếm giữ


(Còn nữa)

© 2010 Mai Thái Lĩnh

© 2010 talawas


[1] Bản đồ được in kèm bài  viết “Ải Nam Quan còn thuộc Việt Nam hay không?” của Nguyễn Ngọc Danh (VPS, 14.3.2002: http://www.vps.org/article.php3?id_article=617) Phần màu đỏ là do tác giả (NND) tô thêm để dễ nhận diện đường biên giới (chữ thập “+”) cũng như các cột mốc.

[2] Chân Mây, bđd.

Mai Thái Lĩnh – Ải Nam Quan trong hiện tại (3)

---

(Xem kì 1, kỳ 2kỳ 3)

4. Lai lịch bất minh của Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building)

Mãi cho đến gần đây, hầu như tất cả các tấm ảnh chụp Hữu Nghị Quan đều giống như tấm ảnh chúng ta thấy sau đây (ảnh 25), nghĩa là chỉ nhìn thấy cửa quan, không nhìn thấy toàn cảnh như trong các tấm ảnh của thời Pháp thuộc.

Ảnh 25: Hữu Nghị Quan ngày nay

Thấp thoáng phía sau cổng Hữu Nghị là một công trình kiến trúc mà phía Trung Quốc gọi tên tiếng Anh là Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building), nhưng trong tiếng Việt lại có cái tên hết sức hấp dẫn là “Lầu thành kiếu Pháp”, hoặc có khi còn gọi là “Lâu đài kiểu Pháp” hay “Pháp Quốc Lầu” (ảnh 26).

“Lầu thành kiểu Pháp” từ đâu mà có? Tại sao một công trình kiến trúc xây trên đất Trung Hoa lại có phong cách kiến trúc kiểu Tây phương với đường nét tương tự như những tòa nhà được xây dưới thời thuộc địa mà chúng ta thường nhìn thấy trong một số thành phố ở Việt Nam?
Ảnh 26: Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building)


Lời giới thiệu Hữu Nghị Quan đăng trên một trang mạng “hợp tác” giữa Trung Quốc và Việt Nam có tên là Trung-Việt (www.sinoviet.com) cho biết lai lịch của công trình kiến trúc này như sau: “Năm Quang Tự đời Thanh, tri phủ Thái Bình Cam Nhữ Lai tái dựng lại lầu ải bằng một kiến trúc lâu đài kiểu Pháp (Pháp Quốc Lầu), dỡ bỏ Miếu Quan Đế và Đền Chiêu Trung. Sau này tuy có tiến hành nhiều lần tu bổ, nhưng vẫn giữ nguyên mạo diện Pháp Quốc Lầu. Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, thành lầu lại bị phá hủy, nay chỉ còn lại tầng dưới tức là cổng thành hình vòm.”[1]
Ảnh 27: Bảng quảng cáo “Lầu thành kiểu Pháp”


Căn cứ vào nội dung của một tấm bảng quảng cáo được dựng tại khu vực Hữu Nghị Quan (ảnh 27), người ta được biết: Tòa nhà kiểu Pháp (hoặc Lâu đài Pháp Quốc) được xây dựng vào năm Quang Tự thứ 22 (1896), dựa theo thiết kế của các kỹ sư người Pháp. Tòa nhà này là trụ sở của “Sở quân sự và ngoại giao tại Trấn Nam Quan” (Zhennan Pass Military anh Foreign Affairs Agency) do chính phủ nhà Thanh thành lập; cơ quan này chịu trách nhiệm về các vấn đề ngoại giao và an ninh công cộng tại địa phương[2]. Không xa tòa nhà là Đền Quan Công và một ngôi miếu để tưởng nhớ những người đã ngã xuống trong việc bảo vệ Trấn Nam Quan vào năm 1885. Cũng dựa theo tấm bảng quảng cáo, cả hai công trình (tức ngôi đền và ngôi miếu) đều “đã bị cháy trong cuộc chiến tranh kháng-Nhật”.
Ảnh 28: Ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc


Sự thật là như thế nào? Vua Quang Tự (1869 – 1908) là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh trong lịch sử Trung Hoa. Ông trị vì từ năm 1875 đến năm 1908 với niên hiệu là Quang Tự. Ông mất vào năm 1908, trước Từ Hi Thái hậu một ngày. Cho dù Tòa nhà kiểu Pháp được xây dựng vào năm 1896 hay muộn hơn (nghĩa là trước năm 1908) thì tòa nhà này phải hiện diện trên những tấm ảnh chụp vào thời điểm đó. Nhưng nhìn vào tấm ảnh chụp ải Nam Quan từ phía Trung Quốc vào đầu thế kỷ 20 (ảnh 28), chúng ta không hề thấy bóng dáng của “Lầu thành kiểu Pháp”. Để có thể thấy rõ hơn, chúng ta có thể xem xét tấm bưu ảnh của P. Dieulefils chụp ải Nam Quan từ một vị trí sát cửa ải (ảnh 29). Trên tấm bưu ảnh có dán tem và đóng dấu bưu điện này, phía trên bên trái có ghi hàng chữ bằng tiếng Pháp “reçue 9 août 1910” (nhận ngày 9.8.1910). Có thể nói cho đến năm 1910, quang cảnh của ải Nam Quan giống hệt như trong tấm ảnh.
Ảnh 29: Ải Nam Quan nhìn từ phía Trung Quốc


