Sau những sai lầm chết người mà Tổng thống Richard Nixon dành cho Trung Quốc (TQ) quyền ưu đãi tối huệ quốc trong thương mại với Mỹ, có nghĩa là cho phép Trung quốc bán vào Mỹ miễn thuế và hơn thế nữa, họ được nhập nhiều mặt hàng có công nghệ cao. Vì thế kinh tế Trung quốc ngay sau đó tăng trưởng nhanh, từ một nước nông nghiệp lạc hậu không khác gì Việt Nam những năm bao cấp nay là quốc gia có nền kinh tế vươn lên thứ hai chỉ sau Hoa kỳ và sự chênh lệch với Mỹ chỉ còn là khoảng cách rất ngắn.
Đã vậy, từ địa vị nước một nước đông dân nghèo nay họ vươn lên trên mọi phương diện thành chủ nợ lớn nhất của Hoa kỳ, và là quốc gia có tổng số vốn dự trữ lên khoảng 7 ngàn tỷ đô-la. Nhưng sự trỗi lên vượt bậc của Trung quốc vẫn chưa làm cho những nhà lãnh đạo quốc gia này vừa ý mà họ muốn nhắm đến đích thực một đại cường quốc về quân sự mà không có quốc gia nào có thể cản được họ.
Trung quốc đã dành 18 % ngân sách cho việc phát triển quân sự mặc dù trên báo chí họ chỉ thông báo con số rất khiêm tốn là 5 %. Để thế giới biết đến mình, kinh sợ mình họ đã không ngần ngại phô trương thế lực quân sự nhất là bằng tầu chiến, tên lửa tầm xa, tầm trung và đặc biệt là hoả tiễn chống tầu chiến từ xa. Cùng với các động thái này, họ khoanh vùng biển cho mình có đặc quyền thống trị một khu vực rất rộng lớn là biển Đông, kể cả những khu vực thuốc lãnh hải Việt Nam, Philipin, Thái Lan v.v…Để nắn gân Mỹ, họ còn cống bố đường lưỡi bò trên biển Đông, nơi đường hàng hải quốc tế mà tầu thuyền xưa nay của thế giới vẫn thường qua lại cũng thuộc quyền kiểm soát của mình.
Để chèn ép Hàn quốc và Nhật ở phía Đông Bắc, họ dùng Bắc Triêu tiên để răn đe kiềm chế hai quốc gia có nền kinh tế mạnh này và vừa qua việc tầu đánh các của họ đâm vào tuầu tuần tra của Nhật rồi ăn vạ Nhật, cưỡng bức bắt Tô-ky-ô phải thả tầu là để dằn mặt Mỹ. Từ gián tiếp đến trực tiếp, họ tổ chức các buổi diễn tập với quy mô lớn với hai mục đích là răn đe các quốc gia nhỏ đang có tranh chấp chủ quyền về biển và lãnh hải nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản như dầu hoả, khí đốt và là khu vực hải sản quý.
Tiến bước hơn nữa đây cũng là việc đưa tay nắn gân cả Hoa kỳ không muốn hạm đội lớn của Mỹ đi lại khu vực mà cho cho là nay thuộc quyền của họ. Nhưng sau những thời gian nhún nhường, kìm chế thì nay Mỹ biết rằng làm như vậy lợi bất cập hại. Vì sao?
Vì mấy lẽ. Một là kinh tế Mỹ vài thập niên qua đã quá chú trọng vào sản xuất công nghệ cao, bỏ đi những nền kinh tế truyền thống như dệt may, hàng nông nghiệp xuất khẩu lúa mì, sản xuất ô-tô, hàng điện tử, đồ y tế hiện đại v.v…mà tập trung nhiều vào khai thác dầu khí và sản xuất vũ khí, tạo cơ hội vàng để Trung quốc trỗi dậy làm mưa làm gió trên thị trường thế giới, đặc biệt thị trườngchâu Âu và lấn át ngay cả trong nước Mỹ. Sự nguy hại đến với Hoa kỳ không chỉ nằm ở vấn đề sự mất cân đối trong cán cân thương mại Mỹ Trung đã lên đến hàng trăm tỷ đô-la hàng năm hay do các hàng nhu yếu phẩm của Trung quốc đang tràn lan thao túng trên thị trường Hoa Kỳ thế giới đang đe doạ kinh tế quốc gia này như những công nghệ sản xuất đồ dùng gia đình, nhu yếu phẩm, nông nghiệp mà ngay cả đến sản xuất ô-tô đây sẽ là xuất máy bay, vũ các loại vũ khí hiện đại của khí của Trung quốc cũng xuất hiện lấn át Hoa kỳ trong một ngày không xa với kỹ thuật chẳng thua kém mà lại rẻ hơn rất nhiều so với các hàng này của Hoa kỳ.
Người ta tự hỏi, nếu Mỹ để Trung quốc qua mặt về vai trò quân sự tại khu vực Đông Nam Á thì có nghĩa là Hoa Kỳ chịu chấp nhận vai trò thứ yếu không chỉ về ảnh hưởng kinh tế mà kéo theo cả vị thế quân sự tại khu vực truyền thống này. Nếu là như vậy Mỹ sao có thể đủ sức thuyết phục, cuốn hút chào bán sản phẩn quân sự được nữa khi mà không có sức răn đe Trung quốc nắn gân mình?
Mỹ hiện nay là chủ hàng lớn nhất trong việc xuất khẩu vũ khí trên thế giới sau đến Nga và Trung quốc luôn. Người ta còn nhớ, hàng năm Hoa kỳ mang về lợi nhuận khổng lồ là 400 đến 500 tỷ đô-la tiền bán vũ khí cho thế giới mà 75 % làlcho các quốc gia tại khu vực Đông nam Á đầy tiềm năng đang lên này. Việc Trung quốc gây sức ép buộc tầu chở sân bay khổng lồ của Mỹ phải bỏ cuộc tập trận với Hàn quốc vừa qua và việc công khai hoá hoả tiễn tầm xa có khả năng diệt tầu chiến ở cự ly hàng ngàn cây số đã khiến Mỹ đặc biệt lo ngại và không khỏi giật mình. Nghiêm trọng đến mức mà Trong chương trình truyền hình The Apprentice của đài ABC ngày hôm qua (18/11), ông trùm bất động sản và giải trí Donald Trump phải thốt lên rằng “người Trung Quốc đang cười vào mũi Mỹ và rằng nước Mỹ đang không được tôn trọng”. Ông nói: “Tôi đang làm ăn với nhiều người Trung Quốc và họ đang cười vào mũi chúng ta. Họ cảm thấy chúng ta là những tên ngốc và đất nước chúng ta đang được dẫn dắt bởi những tên ngốc“.
Nhà tỉ phú 64 tuổi cho rằng Mỹ đã bỏ qua tội thao túng tiền tệ của Trung Quốc. Ông này đã ví hành động đó của Trung Quốc giống như tội “giết người”. “Tôi tin là tất cả mọi người đang xâu xé nước Mỹ “.Đây chính là nguyên nhân lớn nhất buộc tổng thống Obama và ngoại trưởng bà Clinton phải xuất hiện liên tục và đưa ra những cam kết có tính kiên quyết khẳng định vai trò ảnh hưởng lớn mạnh của mình ở khu vực Đông nam Á và Thế giới hiện nay. Cuộc phô trương có tính quyết định của Mỹ tại hội Hà Nội vừa qua và ở Nam Hàn mấy ngày này là câu trả lời đánh thép của quốc gia này.
Nhiều người cho rằng quốc tế đã quá chú ý về xuất khẩu vũ khí của Mỹ và Nga mà quyên không biết rằng hiện nay Trung quốc là quốc gia đứng hàng thứ ba sau hai quốc gia này về xuất khẩu vũ khí hiện đại và vũ khí thông thường như hoả tiễn tầm trung, tầm ngắn, tên lửa vác vai, súng bộ binh, xe tăng và ngay cả máy bay chiến đấu hhiện đại tàng hình, máy bay không người lái v.v…tổng số tiền thu về dù không được kiểm chứng nhưng ước đoán là vào khoảng 30 tỷ đô-la, một con số khổng lồ khiến Pháp, Anh, Đức và Nga Mỹ cũng phải giật mình.
Người ta đặc biệt chú ý đến một hợp đồng lớn giữa Trung quốc và Pakitan vừa được chính Tư lệnh Không quân Pakistan – ông Rao Qamar Suleman hôm qua (18/11) tiết lộ, nước này vừa mua một loạt tên lửa của Trung Quốc để trang bị cho 250 chiếc chiến đấu cơ JF- 17 Thunder của họ. Phát biểu trên tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc, Tướng Suleman cho biết, các hệ thống Radar và tên lửa điều khiển tầm trung SD-10 sẽ được sử dụng trên những chiếc máy bay chiến đấu do hai nước phối hợp sản xuất. Và mới đây người ta cũng đã tìm thấy rất nhiều vũ khí được cả đôi bên chính phủ và lực lượng du kích ở các nước Nam phi là xuất xứ từ Trung quốc. Bởi thế, Mỹ và Nga, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á đang rất quan tâm theo dõi sát về vấn đề này, đặc biệt là Nhật Bản và Nam Triều Tiên nước nằm bên cành Trung quốc và đang có tranh chấp về lãnh hải và đảo biển.
Thực ra Trung quốc không phải bây giờ sợ sức mạnh quân sự Mỹ mà sợ chính là sự liên kết lại của các quốc gia Đông Nam Á và khu vực để chặn sự bành trướng của họ. Cụ thể là trước sự đe doạ có thật khi thấy tầu chiến Trung quốc hung hăng bắt tầu đánh cá của Việt Nam và các nước ở khu vực này thì Việt nam và các nước Aisan đã tự nhiên giang tay kết nối thành một khối kinh tế tách dời khỏi ảnh hưởng Trung quốc và bắt đầu từ liên kết kinh tế nay có cả liên kết về mặt quân sự.
Hội nghị các quốc gia Đông Nam Á mở rộng tại Hà Nội đã là keo dính chặt các quốc gia Đông Nam Á lại với nhau trong một quyết tâm chung đưa vấn đề tranh chấp biển Đông ra tầm cỡ quốc tế chứ không theo sách lược đơn phương giữa Trung quốc và từng quốc gia có tranh chấp chủ quyền. Tiếp theo đó là hàng loạt quốc gia khu vực này tân trang mua sắm vũ khí để đối phó với tình trạng hung hăng quá mức của Trung quốc. Người ta đánh giá một trong những thành công lớn nhất của ngoại giao Việt Nam chính là tại Hội nghị các quốc gia đông Nam Á mở rộng vừa qua được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam đã đưa vấn đề an ninh biển Đông lên bàn giải phẫu quốc tế và và chuyuển hoán từ đối thoại song phương với Trung quốc nay trở thành đối thoại tập thể, có tính quốc tế với người khổng lồ này, tạo quan hệ chặt chẽ giữa giữa khối Aisan và Mỹ, Nhật bản, Hàn quốc và nay có cả Úc và Newwzeland cùng tham gia.
Rõ ràng Trung quốc đang trơ trọi giữa một khối vững mạnh chứ không còn như hình thái mấy tháng trước đó họ ngang dọc, muốn làm gì thì làm. Trước hình thái mới, cho dù Trung quốc có cố tình đẩy nhanh khả năng quốc phòng khổng lồ của mình nhưng khi vấp phải một khối liên kết vững mạnh này thì họ thấy phải chồn tay, lạnh gáy chứ không còn như trước nữa.
Như vậy, Trung quốc đã thực sự thất bại trên mặt ngoại giao và nay đang chịu mũi dùi của quốc tế vào các vấn đề an ninh hàng hải ở khu vực đầy nóng bỏng này. Từ bị ép về ngoại giao, quân sự nay Trung quốc bắt đầu bị sức ép mạnh hơn về kinh tế. Mặc dù họ luôn cổ xuý cho tự do mậu dịch với các quốc gia nhưng cánh cửa nay đang khép hẹp lại và có nguy cơ bị tẩy chay do các hàng rào cản mậu dịch mà các quốc gia đang đưa ra mà đứng dầu là Hoa kỳ sau đó là lần lượt các nước ở châu Âu và các quốc gia Đông Nam Á. Vì thế, đứng trước vấn đề sống còn của Trung quốc vào những năm tới đây, các nhà lãnh đạo Trung quốc giờ đang áp dụng sách lược mới đó là “ẩn mạnh, phô yếu”.
Người ta rất chú ý đến các bài phát biểu của Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đang có khả năng đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung quốc tới đây, khi hôm qua (15/11) đã tuyên bố, một đất nước Trung Quốc ổn định và thịnh vượng không phải là một mối đe dọa cho bất kỳ nước nào mà ngược lại còn đem đến cơ hội phát triển cho nhiều nước khác. Trong bài phát biểu về nền kinh tế Trung Quốc và mối quan hệ của nước này với thế giới bên ngoài tại lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ ngoại giao Trung Quốc – Singapore, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình cho biết, Trung Quốc vẫn là một đất nước đang phát triển cho dù GDP của nước này được dự đoán sẽ đạt mức cao thứ nhì thế giới trong năm nay. Ông đã cố gắng đưa ra những con số để thuyết phục mọi người không nên sợ Trung quốc mạnh hiện nay khi cho rằng, GDP trên đầu người của Trung Quốc chỉ bằng 1/10 so với của Singapore và chỉ xếp thứ 100 của thế giới. Sự phát triển của Trung Quốc vẫn “chưa cân đối, chưa đồng bộ và ổn định và chúng tôi sẽ phải nỗ lực trong nhiều năm nữa mới tiến tới được trình độ hiện đại và mang lại được một cuộc sống hạnh phúc, thịnh vượng cho toàn thể nhân dân Trung Quốc.”
Những lời phát biểu nhũn nhặn như con chi chi của vị Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người có khả năng kế vị ông ôn-Gia-Bảo lãnh đạo nước Trung hoa tới đây là:
Theo lời ông Bình “Trung Quốc theo đuổi con đường phát triển hài hòa, đồng bộ và khoa học ở bên trong song song với con đường phát triển hợp tác, hòa bình và cởi mở ở bên ngoài. Sự phát triển hơn nữa của Trung Quốc sẽ chỉ đem lại thêm nhiều cơ hội hơn cho thế giới, cụ thể là các nước láng giềng.”
Nhưng những lời của nhà lãnh đạo vốn được mệnh danh là bảo thủ, cứng rắn này dù có mền đến mấy cũng vẫn không làm hài lòng lãnh đạo các quốc gia lân bang và người ta đã cảnh giác ngay sau khi ông Bình phát biểu những lời trấn an này lại là việc họ đưa tầu chiến hiện đại đến vùng biển đang tranh chấp với Nhật bản, bất chấp phía Nhật lên án.
Hàng loạt báo chí Nhật và các nước đãđăng tin về chuyện ngày 18/11/2010 thì báo chí các nước liên tục đăng bài và ảnh về cuộc ra mắt của tầu chiến hiện đại Trung quốc đang tiến về vùng biển tranh chấp với Nhật. Theo báo chí Nhật Bản, hôm nay, tàu tuần tra hiện đại của Trung Quốc có khả năng mang theo máy bay trực thăng đã bắt đầu chuyến hành trình từ tỉnh Quảng Đông ra vùng biển phía đông đang tranh chấp với Nhật Bản.
Người ta đặc biệt quan ngại dấu hiệu cho thấy một mặt trong lời nói thể hiện “ẩn mạnh, phô yếu”, nhưng mặt kia thì họ đang tăng nhanh cuộc chạy đua vũ trang nhất là đầu từ vào hải quân và Hoả tiễn tầm xa, như hình ảnh con tầu Yuzheng 310 nặng 2580 tấn là tàu tuần tra hiện đại nhất của Trung Quốc được trang bị những công nghệ rất tinh vi. Nhữngnăm tới đây Trung quốc chắc chắn sẽ ra mắt hàng loạt những con tầu như vậy thậm chí còn lớn mạnh hơn, tối tân hơn. Và nay, chẳng riêng gì Hoa Kỳ, các nước châu Âu mà cả nước Nga cũng buộc phải cảnh giác đối phó với một Trung quốc ngạo nghễ.
Người ta cũng đặc biệt chú ý đến chuyến công du của tổng thống Mỹ đến Ấn-độ mới đây và báo chí Mỹ đã không ngần ngại nói thẳng ra rằng: “Chuyến công du đến Ấn Độ của Tổng thống Obama là một bằng chứng cho thấy, trọng tâm chiến lược của Mỹ đang chuyển từ Bắc Kinh sang Delhi.”
Sự lo lắng về một Trung quốc quá mạnh và hung hăng hiện nay đã khiến cho thế giới phải có sự đổi thay và điển hình là hàng loạt các mối bang giao ký kết giữa Nga và Hoa kỳ, giữa Hoa Kỳ và Ấn độ và mới đây là khối NATO với Nga chính là hồi chuông cảnh báo của thế giới về một Trung quốc hùng mạnh và ngão nghễ chăng? Tất nhiên những dấu hiệu Mỹ Nga, Ấn, Nhật, Hàn và NATO xích lại gần nhau đang khiến cho Trung quốc buồn và vì thế việc xuống thang trong chính sách của Trung quốc từ phô trương sức mạnh, nắn gân các nước nay chuyển sang sách lược ” ẩn mạnh, phố yếu” là lẽ đương nhiên. Nhưng có điều con mãnh hổ đầy sức mạnh đó dù có co thân ngồi đó thì cái móng vuốt nhọn vẫn không giấu được đi sau lớp lông dầy.
Ngày 21 tháng 11 năm 2010.
© Nguyễn Hoàng Hà
© Đàn Chim Việt
Đã vậy, từ địa vị nước một nước đông dân nghèo nay họ vươn lên trên mọi phương diện thành chủ nợ lớn nhất của Hoa kỳ, và là quốc gia có tổng số vốn dự trữ lên khoảng 7 ngàn tỷ đô-la. Nhưng sự trỗi lên vượt bậc của Trung quốc vẫn chưa làm cho những nhà lãnh đạo quốc gia này vừa ý mà họ muốn nhắm đến đích thực một đại cường quốc về quân sự mà không có quốc gia nào có thể cản được họ.
Trung quốc đã dành 18 % ngân sách cho việc phát triển quân sự mặc dù trên báo chí họ chỉ thông báo con số rất khiêm tốn là 5 %. Để thế giới biết đến mình, kinh sợ mình họ đã không ngần ngại phô trương thế lực quân sự nhất là bằng tầu chiến, tên lửa tầm xa, tầm trung và đặc biệt là hoả tiễn chống tầu chiến từ xa. Cùng với các động thái này, họ khoanh vùng biển cho mình có đặc quyền thống trị một khu vực rất rộng lớn là biển Đông, kể cả những khu vực thuốc lãnh hải Việt Nam, Philipin, Thái Lan v.v…Để nắn gân Mỹ, họ còn cống bố đường lưỡi bò trên biển Đông, nơi đường hàng hải quốc tế mà tầu thuyền xưa nay của thế giới vẫn thường qua lại cũng thuộc quyền kiểm soát của mình.
Để chèn ép Hàn quốc và Nhật ở phía Đông Bắc, họ dùng Bắc Triêu tiên để răn đe kiềm chế hai quốc gia có nền kinh tế mạnh này và vừa qua việc tầu đánh các của họ đâm vào tuầu tuần tra của Nhật rồi ăn vạ Nhật, cưỡng bức bắt Tô-ky-ô phải thả tầu là để dằn mặt Mỹ. Từ gián tiếp đến trực tiếp, họ tổ chức các buổi diễn tập với quy mô lớn với hai mục đích là răn đe các quốc gia nhỏ đang có tranh chấp chủ quyền về biển và lãnh hải nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản như dầu hoả, khí đốt và là khu vực hải sản quý.
Tiến bước hơn nữa đây cũng là việc đưa tay nắn gân cả Hoa kỳ không muốn hạm đội lớn của Mỹ đi lại khu vực mà cho cho là nay thuộc quyền của họ. Nhưng sau những thời gian nhún nhường, kìm chế thì nay Mỹ biết rằng làm như vậy lợi bất cập hại. Vì sao?
