Thứ Năm, 16 tháng 12, 2010

Tương lai quyền lực Mỹ

Mỹ và Trung Quốc đứng đâu trong thế kỷ 21?

(có lẽ cũng còn những điểm phải bàn, ... tuy vậy cũng có thể tham khảo.. TQ đang thu hút chất xám các nơi... 1/80 sinh viên Hồng Kong cũng tới TQ, họ thấy có tương lai ở TQ, ...??)
(Nhân đọc bài viết The Future of American Power của giáo sư Joseph S. Nye Jr. trên chuyên san Foreign Affairs số tháng 11 và 12-2010 – vừa được dịch trên Bauxite VN)
Mạnh Kim
imageKể từ đầu thế kỷ 21 đến nay, không biết bao nhiêu quyển sách và bài báo viết về sự suy vi của nước Mỹ đã được ấn hành; và tần suất những “dự báo hiện thực” trên càng dày đặc kể từ hiện tượng suy thoái kinh tế bắt đầu vào năm 2008. La Mã, Mông Cổ, Anh… là những biện dẫn cho lập luận thịnh suy tất yếu của các cường quốc khi đề cập đến “ngày tàn” nước Mỹ. Nhiều tương đồng đã được nêu ra, chu kỳ thịnh vong được tính đến và sự trỗi dậy của vài cường quốc khác cũng được xem là yếu tố dự báo cho thấy việc nước Mỹ phải chấp nhận nhường vị trí số một là điều đương nhiên. Tuy nhiên, liệu nước Mỹ có phải thật sự tiệm cận đến chu kỳ thăng trầm tất yếu của lịch sử?

Từ lịch sử thịnh suy của đế quốc Anh
Ngày 22-6-1897, khoảng 400 triệu người khắp thế giới, tương đương ¼ dân số hành tinh, được phép nghỉ làm việc. Đó là dịp kỷ niệm lần thứ 60 ngày Nữ hoàng Anh Victoria lên ngôi. Lễ kỷ niệm được tổ chức hoành tráng như một trong những sự kiện nổi bật của lịch sử thế giới nói chung và lịch sử đế quốc Anh nói riêng, kéo dài liên tục 5 ngày, trên đất liền lẫn ngoài đại dương, với cao điểm là chương trình tuần hành và lễ tạ ơn ngày 22-6. 11 thủ hiến trấn thủ các thuộc địa Anh đều về tề tựu, cùng các hoàng thân, công tước, đại sứ, ngoại giao đoàn từ khắp thế giới. Lễ duyệt binh gồm 50.000 lính đã có mặt kỵ binh nhẹ từ Canada, kỵ binh từ New South Wales, bộ binh từ Naples, quân đoàn lạc đà từ Bikaner (Ấn Độ), lính Gurkha từ Nepal… Chứng kiến sự kiện (khi mới 8 tuổi), sử gia lừng danh Arnold Toynbee sau này thuật rằng chương trình lễ kỷ niệm hùng tráng đến mức dường như Mặt trời “đứng bất động giữa Thiên đàng”.

“Tôi còn nhớ cái không khí đó” – Arnold Toynbee viết – “Ở đây chúng ta đang trên đỉnh thế giới và chúng ta đã đến đỉnh chót vót này để ở đó mãi mãi”. Đó đúng là thời điểm cực thịnh của đế chế Anh, khi họ kiểm soát khoảng ¼ diện tích đất liền trên Trái đất cùng với ¼ dân số thế giới. Hệ thống thuộc địa, lãnh thổ, căn cứ quân sự, hải cảng được quản lý từ London đã mở rộng khắp toàn cầu. Đế quốc Anh được bảo vệ bởi Hải quân Hoàng gia, lực lượng hải quân lớn nhất lịch sử, được kết nối bởi 170.000 hải lý cáp đại dương và khoảng 1.065.385km cáp chôn và cáp trên không. Các con tàu Anh được trang bị thiết bị liên lạc toàn cầu đầu tiên, qua đường điện tín. Vô số tuyến hỏa xa và kênh rạch (đặc biệt kênh đào Suez) càng củng cố thêm mức độ kết nối của hệ thống đế chế. Đặc biệt hơn cả, đế quốc Anh còn thiết lập thị trường toàn cầu đầu tiên trong lịch sử. Cái gọi là “quyền lực mềm” (sử dụng ảnh hưởng bằng công cụ văn hóa) phổ biến ngày nay cũng đã được người Anh biết dùng. Sử gia Claudio Véliz chỉ ra rằng vào thế kỷ 17, hai cường quốc bấy giờ – Anh và Tây Ban Nha – đều cố truyền bá ý tưởng đến các nước thuộc địa. Theo cây bút bình luận tên tuổi người Mỹ gốc Ấn Fareed Zakaria (tiến sĩ khoa học chính trị Đại học Harvard), trong thực tế, chính Anh chứ không ai khác mới là nhà truyền bá văn hóa thành công nhất lịch sử nhân loại. Trước khi xuất hiện khái niệm “Giấc mơ Mỹ”, “Cách sống kiểu Anh” đã được sao chép khắp nơi.