Tấm ảnh này chụp trên lãnh thổ của Trung Quốc, vì bức trường thành chạy về phía bên phải tấm ảnh dẫn đến dãy núi đá vôi nằm ở phía tây của ải Nam Quan. Ở phía đông (bên trái tấm ảnh) gần sát cửa ải là Miếu Quan đế và đình Chiêu Trung. Tấm ảnh này cho thấy phía sau ải Nam Quan chỉ là một ngôi nhà rất bình thường, không hề có bóng dáng của “Lầu thành kiểu Pháp” mà chúng ta nhìn thấy ở phía sau Hữu Nghị Quan ngày nay.
Ảnh 30: Quân Pháp đầu hàng quân Nhật Bản


Bây giờ chúng ta tiếp tục xem xét hai tấm ảnh do Chân Mây sưu tầm. Tác giả chú thích ảnh 30 như sau: “Liên quân Pháp-Việt (trường Sĩ quan Đồng Đăng). Những người bảo vệ Ải Nam Quan thất thủ trước quân Nhật (25.09.1940)”. Tòa nhà này rõ ràng là của quân đội Pháp. Ảnh chụp cho thấy tù binh người Pháp người nằm kẻ ngồi trong tư thế bại trận. Những người lính đứng gác là người Nhật. Điều rất dễ nhận ra là hình dáng của tòa nhà này rất giống với Tòa nhà Pháp Quốc nằm ở phía sau Hữu Nghị Quan ngày nay (ảnh 31).
Ảnh 31: Tòa nhà kiểu Pháp (2007)


So sánh hai bức ảnh nói trên, chúng ta có thể tìm ra một cách giải thích tương đối hợp lý hơn về nguồn gốc của Tòa nhà kiểu Pháp: Tòa nhà kiểu Pháp là của người Pháp, do người Pháp xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 20 cho đến trước năm 1940. Sau này, khi xây lại Hữu Nghị Quan, phía Trung Quốc đã dời cửa quan đến một vị trí khác trên lãnh thổ Việt Nam, vì thế tòa nhà kiểu Pháp lọt vào lãnh thổ Trung Quốc. Và để hợp lý hóa việc một ngôi nhà có kiến trúc kiểu Pháp lại nằm trên lãnh thổ Trung Quốc, các quan chức của Đảng cộng sản Trung Quốc đã bịa đặt ra câu chuyện “Lâu đài Pháp Quốc được xây dựng dưới thời vua Quang Tự”.

5. Ảnh toàn cảnh của Hữu Nghị Quan

Cuối cùng, dấu hiệu quan trọng nhất khiến chúng ta hoài nghi “Hữu Nghị Quan không phải là ải Nam Quan” chính là việc chưa bao giờ có một tấm ảnh chụp toàn cảnh Hữu Nghị Quan tương tự như tấm ảnh chụp toàn cảnh ải Nam Quan sau đây (ảnh 32).

Lý do duy nhất có thể giải thích sự kiện này một cách hợp lý là: do phía Trung Quốc đã dời cửa ải đến một vị trí khác cho nên phía Việt Nam không thể nào chụp được những tấm ảnh tương tự. Còn về phía Trung Quốc thì lẽ đương nhiên là họ tìm cách giấu kín, bởi vì chỉ có họ mới biết được vị trí của ải Nam Quan ngày xưa hiện nay đang ở đâu.

Đến đây thì chúng ta có quyền đặt câu hỏi: Đảng Cộng sản Việt Nam có biết được sự thật này hay không? Nếu biết thì tại sao từ đó cho đến nay, kể cả trong bản bị vong lục năm 1979, sự thật đó vẫn không được phơi bày?
Ảnh 32: Ải Nam Quan vào đầu thế kỷ 20