Vì mấy lẽ. Một là kinh tế Mỹ vài thập niên qua đã quá chú trọng vào sản xuất công nghệ cao, bỏ đi những nền kinh tế truyền thống như dệt may, hàng nông nghiệp xuất khẩu lúa mì, sản xuất ô-tô, hàng điện tử, đồ y tế hiện đại v.v…mà tập trung nhiều vào khai thác dầu khí và sản xuất vũ khí, tạo cơ hội vàng để Trung quốc trỗi dậy làm mưa làm gió trên thị trường thế giới, đặc biệt thị trườngchâu Âu và lấn át ngay cả trong nước Mỹ. Sự nguy hại đến với Hoa kỳ không chỉ nằm ở vấn đề sự mất cân đối trong cán cân thương mại Mỹ Trung đã lên đến hàng trăm tỷ đô-la hàng năm hay do các hàng nhu yếu phẩm của Trung quốc đang tràn lan thao túng trên thị trường Hoa Kỳ thế giới đang đe doạ kinh tế quốc gia này như những công nghệ sản xuất đồ dùng gia đình, nhu yếu phẩm, nông nghiệp mà ngay cả đến sản xuất ô-tô đây sẽ là xuất máy bay, vũ các loại vũ khí hiện đại của khí của Trung quốc cũng xuất hiện lấn át Hoa kỳ trong một ngày không xa với kỹ thuật chẳng thua kém mà lại rẻ hơn rất nhiều so với các hàng này của Hoa kỳ.
Người ta tự hỏi, nếu Mỹ để Trung quốc qua mặt về vai trò quân sự tại khu vực Đông Nam Á thì có nghĩa là Hoa Kỳ chịu chấp nhận vai trò thứ yếu không chỉ về ảnh hưởng kinh tế mà kéo theo cả vị thế quân sự tại khu vực truyền thống này. Nếu là như vậy Mỹ sao có thể đủ sức thuyết phục, cuốn hút chào bán sản phẩn quân sự được nữa khi mà không có sức răn đe Trung quốc nắn gân mình?
Mỹ hiện nay là chủ hàng lớn nhất trong việc xuất khẩu vũ khí trên thế giới sau đến Nga và Trung quốc luôn. Người ta còn nhớ, hàng năm Hoa kỳ mang về lợi nhuận khổng lồ là 400 đến 500 tỷ đô-la tiền bán vũ khí cho thế giới mà 75 % làlcho các quốc gia tại khu vực Đông nam Á đầy tiềm năng đang lên này. Việc Trung quốc gây sức ép buộc tầu chở sân bay khổng lồ của Mỹ phải bỏ cuộc tập trận với Hàn quốc vừa qua và việc công khai hoá hoả tiễn tầm xa có khả năng diệt tầu chiến ở cự ly hàng ngàn cây số đã khiến Mỹ đặc biệt lo ngại và không khỏi giật mình. Nghiêm trọng đến mức mà Trong chương trình truyền hình The Apprentice của đài ABC ngày hôm qua (18/11), ông trùm bất động sản và giải trí Donald Trump phải thốt lên rằng “người Trung Quốc đang cười vào mũi Mỹ và rằng nước Mỹ đang không được tôn trọng”. Ông nói: “Tôi đang làm ăn với nhiều người Trung Quốc và họ đang cười vào mũi chúng ta. Họ cảm thấy chúng ta là những tên ngốc và đất nước chúng ta đang được dẫn dắt bởi những tên ngốc“.
Nhà tỉ phú 64 tuổi cho rằng Mỹ đã bỏ qua tội thao túng tiền tệ của Trung Quốc. Ông này đã ví hành động đó của Trung Quốc giống như tội “giết người”. “Tôi tin là tất cả mọi người đang xâu xé nước Mỹ “.Đây chính là nguyên nhân lớn nhất buộc tổng thống Obama và ngoại trưởng bà Clinton phải xuất hiện liên tục và đưa ra những cam kết có tính kiên quyết khẳng định vai trò ảnh hưởng lớn mạnh của mình ở khu vực Đông nam Á và Thế giới hiện nay. Cuộc phô trương có tính quyết định của Mỹ tại hội Hà Nội vừa qua và ở Nam Hàn mấy ngày này là câu trả lời đánh thép của quốc gia này.
Nhiều người cho rằng quốc tế đã quá chú ý về xuất khẩu vũ khí của Mỹ và Nga mà quyên không biết rằng hiện nay Trung quốc là quốc gia đứng hàng thứ ba sau hai quốc gia này về xuất khẩu vũ khí hiện đại và vũ khí thông thường như hoả tiễn tầm trung, tầm ngắn, tên lửa vác vai, súng bộ binh, xe tăng và ngay cả máy bay chiến đấu hhiện đại tàng hình, máy bay không người lái v.v…tổng số tiền thu về dù không được kiểm chứng nhưng ước đoán là vào khoảng 30 tỷ đô-la, một con số khổng lồ khiến Pháp, Anh, Đức và Nga Mỹ cũng phải giật mình.
Người ta đặc biệt chú ý đến một hợp đồng lớn giữa Trung quốc và Pakitan vừa được chính Tư lệnh Không quân Pakistan – ông Rao Qamar Suleman hôm qua (18/11) tiết lộ, nước này vừa mua một loạt tên lửa của Trung Quốc để trang bị cho 250 chiếc chiến đấu cơ JF- 17 Thunder của họ. Phát biểu trên tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc, Tướng Suleman cho biết, các hệ thống Radar và tên lửa điều khiển tầm trung SD-10 sẽ được sử dụng trên những chiếc máy bay chiến đấu do hai nước phối hợp sản xuất. Và mới đây người ta cũng đã tìm thấy rất nhiều vũ khí được cả đôi bên chính phủ và lực lượng du kích ở các nước Nam phi là xuất xứ từ Trung quốc. Bởi thế, Mỹ và Nga, Ấn Độ và nhiều quốc gia khác ở khu vực Đông Nam Á đang rất quan tâm theo dõi sát về vấn đề này, đặc biệt là Nhật Bản và Nam Triều Tiên nước nằm bên cành Trung quốc và đang có tranh chấp về lãnh hải và đảo biển.
Thực ra Trung quốc không phải bây giờ sợ sức mạnh quân sự Mỹ mà sợ chính là sự liên kết lại của các quốc gia Đông Nam Á và khu vực để chặn sự bành trướng của họ. Cụ thể là trước sự đe doạ có thật khi thấy tầu chiến Trung quốc hung hăng bắt tầu đánh cá của Việt Nam và các nước ở khu vực này thì Việt nam và các nước Aisan đã tự nhiên giang tay kết nối thành một khối kinh tế tách dời khỏi ảnh hưởng Trung quốc và bắt đầu từ liên kết kinh tế nay có cả liên kết về mặt quân sự.
Hội nghị các quốc gia Đông Nam Á mở rộng tại Hà Nội đã là keo dính chặt các quốc gia Đông Nam Á lại với nhau trong một quyết tâm chung đưa vấn đề tranh chấp biển Đông ra tầm cỡ quốc tế chứ không theo sách lược đơn phương giữa Trung quốc và từng quốc gia có tranh chấp chủ quyền. Tiếp theo đó là hàng loạt quốc gia khu vực này tân trang mua sắm vũ khí để đối phó với tình trạng hung hăng quá mức của Trung quốc. Người ta đánh giá một trong những thành công lớn nhất của ngoại giao Việt Nam chính là tại Hội nghị các quốc gia đông Nam Á mở rộng vừa qua được tổ chức tại Hà Nội, Việt Nam đã đưa vấn đề an ninh biển Đông lên bàn giải phẫu quốc tế và và chuyuển hoán từ đối thoại song phương với Trung quốc nay trở thành đối thoại tập thể, có tính quốc tế với người khổng lồ này, tạo quan hệ chặt chẽ giữa giữa khối Aisan và Mỹ, Nhật bản, Hàn quốc và nay có cả Úc và Newwzeland cùng tham gia.
Rõ ràng Trung quốc đang trơ trọi giữa một khối vững mạnh chứ không còn như hình thái mấy tháng trước đó họ ngang dọc, muốn làm gì thì làm. Trước hình thái mới, cho dù Trung quốc có cố tình đẩy nhanh khả năng quốc phòng khổng lồ của mình nhưng khi vấp phải một khối liên kết vững mạnh này thì họ thấy phải chồn tay, lạnh gáy chứ không còn như trước nữa.
Như vậy, Trung quốc đã thực sự thất bại trên mặt ngoại giao và nay đang chịu mũi dùi của quốc tế vào các vấn đề an ninh hàng hải ở khu vực đầy nóng bỏng này. Từ bị ép về ngoại giao, quân sự nay Trung quốc bắt đầu bị sức ép mạnh hơn về kinh tế. Mặc dù họ luôn cổ xuý cho tự do mậu dịch với các quốc gia nhưng cánh cửa nay đang khép hẹp lại và có nguy cơ bị tẩy chay do các hàng rào cản mậu dịch mà các quốc gia đang đưa ra mà đứng dầu là Hoa kỳ sau đó là lần lượt các nước ở châu Âu và các quốc gia Đông Nam Á. Vì thế, đứng trước vấn đề sống còn của Trung quốc vào những năm tới đây, các nhà lãnh đạo Trung quốc giờ đang áp dụng sách lược mới đó là “ẩn mạnh, phô yếu”.
Người ta rất chú ý đến các bài phát biểu của Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đang có khả năng đứng đầu Đảng và Nhà nước Trung quốc tới đây, khi hôm qua (15/11) đã tuyên bố, một đất nước Trung Quốc ổn định và thịnh vượng không phải là một mối đe dọa cho bất kỳ nước nào mà ngược lại còn đem đến cơ hội phát triển cho nhiều nước khác. Trong bài phát biểu về nền kinh tế Trung Quốc và mối quan hệ của nước này với thế giới bên ngoài tại lễ kỷ niệm 20 năm quan hệ ngoại giao Trung Quốc – Singapore, Phó Chủ tịch Tập Cận Bình cho biết, Trung Quốc vẫn là một đất nước đang phát triển cho dù GDP của nước này được dự đoán sẽ đạt mức cao thứ nhì thế giới trong năm nay. Ông đã cố gắng đưa ra những con số để thuyết phục mọi người không nên sợ Trung quốc mạnh hiện nay khi cho rằng, GDP trên đầu người của Trung Quốc chỉ bằng 1/10 so với của Singapore và chỉ xếp thứ 100 của thế giới. Sự phát triển của Trung Quốc vẫn “chưa cân đối, chưa đồng bộ và ổn định và chúng tôi sẽ phải nỗ lực trong nhiều năm nữa mới tiến tới được trình độ hiện đại và mang lại được một cuộc sống hạnh phúc, thịnh vượng cho toàn thể nhân dân Trung Quốc.”
Những lời phát biểu nhũn nhặn như con chi chi của vị Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người có khả năng kế vị ông ôn-Gia-Bảo lãnh đạo nước Trung hoa tới đây là:
Theo lời ông Bình “Trung Quốc theo đuổi con đường phát triển hài hòa, đồng bộ và khoa học ở bên trong song song với con đường phát triển hợp tác, hòa bình và cởi mở ở bên ngoài. Sự phát triển hơn nữa của Trung Quốc sẽ chỉ đem lại thêm nhiều cơ hội hơn cho thế giới, cụ thể là các nước láng giềng.”
Nhưng những lời của nhà lãnh đạo vốn được mệnh danh là bảo thủ, cứng rắn này dù có mền đến mấy cũng vẫn không làm hài lòng lãnh đạo các quốc gia lân bang và người ta đã cảnh giác ngay sau khi ông Bình phát biểu những lời trấn an này lại là việc họ đưa tầu chiến hiện đại đến vùng biển đang tranh chấp với Nhật bản, bất chấp phía Nhật lên án.
Hàng loạt báo chí Nhật và các nước đãđăng tin về chuyện ngày 18/11/2010 thì báo chí các nước liên tục đăng bài và ảnh về cuộc ra mắt của tầu chiến hiện đại Trung quốc đang tiến về vùng biển tranh chấp với Nhật. Theo báo chí Nhật Bản, hôm nay, tàu tuần tra hiện đại của Trung Quốc có khả năng mang theo máy bay trực thăng đã bắt đầu chuyến hành trình từ tỉnh Quảng Đông ra vùng biển phía đông đang tranh chấp với Nhật Bản.
Người ta đặc biệt quan ngại dấu hiệu cho thấy một mặt trong lời nói thể hiện “ẩn mạnh, phô yếu”, nhưng mặt kia thì họ đang tăng nhanh cuộc chạy đua vũ trang nhất là đầu từ vào hải quân và Hoả tiễn tầm xa, như hình ảnh con tầu Yuzheng 310 nặng 2580 tấn là tàu tuần tra hiện đại nhất của Trung Quốc được trang bị những công nghệ rất tinh vi. Nhữngnăm tới đây Trung quốc chắc chắn sẽ ra mắt hàng loạt những con tầu như vậy thậm chí còn lớn mạnh hơn, tối tân hơn. Và nay, chẳng riêng gì Hoa Kỳ, các nước châu Âu mà cả nước Nga cũng buộc phải cảnh giác đối phó với một Trung quốc ngạo nghễ.
Người ta cũng đặc biệt chú ý đến chuyến công du của tổng thống Mỹ đến Ấn-độ mới đây và báo chí Mỹ đã không ngần ngại nói thẳng ra rằng: “Chuyến công du đến Ấn Độ của Tổng thống Obama là một bằng chứng cho thấy, trọng tâm chiến lược của Mỹ đang chuyển từ Bắc Kinh sang Delhi.”
Sự lo lắng về một Trung quốc quá mạnh và hung hăng hiện nay đã khiến cho thế giới phải có sự đổi thay và điển hình là hàng loạt các mối bang giao ký kết giữa Nga và Hoa kỳ, giữa Hoa Kỳ và Ấn độ và mới đây là khối NATO với Nga chính là hồi chuông cảnh báo của thế giới về một Trung quốc hùng mạnh và ngão nghễ chăng? Tất nhiên những dấu hiệu Mỹ Nga, Ấn, Nhật, Hàn và NATO xích lại gần nhau đang khiến cho Trung quốc buồn và vì thế việc xuống thang trong chính sách của Trung quốc từ phô trương sức mạnh, nắn gân các nước nay chuyển sang sách lược ” ẩn mạnh, phố yếu” là lẽ đương nhiên. Nhưng có điều con mãnh hổ đầy sức mạnh đó dù có co thân ngồi đó thì cái móng vuốt nhọn vẫn không giấu được đi sau lớp lông dầy.
Ngày 21 tháng 11 năm 2010.
© Nguyễn Hoàng Hà
© Đàn Chim Việt
Foreign Affairs, tháng 11/ tháng 12 năm 2010
(Đương đầu với cuộc cách mạng đối ngoại của Trung Quốc)
Elizabeth C. Economy
ELIZABETH C. ECONOMY là nghiên cứu trưởng của chương trình C. V. Star và là giám đốc ban Nghiên cứu châu Á tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
Sau nhiều thập niên đi theo khẩu hiệu “Che đậy ánh sáng, nuôi dưỡng bóng tối” [thao quang, dưỡng hối] của Đặng Tiểu Bình, các nhà lãnh đạo Trung Quốc (TQ) bắt đầu nhận thức rằng việc duy trì đà tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị trong nước sẽ không tùy thuộc vào sự nhún nhường mà là nhờ vào việc tích cực kiểm soát các biến cố ở ngoài biên giới TQ. Do đó, Bắc Kinh đã phát động một chiến lược “đi ra” (“go out” strategy) nhằm thay đổi qui phạm và cơ chế toàn cầu. Lúc tự chuyển đổi chính mình cũng là lúc TQ đang chuyển đổi thế giới. Hãy quên đi ý niệm coi TQ như một kẻ hùn vốn có trách nhiệm (responsible stakeholder); TQ đã trở thành một cường đang làm cách mạng.
Trong gần suốt lịch sử cận đại của TQ, các nhà lãnh đạo nước này luôn tuyên bố không mấy quan tâm đến việc tìm cách ảnh hưởng các vấn đề toàn cầu. Lâu nay họ vẫn rêu rao là họ ủng hộ việc duy trì nguyên trạng (the status quo): nào là TQ giúp đỡ thế giới bằng cách tự giúp đỡ chính mình; nào là sự trỗi dậy hòa bình của TQ; nào là chính sách hai bên đều thắng lợi; đấy mới chỉ là một vài khẩu hiệu tiêu biểu. Bắc Kinh đã miễn cưỡng đứng ra tổ chức các cuộc thương thuyết liên quan Bắc Hàn; Bắc Kinh cố tránh né các cuộc đàm phán về tiềm năng Iran trở thành một cường quốc nguyên tử, thường thì Bắc Kinh không mấy bận tâm về các cuộc xung đột quân sự và chính trị của các nước khác. Trên nhiều khía cảnh, ảnh hưởng của TQ lên phần còn lại của thế giới là không cố ý – mà do hậu quả của các cuộc cách mạng diễn ra bên trong TQ. Khi người TQ thay đổi lối sống và cách quản lý kinh tế, họ bắt đầu có ảnh hưởng sâu sắc lên phần còn lại của thế giới. TQ không cố tình để trở thành nước đứng đầu trong việc gây ra nạn thay đổi khí hậu toàn cầu; sự thể này chỉ là hậu quả của đà tăng trưởng kinh tế phi thường và việc 1 tỉ 3 nhân dân TQ lệ thuộc vào dầu khí để thoả mãn nhu cầu năng lượng.
Tuy nhiên tất cả điều này cũng sắp thay đổi. Có một thời các nhà lãnh đạo TQ cố tình cô lập chính mình để khỏi dính sâu với thế giới bên ngoài; ngày nay họ nhận ra rằng việc thỏa mãn nhu cầu năng lượng đòi hỏi một chiến lược toàn cầu năng động hơn. Việc dùng tuyên truyền để cổ vũ một “môi trường quốc tế hoà bình” trong đó TQ có thể phát triển kinh tế bằng cách lợi dụng nỗ lực ngoại giao của các nước khác là chưa đủ. Để đảm bảo các đường tiếp liệu cung cấp tài nguyên thiên nhiên, TQ không những chỉ cần đến một nghị trình phát triển và mậu dịch có bài bản, mà còn cần đến một chiến lược quân sự rộng lớn. Người TQ không còn muốn làm những kẻ thụ động tiếp nhận thông tin từ thế giới bên ngoài; họ muốn uốn nắn thông tin đó để cho người trong nước và người nước ngoài sử dụng. Và khi sức mạnh kinh tế của họ bành trướng, họ không những muốn đảm nhận những vai trò lớn hơn trong các tổ chức quốc tế, mà lại còn muốn thay đổi qui luật của cuộc chơi.
Những nhà lãnh đạo TQ nhìn nhận rằng họ đang đứng giữa ngã ba đường và đang phấn đấu để đưa ra một đường lối mới. Trong một cuộc phỏng vấn với China News Service, cựu đại sứ Wu Jiamin, một người khôn khéo chính trị, cố gắng hòa giải luận điệu cũ với thực tế mới: “Vào thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay hoàn toàn chấm dứt… rõ ràng là TQ sẽ đóng một vai trò có ý nghĩa hơn trên thế giới”, ông tuyên bố. “Những gì chúng tôi đạt được chỉ là bước khởi đầu. Tư tưởng Đặng Tiểu Bình, ‘giữ một hình bóng lu mờ và cố gắng thực hiện được một điều gì’ vẫn còn có thể áp dụng chí ít đến cả 100 sau.” Điều mà cái thông điệp khá hàm hồ của Wu báo hiệu là TQ sẽ đi ra thay đổi luật chơi của thế giới.