Hai năm sau đại lễ kỷ niệm lần thứ 60 ngày Nữ hoàng Anh Victoria lên ngôi, Anh bước vào cuộc chiến Boer, một cuộc chiến mà nhiều học giả cho rằng nó đánh dấu thời điểm đế quốc Anh bắt đầu suy tàn. London chắc ăn đến mức họ tin rằng chẳng khó khăn gì để thắng cuộc chiến trên. Trước đó, quân đội Anh đã thắng cuộc chiến Omdurman khi tiêu diệt các chiến binh Hồi giáo ở Sudan dù quân số chỉ bằng ½. Trong cuộc chiến Omdurman, lính Anh đã tiêu diệt 48.000 tay súng đối phương chỉ trong 5 giờ trong khi họ chỉ bị thiệt mạng 48 người. Với Boer, cuộc chiến được khởi động với lý lẽ bảo vệ quyền lợi của những người nói tiếng Anh tại hai nước Cộng hòa Boer, Orange Free State tại Nam châu Phi và Cộng hòa Nam Phi (trước đó gọi là Cộng hòa Transvaal). Thật ra, London vốn không thật sự quan tâm đến việc những người nói tiếng Anh tại hai nước Boer trên bị đối xử như công dân hạng hai, cho đến khi người ta phát hiện vàng tại khu vực vào năm 1886 (mà sau đó hai nước trên cung cấp đến ¼ nguồn vàng cho thị trường toàn cầu!). Tương tự phiên bản cuộc chiến Iraq 2003, Anh cũng khởi động cuộc chiến Boer bằng chiến dịch đánh phủ đầu, với giai đoạn hai (tăng mạnh hỏa lực) bắt đầu vào năm 1899. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự lấn át của Anh vẫn không dứt điểm nhanh được cuộc chiến khi đối phương tỏ ra kiên quyết sống còn, áp dụng chiến thuật du kích. Bế tắc, quân Anh chẳng còn cách nào khác hơn là đốt làng mạc, lùa thường dân vào trại tập trung, và tăng cường quân số. Cuối cùng, số binh lính Anh có mặt tại chiến trường lên đến 450.000, đọ với 45.000 lính địa phương. Người Boer không thể gồng mãi. Năm 1902, họ đầu hàng. Nhưng nhìn toàn cục, Anh đã thất bại với tổn thất 45.000 binh sĩ cùng nửa tỉ bảng. Trên phương diện ngoại giao, Anh bị Pháp, Đức và Mỹ chỉ trích… Phân tích nguyên nhân khiến đế quốc Anh tàn lụi, giới sử gia đã viết hàng trăm quyển sách, nêu ra hàng trăm lý do, rằng nếu như Anh đừng dây vào cuộc chiến Boer, rằng đừng đặt chân đến châu Phi, rằng nên lánh mặt khỏi Thế chiến thứ nhất…
Thật ra, đế quốc Anh đã chết vì kinh tế chứ không hẳn chính trị. Vào giai đoạn cực thịnh của đế chế (1845-1870), kinh tế Anh chiếm hơn 30% GDP toàn cầu. Lượng tiêu thụ năng lượng Anh gấp 5 lần Mỹ và 155 lần so với Nga. Anh chiếm đến 1/5 mậu dịch thương mại và 2/5 mậu dịch sản xuất. Tuy nhiên, đến cuối thập niên 1870, Mỹ đã bắt đầu tương đương Anh ở hầu hết các chỉ số sản xuất công nghiệp và đến đầu 1880 thì Mỹ đã qua mặt Anh. Đến Thế chiến thứ nhất, kinh tế Mỹ đã có giá trị gấp đôi Anh. Dù là quốc gia tiên phong trong cuộc Cách mạng Công nghiệp, Anh lại thiếu tầm nhìn. Năm 1907, Anh tung ra lượng xe đạp gấp bốn so với Mỹ nhưng Mỹ chế tạo nhiều xe hơi hơn Anh gấp 12 lần. Trong khi Mỹ tiến ngày một nhanh hơn bằng dây chuyền lắp ráp, ngành sản xuất Anh vẫn cho ra lò sản phẩm trong những nhà máy lạc hậu. Còn nữa, trong khi Mỹ bắt đầu tiến đến mô hình dân chủ, Anh vẫn bám víu vào hệ thống quân chủ. Chính sự thất bại kinh tế đã đưa Anh vào hẻm cụt. Và rồi, Thế chiến thứ hai trở thành cái đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài đế quốc Anh. Năm 1945, GDP Mỹ đã gấp Anh đến 10 lần. Anh hẳn còn bi đát hơn nếu không chọn con đường hợp tác với Mỹ thay vì đối đầu…