*

Tóm lại, mất “Ải Nam Quan” trước hết là mất đi một biểu tượng của lòng yêu nước, một bằng chứng về ý chí kiên cường của một dân tộc đã đứng vững được ở phương Nam trước một quốc gia hùng mạnh ở phương Bắc – một quốc gia suốt hàng ngàn năm nay chưa hề từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ. Ngoài ý nghĩa tinh thần đó, việc mất đất tại ải Nam Quan còn có những hậu quả hết sức nặng nề. Trước hết là diện tích bị mất. Không chỉ là vài trăm thước đất trước Hữu Nghị Quan hay dọc theo tuyến đường sắt mà mất đi những “vị trí hiểm trở” trên tuyến phòng thủ có tầm quan trọng hàng đầu về mặt quân sự. Người ta có quyền đặt câu hỏi: trên toàn bộ tuyến phòng thủ Lạng Sơn, trong số 12 cửa ải của thời nhà Nguyễn, ngày nay phía Việt Nam còn giữ được bao nhiêu “vị trí hiểm trở” và điều đó có ảnh hưởng gì đến công tác bảo vệ biên giới trong trường hợp xảy ra chiến tranh?

Cho nên cho dù sự thật là rất đau lòng, chúng ta buộc lòng phải thừa nhận: người Việt Nam đã thật sự mất “ải Nam Quan”, và đã mất từ lâu, ít nhất là từ khi phía Trung Quốc xây dựng lại Hữu Nghị Quan. Có thể nói kịch bản lấn chiếm ở khu vực ải Nam Quan bao gồm 3 bước: (1) đặt điểm nối ray vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam (2) dời cửa ải sang một vị trí khác (3) phá hủy cột mốc số 18 và dời cột Km số 0. Như vậy, Hiệp ước Biên giới năm 1999 chỉ là giai đoạn cuối nhằm hợp pháp hóa một quá trình lấn chiếm lâu dài. Phía Trung Quốc đã thành công trong việc xóa bỏ ải Nam Quan bằng cách chiếm đóng những cao điểm có giá trị về mặt quân sự, vô hiệu hóa hoàn toàn “vị trí hiểm yếu” nổi tiếng này.

Điều mỉa mai của lịch sử là: khi cửa ải còn có tên là ải Nam Quan, Việt Nam vẫn còn giữ gìn được biên cương của Tố Quốc ở khu vực này. Ngay cả dưới thời Pháp thuộc, mặc dù người Pháp có nhượng một dải đất 100 m thì ải Nam Quan vẫn còn đó. Nhưng khi ải Nam Quan được đổi tên thành Mục Nam Quan thì sự hòa thuận (mục có nghĩa là hòa thuận) chỉ là màn kịch che đậy một âm mưu chiếm đoạt sắp diễn ra. Còn khi cửa ải được đổi tên thành Hữu Nghị Quan thì chính cái “tình hữu nghị” bên ngoài đó lại là một thứ màn khói để ngụy trang cho một quá trình chiếm đoạt thật sự – vô cùng tinh vi và thâm hiểm.

Vào khoảng thập niên 30 hoặc 40 của thế kỷ 15, biên cương phía bắc của nước ta được xác định một cách rõ ràng tại “vị trí hiểm yếu” của ải Nam Quan. Người Trung Hoa gọi đó là Trấn Nam Quan[3] có nghĩa là “cửa quan trấn giữ ở phía nam” của đất nước họ, hoặc gọi bằng một cái tên có ý nghĩa xấu hơn nữa là Trấn Di quan (cửa quan để trấn áp bọn người man di, mọi rợ). Người Việt Nam không bác bỏ hoàn toàn cái tên đó, mà bỏ đi chữ trấn, chỉ gọi là ải Nam Quan hay cửa quan Nam Giao. Chữ Nam mà người Việt dùng có nghĩa là nước Nam (nước ở phía Nam của Trung Hoa), tương tự như chữ Nam trong Đại Nam hay Việt Nam. Đó là một cách gọi nhún nhường, khiêm tốn nhưng thể hiện ý chí kiêu hùng, không khuất phục. Trong thực tế, suốt từ đó cho đến khi mất nước vào tay người Pháp, người Việt qua nhiều bước thăng trầm vẫn không đánh mất ải Nam Quan. Thế mà ngày nay, khi ải Nam Quan bị cướp đoạt, người ta vẫn có thể thản nhiên ca ngợi “tình hữu nghị” với 16 chữ vàng. Không hiểu xét về mặt ngôn ngữ, “tình hữu nghị” phải được định nghĩa như thế nào đây? Và thứ ngôn ngữ vừa ngụy biện, vừa mang ý nghĩa tráo trở đó có tác dụng gì trong việc giáo dục lòng yêu nước cho các thể hệ trẻ Việt Nam thông qua các nhà trường được mệnh danh là xã hội chủ nghĩa?

Phát biểu tại “Lễ chào mừng hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc” diễn ra vào chiều ngày 23.2.2009 tại Hữu Nghị quan, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm khẳng định:

“Việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc là một thông điệp quan trọng khẳng định với thế giới mối quan hệ hợp tác đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước.”