Phần còn lại của thế giới nên biết rằng, chương trình nghị sự mới của TQ sẽ đòi hỏi một sự quan tâm to lớn hơn để khai thác tính năng động trong nước (internal dynamics) và triển khai một nỗ lực đối ngoại năng động hơn, phối hợp chặt chẽ hơn. Thế giới cần đảm bảo rằng TQ biết tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác trong khi TQ tìm cách thỏa mãn nhu cầu của mình. Và nếu Hoa Kỳ muốn duy trì thế ưu việt của mình, hay chí ít duy trì vai trò khuôn nắn các qui phạm và giá trị (norms and values) nhằm hướng dẫn thế giới trong thế kỷ 21, chính sách TQ của Hoa Kỳ không thể chỉ là một phản ứng đối với các nỗ lực mới mẻ của Bắc Kinh. Chính sách này phải nằm trong một chiến lược toàn cầu dài hạn, rộng lớn hơn, bắt đầu bằng một sự xác định rõ ràng các ưu tiên đối nội của Hoa Kỳ. Bước đầu là, trong khi Bắc Kinh tìm kiếm đường lối để xuất khẩu cuộc cách mạng của mình cho phần còn lại của thế giới, phần còn lại của thế giới cần phải hành động nhanh chóng nhằm nắm bắt hình dáng của cuộc cách mạng này và tiên liệu hậu quả của nó.
Cuộc cách mạng nội bộ của TQ
Vào cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, nhà lãnh đạo TQ Đặng Tiểu Bình đã bắt đầu tiến trình “đổi mới và cởi mở”, thúc đẩy một loạt cải tổ mà trên ba thập niên qua đã tạo được sự thay đổi mang tính cách mạng. Các cơ chế kinh tế, các mô hình thăng tiến và tương tác xã hội (patterns of social mobility and interaction), các giá trị xã hội và thậm chí Đảng Cộng sản TQ đều được chuyển hoá. Dù bằng thước đo nào chăng nữa, cuộc cách mạng của Đặng Tiểu Bình cũng tạo được một trong những tấm gương thành công kinh tế vĩ đại của thế kỷ 20. TQ hiên nay là nền kinh tế và là nước xuất khẩu đứng nhì thế giới. Nhờ một khu vực xuất khẩu phát đạt, một nguồn vốn nước ngoài ào ạt chảy vào liên tục, và một tiền tệ được quản lý (a managed currency), ngân hàng trung ương và các cơ sở đầu tư nhà nước TQ hiện nắm giữ những lượng ngoại hối to lớn nhất thế giới. Trong quá trình đổi mới này, hàng trăm triệu người dân TQ đã thoát được cảnh đói nghèo chỉ trong vòng vài thập niên.
Tuy nhiên, đối với giới lãnh đạo TQ hiện nay, cuộc cách mạng của họ Đặng đã đến hồi kết thúc. Họ đang phải đối đầu với hậu quả tiêu cực của 30 năm phát triển không kềm chế: đó là, những chỉ số ô nhiễm và sự xuống cấp môi trường tăng nhanh, nạn tham nhũng tràn lan, nạn thất nghiệp tăng vọt (theo nhiều nguồn tin, nạn thất nghiệp ở trong khoảng từ 9,4% đến 20%), một mạng lưới an sinh xã hội rách nát, và bất quân bình lợi tức ngày một gia tăng. Gộp lại với nhau, những tệ trạng xã hội này đã đưa đến trên 100.000 vụ chống đối mỗi năm. Để đối phó với tình hình, lãnh đạo TQ đang chuẩn bị phát động một loạt cải tổ không kém phần ngoạn mục [so với những cải tổ của họ Đặng] để một lần nữa thay đổi đất nước và chỗ đứng của TQ trên thế giới. Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch, trong vòng 20 năm hay có thể sớm hơn, thế giới sẽ không thể nhận ra được nước Trung Hoa tân tiến này: một xã hội thành thị, đầy sáng kiến, có ý thức môi trường, được nối mạng, và là một xã hội công bằng.
Nằm ở trung tâm của cuộc cách mạng tiếp theo này là một kế hoạch theo đó Bắc Kinh sẽ đô thị hoá 400 triệu người dân trước năm 2030. Năm 1990, mới chỉ 25% dân số TQ sống trong vùng đô thị; ngày nay con số đó gần được 45% và sẽ lên 70% trước năm 2030. Đô thị hoá TQ sẽ cho phép việc phân phối các dịch vụ xã hội hữu hiệu hơn và giúp giảm bớt những chênh lệch về lợi tức. Một TQ đô thị hoá sẽ là một xã hội đặt cơ sở trên khoa học tri thức (knowledge-based). Vì không còn muốn thấy quốc gia mình là một nhà máy sản xuất khổng lồ của thế giới, các nhà lãnh đạo TQ đã lao vào một nỗ lực táo bạo để chuyển đổi đất nước thành một trung tâm sáng kiến hàng đầu. Bắc Kinh đang hổ trợ lãnh vực nghiên cứu và phát triển; kêu gọi các nhà khoa học TQ được đào tạo ở nước ngoài trở về để làm thủ trưởng các phòng thí nghiệm và điều khiển các trung tâm nghiên cứu; và nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình phát kiến (models of innovation) từng thành công ở Phương Tây.
Các đô thị mới của TQ cũng sẽ có ý thức môi trường cao (green). Bắc Kinh đang đầu tư hằng trăm tỉ đôla vào khu vực năng lượng sạch và đang tài trợ cho các nhà sản xuất trong nước nhằm khuyến khích chế tạo và bán ra các sản phẩm năng lượng sạch. TQ đã là một trong những quốc gia hàng đầu của thế giới chế tạo các tua-bin gió (wind turbines) và các pa-nô biến điện mặt trời (photovoltaic panels). TQ chuẩn bị chiếm nhiều phần đáng kể của thị trường toàn cầu trong ngành vận chuyển dùng năng lượng sạch (clean-energy transport); bao gồm đường hỏa xa cao tốc và xe chạy bằng điện. Sau cùng, dân chúng thành thị TQ sẽ được nối mạng. TQ đang nằm trong một cuộc cách mạng tin học. Khoảng 30% dân số TQ sử dụng Internet, và hầu hết đều ở đô thị. Trong một cuộc thăm dò của hãng Gallup vào năm 2009, 42% thị dân TQ cho biết có nối mạng Internet trong nhà họ, tiêu biểu cho mức tăng vọt 14% chỉ từ năm 2008. Nói một cách tuyệt đối, có nhiều người nối mạng tại TQ hơn bất cứ nơi nào trên thế giới.
Thậm chí khi TQ xúc tiến các kế hoạch táo bạo để chuyển đổi kinh tế và xã hội, nhiều sức ép và thách thức mới sẽ xuất hiện. Những đòi hỏi tài nguyên cho một cuộc đô thị hoá nhanh chóng là rất lớn. Một nửa số công trình xây dựng các cao ốc trên thế giới diễn ra tại TQ, và theo một ước tính, quốc gia này sẽ xây thêm khoảng 20.000 đến 50.000 nhà chọc trời trong những thập niên tới. Thượng Hải, vốn là trung tâm đô thị đông dân nhất nước, chẳng bao lâu nữa sẽ được 10 đô thị vệ tinh (satellite cities) vây quanh – mỗi đô thị có khoảng nửa triệu dân hay nhiều hơn. Muốn nối tất cả các đô thị này và nhiều đô thị mới khác trong cả nước phải cần đến 53.000 dặm xa lộ (khoảng 85.000 km). Một khi các đô thị này được xây dựng và nối lại với nhau, nhu cầu tài nguyên sẽ tiếp tục gia tăng: dân thành thị TQ tiêu thụ nhiều tài nguyên hơn dân nông thôn (gấp 3,5 lần về năng lượng và gấp 2,5 lần về nước), gây căng thẳng đáng kể cho các nguồn lực vốn đã hiếm hoi của quốc gia. Khoảng trước năm 2050, thị dân TQ có thể sẽ tiêu thụ hết 20% năng lượng toàn cầu.
Khác hẳn với đồng bào của họ ở nông thôn, thị dân TQ cũng sẽ đưa ra nhiều đòi hỏi chính trị có tổ chức hơn – để đòi hỏi một môi trường vệ sinh hơn, quyền phát biểu những đề tài văn hóa rộng lớn hơn, và chế độ quản lý đất nước minh bạch hơn. Xã hội dân sự đang phát triển mạnh trong các đô thị TQ: các hội chủ nhà, các nghệ sĩ, các người bảo vệ môi trường và y tế cộng đồng ngày càng khẳng định quyền sinh hoạt của mình. Nỗ lực gia tăng giai cấp trung lưu TQ lên đến 400 triệu người sẽ mang lại nhiều đòi hỏi hơn và tạo nhiều sức ép chính trị hơn cho giới lãnh đạo TQ.
Việc dân chúng sử dụng Internet rộng rãi sẽ tạo thêm nhiều rủi ro cho lãnh đạo TQ bằng cách gia tăng nguy cơ là, mối bất bình chính trị sẽ sở thành một thách thức có cơ sở rộng lớn chống lại quyền cai trị của Đảng Cộng sản. Thủ tướng Ôn Gia Bảo nhìn nhận đã “lướt mạng” hằng ngày để tìm hiểu các mối quan tâm của người dân, nhưng chủ tịch Hồ Cẩm Đào lại bày tỏ một số quan ngại về các khả năng khác của Internet đối với TQ: “Liệu chúng ta có thể đối phó được với Internet hay không, đây là một vấn đề ảnh hưởng đến việc phát triển văn hóa xã hội chủ nghĩa, đến an toàn thông tin, và sự ổn định của nhà nước”. Phát biểu của Hồ Cẩm Đào báo hiệu rằng lãnh đạo TQ ý thức được sự thách đố chính trị mà Internet có thể đặt ra cho quyền cai trị của họ trong tương lai.
Internet đang dần dà trở thành một hệ thống chính trị ảo tại TQ: nhân dân TQ tự tìm hiểu thông tin, tổ chức, và phản đối trực tuyến. Tháng Bảy 2010, các bloggers đã gửi đi các bản tin đầu tiên về một tai họa ô nhiễm môi trường rộng lớn tại tỉnh Jilin, có nội dung trái ngược với các báo cáo của chính quyền. Hàng ngàn người bất chấp sự trấn an của các quan chức, giận dữ lên án họ đã che đậy sự thật, và lũ lượt đi mua nước đóng chai. Người dân TQ cũng “biểu quyết” trên mạng. Trong một trường hợp, một ký giả bị cảnh sát truy nã về tội mạ lỵ, một cáo buộc được dàn dựng, đã tự biện hộ trên Internet. Trong số 33.000 người được thăm dò ý kiến, có đến 86 phần trăm cho rằng viên ký giả vô tội. Tờ Người quan sát kinh tế (the Economic Observer), một tuần san tài chính TQ, sau đó đã tung ra một loạt bài đả kích cảnh sát, lên án âm mưu đe dọa một “chuyên gia trong ngành truyền thông”. Nhờ vậy, những cáo buộc nhắm vào viên ký giả bị hủy bỏ.
Những người tranh đấu cũng sử dụng Internet để phát động nhiều chiến dịch khá thành công – một số liên quan đến các cuộc xuống đường – để ngăn chặn việc xây đập thủy điện và các nhà máy gây ô nhiễm, cũng như phản đối việc lấy tiếng Quảng Đông ra khỏi các chương trình truyền hình được phát tại tỉnh Quảng Đông. Nổi bật nhất có lẽ là sự xuất hiện một số thần tượng văn hóa dùng Internet vào mục đích chính trị. Hoạ sĩ danh tiếng Ai Weiwei, chẳng hạn, đã đi tìm công lý cho các gia đình có con bị chết trong trận động đất tại tỉnh Tế Xuyên, thậm chí đã ghi lại và đưa lên YouTube các cuộc đối đầu của ông với các viên chức ngoan cố. Blogger Han Han, vốn là tay đua xe hơi và cũng là một tiểu thuyết gia, thường xuyên đòi hỏi phương tiện truyền thông phong phú hơn và tự do văn hóa rộng rãi hơn. Từ khi mở trang mạng vào năm 2006 đến nay, blog của ông đã nhận trên 410 triệu lần truy cập. Có ý nghĩa hơn cả có lẽ là, Twitter, vốn bị cấm tại TQ, đã xuất hiện như một diễn đàn chui sôi nổi nhất để tranh luận chính trị tự do – bao gồm cuộc đối thoại trực tuyến mang tính đột phá giữa cư dân mạng TQ và đức Đạt lai La ma vào tháng Năm 2010. Những ưu tiên cốt lõi của lãnh đạo TQ ngày nay cũng gần giống như những ưu tiên của Đặng Tiểu Bình 30 năm trước đây: phát triển kinh tế và ổn định chính trị. Tuy nhiên, môi trường hoạt động của họ ở trong nước và nhận thức của họ về con đường đưa đến thành công là khác hẳn. Ngày nay nếu chỉ tập trung vào mặt trận quốc nội là thiếu sót; các lãnh đạo TQ muốn uốn nắn tình hình quốc tế để bành trướng mậu dịch.
Cách mạng TQ lan rộng toàn cầu
Vào thập niên 90 của thế kỷ trước, nguyên chủ tịch TQ Giang Trạch Dân phát động chính sách “đi ra” đầu tiên của đất nước, khuyến khích các xí nghiệp quốc doanh đi ra nước ngoài để tìm kiếm nguyên liệu. Do sáng kiến của họ Giang, quan hệ mậu dịch của TQ với các quốc gia giàu tài nguyên tại Đông Nam Á, châu Mỹ La tinh, và châu Phi nở rộ từ năm 2001 đến 2007, gia tăng 600 phần trăm. Hàng ngàn công ty TQ hiện hoạt động khắp nơi trong thế giới đang phát triển và bằng vốn đầu tư của mình đã làm sống lại một số nền kinh tế trước đó đã phá sản. Các giới lãnh đạo từ Cộng hòa Dân chủ Congo đến Venezuela và Campuchia đã tiếp nhận đầu tư và các cơ sở hạ tầng do TQ đưa đến như một hình thức trợ giúp thực dụng mà nước họ đang thèm khát. Trong nhiều trường hợp, các xí nghiệp quốc doanh TQ sẵn sàng – và có khả năng, với sự hậu thuẫn của chính phủ – tiến hành các dự án mà không một công ty đa quốc nào khác cho là thận trọng về tài chính. Những mỏ đồng của Zambia đã phải đóng cửa hơn cả một thập niên, mãi cho đến khi người TQ đến đầu tư mới hoạt động trở lại. Việc bành trướng kinh tế ra nước ngoài này đã đi song đôi với một nỗ lực ngoại giao ráo riết chưa từng có. TQ đưa ra một thực đơn đồ sộ gồm các hiệp đồng thương mại và viện trợ, yểm trợ xây dựng cơ sở hạ tầng, cống hiến cơ hội giáo dục và đào tạo kỹ thuật cho các quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên.
Thông thường, các nhà đầu tư TQ được giới lãnh đạo bản địa hoan nghênh vì họ ngấm ngầm hứa hẹn chia sẻ một ít thành công của “mô hình TQ” với nước chủ nhà. Việc chính phủ và các xí nghiệp quốc doanh TQ sẵn sàng đến đầu tư bất cứ nơi nào, vào bất cứ thời điểm nào, và với bất cứ giá nào đã trở thành chuyện trứ danh của thời đại. Như ông Sahr Johnny, đại sứ của Sierra Leone tại Bắc Kinh, đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn liên quan đến các công trình xây cất tại nước ông: “Nếu một nước trong nhóm G-8 muốn xây lại cái sân vận động ấy, chẳng hạn, đến giờ này chúng tôi vẫn còn họp họp, bàn bàn. Người TQ chỉ việc đi đến và làm ngay. Họ không cần họp bàn để đánh giá các hậu quả tác động lên môi trường, bàn về nhân quyền, về quản trị đất nước tốt hay xấu”.
Tuy vậy, không phải ai cũng hồ hởi với lối làm ăn của TQ. Các công ty TQ đã gặp phải sự chống đối tại một số quốc gia, gồm Papua New Guinea, Peru, và Zambia. Các thủ tục môi trường và an toàn yếu kém, cùng với các chính sách lao động dành ưu tiên lộ liễu cho công nhân TQ, đã gây ra nhiều xung đột gay gắt với dân chúng địa phương tại tất cả các nước này. Tại Việt Nam, một dự án khai thác bauxite của TQ, sẽ mang vào hơn 2.000 công nhân TQ, đã gây phẫn nộ cho công nhân Việt Nam, cho các nhà lãnh đạo tôn giáo, và cả những quan chức trong chính quyền và quân đội. Một luật sư Việt Nam nổi tiếng còn đi xa hơn nữa, là đã khởi đơn kiện thủ tướng chính phủ, lên án ông ta đã vi phạm bốn luật khác nhau vì đã vội vã chấp thuận dự án.
Việc TQ đẩy mạnh tiến trình đô thị hóa cũng sẽ tăng cường nỗ lực hướng ngoại để lùng sục thêm tài nguyên thiên nhiên. Thêm nhiều đô thị, thêm nhiều đường sá, và nhiều cơ sở hạ tầng có nghĩa là cần thêm thép, thêm đồng, và thêm bauxite. Hiện nay TQ chiếm khoảng một phần tư nhu cầu của thế giới về kẻm, sắt và thép, chì, đồng, và nhôm. Vào giữa năm 2010, theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, TQ đã vượt qua Hoa Kỳ để trở thành nước tiêu thụ năng lượng nhiều nhất thế giới. TQ cũng đang quan tâm về việc tìm kiếm cho đủ nguồn nước. Tại TQ, lượng nước sử dụng của mỗi người chỉ bằng một phần tư lượng nước bình quân cho mỗi người trên thế giới. TQ tuyệt đối có lượng nước dồi dào, nhưng nếu xét đến dân số, mức độ ô nhiễm, và địa điểm của các nguồn nước tại TQ, thì khắp TQ có nạn khan hiếm nước – khiến lãnh đạo TQ lo thiếu nước nghiêm trọng trong tương lai vì nhu cầu nước cho công nghiệp và hộ gia đình tăng lên nhanh chóng. Do đó, họ âm thầm nhưng mạnh dạn tiến hành việc ngăn đập và chuyển dòng các nguồn nước của cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng, một hành động sẽ ảnh hưởng đến đời sống của hàng triệu người bên ngoài biên giới TQ. Những nỗ lực của TQ nhằm thay đổi dòng chảy của các con sông đang gây lo lắng đáng kể cho Bangladesh, Ấn Độ, Kazakhstan, và nhiều quốc gia khác, và sẽ đưa đến các tranh chấp vùng trong tương lai: việc sinh sống của hàng triệu người nằm ngoài biên giới TQ tùy thuộc vào sự tiếp cận với những nguồn nước này.
Tuy nhiên, đợt kế tiếp trong chính sách “đi ra” của TQ sẽ vượt quá các đầu tư nhắm vào tài nguyên thiên nhiên. Trong khi TQ trở thành một nền kinh tế tri thức, đầy sáng kiến, giới lãnh đạo đang khuyến khích các công ty quốc doanh giàu tiền mặt và các quỉ đầu tư mua phần hùn hay sang lại các công ty nước ngoài, đặc biệt các công ty có công nghiệp mà TQ thèm muốn. Thị trường nào mà sản phẩm TQ có sức cạnh tranh, các công ty TQ sẽ nhanh chân nhảy vào trước. Bộ Thương mại TQ mạnh mẽ ủng hộ các công ty TQ, chẳng hạn, các công ty chủ trương dịch vụ “trọn gói” cho các hàng xuất khẩu năng lượng sạch (clean-energy exports): gồm cung cấp thiết bị, chuyên môn và các dịch vụ liên hệ. Chính phủ thậm chí sẽ cho vay các khoản nợ cần thiết, có thể dùng để chi trả các thiết bị được chế tạo tại TQ, công nhân, và các công nghệ. Bắc Kinh đã hứa xây dựng 1.000 dự án năng lượng sạch cho các nước châu Phi.
Muốn đảm bảo một hợp đồng sòng phẳng với các công ty TQ đến đầu tư, các quốc gia sở tại cần phải thương lượng thẳng thừng với các công ty đó. Chẳng hạn, Bộ Đường sắt TQ, cơ quan đấu thầu với General Electric để xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc cho California, đã hứa cung cấp vốn, kỹ thuật, thiết bị, và “nhiều kỹ sư giỏi và chuyên viên giỏi”, việc này có khả năng đặt ra nhiều câu hỏi về vai trò nào mà GE và công nhân Hoa Kỳ sẽ nắm giữ trong dự án. California và nhiều bang khác của Hoa Kỳ cần phải đảm bảo rằng việc đầu tư của TQ sẽ thỏa mãn cùng một lúc nhiều lợi ích của Hoa Kỳ, kể cả lao động.