Nhìn lại nước Mỹ
Nước Mỹ trong nửa sau thế kỷ 20 (và đầu thế kỷ 21) cũng ở giai đoạn cực thịnh như đế quốc Anh ngày nào. Ở đâu mà chẳng có người Mỹ! Vấn đề là liệu Mỹ có đổ như Anh từng đổ? Liệu hai cuộc chiến mà Mỹ đang tiến hành (Iraq và Afghanistan) có lặp lại vết xe cũ của Anh tại chiến trường Boer và là dấu hiệu cho sự suy vi nước Mỹ? Thật ra, có quá nhiều khác biệt khi so sánh Anh-Mỹ. Đế quốc Anh xuất hiện khắp thế giới như những anh thực dân xâm chiếm và bòn rút thuộc địa; trong khi Mỹ – trên nhiều bình diện – vẫn hiện diện đó đây như những nhà đầu tư và mang lại lợi nhuận cho đất nước mà họ đến. Anh xây dựng đế chế bằng bàn tay quân sự trong khi Mỹ tỉnh táo và khôn ngoan hơn khi xây dựng sức mạnh quốc gia bằng nguồn lực kinh tế là chủ yếu. Cần biết, kinh tế Mỹ đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới suốt từ thập niên 1880 đến nay. Trừ giai đoạn ngắn cuối thập niên 1940 và thập niên 1950, khi hầu hết các nước công nghiệp đều bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, Mỹ gần như luôn chiếm ¼ tổng sản lượng kinh tế toàn cầu (32% năm 1913; 26% năm 1960; 22% năm 1980; 27% năm 2000; 26% năm 2007…). Và dù hiện chịu ảnh hưởng của cú đấm suy thoái, kinh tế Mỹ tiếp tục là trụ cột thế giới trong ít nhất hai thập niên nữa (một số nhà kinh tế thậm chí cho rằng đến năm 2025, kinh tế Mỹ vẫn sẽ gấp đôi kinh tế Trung Quốc xét về GDP). Ngoài ra, thế giới thời đế quốc Anh là thế giới của khu vực trong khi thế giới ngày nay là thế giới toàn cầu. Khác biệt giữa Anh và Mỹ còn thể hiện ở nhiều điểm. Trong khi quân đội Anh ngày trước chỉ tung hoành ở đại dương, quân đội Mỹ ngày nay hoạt động ở mọi địa thế và địa hình. Ngân sách quốc phòng Mỹ hiện bằng gần ½ tổng ngân sách quốc phòng thế giới. Và xét về tính hiệu quả ở nhiều mặt khác, Mỹ cũng nhỉnh hơn, từ giáo dục, nghiên cứu, sử dụng người tài, đầu tư, kinh doanh đến giải trí-thông tin. Trong tất cả ngành công nghiệp then chốt cho tương lai, từ công nghệ nano đến hóa sinh, Mỹ tiếp tục ở vị trí đầu tàu (lợi nhuận từ công nghiệp kỹ thuật sinh học Mỹ đạt đến 50 tỉ USD năm 2005, gấp 5 so với châu Âu và tương đương 76% lợi nhuận công nghiệp kỹ thuật sinh học thế giới). Trong tương lai, Mỹ còn có lợi điểm về mặt dân số. Nicholas Eberstadt, học giả thuộc Viện doanh nghiệp Hoa Kỳ (AEI), dự báo dân số Mỹ sẽ tăng thêm 65 triệu vào trước năm 2030 trong khi dân số châu Âu ngày càng già đi và không có nguồn thay thế. Cơ quan dân số LHQ dự báo tỉ lệ người ở tuổi lao động so với người già tại Tây Âu sẽ giảm từ 3,8/1 hiện nay xuống còn 2,4/1 vào năm 2030. Ưu thế dân số trẻ của Mỹ cũng cao hơn so với nhiều nước châu Á trong đó có Nhật, Trung Quốc và Hàn Quốc. Goldman Sachs dự báo tuổi trung bình của Trung Quốc sẽ tăng từ 33 năm 2005 lên 45 năm 2050…