Để đáp lễ, ông Đới Bỉnh Quốc – Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc, trưởng đoàn đại biểu Trung Quốc tham dự buổi lễ, đã khẳng định một cách có ý nghĩa:

“Công tác phân giới cắm mốc liên quan đến chủ quyền quốc gia, liên quan đến lợi ích thiết thực của nhân dân hai nước. Chúng tôi vui mừng nhận thấy, dưới sự quan tâm và chỉ đạo chung của lãnh đạo hai nước, căn cứ vào Hiệp ước Biên giới Đất liền hai nước Trung Quốc – Việt Nam, thông qua hữu nghị hiệp thương, cuối cùng chúng ta đã đạt được kết quả cùng thắng, hai bên cùng có lợi, hoàn thành tâm nguyện chung của nhân dân hai nước”[4]

“Chúng ta đã đạt được kết quả cùng thắng, hai bên cùng có lợi”. “Chúng ta” đây là ai?

Có thể hiểu “chúng ta” và “hai bên” là hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam, hay chính xác hơn là Bộ Chính trị của hai Đảng. Cả hai bên này có thể “cùng thắng” và “cùng có lợi”. Thế nhưng, kết quả này không thể phản ánh “tâm nguyện chung của nhân dân hai nước”. Bởi vì, không rõ nhân dân Trung Quốc hưởng được lợi lộc gì trong chuyện này, nhưng điều chắc chắn là “nhân dân Việt Nam” hoàn toàn là kẻ chịu thiệt thòi, dân tộc Việt Nam là người thua cuộc.

Làm sao có thể coi nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam là người thắng cuộc khi đường biên giới đã từng bị đẩy lùi một lần vào cuối thế kỷ 19 – vì đất nước bị mất chủ quyền, nay lại tiếp tục bị đẩy lùi một lần thứ hai – giữa lúc chủ quyền quốc gia được coi là “trọn vẹn”?

Làm sao có thể coi là thắng lợi khi Ải Nam Quan – đã từng là hình ảnh của biên cương phía Bắc, đã từng kết tinh máu xương của biết bao thế hệ người Việt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đã từng là biểu tượng tinh thần của một dân tộc bất khuất, ngày nay lại lọt mất tăm vào cõi u minh nào đó trên lãnh thổ của Trung Quốc?

Đà Lạt, những ngày cuối năm Kỷ Sửu – đầu năm Canh Dần 2010,

MAI THÁI LĨNH

Tài liệu tham khảo

1) Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1979

Trước đây, trang mạng Bauxite Vietnam có đăng một bản điện tử của cuốn sách này, nhưng từ khi trang mạng này bị tin tặc phá hoại, không thể tìm thấy bản này nữa. Có thể xem bản sao chụp toàn bộ cuốn sách bằng scanner tại địa chỉ:

http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=6686

2) Một số hình ảnh sử dụng trong bài này được  trích từ bài viết:

Chân Mây, “Tài liệu hình ảnh hiếm quý chứng minh Ải Nam Quan là của Việt Nam”, Diễn đàn Một góc phố, 18.6.2009:

http://motgocpho.com/forums/showthread.php?t=11258&goto=nextoldest

3) Ngoài những hình ảnh lấy từ các tài liệu được trích dẫn, các hình ảnh còn lại là do tác giả tự tìm kiếm trên Internet, qua các trang web chuyên về hình ảnh như Panoramio, Google – Images, v.v…

4) Một số tin tức được lấy từ trang mạng VietNamNet. Vì là một trang mạng chính thức, bị ràng buộc bởi chính sách “tự kiểm duyệt” hiện hành, các bản tin thường xuyên bị bóc gỡ hay sửa chữa. Do đó nếu có sự sai lệch về nội dung trong các bản tin trích dẫn, điều đó hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của tác giả.

© 2010 Mai Thái Lĩnh

© 2010 talawas


[1]“Cửa khẩu Hữu Nghị Quan”, Sinoviet.com:

http://www.vn.sinoviet.com/bordertrade/cvport/youyi-gate/youyigate-1.asp

Lời giới thiệu này viết sai chính tả ở vài chỗ, đã được sửa lại cho đúng với ngữ pháp tiếng Việt.

[2]Trong bản tiếng Hoa, cơ quan này được gọi là Sở Thông tin.

[3]trấn: đè nén; gìn giữ, bảo vệ.

[4]Biên giới Việt – Trung và thông điệp mới, VietNamNet, Thứ Hai, 23/02/2009:

http://vietnamnet.vn/chinhtri/2009/02/831522/

Mai Thái Lĩnh – Ải Nam Quan trong hiện tại (4)

Tổng số lượt xem trang