Các lãnh đạo TQ cũng đang muốn có tiếng nói trong các định chế thương mại và tài chính, trong một nỗ lực nhằm đảm bảo rằng lợi ích kinh tế của họ sẽ được bảo vệ. Tháng Ba, 2009, trong khi cả thế giới đang chật vật đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lãnh đạo TQ đã đưa ra một số tuyên bố có tính khiêu khích về tương lai của hệ thống kinh tế thế giới. Thống đốc ngân hàng trung ương được nhiều người kính nễ của TQ, ông Zhou Xiaochuan, tuyên vố đã đến lúc cần phải tránh xa đồng đôla như một loại tiền tệ toàn cầu của thế giới và bắt đầu phát triển một loại “siêu tiền tệ” (super sovereign) đặt cơ sở trên một tập hợp của nhiều đơn vị tiền tệ. Bằng luận điệu tương tự, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào kêu gọi rà soát lại hệ thống tài chính toàn cầu tại cuộc họp thượng đỉnh G-20 tháng Tư, 2009. Ông ta gặp phải phản ứng nhanh chóng từ công luận: hầu hết các nhà bình luận quốc tế cho rằng chưa đến lúc thế giới từ bỏ đồng đôla. Các quan chức TQ bèn rút lời lại, bằng cách trấn an những người chỉ trích rằng những gì họ đưa ra chỉ là những đề xuất có thể thực hiện vào thập niên tới, chứ không phải là sang năm.
Tuy nhiên, TQ vẫn lặng lẽ tiếp tục thúc đẩy vấn đề này trong phạm vi Quỉ Tiền tệ Quốc tế (IMF), và khi số phiếu bầu của TQ gia tăng hơn nữa (tăng từ 2.9% lên 3.6% trong năm 2006 và đang chờ tăng lên 3.8% năm 2010), TQ sẽ có nhiều cơ may thúc đẩy vấn đề đồng đôla. Dần dà, có thể TQ sẽ tìm cách thay đổi triệt để hơn nhiều khía cạnh khác của việc quản trị IMF, chẳng hạn như việc duyệt xét thường niên chế độ tiền tệ của các nước và các điều kiện liên quan đến việc điều hành quốc gia và tính minh bạch của các nước vay tiền IMF. Cả hai thủ tục này đều làm TQ phải nhức đầu: IMF từng gián tiếp cũng như trực tiếp phê bình Bắc Kinh vì đã giữ giá đồng Nguyên (yuan) ở mức thấp giả tạo. Ngoài ra, thái độ TQ coi thường những chuẩn mực của IMF về tính trong sáng và khả năng điều hành quốc gia trong các hợp đồng mậu dịch và viện trợ ở thế giới đang phát triển đã bị cộng đồng quốc tế phê bình nghiêm khắc hơn nữa.
Mặc dù việc bành trướng ảnh hưởng kinh tế của TQ trên thế giới là biểu hiện dễ nhận thấy nhất của chính sách đối ngoại năng động gần đây, nhưng những nỗ lực của TQ nhằm giới hạn sự cạnh tranh của các nước khác trong một số khu vực chiến lược chủ yếu, cũng sẽ gây ra ảnh hưởng quan trọng. Nỗ lực của TQ nhằm hậu thuẫn cho cái gọi là “sáng kiến nội địa” (indigenous innovation) đã nhận khá nhiều chỉ trích từ các nước khác. Cố tình bác bỏ mô hình canh tân công nghệ của Nhật Bản và Nam Hàn, một mô hình đặt cơ sở trên chiến lược đuổi bắt dài hạn bằng cách thuê bản quyền công nghệ nước ngoài, TQ đang tìm cách tạo ra các chuẩn mực riêng cho sản phẩm và công nghệ của mình. Và TQ đang lợi dụng các cơ chế quốc tế để biến chuẩn mực nội địa của TQ thành chuẩn mực toàn cầu. Chẳng hạn, hiện nay TQ quyết tâm vận động cho các tiêu chuẩn của mình về mã hóa phần mềm và các mạng cục bộ vô tuyến (wireless LANs) trở thành tiêu chuẩn của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá Quốc tế, hay IPO. (Trước đây, IPO đã bác bỏ đề nghị của TQ về việc chấp nhận nghi thức mới này cho cả toàn cầu, một phần vì TQ đã dùng một giải thuật không được tiết lộ (undisclosed algorithm), sự che giấu này gây lo ngại về lề lối thương mại thiếu sòng phẳng của TQ. Như Jeremie Waterman, một giám đốc kỳ cựu tại Phòng Thương Mại Hoa Kỳ, đã nhận xét trong bản điều trần của ông trước Ủy ban Thương mại Thế giới của Hoa Kỳ vào tháng Sáu 2010, “Bắc Kinh “vừa bắt đầu thi hành một kế hoạch về sáng kiến nội địa trung hạn và dài hạn, xuyên qua một mạng lưới ngày càng lớn rộng gồm có các chính sách công nghiệp phân biệt đối xử, trong các lãnh vực như việc thu mua của chính phủ, an ninh thông tin, thiết định chuẩn mực, thuế khóa, chống trust, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và việc thực thi quyền này, và nạn gián điệp công nghiệp. Trong thực tế, thay vì phải cố gắng giải quyết những vấn đề tồn tại lâu dài này trong các khu vực thương mại và đầu tư của mình, TQ lại sử dụng những bất cập trong chế độ điều tiết và thi hành luật lệ của TQ để tạo lợi thế cạnh tranh to lớn hơn nữa cho các công ty của mình. Tước đoạt sở hữu trí tuệ của các công ty khác tất nhiên đỡ tốn kém thì giờ và tiền bạc hơn là thuê mướn bằng sáng chế hay tự mình tạo ra sở hữu trí tuệ. Bao lâu các công ty TQ khó bị trừng phạt vì tước đoạt sở hữu trí tuệ của các công ty khác, thì chúng cũng khó mà thay đổi lề thói kinh doanh.
TQ còn dùng nhiều biện pháp để đảm bảo việc nắm giữ các nguồn lực chiến lược và, trong một số trường hợp, đã bắt buộc các công ty nước ngoài xây dựng cơ sở sản xuất tại TQ, nếu không sẽ bị sạt nghiệp. Bằng tiến trình này, Bắc Kinh đang phá hoại các qui phạm mậu dịch toàn cầu (global trade norms). Tháng Mười Một 2009, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã kiện TQ tại Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vì TQ đã sử dụng những hạn chế xuất khẩu trên 20 nguyên vật liệu (raw materials), chẳng hạn bauxite và than cốc, những vật liệu rất cần thiết cho các sản phẩm cơ bản như thép, chất bán dẫn (semiconductors), và máy bay. Chưa đầy một năm sau, Bắc Kinh tuyên bố thêm một loạt chính sách thương mại có tính hạn chế mậu dịch, lần này là các kim loại đất hiếm (rare-earth metals), cắt hạn ngạch xuất khẩu nguyên liệu này đến 72 phần trăm. Những kim loại này, mà TQ gần như nắm độc quyền, là cần thiết để chế tạo không những nam châm, điện thoại di động, và cáp quang (fiber-optic cables) mà còn cả các bình điện của xe chạy bằng điện (electric-vehicle batteries) và tua-bin gió. Nếu không được rút lại, hành động này của TQ sẽ ép buộc nhiều công ty năng lượng sạch phải sản xuất các cơ phận quan trọng ngay tại TQ, vì cả Hoa Kỳ và nhiều nước khác sẽ mất nhiều năm nữa mới khôi phục lại khả năng khai thác đất hiếm.
Thế giới đã trở nên quen thuộc với nhiều tác động toàn cầu của cuộc cách mạng kinh tế TQ. TQ đã trở thành một cường quốc mậu dịch và đầu tư, đã mua một lượng trái phiếu rất đáng kể của Hoa Kỳ, và đóng một vai quan trọng trong các thị trường hàng hóa toàn cầu. Hiện nay TQ đang năng nổ tìm cách khuôn nắn các qui phạm thương mại và đầu tư quốc tế sao cho phù hợp với cuộc cách mạng kế tiếp của TQ, phần còn lại của thế giới có thể dựa vào kinh nghiệm quá khứ để thương lượng với, và thỉnh thoảng thậm chí thay đổi hướng đi của, TQ. Tuy nhiên, cách ứng phó này của thế giới không thể áp dụng cho các nỗ lực bành trướng quân sự của TQ.
Hải quân TQ đang dòm ngó đại dương
Tháng Tư 2010, chuẩn đô đốc TQ Zhang Huachen, phó tư lệnh Hạm đội Đông Hải, thẳng thừng tuyên bố chiến lược hải quân TQ đã thay đổi: “Chúng ta đi từ phòng vệ duyên hải sang bảo vệ biển khơi… Với sự bành trướng các lợi ích kinh tế của đất nước, hải quân muốn bảo vệ các đường vận chuyển của quốc gia và an ninh của các hải đạo chính của chúng ta”. Trên thực tế, tuyên bố của họ Zhang chỉ là lễ khai mạc cho một chiến lược đã lên kế hoạch từ năm 2007. Chiến lược này dự kiến sức mạnh hải quân TQ sẽ được bành trướng qua ba giai đoạn: trước tiên, phải tiến tới một lực lượng hải quân có khả năng canh chừng “chuỗi đảo thứ nhất” gồm các đảo quốc từ Nhật Bản đến Đài Loan và Phi Luật Tân; tiếp theo, phải tiến tới một lực lượng hải quân vùng với khả năng vói tới Guam, Indonesia, và Australia; và giai đoạn cuối là tiến tới một lực lượng toàn cầu trước năm 2050. Tờ Global Times (Toàn cầu Thời báo) của nhà nước TQ nhấn mạnh những bước đầu tiên trong khi mô tả sự thay đổi chiến lược của hải quân: “Đương nhiên, sự chuyển hóa của hải quân TQ sẽ mang nhiều thay đổi cho mô hình chiến lược tại Đông Á và tây Thái Bình Dương, một mô hình đã tồn tại trong 5 thập niên qua”.
Biển Nam Trung Hoa [tức Biển Đông] đã trở thành chiến địa đầu tiên. Vào tháng Ba, thậm chí trước cả tuyên bố của chuẩn đô đốc Zhang, các viên chức chính phủ TQ lần đầu tiên tỏ ra quyết đoán rằng biển Nam Trung Hoa – nơi có tài nguyên từ lâu đã được một số nước khác tuyên bố chủ quyền, gồm Malaysia, Philippines và Việt Nam – là một “lợi ích cốt lõi”, một từ trước đó chỉ dành cho Đài Loan và Tây Tạng. Không bao lâu sau đó, vào tháng Tư, hải quân TQ mở cuộc tập trận kéo dài gần ba tuần lễ ở trong vùng biển này, như một hành động đi theo các lời tuyên bố.
Cộng đồng quốc tế liền phản ứng nhanh chóng. Tại Cuộc Đối thọai Shangri-la vào tháng Sáu 2010, ở Nam Hàn, có sự tham dự của các bộ trưởng quốc phòng khắp vùng châu Á-Thái Bình Dương, bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ, ông Robert Gates, xác định rằng quan tâm của Hoa Kỳ trong biển Nam Trung Hoa là đảm bảo “sự ổn định, tự do lưu thông, và phát triển kinh tế tự do và không bị ngăn cấm”. Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton, đã tiếp nối lập trường này tại Diễn đàn vùng ASEAN vào tháng Bảy, tại Hà Nội, bằng cách đưa ra đề nghị là Hoa Kỳ muốn giúp đỡ, làm trung gian hoà giải cho các tranh chấp liên quan đến tài nguyên và các hải đảo trong biển Nam Trung Hoa. Đề nghị của bà liền được nhiều, mặc dù không phải tất cả, quốc gia tranh chấp chủ quyền hoan nghênh. Và đến tháng Tám, Việt Nam và Hoa Kỳ đã tổ chức các cuộc diễn tập hải quân hỗn hợp lần đầu tiên tại biển Nam Trung Hoa.
Sẽ có nhiều thử thách tiếp theo. Vào tháng Bảy 2010, một trong những học giả hàng đầu TQ về an ninh quốc phòng, Shen Dingli, đưa ra những lý do phải thiết lập sự hiện diện quân sự thường trực ở nước ngoài bằng cách thiết lập các căn cứ quân sự. Mặc dù các viên chức hải quân TQ nghỉ hưu đã từng đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng hình như bây giờ mới có đủ lực đẩy chính trị cho một động thái như thế. Chính phủ TQ đã xúc tiến việc phát triển các cảng nước sâu tại Pakistan, Myanmar (Miến Điện), và Sri Lanka và công khai thảo thuận tiềm năng của các địa điểm khác tại Bangladesh and Nigeria. Có thể phải mất cả thập niên hay lâu hơn, hải quân TQ mới có đủ sức mạnh tương xứng với tham vọng của mình, nhưng những đường nét chính của một chiến lược an ninh quốc phòng TQ năng động hơn trước thì đã rõ ràng.
Bảo vệ quan điểm của TQ
Khi ảnh hưởng của những chính sách chuyển hóa TQ vang dội khắp thế giới, Bắc Kinh nhận ra nhu cầu phải có một chiến lược truyền thông táo bạo tương xứng với chủ nghĩa bành trướng kinh tế và quân sự của mình. Vì mạng lưới Internet cho phép người nước ngoài nhìn vào TQ theo nhiều cách thế khác nhau, giới chức TQ bắt đầu nhận thấy nhu cầu phải trình bày quan điểm của mình với phần còn lại của thế giới. Như một viên chức tuyên giáo cấp cao bình luận, “Chúng ta phải…bắt đầu nhắm vào một số mặt trận để tranh thủ công luận quốc tế, và tạo một môi trường công luận quốc tế khách quan, thuận lợi, và thân thiện với chúng ta”.
Nhận thức này đưa đến một cuộc tấn công chớp nhoáng của TQ bằng phương tiện truyền thông, với chi phí lên đến 80 tỷ đôla. Tân Hoa Xã đang tung ra một chương trình TV phát sóng 24 tiếng đồng hồ mỗi ngày bằng tiếng Anh, đặt trụ sở tại Times Square ngay trong thành phố New York, để cạnh tranh với CNN và BBC với mục đích “đưa tin tức TQ và quốc tế cho khán giả toàn cầu, theo quan điểm của TQ”. Ngành truyền thông nhà nước TQ đã gửi 400 thông tín viên đến 117 văn phòng báo chí khắp thế giới, và đang lên kế hoạch cho 180 văn phòng trước năm 2020. Các hãng truyền thông TQ – như Tân Hoa, Trung Hoa Nhật báo, Toàn cầu Thời báo, và Nhân dân Nhật báo — hiện nay thường xuyên yêu cầu các chuyên gia nước ngoài bình luận về các vấn đề toàn cầu.
Nhưng đồng thời, các giới chức TQ vẫn giữ quyết tâm kiểm soát luồng thông tin từ ngoài vào và cả từ trong nước. Chế độ kiểm duyệt, hệ thống công an mạng, những luật lệ mới ban hành liên quan việc đăng ký các nghi thức giao tiếp mạng (Internet Protocols), và việc bắt bớ các nhà bất đồng chính kiến sử dụng Internet, tất cả nỗ lực này đều nhằm ngăn chặn người dân TQ khỏi ra ngoài các hạn giới chính trị được chấp nhận. Ngoài ra, các hãng truyền thông nước ngoài gần như không thành công bao nhiêu trong việc chiếm được thị phần (market share) đáng kể tại TQ, khiến một số hãng – như Google và nhà đại tư bản truyền thông Rupert Murdoch – đã cắt giảm hoạt động hay đành phải rút khỏi thị trường trước những chính sách giới hạn quá khắt khe.
Nhiên hậu, mức độ thành công của ngành truyền thông TQ trong nỗ lực tranh thủ nhân tâm của phần còn lại của thế giới rất có thể sẽ tùy thuộc vào khả năng thay đổi lề thói kinh doanh của TQ. Hiện nay các quốc gia độc tài khác cũng đang bắt chước mô hình TQ, bằng cách giới hạn việc tiếp cận Internet của dân chúng và kiểm soát báo, đài trong nước. Tuy nhiên, muốn dành được sự kính nể và tin cậy của các quốc gia khác, TQ phải đi theo một chiến lược khác hẳn hiện nay. Một đường lối đưa tin công khai và thẳng thắn về TQ sẽ là rất cần thiết. Rốt cuộc, có lẽ việc xông xáo của truyền thông TQ ở nước ngoài chuyển đổi được thế giới thì ít mà chuyển đổi mặt trận trong nước thì nhiều. Khi các công ty truyền thông TQ phải tự lột xác để cạnh tranh trên trường quốc tế với cách đưa tin cởi mở và có tính điều tra hơn, thị trường khán, thính giả trong nước sẽ gia tăng sức ép, buộc các công ty này phải chấp nhận các chiến lược tương tự.
Hoa Kỳ là ưu tiên hàng đầu
Trong ba thập niên qua TQ rất nhất quán trong việc xác định phát triển kinh tế và ổn định chính trị là lợi ích cốt lõi của mình. Chỉ có nhận thức của lãnh đạo về phương tiện cần thiết để đạt được hai mục tiêu này là thay đổi. Nỗ lực của TQ nhằm tái tạo các chuẩn mực toàn cầu cũng được thôi thúc bằng một chủ nghĩa dân tộc đang sống dậy, nhắc nhở đến thời đại khi TQ đã là một cường quốc thương mại trên thế giới. Đối với một số giới chức TQ, thế kỷ vừa qua – trong đó TQ gần như vắng bóng về sức mạnh kinh tế và quân sự — chỉ là một chệch hướng của lịch sử. Theo cách nhìn của họ, hiện nay mọi việc đang trở lại bình thường.
Chính sách đối ngoại năng động của TQ khiến Hoa Kỳ cần phải làm một cuộc tái thẩm định chiến lược. Những khẩu hiệu như “ngăn chận”, “cầu thân”, “vừa ngăn chận vừa cầu thân”, và ý niệm về một “G-2” sẽ không còn là những quan niệm thực dụng trong những năm sắp tới. Thay vào đó, Nhà Trắng cần phải cân nhắc chính sách của mình trên ba bình diện.
Trước hết, thay vì chỉ dựa vào quan hệ song phương (một nỗ lực đã được Hoa Kỳ thử nghiệm nhưng về sau phải loại bỏ vì phía TQ không mấy quan tâm), chính quyền Obama cần phải tiếp tục cộng tác với nhiều nước khác để có thể ảnh hưởng lên thái độ của Bắc Kinh. Hoa Kỳ, Liên hiệp châu Âu, và Nhật Bản thường xuyên phối hợp chính sách thương mại đối với TQ; Hoa Kỳ hợp tác với Nga đã thuyết phục được TQ trong một loạt biện pháp trừng phạt của LHQ dành cho Bắc Hàn; và Hoa Kỳ cùng với một số quốc gia Đông Nam Á đã tìm thấy chính nghĩa chung trong việc gây sức ép nhằm đưa TQ đến bàn thương thuyết về Biển Nam Trung Hoa. Vì TQ sẽ bành trướng hoạt động hải quân trong những thập niên tới, những hợp tác đa phương như thế – kể cả việc cùng nhau tạo sức ép – sẽ là rất cần thiết để thuyết phục TQ thảo luận tính minh bạch quân sự và các luật lệ quốc tế về an ninh hàng hải.
Nhà Trắng vẫn phải tiếp tục minh định rằng chính phủ Hoa Kỳ tin tưởng phải có một số giá trị cốt lõi nhất định làm nền tảng cho hệ thống quốc tế. Những giá trị này trên hết phải phản ánh sự cam kết của Hoa Kỳ đối với tự do – tự do trên biển, trên không, trong không gian, và trên Internet; chế độ pháp trị; và các quyền tự do chính trị đi liền với các quyền cơ bản của con người. Mức độ xung khắc giữa những giá trị này và những giá trị được TQ cổ vũ có thể giải thích tại sao con đường đi đến tin cẩn và hợp tác giữa hai nước vẫn còn nhiều thách đố. Ngay tại TQ cũng có những nhà tư tưởng chính trị, những nhà cải cách, và thậm chí giới chức chính quyền chia sẽ những lý tưởng mà Hoa Kỳ cổ vũ. Nhưng, cho đến khi các quan điểm của những người này trở nên thắng thế, Hoa Kỳ vẫn phải sẵn sàng nêu cao những lý tưởng này xuyên qua các sáng kiến ngoại giao và chính sách của mình.