Đây không phải lần đầu tiên người ta bàn đến sự sụp đổ của nước Mỹ. Lần thứ nhất xảy ra cuối thập niên 1950 khi Liên Xô qua mặt Mỹ về nghiên cứu không gian (với sự kiện phóng vệ tinh Sputnik). Lần thứ hai vào đầu thập niên 1970 khi giá dầu tăng cao và Tổ chức các nước xuất khẩu dầu (OPEC) chơi ép khiến thị trường Mỹ khốn đốn. Lần thứ ba xuất hiện giữa thập niên 1980, khi hầu hết nhà quan sát tin rằng chẳng bao lâu nữa Nhật sẽ nuốt chửng Mỹ (Nhật mua nhiều công ty Mỹ trong đó có Trung tâm Rockefeller ở New York, hãng phim Columbia Pictures….). Một trang bìa tuần báo Mỹ thậm chí minh họa xu hướng này bằng hình ảnh Nhật thả “bom nguyên tử” hàng hóa xuống Mỹ và hãng tin ABC News thốt lên rằng “Ai đang sở hữu nước Mỹ?”. Thậm chí vào thập niên 1980, sau khi Mỹ gượng dậy từ thất bại cuộc chiến Việt Nam, sử gia Paul Kennedy (Đại học Yale) vẫn dự báo về “cái chết đau đớn” của nước Mỹ, bởi chính sách quân sự hóa ở nước ngoài trong khi không kiềm chế tiêu xài trong nước. Năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ tan nát càng khiến khả năng dự báo nước Mỹ sụp đổ trở nên gần với hiện thực, trong bối cảnh ngân sách quốc gia và cán cân thương mại bị thâm hụt, khiến Mỹ lần đầu tiên trở thành con nợ quốc tế và lệ thuộc vào dòng vốn từ châu Âu và Nhật.
Cuối thập niên 1980, sử gia Paul Kennedy thuộc Đại học Yale, trong quyển The Rise And Fall Of The Great Powers (Sự thịnh suy của các cường quốc), viết rằng “câu hỏi đang được công chúng tranh luận tăng dần là liệu nước Mỹ có thể duy trì thế đứng hiện tại được chăng chỉ có thể được hồi đáp bằng câu trả lời duy nhất là “KHÔNG”!… Và từ cuối thập niên 1990 đến nay, những “sấm truyền” tương tự vẫn liên tục xuất hiện với tần suất dày đặc trên mặt báo và truyền thông Mỹ (cuối năm 2009, hai tác giả Brad Delong và Stephen Cohen còn tung ra quyển The End of Influence – Dấu chấm hết của ảnh hưởng – nói về sự kết thúc của ảnh hưởng Mỹ với thế giới). Vấn đề ở chỗ hầu hết ý kiến trên đều dựa vào ảnh hưởng của cuộc suy thoái hiện tại hoặc biện dẫn từ những sai lầm trong chính sách diều hâu thời George W. Bush (phải thừa nhận rằng sự suy yếu nhiều mặt của Mỹ hiện nay, từ kinh tế đến ngoại giao trong đó có việc bỏ lỏng “địa bàn” Đông Nam Á vô hình trung giúp Trung Quốc “thừa nước đục thả câu” bằng quan điểm “đường lưỡi bò” nhằm mục đích nuốt chửng Biển Đông, là hậu quả trực tiếp của chính sách Bush!). Và sự hoài nghi về vị trí cường quốc của Mỹ lại xuất hiện, lần thứ tư, vào đầu thế kỷ 21. Năm 2005, Thị trường chứng khoán New York tỉnh dậy với cú sốc rằng 24 trong 25 trường hợp IPO (niêm yết chứng khoán lần đầu tiên) lớn nhất thế giới đã xảy ra bên ngoài phạm vi nước Mỹ. Đó cũng là thời điểm Mỹ liên tục xảy ra nhiều vụ bê bối tài chính chấn động.
Một “định lượng” giúp nhìn lại sức mạnh Mỹ (còn hay mất)
Nếu có thuật từ nào xứng đáng được chọn là một trong những đại diện cho xã hội văn minh hiện đại được nhắc nhiều nhất, từ đó chắc chắn là “Giấc mơ Mỹ” (American Dream). Tác giả thuật từ – James Truslow Adams, trong quyển The Epic of America (1931) – đã định nghĩa: “Giấc mơ Mỹ là niềm mơ ước về một vùng đất nơi mà cuộc sống trở nên tốt hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho tất cả, với cơ hội cho mỗi người đều có thể có được chỉ bằng tài năng”. Tất nhiên nước Mỹ chính là vùng đất lý tưởng đó, nơi “đất lành chim đậu”. Giấc mơ Mỹ trở thành khái niệm quen thuộc tượng trưng cho sự thành đạt được đền bù xứng đáng từ nỗ lực bền bỉ. Giấc mơ Mỹ đưa nước Mỹ trở thành cường quốc thịnh vượng.Để định lượng lại sức mạnh Mỹ, nhất thiết xem xét lại khả năng tồn tại của Giấc mơ Mỹ.