Chính sách của Hoa Kỳ đối với TQ không phải chỉ gồm có chặn đứng, chống chọi với những nỗ lực của TQ và xiển dương các lý tưởng Hoa Kỳ. Washington cũng không thể dựa vào các cuộc đối thoại thường niên nhằm rà soát một loạt vấn đề để, ruốt cuộc, cũng chỉ mô tả các lãnh vực mà Hoa Kỳ và TQ bất đồng quan điểm mà chẳng đóng góp được gì cho việc tranh thủ lợi ích của Hoa Kỳ.
Bình diện thứ ba trong chính sách của Hoa Kỳ là phải quan tâm về các lợi ích và mục tiêu bên trong nước Mỹ. Chính quyền Obama nên khởi sự bằng cách lấy một trang trong sách chơi của TQ. Cũng như TQ, trước hết Hoa Kỳ phải xây dựng chính sách đối ngoại của mình từ việc xác định rõ ràng mục tiêu và sách lược trong tương lai: Trong 50 năm nữa, Hoa Kỳ sẽ phải như thế nào, và làm sao để đi đến đó? Từ lợi thế có được một viễn kiến như vậy, chính sách đối với TQ sẽ trở thành một phương tiện để đạt những mục tiêu của Hoa Kỳ, chứ không phải tự nó là một cứu cánh (an end in itself).
Nếu Hoa Kỳ muốn là nước đi đầu trong công nghệ năng lượng sạch trước năm 2050, chẳng hạn, ngay từ bây giờ Hoa Kỳ phải xây dựng hạ tầng cơ sở về tri thức, về tài chính, và về chính trị để đạt mục tiêu ấy. Và khi các công ty đầu tư năng lượng sạch của TQ đến gõ cửa, như họ đang làm, Hoa Kỳ sẽ phải có đủ tư thế để quyết định loại đầu tư nào đáng được hoan nghênh. Khi thực hiện đúng cách, các hợp đồng như thế mới có tiềm năng đưa đến sự hùn hạp công bình và hợp tác thành công. Chẳng hạn, vào tháng Tám 2010, Nghiệp đoàn Công nhân ngành thép Thống nhất (United Steelworkers union) đã ký hợp đồng với các công ty A-Power Energy Generation Systems và Shenyang Power Group của TQ để xây dựng một cánh đồng tua-bin gió (wind-farm) trị giá 1 tỉ rưỡi đôla tại bang Texas, tạo ra 1.000 việc làm cho công nhân Hoa Kỳ – nhảy lên từ 330 việc làm khi dự án được đề xuất lần đầu – và dùng khoảng 50 ngàn tấn thép do Hoa Kỳ sản xuất.
Trong một cách tương tự, những nỗ lực của TQ nhằm tách rời hệ thống tài chính quốc tế ra khỏi đồng đôla, trữ kim của thế giới hiện nay, cho dù có khả năng gây thiệt hại nếu thực hiện đột ngột, nhưng về lâu về dài biết đâu lại có lợi cho Washington. Nếu Hoa Kỳ không còn có thể vay mượn dễ dàng hơn các nước khác, nghĩa là không còn thâm thủng mậu dịch to lớn, với lợi thế chấn động kinh tế đến chậm hơn, chẳng hạn, Hoa Kỳ sẽ áp đặt được kỷ luật ngân sách có ích lợi lên kinh tế Hoa Kỳ.
Quan tâm theo dõi những chuyển biến trong nội bộ TQ là việc rất có lợi cho các nhà làm chính sách Hoa Kỳ đang tìm cách đoán trước TQ sẽ làm gì trong bước tiếp theo. Việc khan hiếm nước tại TQ, chẳng hạn, rất có thể sẽ ảnh hưởng và thậm chí giới hạn các cơ hội phát triển nông nghiệp và công nghiệp tại TQ trong nhiều thập niên tới. Lắng nghe các dấu hiệu báo trước những thay đổi chính sách, như lời bình luận công khai và uyên bác về tương lai các căn cứ quân sự TQ ở nước ngoài, cũng là điều quan trọng. Sau cùng là, lãnh đạo TQ sẽ được thay thế vào năm 2012. Năm trong bảy vị lãnh đạo chóp bu trong Ủy ban Thường vụ Chính trị bộ, gồm chủ tịch Hồ Cẩm Đào và thủ tướng Ôn Gia Bảo, sẽ nghỉ hưu. Những kỹ sư tương đối cách biệt với thế giới bên ngoài này sẽ được thay thế bằng một giới lãnh đạo gồm phần lớn các nhà khoa học xã hội đầy tự tin, đi đây đi đó nhiều, và có đảm lược chính trị. Có thể những thay đổi chính trị táo bạo sẽ không nằm trong chương trình nghị sự của họ, nhưng một số trong nhóm này đã từng đưa ra những thử nghiệm hay cải tổ chính trị khi họ còn làm lãnh đạo cấp tỉnh. Đó là một nhóm lãnh đạo, khi được giao quyền bính, chắc chắn sẽ mang lại nhiều thay đổi hơn trước và thậm chí có thể làm thế giới ngạc nhiên. Mặc dù lãnh đạo TQ đã đưa ra viễn kiến của họ và đã khởi động tiến trình thay đổi, nhưng những sức ép quốc nội và quốc tế có thể mang lại một kết quả khác xa với điều họ tiên liệu. Tất cả mọi cuộc cách mạng đều chứa đựng những yếu tố bấp bênh nội tại, và cuộc cách mạng của TQ không phải là một ngoại lệ. Hoa Kỳ cần phải sẵn sàng, và việc này đòi hỏi nhiều hơn là chỉ biết phản ứng lại chính sách đối ngoại năng động của TQ; nó đòi hỏi Hoa Kỳ phải có một chính sách biết nhìn sâu vào cuộc cách mạng nội bộ của TQ, để dự kiến những thử thách và cơ hội trong tương lai cho một cộng đồng quốc tế sẽ xuất hiện do hậu quả của cuộc cách mạng này.
Trong khi TQ cố tình tái tạo các định chế và qui phạm toàn cầu, Hoa Kỳ cũng cần phải tiếp tục khẳng định các lý tưởng và các ưu tiên chiến lược của mình, đồng thời hợp tác chặt chẽ với các quốc gia cùng chí hướng. Nhưng, nhiên hậu, Hoa Kỳ sẽ thành công chỉ khi nào Hoa Kỳ có thể phát biểu rõ ràng những ưu tiên kinh tế và chính trị của mình và sau đó phải nắm chắc TQ có thể giúp mình thực hiện những mục tiêu ấy như thế nào. Chính sách TQ của Hoa Kỳ phải là một phương tiện đưa đến một cứu cánh, chứ không phải là một cứu cánh tự thân.
Túy Vân phỏng dịch
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN
-Thập niên của Trung Quốc Nguồn: Robert X. Cringely bums, X-Cafe chuyển ngữ Vì vậy, chúng ta đã phải nhường bước cho người Ấn độ. Chứ không phải cho người Trung Quốc. Trung Quốc có dân số, có quyết tâm, có hệ thống giáo dục, có dự trữ ngoại tệ - nghĩa là có tất cả mọi thứ để làm cho nó trở nên một siêu cường toàn cầu, ngoại trừ hai điều: 1) thiếu một tầng lớp trung lưu đang nổi lên tương đương với thế hệ Baby Boomers của chúng ta, và, 2) thiếu một cộng đồng dân cư hải ngoại có chức trách (hãy tìm đi, tôi sẽ đợi).
Một cái gì đó đã làm tôi gần đây không được thoải mái cho lắm và đấy chính là phỏng đoán của chúng ta cho rằng Trung Quốc sẽ là siêu cường tiếp theo của thế giới và rằng chúng ta tốt hơn hết nên làm quen dần với điều đó. Vớ vẩn. Chúng ta đang bước vào thập niên của Trung Quốc, chứ không phải là thế kỷ của Trung Quốc.
Thế kỷ này thuộc về Ấn Độ.
Thế kỷ trước tất cả thuộc về người Mỹ. Chúng ta khi bước chân vào thế kỷ 20 là một đất nước vĩ đại nhưng không phức tạp. Nền công nghiệp của chúng ta có lẽ đã làm cho chúng ta trở nên một yếu tố trong Thế chiến thứ nhất. Tính sáng tạo trong văn hóa của chúng ta đã lôi cuốn những người hâm mộ trên thế giới trong những năm 1920 và - 90 năm sau đó - vẫn không hề mất đi. Kết quả của điều này sẽ không phải là thế kỷ Bollywood. Cuộc đại khủng hoảng đã bảo đảm cho chúng ta một chỗ bên bàn tiệc, thể hiện qua việc chúng ta có thể lôi kéo rất nhiều người trên thế giới ngồi xuống cùng với chúng ta. Chiến tranh Thế giới thứ hai đã nhìn thấy việc chúng ta giữ gìn thế giới này, nắm lấy quyền điều khiển hàng nửa thế kỷ với địa vị thống trị toàn cầu (ơn Chúa). Tuy nhiên giờ đây chúng ta đã làm cho điều đó trở nên rối rắm đôi chút do trì trệ, do lòng tham và do sự thiếu hiểu biết về chính cái thế giới mà chúng ta đã tạo ra. Chúng ta đã tạo nên điều đó cho chính mình qua việc suy nghĩ rằng chẳng có gì thực sự có thể làm tổn thương được chúng ta. Thế nhưng cuối cùng điều đó cũng chẳng đúng gì hơn cái ý tưởng cho rằng dạ dày của Harry Houdini [nhà ảo thuật Mỹ] có thể chứa được bất kỳ thứ rượu punch nào.
Vì vậy, chúng ta đã phải nhường bước cho người Ấn độ. Chứ không phải cho người Trung Quốc. Trung Quốc có dân số, có quyết tâm, có hệ thống giáo dục, có dự trữ ngoại tệ - nghĩa là có tất cả mọi thứ để làm cho nó trở nên một siêu cường toàn cầu, ngoại trừ hai điều: 1) thiếu một tầng lớp trung lưu đang nổi lên tương đương với thế hệ Baby Boomers của chúng ta, và, 2) thiếu một cộng đồng dân cư hải ngoại có chức trách ( hãy tìm đi, tôi sẽ đợi).
Trái ngược với Trung Quốc, Ấn Độ chỉ có hai điều: 1) một tầng lớp Baby Boomer thực sự, và; 2) một cộng đồng dân cư hải ngoại có chức trách (bạn đã tìm ra chưa?). Ngoài ra về Ấn độ chẳng còn có gì khác hầu như hoạt động - chẳng có gì. Ấn Độ đó là tham nhũng và chia rẽ. Trong khi Ấn Độ có truyền thống thương mại thì nó lại không phải là một cái gì đặc biệt hiệu quả. Chủ nghĩa phân vùng và tinh thần đảng phái, hoặc là về kinh tế, xã hội, hay về tôn giáo, sẽ ngăn Ấn Độ từ xưa tới nay thực sự cộng tác với nhau. Nhưng điều đó không quan trọng vì hai điểm của tôi ban đầu đưa ra là đủ.
Cái tôi thấy thú vị là hầu hết mọi người đều coi cái điều Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường kế tiếp cứ như là sự thật được viết trong Kinh thánh, bởi vì điều đó quá được định hướng theo những con số (số đô la cơ sở hạ tầng rất lớn, có số đô la sản xuất lớn, có mức độ giàu có tính theo đầu người cao hơn so với Ấn Độ, có tầng lớp trung lưu lớn hơn, v.v... ). Hơn nữa, dễ dàng thấy Trung Quốc trở nên áp đảo bởi vì chúng ta thích, tôi nghĩ vậy, để được chinh phục về mặt kinh tế bởi những người rất khác với chính chúng ta. Và Trung Quốc đúng là có vẻ khác hơn Ấn Độ.
Trung Quốc có tất cả, nhà máy và tiền (tiền của chúng ta - liệu đó có phải là cách mà chúng ta muốn nhìn về điều đó?). Trung Quốc cũng tự lừa dối bản thân mất một thế hệ qua việc kiểm soát dân số quá hăng hái, điều này có thể tốt cho toàn cầu, nhưng có hại cho quyền bá chủ. Nhưng lý do lớn nhất tại sao Ấn Độ sẽ giành chiến thắng và Trung Quốc sẽ bị thất bại là ở chỗ Trung Quốc tự khép kín quá nhiều. Họ không hòa hợp.
Hãy xem xét các công ty đa quốc gia trên thế giới. Và hãy so sánh các giám đốc điều hành của chúng có quốc tịch hoặc có gốc Ấn Độ và Trung Quốc với nhau. Trong khi người Ấn Độ điều hành ở khắp nơi. Còn người Trung Quốc thì chẳng thấy ở đâu.
Bây giờ hãy nhớ lại những gì luật lệ của các công ty phương Tây dạy chúng ta - rằng các nhà quản lý kiểm soát công ty, chứ không phải các cổ đông của nó. Trung Quốc không chỉ là Trung Quốc với 1,5 tỷ con người, mà là người Trung Quốc bên trong cộng với người Trung quốc tại các cộng đồng hải ngoại của họ trên toàn thế giới. Cũng tương tự như vậy đối với Ấn Độ. Điểm quan trọng tuy không nghiêm chỉnh về chính trị nhưng nó vẫn đúng - đó là có một sự khác biệt lớn giữa đại diện lãnh đạo người Ấn Độ và người Trung Quốc tại trên 500 tập đoàn đa quốc gia hàng đầu.
Bạn có thể lướt nhanh bỏ qua con số CEO, Coos, CTOs, CIO, và CFO người Ấn độ khi đó sẽ tìm thấy hàng quân đoàn hoạt động dưới cấp CXX. Tôi đồ rằng cảm giác thoải mái của họ đối với văn hóa phương Tây, ngôn ngữ, kỹ năng tiếng Anh của họ, và - có lẽ là điều quan trọng nhất - đó là việc họ được người Anh rèn luyện về mặt thể chế, là những cái đã làm cho họ trở nên những điều hành viên hành chính và chính trị tốt nhất, những người - ngay cả khi họ không thể đóng góp thêm vào một đồng đô la giá trị nào cả - vẫn sử dụng những kỹ năng đó để tồn tại trong bầy đàn và để vượt lên hàng đầu. Ngược lại, bạn sẽ thấy hầu như không có giám đốc điều hành cấp cao nào của Trung Quốc trong các tập đoàn đa quốc gia mà không phải là tập đoàn của Trung Quốc.
Để điều này bên cạnh các tập đoàn Ấn độ trong nước, những tập đoàn đã quản lý 10% tăng trưởng trong năm năm qua mặc cho có sự không hiệu quả một cách vô lý của thị trường Ấn Độ và bạn sẽ cảm nhận một sự chuyển động phi thường và sẽ cho Trung Quốc ăn khói trong vòng 10 đến 20 năm tới.
Sau nữa, hãy nhớ rằng lực lượng lao động của Ấn Độ sẽ vẫn còn trẻ và đang phát triển trong 10 năm tới so với một dân số già đi nhanh chóng của Trung Quốc và thực tế là Ấn Độ không chỉ đã giành chiến thắng trong ngành dịch vụ và dược phẩm, mà cũng còn chứng minh mình thông minh hơn và nhiều sáng tạo hơn trong sản xuất công nghiệp.
Trung Quốc không phải là một cá cược đặc biệt tốt khoảng sau năm 2020, mặc dù nền kinh tế nội địa Trung Quốc sẽ phát triển đặc biệt thành công trong vài năm tới - chính vì thế họ sẽ giành chiến thắng trong một thập kỷ, tuy nhiên không phải là thế kỷ.
Lịch sử cũng còn cho thấy, cả Ấn Độ lẫn Trung Quốc đều chơi không tốt. Cả hai đều là kiêu ngạo một cách không biết xấu hổ và cả hai đều ích kỷ. Trung Quốc quá từ trên xuống (top-down) và Ấn Độ thì lại quá bị điều khiển bởi các vấn đề chính trị ngắn hạn. Các công ty Trung Quốc không thích giao dịch với người Ấn Độ.
Xem đây, cái này là tất cả những gì có ý nghĩa trong tương lai. Là cái rất tốt cho ngôn ngữ tiếng Anh, cho một điều. Điều đó có vẻ như không nhiều, nhưng, ít nhất cũng là cho những ai trong chúng ta có tiếng mẹ đẻ là tiếng Anh. Không phải tiếng Anh là thứ tiếng rất tuyệt vời, thế nhưng bạn sẽ thấy, nó không phải là tiếng Quan Thoại. Người Ấn Độ sẽ đảm bảo sao cho Quan Thoại không thể trở thành ngôn ngữ chính. Và nếu họ có thể làm được điều đó thì họ cũng sẽ đảm bảo rằng Nhân dân tệ không thể thay thế cho đồng Đô la, bởi vì nó không phù hợp với quyền lợi của họ xuất phát hoặc từ một công ty quốc gia hay từ một công ty đa quốc gia theo quan điểm quản lý.
Tôi cho rằng các tập đoàn đa quốc gia được kiểm soát một cách có hiệu quả bởi cộng đồng người Ấn hải ngoại thậm chí sẽ không cần lý do để làm việc nhiều hơn với Ấn Độ thay vì với Trung Quốc khi mà Trung Quốc đang ngày càng trở thành nỗi đau cho thế giới. Kể từ khi Ấn Độ kiểm soát các tập đoàn đa quốc gia, họ có sự quan tâm đặc biệt đến việc không để sụp đổ hoàn toàn tại Mỹ và châu Âu.
May mắn thay cho chúng ta.
Mặc dù không có mấy lạc quan nổi lên trên cái ý tưởng, rằng các nhà quản lý Ấn Độ sẽ cho phép chúng ta tồn tại như là nền kinh tế có khả năng hồi sinh chủ yếu chỉ để giữ chân người Trung Quốc trong lúc khó khăn, thì chúng ta cũng hãy nhớ rằng sự sống còn chính là một điều kiện tiên quyết cho sự hồi sinh tuyệt đối.
Nếu chúng ta có một hy vọng làm cho thế kỷ 22 một lần nữa là của chúng ta (và tôi nghĩ rằng điều đó có thể làm được), chúng ta phải bắt đầu ở một nơi nào đó.
"Baby Boomer": chỉ thế hệ sinh sau Thế chiến thứ II, khi lính Mỹ (hoặc bất cứ lính nào) trở về từ chiến tranh, lập gia đình dẫn đến bùng nổ sinh sản. Thế hệ này hiện đang bước vào tuổi về hưu.
- Trung Quốc “ve vãn” nhưng có ai “phải lòng”? (VEF)
Các quốc gia đang phát triển có bị hấp dẫn bởi mô hình phát triển kinh tế của Trung Quốc hay chỉ muốn tận dụng quan hệ với thị trường khổng lồ này? Nếu họ chưa bị hấp dẫn thì các quốc gia dân chủ phát triển khác lại càng không.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết mới nhất của GS Joseph Nye, ĐH Harvard "Sức mạnh Mỹ và Trung Quốc sau khủng hoảng tài chính"
Mỹ đã bị chỉ trích nhiều vì cuộc khủng hoảng tài chính gần đây. Do nền kinh tế Mỹ sa sút còn Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng trong cuộc Đại suy thoái 2008-2009, các tác giả người Trung Quốc đã "tuôn ra một tràng những bình luận về sự xuống dốc của Mỹ".
Một chuyên gia tuyên bố rằng năm 2000 là năm đỉnh cao của sức mạnh Mỹ. Những tuyên bố đó không chỉ người Trung Quốc mới nói. Goldman Sachs còn dự đoán thời điểm mà quy mô nền kinh tế của Trung Quốc vượt Mỹ là năm 2007. Năm 2009, trong một thăm dò dư luận do Trung tâm Nghiên cứu Pew tiến hành, đa số hoặc phần nhiều của 13 trong tổng số 25 quốc gia tin rằng, Trung Quốc sẽ thế chân Mỹ để trở thành siêu cường đứng đầu thế giới.
Năm 2008, Hội đồng Tình báo Quốc gia của Chính phủ Mỹ cũng dự đoán rằng, vào năm 2025, sự thống trị của Mỹ sẽ bị "thu hẹp rất nhiều". Tổng thống Nga Dmitri Medvedev đã gọi cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là một dấu hiệu cho thấy, vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ đang dần đi tới hồi kết, và thậm chí là một nhà quan sát đầy thiện cảm như lãnh đạo phe đối lập Canada là ngài Michael Ignatieff cũng cho rằng, tầm nhìn của Canada nên vượt ra ngoài Bắc Mỹ mà giờ đây "thời điểm đỉnh cao nhất của Mỹ và cả sự thống trị toàn cầu của họ đã tới hồi cáo chung".
Tuy nhiên, ai cũng lo ngại về các xu hướng ngoại suy lâu dài từ các sự kiện mang tính chất chu kỳ, trong khi vẫn nên nắm bắt rõ những phép ẩn dụ sai lệch từ sự suy thoái có tính chất hệ thống. Các quốc gia không giống như con người với những quãng đời. Chẳng hạn, sau khi Vương quốc Anh mất đi các thuộc địa Mỹ vào cuối thế kỷ 18, Horace Walpole tiếc nuối vì mất đi một vùng đất rộng "tương đương một quốc gia như Đan Mạch hoặc là Sardinia". Ông đã không thể lường được rằng cuộc cách mạng công nghiệp có thể mang lại cho Vương quốc Anh một thế kỷ thứ hai đầy uy lực - thậm chí còn hùng mạnh hơn thế.
Liệu người dân Venezuela và Zimbabwe có bị hấp dẫn bởi chính quyền Bắc Kinh hay họ chỉ ngưỡng mộ tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong suốt 3 thập kỷ qua, hay họ chỉ bị thuyết phục bởi triển vọng thâm nhập vào một thị trường lớn đang phát triển? |
Tất nhiên, khủng hoảng tài chính đã tạo nên các hiệu ứng mang tính chất lịch sử lên thứ có thể gọi là "mô hình Wall Street". Vận hành kém cỏi của các thể chế Wall Street và các bộ máy điều chỉnh của Washington đã buộc New York phải trả giá đắt ở phương diện sức mạnh mềm, hay nói cách khác đó là sức hấp dẫn trong mô hình kinh tế của họ.
Vẫn còn là quá sớm để đánh giá các tác động lâu dài của cuộc khủng hoảng lên sức mạnh của Mỹ. Diễn đàn Kinh tế Thế giới vẫn xếp hạng nền kinh tế Mỹ có sức cạnh tranh đứng thứ hai trên thế giới (sau Thụy Sĩ) bởi tính năng động của thị trường lao động, giáo dục đại học, ổn định chính trị và sự cởi mở với sáng tạo, trong khi Trung Quốc chỉ xếp hạng thứ 29. Trong các lĩnh vực như công nghệ sinh học, công nghệ nano, và thế hệ thứ hai của World Wide Web, Mỹ vẫn đứng hàng đầu. Tuy nhiên, trong khi một số người vẫn cho rằng Trung Quốc có thể vượt Mỹ về sức mạnh quân sự trong hai thập kỷ tới, nhiều người vẫn muốn coi cuộc khủng hoảng như là nhân tố gây biến đổi trong các quan hệ kinh tế và sức mạnh mềm. Do đó, vẫn cần phải tập trung vào diễn biến của cuộc khủng hoảng nhằm phân tích các mối quan hệ về sức mạnh giữa Trung Quốc và Mỹ.
Trung Quốc: Sức mạnh mềm trong thế kỷ 21?
Nhiều nhà quan sát thấy rằng sức mạnh mềm của Trung Quốc gia tăng ở châu Á và một số nơi khác trong thế giới đang phát triển, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính. Theo tờ Nhân dân Nhật báo, "sức mạnh mềm đã trở thành một từ khóa quan trọng... Trung Quốc có rất nhiều tiềm năng phát triển sức mạnh mềm". Tại nhiều nơi ở thế giới đang phát triển, thứ được gọi là "Đồng thuận Bắc Kinh" cùng với một nền kinh tế thị trường thành công đã trở nên nổi tiếng hơn cả "Đồng thuận Washington" của các nền kinh tế thị trường tự do trước kia từng thống trị cùng với chính quyền dân chủ.
Nhưng cần nói thêm, liệu người dân Venezuela và Zimbabwe có bị hấp dẫn bởi chính quyền Bắc Kinh hay họ chỉ ngưỡng mộ tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong suốt 3 thập kỷ qua, hay họ chỉ bị thuyết phục bởi triển vọng thâm nhập vào một thị trường lớn đang phát triển? Ngay cả khi mô hình tăng trưởng của Bắc Kinh tạo ra sức mạnh mềm cho Trung Quốc tại các quốc gia như thế, điều này cũng không có tác dụng tại các quốc gia dân chủ.
Người Trung Quốc thật sự quan tâm tới ý niệm "sức mạnh mềm". Ngay từ đầu thập kỷ 1990, hàng trăm tiểu luận và các bài viết của giới học thuật về đề tài này đã xuất bản tại Trung Quốc. Thuật ngữ này cũng thâm nhập vào ngôn ngữ chính thức của Trung Quốc. Trong bài phát biểu quan trọng tại Đại hội 17 của Đảng Cộng sản Trung Quốc (CPC) vào ngày 15/10/2007, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào tuyên bố rằng CPC phải "củng cố văn hóa như là một phần của sức mạnh mềm của đất nước chúng ta... một nhân tố ngày càng quan trọng của năng lực cạnh tranh trong sức mạnh tổng lực của quốc gia".
Trung Quốc có một nền văn hóa truyền thống rất lôi cuốn, nhưng giờ đây nó đang hòa nhập vào địa hạt của văn hóa đại chúng toàn cầu. Số lượng sinh viên nước ngoài tới Trung Quốc học tập tăng gấp ba lần trong thập kỷ vừa qua, và con số khách du lịch nước ngoài cũng tăng lên đáng kể. Trung Quốc đã xây dựng hàng trăm học viện Khổng Tử trên khắp thế giới để dạy ngôn ngữ và văn hóa của mình, và Đài Phát thanh Quốc tế của Trung Quốc cũng tăng thời lượng phát sóng bằng tiếng Anh lên tới 24 giờ/ngày. Trong năm 2009-2010, Trung Quốc đã đầu tư 8.9 tỉ USD vào "công việc quảng bá ra bên ngoài", bao gồm kênh tin tức 24giờ trên cáp của Tân Hoa Xã mô phỏng theo kênh al Jazeera.
Trung Quốc cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình. Một thập kỷ trước, Bắc Kinh vẫn còn cảnh giác với những dàn xếp đa phương và bất đồng với các nước láng giềng. Rồi sau đó thì họ gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, đóng góp hơn 3000 lính tới phục vụ các hoạt dộng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, và trở nên hữu ích với hoạt động ngoại giao nhằm hạn chế phổ biến vũ khí (trong đó có việc tổ chức các vòng đàm phán Sáu bên về vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên), giải quyết các bất đồng về lãnh thổ với các nước láng giềng, và tham gia vào rất nhiều tổ chức trong khu vực với hội nghị Đông Á là ví dụ gần đây nhất.
Chính sách ngoại giao này đã giúp làm dịu những lo ngại và giảm dần khả năng các nước khác liên minh với nhau để cân bằng với nguồn sức mạnh đang gia tăng. Theo một nghiên cứu, "phong cách của Trung Quốc nhấn mạnh vào các mối quan hệ mang tính biểu tượng, các cử chỉ mang tính thiện ý cao, chẳng hạn như việc tái thiết lại Quốc hội Campuchia hoặc Bộ Ngoại giao Mozambique".
Nhưng sức mạnh mềm của Trung Quốc vẫn có những hạn chế.
Vào năm 2006, Trung Quốc đã lấy ngày kỷ niệm các chuyến thám hiểm của đô đốc kiêm hoa tiêu Trịnh Hòa - một sứ thần triều Minh (người mà Trung Quốc cho là đã đặt chân tới châu Mỹ đầu tiên) - để vẽ nên một huyền thoại nhằm biện hộ cho sự bành trướng của hải quân nước này về phía Ấn Độ Dương. Nhưng điều đó không mang lại cho họ sức mạnh mềm tại Ấn Độ - nơi mà những ngờ vực về tham vọng hải quân của Trung Quốc đã tạo ra bầu không khí nghi kỵ.
Tương tự, Trung Quốc nỗ lực thúc đẩy sức mạnh mềm bằng cách tổ chức thành công Thế vận hội tại Bắc Kinh năm 2008, nhưng những vụ đàn áp thẳng tay của họ đối với các sự kiện tại Tây Tạng, Tân Cương và các nhà hoạt động nhân quyền đã làm cho các thành quả sức mạnh mềm bị mất giá.
Vẫn còn là quá sớm để đánh giá các tác động lâu dài của cuộc khủng hoảng lên sức mạnh của Mỹ... Bất chấp việc bị chỉ trích vì cuộc khủng hoảng tài chính, sức mạnh mềm của Mỹ vẫn lớn hơn nhiều so với của Trung Quốc. |
Do đó, cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi một cuộc thăm dò dư luận được tiến hành tại châu Á vào cuối năm 2008 cho thấy, sức mạnh mềm của Trung Quốc vẫn còn kém xa so với của Mỹ, và kết luận rằng cuộc "tấn công mê hoặc" của Bắc Kinh không đạt được hiệu quả. Điều này đã được khẳng định trong một cuộc thăm dò dư luận do BBC tiến hành tại 28 quốc gia vào năm 2010, rằng hình ảnh của Trung Quốc mang tính tích cực chỉ hiện diện ở châu Phi và một vài nơi ở châu Á - chẳng hạn như là Pakistan, trong khi hầu hết các nước châu Mỹ, châu Á và châu Âu hình ảnh này chỉ được xếp từ mức "trung tính" cho tới "rất tệ".
Bất chấp việc bị chỉ trích vì cuộc khủng hoảng tài chính, sức mạnh mềm của Mỹ vẫn lớn hơn nhiều so với của Trung Quốc - theo kết quả của các thăm dò của Hội đồng Chicago về các vấn đề toàn cầu và của hãng BBC. Các cường quốc ra sức vận dụng văn hóa và lịch sử của mình để tạo dựng nên sức mạnh mềm để thúc đẩy các thế mạnh của họ, nhưng phần nhiều trong số đó lại được tạo nên từ xã hội dân sự chứ không phải từ phía chính quyền.
Sức mạnh mềm của Mỹ dựa trên các nguồn lực khác nhau, từ Hollywood cho tới Havard, từ Madona cho tới Quỹ Gates, từ các bài diễn thuyết của Martin Luther King cho tới cuộc bầu cử của Barack Obama. Các chính quyền không dễ gì khiến cho mọi người biết rõ giá trị của sức hấp dẫn của đất nước họ nếu như truyền thuyết của họ không nhất quán với các thực tế trong nước. Ở khía cạnh đó, trừ thành công về mặt kinh tế thì Trung Quốc vẫn còn cả một chặng đường rất dài.
----------------
-Buôn gì lãi nhất? (TVN) - Tác giả: Trần Huy Thuận
Lã Bất Vi thời xưa, học được cách làm giàu qua người bố: "Thưa cha, buôn gì lãi nhất?" - "Buôn vua!". Lã Bất Vi thời nay không học bố mà học ở trường đời.
“Phi thương bất phú”! Nhưng thương gì, thương như thế nào để mau phú? Đó là câu hỏi thường trực của doanh nhân mọi thời đại.
Lã Bất Vi thời xưa, học được cách làm giàu qua người bố: "Thưa cha, buôn gì lãi nhất?" - "Buôn vua!". Lã Bất Vi thời nay không học bố mà học ở trường đời. Bố thì có một mà trường đời thì vô cùng; nên thời nay gần như nơi nào cũng có Lã Bất Vi, chả như thời Chiến Quốc, chỉ mỗi nhà Đại Tần có được một Lã Bất Vi, đã là ghê gớm lắm!
Phương tiện buôn của Lã thời nào cũng giống nhau ở chỗ không chỉ dùng tiền mà còn dùng gái, dùng ngay chính vợ yêu của mình! Nhưng thời nay còn có những Lã sẵn sàng bỏ người tình để cưới vợ bé bất hợp pháp của vua - một kiểu Lê Lai liều mình cứu chúa, nhưng mang nội dung hoàn toàn hiện đại! Hiệu quả của phương tiện này thật khôn lường, vì nó trói vua suốt cả cuộc đời trong trách nhiệm của kẻ đỡ đầu, không thể dứt ra được. Quả là cách buôn thông minh nhất và cũng thật hời nhất!
Cách thức buôn của Lã thời nay khác xưa lắm lắm. Ngay đến Thuyết buôn vua cũng chỉ là con buôn của thế kỷ trước, của thời Năm Cam; chứ chưa thật sự... "đổi mới" như Lã thời hiện đại! Tuy là một con người có tầm nhìn rất xa, nhưng Lã ngày xưa chỉ tập trung nuôi một Dị Nhân, công tử nước Tần thời đang bị làm con tin ở nước Triệu - như thế là... xoàng! Lã thời đại @ nuôi cùng một lúc hàng đống công tử mới - không phải là những con tin, mà là những người mấp mé trong quy hoạch. Cũng không chỉ nuôi một công tử nhà Tần, mà nuôi tất cả, bất chấp người đó thuộc Tần, Sở hay Triệu! Nghĩa là phải đa dạng hóa sản phẩm, phải quảng canh chứ không độc canh. Như vậy việc buôn mới thật sự chắc ăn, chắc ăn tới cả trăm phần trăm!
Xưa Lã buôn vua chỉ nhằm kiếm lời thông qua mối quan hệ đặc biệt với vua, tức là một kiểu thu lợi nhuận gián tiếp - như thế cũng là... xoàng! Buôn vua để chính mình trở thành vua mới thật cao tay! Khi chính mình đã trở thành vua rồi, thì món hàng cũ rất dễ bị ném vào sọt rác và chính Lã lại biến thành hàng hóa cho các con buôn khác; nhưng để không bị sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, Lã áp dụng chính sách hợp tác cùng có lợi, thực chất là lợi dụng nhau để thu lợi nhuận. Và điều đó chỉ Lã thời hiện đại này mới làm nổi.
Thời bao cấp, thành phố quê hương tôi đã từng có hai nhân vật được dân gian đặt tên là "vua Đê", "chúa Tịnh" cùng một số khác được phong ông hoàng như "hoàng Tập", "hoàng Quynh", "hoàng Túy" - cũng là những tay từ nghiệp buôn vua, trở thành một thứ vua chúa không ngai nổi tiếng lừng lẫy một thời, nhưng những "ông hoàng" này so với các vua không ngai thời nay thì làm nô tỳ cũng không đến lượt!
"Ra ngõ gặp Lã Bất Vi!" - Điều đó rồi đây rất có thể trở thành hiện thực, nếu như xã hội không có cách phát hiện và ngăn chặn chúng ngay từ bây giờ! Các bạn thử quan sát chung quanh mà xem!
“Phi thương bất phú”! Nhưng thương gì, thương như thế nào để mau phú? Đó là câu hỏi thường trực của doanh nhân mọi thời đại.
Lã Bất Vi thời xưa, học được cách làm giàu qua người bố: "Thưa cha, buôn gì lãi nhất?" - "Buôn vua!". Lã Bất Vi thời nay không học bố mà học ở trường đời. Bố thì có một mà trường đời thì vô cùng; nên thời nay gần như nơi nào cũng có Lã Bất Vi, chả như thời Chiến Quốc, chỉ mỗi nhà Đại Tần có được một Lã Bất Vi, đã là ghê gớm lắm!
Phương tiện buôn của Lã thời nào cũng giống nhau ở chỗ không chỉ dùng tiền mà còn dùng gái, dùng ngay chính vợ yêu của mình! Nhưng thời nay còn có những Lã sẵn sàng bỏ người tình để cưới vợ bé bất hợp pháp của vua - một kiểu Lê Lai liều mình cứu chúa, nhưng mang nội dung hoàn toàn hiện đại! Hiệu quả của phương tiện này thật khôn lường, vì nó trói vua suốt cả cuộc đời trong trách nhiệm của kẻ đỡ đầu, không thể dứt ra được. Quả là cách buôn thông minh nhất và cũng thật hời nhất!
Xưa Lã buôn vua chỉ nhằm kiếm lời thông qua mối quan hệ đặc biệt với vua, tức là một kiểu thu lợi nhuận gián tiếp - như thế cũng là... xoàng! Buôn vua để chính mình trở thành vua mới thật cao tay! Khi chính mình đã trở thành vua rồi, thì món hàng cũ rất dễ bị ném vào sọt rác và chính Lã lại biến thành hàng hóa cho các con buôn khác; nhưng để không bị sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy, Lã áp dụng chính sách hợp tác cùng có lợi, thực chất là lợi dụng nhau để thu lợi nhuận. Và điều đó chỉ Lã thời hiện đại này mới làm nổi.
Thời bao cấp, thành phố quê hương tôi đã từng có hai nhân vật được dân gian đặt tên là "vua Đê", "chúa Tịnh" cùng một số khác được phong ông hoàng như "hoàng Tập", "hoàng Quynh", "hoàng Túy" - cũng là những tay từ nghiệp buôn vua, trở thành một thứ vua chúa không ngai nổi tiếng lừng lẫy một thời, nhưng những "ông hoàng" này so với các vua không ngai thời nay thì làm nô tỳ cũng không đến lượt!
"Ra ngõ gặp Lã Bất Vi!" - Điều đó rồi đây rất có thể trở thành hiện thực, nếu như xã hội không có cách phát hiện và ngăn chặn chúng ngay từ bây giờ! Các bạn thử quan sát chung quanh mà xem!
- Theo Tầm nhìn.net
“… chỉ cần một cấp chỉ huy điên cuồng, bất chấp trung ương ra lệnh tấn công một đơn vị quân sự hay dân sự tại một quốc gia nào đó bằng những loại vũ khí có tầm sát hại lớn (nguyên tử) là chiến tranh thế giới sẽ liền xảy ra. …”
Dư luận thế giới đã rất ngạc nhiên khi Bắc Kinh không làm rùm beng ngày bế mạc Hội Chợ Quốc Tế Thượng Hải ngày 30-10, hay việc phóng một vệ tinh lên quỹ đạo ngày 1-11-2010 vừa qua. Càng ngạc nhiên hơn khi Bắc Kinh không còn to tiếng xác nhận chủ quyền trên các vùng biển đang có tranh chấp, mặc dù trước đó còn đe dọa sử dụng vũ lực nếu vùng quyền lợi cốt lõi bị xâm phạm.
Không riêng gì Bắc Kinh, Bình Nhưỡng và Hà Nội cũng thế.
Cách đây hơn một tháng hải quân Bắc Triều Tiên đã thử nghiệm nhiều phi đạn tầm xa và bắn chìm một tàu tuần dương của Nam Hàn. Bình Nhưỡng còn đe dọa sử dụng vũ khí chiến lược (nguyên tử) nếu Hán Thành (Seoul) trả đũa. Thái độ của chính quyền cộng sản Việt Nam cũng không khác : im lặng trước mọi diễn biến quốc tế và quốc nội. Mặc dù vẫn tiếp tục đảm nhiệm vai trò chủ tịch ASEAN 2010, Hà Nội đã lặng lẽ tổ chức những hội nghị thượng đỉnh quốc tế và khu vực, kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long... và không còn bày tỏ sự ủng hộ những quốc gia Nam Mỹ, Trung Cận Đông, kể cả Myanmar như trước.
Có cái gì không bình thường trong những thái độ này. Phản ứng tự nhiên của những chính quyền cộng sản Châu Á là sẵn sàng lên tiếng ủng hộ những đảng cầm quyền toàn trị ở các nước chống lại sức mạnh áp đảo của Hoa Kỳ và các quốc gia phương Tây. Nhưng từ hơn một tháng qua, cả ba chế độ cộng sản Châu Á còn sót lại thế giới đã không những im tiếng trước những diễn biến thời sự liên hệ mà còn thu mình lại để dư luận thế giới không chú ý tới. Tại sao ?
Quan sát kỹ người ta sẽ khám phá ra rằng : cả ba chế độ cộng sản Châu Á này đang chuẩn bị tìm người kế nhiệm trong những năm sắp tới. Tên và hình ảnh một vài nhân vật có nhiều triển vọng chấp chính là Tập Cận Bình tại Trung Quốc, Kim Chính Ân tại Bắc Triều Tiên. Riêng Việt Nam thì có đến ba người : Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng.
Tầm quan trọng của sự tập ấm trong các chế độ cộng sản
Một sự kiện đáng kinh ngạc là các chế độ cộng sản Châu Á đã gần như phục hồi trở lại chế độ phong kiến mà trước đó họ đã lên án như đối tượng phải tiêu diệt. Điểm hơi khác với các chế độ phong kiến trước đó là các chế độ cộng sản duy trì quyền lãnh đạo độc tôn của mình bằng cách truyền ngôi cho những thân tín là con cháu những nhà lãnh đạo lớn, còn gọi là thái tử hệ (princeling), để giữ vững vòng đai quyền lực. Điều này cho thấy ưu tư tìm người kế nghiệp lãnh đạo đảng cộng sản quan trọng hơn tìm người bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Trường hợp Bắc Triều Tiên thì quá lộ liễu, sau khi Kim Nhật Thành (Kim Il-sung), người sáng lập nước cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, qua đời năm 1994, con trai trưởng là Kim Chính Nhật (Kim Jong-il) lên thay. Có lẽ đây là chế độ cộng sản cha truyền con nối đầu tiên trên thế giới. Tháng 10 vừa qua, Kim Chính Nhật đã chính thức giới thiệu Kim Chính Ân (Kim Jong-un), con trai thứ ba, người sẽ lên kế vị mình trong những ngày sắp tới. Điều làm giới bình luận thời sự ngạc nhiên là không hề có một phản đối hay phê phán nào, dù là của dư luận quốc tế. Việc kế nhiệm tại Bắc Triều Tiên có lẽ được coi là một sự việc đã rồi.
Cậu ấm Kim Chính Ân thừa kế ngôi cha |
Còn phía Trung Quốc thì sao ? Việc tranh giành ngôi vị lãnh đạo trong nội bộ đảng cộng sản Trung Quốc trong nhiệm kỳ tới chưa ngã ngũ, nhưng có nhiều triển vọng Tập Cận Bình (Xi Jing-ping) sẽ lên thay Hồ Cẩm Đào làm chủ tịch nước và quân ủy trung ương. Đối thủ của Tập Cận Bình hiện nay là Ôn Gia Bảo, đương kim thủ tướng Trung Quốc.
Tập Cận Bình, 58 tuổi, là người có nhiều triển vọng kế nhiệm Hồ Cẩm Đào trong nhiệm kỳ sắp tới vì là ông được phe Thượng Hải ủng hộ, tức giới tài phiệt cộng sản thuộc các tỉnh ven duyên, gọi tắt là Hoa Nam, đỡ đầu. Ông là lá bài tẩy của phe Hoa Nam để đối trọng với quyền lực của phe Bắc Kinh do Hồ Cẩm Đào lãnh đạo.
Cũng nên biết việc tranh giành ảnh hưởng trong nội bộ đảng cộng sản Trung Quốc đã rất gay gắt trong suốt năm 2010 này. Phe Thượng Hải đã làm mọi cách để hạn chế uy quyền của phe Bắc Kinh, mà người đại diện là cặp bài trùng Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo. Đến nhiệm kỳ 2012-2016 sắp tới, Hồ Cẩm Đào sẽ nghỉ hưu và Ôn Gia Bảo muốn lên thay. Trong những ngày vừa qua, Ôn Gia Bảo đã xuất hiện tại khắp nơi để vận động đảng viên cấp cơ sở ủng hộ mình, như đến Cam Túc một mình để ủy lạo nạn nhân đất sụp tháng 8-2010, trả lời phỏng vấn trên đài CNN về tự do dân chủ và đa nguyên đa đảng tháng 10-2010. Người được Ôn Gia Bảo nâng đỡ là Lý Khắc Cường (Li Ke-quang), người có nhiều hy vọng lên làm thủ tướng trong nhiệm kỳ sắp tới.
Vì không có nhiều tiền của như phe Thượng Hải, phe Bắc Kinh tập trung nhiều vào ý thức hệ cộng sản và sự trong sạch bằng cách nâng cao mức sống dân chúng và mở rộng tự do trong nước. Một thí dụ : đạo Tin Lành được tự do phát triển, hiện nay đã có hơn 100 triệu tín đồ, trong khi Pháp Luân Công bị tiêu diệt vì tình nghi được phe Thượng Hải ủng hộ.
Từ đây đến ngày khai mạc đại hội đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, vào tháng 10-2012, sự tranh giành ảnh hưởng giữa hai phe Bắc Kinh và Thượng Hải sẽ càng gay gắt. Phe Thượng Hải tìm cách đánh bóng lá bài Tập Cận Bình trong khi phe Bắc Kinh đề cao sự trong sạch của Lý Khắc Cường và Ôn Gia Bảo. Cả hai phe đều là ứng viên tập ấm gà nhà, nhưng Tập Cận Bình có nhiều triển vọng thành công hơn, vì vừa có thế lực đồng tiền của giới tài phiệt vừa có sức mạnh của những tư lệnh quân khu duyên hải ủng hộ.
Để đảo ngược thế cờ, trong những ngày sắp tới, cặp Hồ Cẩm Đào - Ôn Gia Bảo sử dụng lá bài khiêm nhường trong việc tìm kiếm sự ủng hộ của các quốc gia phát triển phương Tây : hiền hòa hóa bộ mặt của Trung Quốc, không phô trương sự thành công hay giàu có của mình, không hung hăng bảo vệ tỷ giá đồng CNY (yuan, nhân dân tệ), chấp nhận tăng lương cho công nhân, nâng cao mức sống dân chúng trong nước, chấp nhận giải quyết tranh chấp chủ quyền trên biển bằng thương lượng đa phương, v.v.
Cũng nên biết những cuộc phô diễn quân sự trên Biển Đông trong những năm gần đây là do phe Thượng Hải chủ trương, Bắc Kinh buộc phải ủng hộ hay nói theo để tránh bị dư luận quốc tế đánh giá là có chia rẽ hay rạn nứt nội bộ. Điều mà Bắc Kinh lo sợ là sự thắng thế của phe Thượng Hải, vì sẽ không còn ai kềm chế được sự háo thắng của những tướng tư lệnh vùng này. Phần lớn chi phí quốc phòng của Trung Quốc tập trung vào việc tăng cường lực lượng hải và không quân dọc vùng duyên hải Hoa Nam. Dư luận quốc tế rất quan ngại giới quân phiệt Trung Quốc chiếm thế thượng phong và thực hiện tham vọng bá quyền trên Biển Đông. Một cuộc chạy đua vũ trang không lối thoát hay một cuộc chiến tranh khu vực sẽ là điều không thể tránh khỏi.
Về phía Việt Nam, tình hình rất là phức tạp. Do không có một gương mặt nổi bật, hai thái thượng hoàng Lê Đức Anh và Đỗ Mười tiếp tục chi phối quyền lực trong nội bộ đảng cộng sản đằng sau hậu trường. Trong giai đoạn chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng lần thứ 11 sắp tới, hai ông Lê Đức Anh và Đỗ Mười ủng hộ cùng một lúc hai con gà nhà : Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang.
Trong những ngày vừa qua, hai ông Lê Đức Anh và Đỗ Mười phát động phong trào bênh Nguyễn Tấn Dũng và chống Nguyễn Phú Trọng, bị tố cáo do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng con gà Nguyễn Tấn Dũng đang mất giá vì bị tai tiếng trong những vụ bê bối tiền bạc làm thiệt hàng tỷ USD, như Vinashin, đường sắt cao tốc Bắc Nam. Hiện nay Trương Tấn Sang đang được đánh bóng để đưa ra trình làng, thành công hay không là chuyện khác.
Thật ra thân hay không thân Trung Quốc, đời sống của dân chúng Việt Nam cũng không thay đổi gì nhiều. Từ sau khi cướp được chính quyền năm 1945, hạnh phúc và sự sung túc của dân chúng Việt Nam chưa bao giờ là ưu tư hàng đầu của đảng cộng sản. Thay vì kêu gọi sự ủng hộ và hỗ trợ của dân chúng trong việc bảo vệ quyền lợi quốc gia đang bị Trung Quốc xâm phạm, ông Lê Đức Anh kêu gọi đảng viên và dân chúng chống Nguyễn Phú Trọng, vì bị tố cáo là người của Trung Quốc hay do Trung Quốc đỡ đầu. Nhưng cho dù có thế nào, vì chưa trực tiếp nắm quyền lãnh đạo quốc gia Nguyễn Phú Trọng vẫn ít tai tiếng hơn Nguyễn Tấn Dũng và Trương Tấn Sang. Cho đến nay không ai biết thành tích của Nguyễn Phú Trọng là gì và đã làm gì cho đất nước, nhưng có điều chắc chắn là ông chưa đưa ai vào tù và cũng chưa đưa công an đến giải tán những buổi cầu nguyện và đưa bọn đầu gấu đến đánh đập dân lành.
Đặc điểm của các đảng cộng sản Châu Á là đặt quyền lợi của đảng cao hơn quyền lợi của dân, sự hưng thịnh của đất nước không quan trọng bằng cuộc chạy đua tìm người lãnh đạo đảng. Càng gần đến ngày khai mạc đại hội đảng, những phe phái khác nhau trong đảng càng cố gắng dùng đủ mọi ngón nghề để trang điểm những "cậu ấm" mà họ nuôi nấng và đỡ đầu từ khi vừa mới chào đời để tranh giành ngôi vị lãnh đạo.
Tiến tới một liên minh "tam quốc"?
Không biết là tình cờ hay cố ý, sự lựa chọn người lãnh đạo ba đảng cộng sản Châu Á xảy ra cùng một lúc. Ưu tư của ba chế độ cộng sản khu vực là tìm cho bằng được một gương mặt sáng giá để duy trì quyền lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản trên đất nước. Một tình cờ khác là cả Bắc Triều Tiên và Việt Nam trước kia đều là chư hầu của Bắc Kinh. Nếu lịch sử lập lại, Việt Nam và Bắc Triều Tiên sẽ khó thoát được sự kềm chế của Bắc Kinh. Và Bắc Kinh cũng không mong muốn gì hơn là duy trì hai quốc gia vệ tinh làm vùng trái độn (hay phên dậu) để bảo vệ quyền lợi của khu vực trung tâm (Trung Quốc), một ở phương bắc để kềm tỏa Nam Hàn và Nhật Bản và một ở phương nam để làm áp lực trên toàn vùng Đông Nam Á.
Giới bình luận quốc tế đã lầm khi tỏ ra hồ hỡi thấy Bắc Kinh bị cô lập trong các hội nghị khu vực vì những tuyên bố hung hăng trước đó về chủ quyền trên Biển Đông, như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP-Trans Pacific Partnership Agreement) tổ chức tại Melbourne (Úc) tháng 3-2010, Hội nghị thượng đỉnh ARF (ASEAN Regional Forum) tổ chức tại Hà Nội trong tháng 7-2010, Hội nghị hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) vào trung tuần tháng 11 tại Yokohama (Nhật).
Thực tế đã không diễn ra đúng theo dự đoán của những nhà bình luận thời cuộc. Thái độ mềm dẽo của Bắc Kinh có lý do của nó : muốn trấn an dư luận quốc tế, và đặc biệt là Việt Nam và Bắc Triều Tiên. Sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc đã quá áp đảo để nhượng bộ dư luận quốc tế một cách tự nguyện. Hơn nữa, không một hội nghị quốc tế và khu vực nào tổ chức thành công nếu không có sự tham gia của Trung Quốc. Thêm vào đó, một yếu tố mà không một tổ hợp quyền lực nào có là cả ba đảng cộng sản Châu Á đều áp dụng triệt để văn hóa Khổng Mạnh, nghĩa là trên nói dưới nghe không ai được phản đối : vua ở ngôi vị vua, dân ở ngôi vị dân không ai được quyền lẫn lộn. Vấn đề của ba đảng cộng sản Châu Á hiện nay,trừ Bắc Triều Tiên, là tìm cho ra vị vua đó để lãnh đạo đất nước.
Hiện tượng đột ngột xáp lại gần nhau giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên gần đây có quá trình chuẩn bị của nó. Khi Bắc Triều Tiên thí nghiệm bom nguyên tử loại nhỏ lần thứ 2 tháng 5-2009, quan hệ lạnh nhạt từ sau 2003 (lúc cặp bài trùng Hồ Cẩm Đào Oân Gia Bảo vừa lên cầm quyền) bỗng nhiên trở nên đầm thắm trở lại : lý do là Hoa Kỳ và Nam Hàn tập trận chung trong Biển Vàng và Nhật không còn nhượng bộ Trung Quốc trên quân đảo Sensaku (Ngư Câu Đài). Việc Kim Chính Nhật đem Kim Chính Ân đến Bắc Kinh trong tháng 9 vừa qua để giới thiệu người kế vị mình không ngoài mục đích tiếp tục tăng cường quan hệ gắn bó và sự đỡ đầu của Trung Quốc.
Chỉ còn lại Việt Nam, một "chư hầu" có lập trường bất nhất, một mắt xích cần được thuần hóa. Giới tài phiệt Trung Quốc đã bỏ ra rất nhiều tiền của để mua chuộc gần như toàn bộ các cấp lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam địa phương nhưng không ngờ lại gặp sự chống đối dữ dội bất ngờ từ quần chúng. Thêm vào đó, Hoa Kỳ đang bằng mọi cách lôi kéo Việt Nam ra khỏi quỹ đạo của Bắc Kinh, hành động này đang được quần chúng Việt Nam ủng hộ. Chính vì thế, từ đây cho đến ngày khai mạc đại hội lần thứ 11 của đảng cộng sản Việt Nam vào mùa xuân tới, Bắc Kinh sẽ gia tăng áp lực để giữ đảng cộng sản Việt Nam trong vòng ảnh hưởng của mình, nghĩa là tận tình giúp đỡ đảng cộng sản Việt Nam giữ vững vai trò lãnh đạo đất nước.
Thái độ cứng rắn của Bắc Kinh đối với nhà hoạt động dân chủ Lưu Hiểu Ba được giải Nobel Hòa Bình 2010 làm một thí dụ để Việt Nam bắt chước : nhượng bộ phong trào dân chủ là tự sát. Thông điệp này đã được phe cứng rắn trong đảng cộng sản Việt Nam hưởng ứng : luật sư Cù Huy Hà Vũ và Lê Thị Công Nhân liền bị bắt giam và thẩm vấn. Người ta sẽ thấy trong những ngày sắp tới, thái độ hung hăng của Trung Quốc đối với Việt Nam sẽ giảm và Bắc Kinh sẽ giữ im lặng trước những tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông, nhưng không phải vì thế mà thừa nhận Việt Nam có lý.
Để gỡ thế bị cô lập, Bắc Kinh đang tiến hành chiến dịch vận động dư luận quốc tế bằng cách gia tăng đầu tư và đặt mua những sản phẩm chiến lược để cứu vãn sự suy thoái kinh tế toàn cầu. Thực ra chiến dịch này chỉ nhằm đánh bóng vai trò lãnh đạo của phe Bắc Kinh trước phe Thượng Hải trước dư luận trong nước vì cặp bài trùng Hồ Cẩm Đào-Ôn Gia Bảo bị phe Thượng Hải tố cáo là nhu nhược trước áp lực của các quốc gia dân chủ phương Tây. Muốn thọc gậy bánh xe, các cấp chỉ huy quân khu Hoa Nam tiến hành những cuộc tập trận bằng đạn thật và không ngừng uy hiếp ngư dân Việt Nam trong Vịnh Bắc Bộ, trong mục đích cảnh cáo Việt Nam không nên mở rộng quan hệ với Hoa Kỳ và quốc gia dân chủ phương Tây để ra khỏi quỹ đạo của Trung Quốc.
Vị thế chiến lược của Việt Nam trên bàn cờ Đông Nam Á có tầm quan trọng đặc biệt để Hoa Kỳ và Trung Quốc có thể bỏ qua. Giữ vững Việt Nam trong tầm tay, Trung Quốc có thể yên tâm làm mưa làm gió trên Biển Đông. Ngược lại, nếu lôi kéo được Việt Nam vào quỹ đạo của các quốc gia dân chủ Đông Nam Á, Hoa Kỳ sẽ có thêm trọng lượng để hạn chế sự bành trướng quân sự của Trung Quốc ra Thái Bình Dương. Hoa Kỳ là quốc gia có đủ khả năng giúp các quốc gia Đông Nam Á bảo vệ chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chuyến viếng thăm Châu Á của tổng thống Barack Obama của Hoa Kỳ trong thượng tuần tháng 11-2010 không ngoài mục đích củng cố quan hệ gắn bớ với các quốc gia đồng minh trong vùng Đông Á và Nam Á, mà còn là một thông điệp trấn an những quốc gia ASEAN đang muốn thấy Hoa Kỳ thực sự trở lại Đông Nam Á trong thế mạnh. Trước những chuyển biến ngoạn mục trong quan hệ quốc tế và khu vực này, vai trò của người lãnh đạo Trung Quốc tương lai sẽ không dễ dàng.
Ông Tập Cận Bình, chủ tịch Nhà Nước Trung Hoa tương lai |
Những ưu tư về sức mạnh của Trung Quốc
Người ta nói nhiều đến sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Có mậnh thật không ? Đó còn là một dấu hỏi lớn.
Trung Quốc đang là nạn nhân của sự thổi phồng quá đáng của dư luận quốc tế về sức mạnh kinh tế và quân sự của mình. Trong suốt 30 năm tận lực phát triển, tài nguyên thiên nhiên của Trung Quốc đã gần như cạn kiệt, tất cả mọi nguyên nhiên vật liệu đều phải nhập khẩu từ nước ngoài. Đồng ý là nhờ xuất khẩu Trung Quốc đã tích tụ được một số ngoại tệ khổng lồ, từ đó có điều kiện để đầu tư nghiên cứu bắt kịp sự chậm trễ của mình trước trào lưu tiến hóa của các quốc gia tiên tiến phương Tây và Đông Á. Nhưng cuộc chạy đua này đã làm người dân Trung Quốc kiệt quệ : họ đã phải làm việc quần quật như những nô lệ để sản xuất hàng hóa cho những quốc gia giàu có tiếp tục duy trì cuộc sống tiện nghi và sung túc. Sự phát triển của Trung Quốc dựa trên sự bóc lột sức lao động của người dân Trung Quốc, đây là luận điểm mà người cộng sản lên án gắt gao và đòi lật đổ các chế độ áp bức. Thêm vào đó chính quyền Trung Quốc đã phải dành một ngân sách khổng lồ để bắt kịp sự chậm trễ về quốc phòng so với các phát triển phương Tây. Nguồn lợi tức khổng lồ kiếm được đổ vào cuộc chạy đua vũ trang, một hố sâu không đáy, chứ không phải để nâng cao mức sống người dân.
Đúng là nền kinh tế của Trung Quốc đã phát triển vượt bực. Giữa lúc suy thoái chung của các nền kinh tế phát triển, tỷ lệ tăng trưởng của Trung Quốc vẫn lên đều gần 10%. Nhưng sự tăng trưởng này căn cứ trên một căn bản lúc đầu là số không (zero). Từ một quốc gia nghèo và chậm tiến trong thập niên 1970, tổng sản lượng quốc gia và lợi tức đầu người lúc đó không là bao nhiêu, tạo ra một vài chục tỷ USD tổng sản lượng là tạo ra vài điểm tăng trưởng. Đến một lúc nào đó, chi số tăng trưởng này phải được giảm xuống mới đúng với thực tế vì tăng trưởng từ 1 lên 2 là 200%, nhưng từ 4.400 tỷ năm 2008 lên 4.900 tỷ năm 2009 là 11%, năm 2010 chắc chắn phải giảm xuống. Nếu chia tổng sản lượng quốc gia ra trên đầu người thì Trung Quốc đứng hạng 87/179 với 7.600 USD/năm, nhưng đây là một thành tích rất là đáng kể.
Thật ra dư luận thế giới nói nhiều đến túi tiền của chính quyền Trung Quốc hơn là túi tiền của người dân Trung Quốc. Sức mạnh kinh tế này sẽ không bền lâu vì nguồn tài nguyên chính tạo ra sức mạnh này là con người, hoàn toàn vắng mặt trong các qui hoạch phát triển.
Người ta cũng nói nhiều đến sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Trung Quốc có mạnh thật không ? Đó còn là một dấu hỏi lớn.
Nhìn chung hai khu vực Đông Á và Nam Á, không quốc gia nào không gia tăng ngân sách quốc phòng, không chừng còn cao hơn cả Trung Quốc : Đài Loan, Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Pakistan, Úc, Singapore, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan. Nhưng tại sao chỉ chú ý đến Trung Quốc ? Tất cả chỉ vì sợ. Người ta sợ Trung Quốc như dư luận phương Tây sợ Iran sản xuất vũ khí hạch nhân, không ai tiên đoán cái gì sẽ xảy ra nếu cấp lãnh đạo quốc gia này trở nên điển cuồng hay hiếu chiến và có trong tay một kho vũ khí khổng lồ có tầm sát hại lớn. Không ai lo ngại chiến tranh chính quy, nghĩa là công khai tuyên chiến. Người ta chỉ sợ chiến tranh không quy tắc, vì kẻ gian chỉ nhắm vào những mục tiêu dân sự, sát hại dân lành để gây tiếng vang, hù dọa những người yếu bóng vía hơn là để giành chiến thắng.
Nếu so sánh sức mạnh quân sự, Trung Quốc hiện nay chưa phải là đối thủ của Hoa Kỳ, ít nhất trong một vài thập niên tới. Nhưng giới lãnh đạo Trung Quốc, nhất là những cấp chỉ huy quân sự ở Hoa Nam, sau khi được trang bị một số vũ khí chiến lược mà họ từng ước mơ (tàu ngầm nguyên tử, tàu chiến viễn dương, chiến đấu cơ tiên tiến...), nghĩ rằng có thể khống chế được các quốc gia trong vùng và canh tranh ngang hàng với Mỹ. Chỉ riêng việc tấn công Đài Loan thôi, không ai tiên đoán ai sẽ bị thiệt hại hơn ai, vì Đài Loan cũng trang bị những loại vũ khí không chừng còn tối tân và hiệu quả hơn Trung Quốc. Chính vì ý thức được sự hạn chế của mình, hai ông Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đã tỏ ra khiêm nhường trong những tuyên bố và viếng thăm quốc tế, ngược lại những cấp chỉ huy Hoa Nam thì vẫn hung hăng tuyên bố đe dọa mọi người. Cái sợ của dư luận quốc tế là ở chỗ đó, chỉ cần một cấp chỉ huy điên cuồng, bất chấp trung ương ra lệnh tấn công một đơn vị quân sự hay dân sự tại một quốc gia nào đó bằng những loại vũ khí có tầm sát hại lớn (nguyên tử) là chiến tranh thế giới sẽ liền xảy ra.
Người ta nói mức sống của người Trung Quốc đang được nâng cao. Sự thật có đúng như vậy không ? Còn rất nhiều nghi vấn.
Sự thành công về mọi mặt của Trung Quốc dựa trên nguồn nhân lực khổng lồ gần 1,5 tỷ người. Nhờ sự phát triển chung của đất nước, mức sống của dân chúng Trung Quốc đã được nâng cao. Nhưng sự sung túc này không đến từ phía chính quyền mà từ dân chúng. Nhờ lợi tức kiếm được trong các hãng xưởng, người Trung Quốc có quyền nói đến tiện nghi (điện, nước, tủ lạnh, truyền hình, điện thoại, xe hơi, v.v.). Tuy vậy so với các quốc gia Đông Á, mức sống của người Trung Quốc vẫn chưa sánh bằng. Vấn đề của các cấp chính quyền Trung Quốc hiện nay là làm sao bảo đảm công ăn việc làm cho dân số khổng lồ này. Hiện tượng lao động nông thôn ra thành thị đang là một đe dọa sự ổn định của xã hội. Hơn 200 triệu người lang thang tìm việc trong các thành phố lớn. Họ không làm loạn nhưng sống trong những khu nhà ổ chuột giữa các thành phố lớn và sẵn sàng tranh nhau để có việc làm, mầm hỗn loạn đang tích tụ tại đây.
Cách giải quyết nạn thất nghiệp của các chính quyền Trung Quốc địa phương là xuất khẩu lao động. Biện pháp này lúc ban đầu đã mang lại những hiệu quả tức thì, số người thất nghiệp trong nước giảm xuống hẳn. Khối lượng người tham gia vào thị trường lao động trong nước hàng năm, hơn 500.000 người, được đưa vào thay thế. Nhưng hợp đồng nào cũng đến ngày hết hạn, số người Trung Quốc được đưa đi lao động nước ngoài không muốn về nước vì sẽ không tìm được việc làm, gần như đa số đều ở lại tại quốc gia mà họ được đưa đến để thi công. Số người ngày đang là một gánh nặng đối với các quốc gia ký kết những hợp đồng xây dựng hạ tầng cơ sở với Trung Quốc. Một phong trào bài Hoa đang xuất hiện các quốc gia Châu Phi và các quốc gia Hồi giáo, không ai biết số phận những người Hoa di cư này ra sao khi sự phẫn nộ của dân chúng địa phương lên cao. Những nhóm người Hoa này đã chi phối gần như mọi sinh hoạt kinh tế của người bản địa.
Nếu ban lãnh đạo mới của đảng cộng sản Trung Quốc không có những biện pháp tích cực nâng đỡ đời sống người dân trong nước, nhân dịp kỷ niệm 100 năm cách mạng Tân Hợi (1911-2011) sắp tới, làn gió dân chủ chắc chắn sẽ rất dữ dội.
Nguyễn Minh
(Tokyo)
© Thông Luận 2010
-"Đội quân ảo" của Tổng thống Mỹ đi đâu?(VietNamNet) - Điều gì đã xảy ra với đội quân hùng hậu từng ủng hộ Barack Obama trên Internet? Phải chăng Tổng thống Mỹ đã không đáp ứng những điều cử tri online mong đợi?
Bịt miệng Ôn Gia Bảo? The dog that didn't bark (Economist 11-10-10) -- "The curious silencing of China’s prime minister and his views on political reform"
Trung Quốc: Life in Shadows for Mentally Ill in China (NYT 11-11-10)
-TRUNG QUỐC - NOBEL HÒA BÌNH 2010: Thủ đoạn của Trung Quốc chống giải Nobel Hòa bình bị phản tác dụng (RFI)-Nếu mục tiêu của Trung Quốc khi trấn áp nhà ly khai Lưu Hiểu Ba, Nobel Hòa bình 2010 và tấn công vào Ủy ban Nobel Na Uy là nhằm dìm nhân vật này vào quên lãng, thì có thể nói rằng Bắc Kinh đã hoàn toàn thất bại. Lý do là các ngón đòn liên tiếp được Trung Quốc tung ra trong thời gian gần đây đều không đạt hiệu quả mong muốn, thậm chí còn phản tác dụng.
-Email mời dự lễ trao giải Nobel có virus
12/11/2010 07:20:10- Hãy cẩn thận nếu bạn nhận được một thư điện tử mời tham dự lễ trao giải Nobel Thư mời đó có chứa virus đã bị buộc tội công website Nobel.
Email này đến từ Oslo Freedom Forum (một nhóm không có gì liên quan với giải Nobel). Email này có chứa một file đính kèm PDF, nhưng lại chứa một Trojan horse, cho phép hacker kiểm soát máy tính của nạn nhân, theo báo cáo của blog bảo mật Contagio (contagiodumb.blogspot.com).
"Thưa Ông / Bà, tôi gửi kèm theo một lá thư của người sáng lập Oslo Freedom Forum Thor Halvorssen mời bạn tham gia lễ trao giải Nobel vào ngày 11 tháng 12. Hãy liên lạc với chúng tôi nếu có bất kỳ thắc mắc nào," đó là nội dung của email trên.
Theo ấn bản online của tờ Aftenposten, Giám đốc Viện Nobel Geir Lundestad đã nhận được một email có chứa một liên kết yêu cầu Lundestad viết tên người dùng và mật khẩu. Ông này đã cảm thấy nghi ngờ và cảnh báo các quan chức về bảo mật dữ liệu của Na Uy về điều này.
Nhiều dấu hiệu cho thấy chỉ một số đối tượng đứng sau cuộc tấn công này, ông nói thêm. Trang web Nobel (www.nobelpeacerprize.org) cũng trở thành mục tiêu của đợt tấn công xảy ra hai tuần trước, trong đó địa chỉ IP của kẻ tấn công được biết là của đại học Chiao Tung tại Đài Loan.
ĐH (Theo Inilah)
-PHÁP - TRUNG - ĐẠI HỌC: Những bê bối của sinh viên Trung Quốc tại Pháp (RFI)-Trong cuộc gặp Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào tại điện Elysées ngày 4/11/2010, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy đã ca ngợi thành công to lớn của việc 30 nghìn học sinh Trung Quốc đang theo học tại Pháp, và khẳng định quyết tâm tăng gấp đôi số lượng này. Tuy nhiên, Le Figaro hôm nay, dưới tựa đề « Các sinh viên Trung Quốc : Chìa khóa của một hồ sơ nhạy cảm », đã đưa ra một bài phân tích cho thấy những mặt trái của thành công này.
Báo chí Pháp nói về vụ sinh viên Trung Quốc mua bằng tại trường đại học Sud Toulon-Var. DR
-Myanmar deports 2 journalists (Straits Times)-SYDNEY - AUSTRALIA has complained to Myanmar after two Australian journalists investigating media freedoms were arrested and deported from the country, days after much-criticised elections, officials said on Friday.
A foreign affairs spokesman said Australia had raised the matter with senior officials in the military-ruled country, claiming it was not informed of the arrests of its citizens, who were working for public broadcaster ABC.
--------
--------
Những khách hàng Trung Quốc - đa phần là ẩn danh, thường do Đảng Cộng sản điều khiển và đôi khi mang động cơ chính trị cũng như lợi nhuận. Một số người lập luận rằng việc các nhà tư bản để những người cộng sản mua lại những công ty của mình đang đưa chủ nghĩa kinh tế thị trường tự do đến mức cực đoan lố bịch. Nhưng đây lại là việc họ nên làm vì việc phân toả vốn của Trung Quốc sẽ đem lại lợi ích cho họ cũng như cho toàn thế giới.
Nguồn: The Economist
Diên Vỹ, X-Cafe chuyển ngữ
11.11.2010
Trên lý thuyết, sở hữu chủ của một doanh nghiệp trong một nền kinh tế tư bản thì không quan trọng. Trên thực tế thì đây lại là một điều gây bàn cãi. Từ làn sóng các công ty Nhật mua lại các doanh nghiệp Mỹ trong những năm 1980 và việc Vodafone (Anh) sở hữu hãng Mannesmann của Đức vào năm 2000 cho đến những hành động ngông cuồng gần đây của các công ty cổ phần tư nhân, việc sang nhượng các công ty đã thường xuyên dẫn đến những thái độ giận dữ mang tính dân tộc.
Những quan tâm này chắc chắn sẽ tăng lên trong vài năm tới, khi các công ty nhà nước Trung Quốc đang trên đà mua sắm thoải mái. Những khách hàng Trung Quốc - đa phần là ẩn danh, thường do Đảng Cộng sản điều khiển và đôi khi mang động cơ chính trị cũng như lợi nhuận - đã chiếm một phần mười tổng số giá trị từ những thoả thuận liên quốc gia trong năm nay, với việc mua lại tất cả các thứ từ khí đốt Mỹ cho đến mạng điện lực của Brazil cho đến hãng xe Volvo của Thụy Điển.
Điều dễ hiểu là đang có một sự phản đối ngày càng tăng đối với trào lưu này. Một số người lập luận rằng việc các nhà tư bản để những người cộng sản mua lại những công ty của mình đang đưa chủ nghĩa kinh tế thị trường tự do đến mức cực đoan lố bịch. Nhưng đây lại là việc họ nên làm vì việc phân toả vốn của Trung Quốc sẽ đem lại lợi ích cho họ cũng như cho toàn thế giới.
Tại sao Trung Quốc thì khác
Không bao lâu trước đây, những công ty do nhà nước quản lý thường được xem là một sinh vật bán sinh mà số phận sẽ được tư nhân hoá toàn phần. Nhưng tổng hợp những yếu tố - số tiền tiết kiệm khổng lồ từ những quốc gia đang lên, sự thịnh vượng nhờ dầu hoả và việc mất tin tưởng vào mô hình thị trường tự do - đã dẫn đến việc nổi dậy của chủ nghĩa tư bản do nhà nước quản lý. Có khoảng một phần năm giá trị của thị trường chứng khoán toàn cầu hiện đang nằm trong tay của những công ty này, tăng gấp đôi so với mười năm trước.
Những quốc gia giàu có đã cho phép sự phát triển của những nền kinh tế trọng thương mại trước đây: Hãy nhớ đến sự phát triển do nhà nước chỉ đạo của Nam Hàn hoặc những công ty do nhà nước quản lý của Singapore, vốn đang là những kẻ sang nhượng tích cực ở nước ngoài. Nhưng Trung Quốc thì khác. Nó hiện đã là nền kinh tế lớn thứ nhì trên thế giới, và có lúc sẽ bắt kịp Hoa Kỳ. Những công ty khổng lồ của họ mãi cho đến gần đây vẫn chú trọng vào trong nước nhưng cũng đang bắt đầu sử dụng nguồn vốn dồi dào của mình ở nước ngoài.
Các công ty Trung Quốc chỉ sở hữu 6% tổng số đầu tư toàn cầu trong các doanh nghiệp quốc tế. Trong lịch sử, những kẻ đứng đầu từng có những cổ phần lớn hơn rất nhiều. Cả Anh vào năm 1914 và Mỹ vào năm 1967đã đạt đỉnh điểm ở mức 50%. Việc đi lên tự nhiên của Trung Quốc có thể được tăng tốc bởi số lượng tiền tiết kiệm khổng lồ của họ. Hiện nay số tiền này được đầu tư chủ yếu vào các công phiếu chính phủ của các quốc gia giàu có; ngày mai nó có thể được dùng để mua lại những công ty và bảo vệ Trung Quốc trước những tình trạng mất giá hoặc có thể bị phá sản của các nước giàu.
Các công ty Trung Quốc vươn ra toàn cầu với những nguyên nhân bình thường: nhằm thâu tóm những nguyên liệu thô, kiến thức kỹ thuật và phương tiện vào các thị trường nước ngoài. Nhưng chúng lại chịu sự chỉ đạo của chính quyền vốn được các quốc gia khác xem như là một đối thủ chiến lược chứ không phải là một đồng minh. Như chúng tôi đã giải thích vắn tắt (xem bài viết ở đây), họ thường xuyên bổ nhiệm các giám đốc, chỉ đạo các thương vụ và cung cấp vốn cho các công ty thông qua các ngân hàng nhà nước. Một khi đã được mua, các công ty khai thác tài nguyên thiên nhiên có thể trở thành những nhà cung cấp bắt buộc cho Trung Quốc. Một số người tin rằng Công ty Trung Quốc còn gian ác hơn thế: ví dụ, Hoa Kỳ cho rằng các công ty thiết bị viễn thông Trung Quốc đe doạ nền an ninh quốc gia của mình.
Các công ty tư nhân từng đóng vai trò lớn trong việc chuyển vận lợi ích của việc toàn cầu hoá. Họ đã bắt cầu cho cả thế giới, phân phối tài nguyên nếu họ thấy hợp lý và cạnh tranh để giành khách hàng. Khái niệm về một chính phủ ẩn danh có thể thống lĩnh hệ thống tư bản toàn cầu thì không hấp dẫn lắm. Các nguồn tài nguyên có thể được phân bố bởi các quan chức chứ không phải là bởi thị trường. Chính trị chứ không phải là lợi nhuận có thể điều khiển các quyết định. Những quan ngại này đang được báo động ngày càng mạnh mẽ. Úc và Canada, từng là những thị trường mở của việc sang nhượng, hiện đang tạo ra những rào cản đối với các công ty nhà nước Trung Quốc, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên, và rất dễ dàng để thấy các quốc gia khác cũng không còn mặn mà với việc này.
Đây là một sai lầm. Trung Quốc thì ở quá xa để có thể gây ra sự đe doạ này: đa phần các công ty chỉ mới đặt chân ra nước ngoài. Ngay cả trong lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên, nơi họ đang tích cực hoạt động, họ vẫn còn rất xa để kiểm soát đủ nguồn cung cấp để làm biến động thị trường của các mặt hàng này.
Hệ thống của Trung Quốc cũng phải là một khối thống nhất như những người nước ngoài thường tưởng. Các công ty nhà nước cũng phải cạnh tranh trong nước và những quyết định của họ thường từ sự đồng thuận hơn là bị chỉ đạo. Khi ra nước ngoài họ có thể có những động cơ khác nhau, vào một số lĩnh vực - ví dụ như quốc phòng và cơ sở hạ tầng chiến lược - thì quá nhạy cảm để cho phép họ tham gia. Nhưng những lĩnh vực này cũng tương đối ít.
Nếu các công ty nhà nước Trung Quốc tiến hành những sự sang nhượng vì chính trị chứ không phải vì lợi nhuận thì sao? Nếu những công ty khác có thể thoả mãn nhu cầu của khách hàng thì điều này không quan trọng. Ví dụ như các công ty Trung Quốc có thể xem là an toàn để được phép sở hữu những doanh nghiệp về năng lượng trong một thị trường mang tính cạnh tranh nơi khách hàng có thể lựa chọn những nhà cung cấp khác nhau. Và nếu các công ty Trung Quốc phân bổ vốn do nhà nước hỗ trợ trên khắp thế giới, điều này cũng tốt thôi. Hoa Kỳ và châu Âu có thể sử dụng số tiền này. Mối nguy hiểm về việc tiền vốn đầu tư giá rẻ của Trung Quốc có thể làm tổn hại đến những đối thủ cạnh tranh thì có thể được đối phó bằng cách tăng cường hơn nữa luật cạnh tranh hơn là từ chối việc đầu tư.
Không phải tất cả các công ty Trung Quốc đều do chính quyền quản lý. Một số có sự độc lập cao và chỉ chủ yếu quan tâm vào lợi nhuận. Thường thì các công ty này đang tiến ra nước ngoài. Lấy ví dụ như chủ nhân hiện nay của Volvo là Geely. Giờ đây Volvo có thể bán được nhiều xe hơn ở Trung Quốc; nếu không có sự sang nhượng này, tương lai của Volvo sẽ rất tăm tối.
Hãy tỏ ra tự tin một tí
Các công ty Trung Quốc có thể đem đến nguồn năng lực và nguồn vốn mới cho các công ty đang suy thoái trên thế giới; nhưng sự ảnh hưởng không chỉ có một chiều. Để thành công ở nước ngoài, các công ty Trung Quốc sẽ phải thích ứng. Điều này có nghĩa là họ phải thuê các giám đốc địa phương, đầu tư vào những nghiên cứu địa phương và thoả mãn những quan tậm địa phương - ví dụ như việc tuyển dụng các công ty con tại địa phương. Các công ty Ấn Độ và Brazil có được lợi thế ở nước ngoài là nhờ lĩnh vực tư nhân và nền văn hoá cởi mở. Điều này cũng không phải là không có đối với các giám đốc Trung Quốc.
Sự đi lên của Trung Quốc có thể đem đến lợi ích vượt xa hơn lĩnh vực thương mại nhỏ hẹp. Khi họ đầu tư vào kinh tế thế giới, quyền lợi của họ cũng ngày càng đi cùng hướng với phần còn lại của thế giới; và khi việc này xảy ra, có thể lòng nhiệt tình của họ trong việc hợp tác quốc tế cũng tăng theo. Từ chối sự đi lên của Trung Quốc vì thế sẽ là một bất lợi đối với những thế hệ tương lai và cũng là một tuyên bố đầy bi quan về sự tự tin của chủ nghĩa tư bản.