Nhắc đến Giấc mơ Mỹ, người ta thường liên tưởng đến hình ảnh cơn sốt đào vàng thế kỷ 19, đến sự thành đạt từ bàn tay trắng cần cù và nghị lực phi thường, đến sự khát vọng làm giàu, đến hình thái chính trị-xã hội tự do dân chủ đích thực mang lại sự phóng khoáng trong tư duy, đến mô hình kinh tế thị trường tự do và còn nhiều điều tốt đẹp khác. Khi Franklin Delano Roosevelt nhậm chức tổng thống năm 1933 với chương trình cải tổ toàn diện New Deal đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc Đại suy thoái, Giấc mơ Mỹ bắt đầu đâm hoa thật sự. Dân Mỹ được chăm lo tốt hơn bằng những chính sách cụ thể. Giấc mơ Mỹ chưa dừng lại ở đó. Năm 1941, Henry Luce (người sáng lập tờ Time) tung ra bài bình luận nổi tiếng The American Century trên tạp chí Life với nội dung rằng nước Mỹ không nên đứng ngoài lề Thế chiến thứ hai mà nên dùng sức mạnh mình để hoằng dương “lòng yêu tự do, sự công bằng trong tận dụng cơ hội, truyền thống độc lập tự chủ và thái độ hợp tác”. Luce cũng đề nghị Giấc mơ Mỹ cần được sử dụng như một cách để quảng bá lối sống Mỹ, thứ mà những quốc gia phi dân chủ nên noi theo. Gần như trong cùng thời gian, trong diễn văn Thông điệp liên bang năm 1941, Tổng thống Roosevelt cũng gián tiếp mở rộng khái niệm Giấc mơ Mỹ với việc đưa ra “bốn sự tự do tối cần thiết cho con người” mà nước Mỹ thề sẽ chiến đấu giành cho được đến cùng – gồm: Tự do ngôn luận; Tự do tôn giáo; Tự do yêu thích và Tự do sợ hãi.
Liệu Giấc mơ Mỹ đã chết? Câu trả lời là chưa. Có nhiều cơ sở cho thấy Giấc mơ Mỹ vẫn tồn tại và sẽ tồn tại. Đúng là người Mỹ đang sống khó khăn hơn. Tằn tiện hơn. Chật vật hơn. 6/10 cho biết thu nhập hiện không đủ trang trải chi phí sinh hoạt; 6/10 cho biết họ thấy chẳng dễ dàng gì để kiếm đủ tiền đổ xăng (!); ¼ cho biết họ gặp vấn đề về cái ăn hàng ngày; và 5/10 cho biết họ không thể lo nổi chi phí chăm sóc sức khỏe (U.S. News & World Report 13-6-2008). Tuy nhiên, như nhà kinh tế học Stephen Rose chỉ ra, trước thời điểm khủng hoảng, Mỹ có nhiều hơn 12% hộ dân có thu nhập hơn 100.000 USD/năm so với cách đây 20 năm; trong khi các đối tượng kiếm được ít hơn 30.000 USD không tăng. Điều đó cho thấy tầng lớp trung lưu Mỹ thật ra bắt đầu tăng. Sử gia kinh tế từng đoạt Nobel, William Robert Fogel, cũng cho biết sự bất công trong hưởng thụ các tiện ích-dịch vụ xã hội cũng thu hẹp. Nhiều người tiếp tục tin rằng cơ hội tại Mỹ vẫn không từ bỏ họ, nếu có ý chí. 82% đối tượng sinh trong hoàn cảnh nghèo khổ hiện có cuộc sống tốt hơn cha mẹ họ và hơn 1/3 trong số đó thậm chí leo lên bậc thang trung lưu hoặc cao hơn. Một nền tảng khác cho thấy Giấc mơ Mỹ vẫn còn giá trị: tỉ lệ người trưởng thành hoàn thành trung học và đại học tiếp tục tăng. Gần 90% tất cả người trưởng thành Mỹ hiện đều tốt nghiệp trung học so với 33% năm 1947; tỉ lệ tốt nghiệp đại học tăng từ 5,4% năm 1947 lên gần 30% hiện nay. Hơn 2/3 dân Mỹ tin rằng con người luôn được tưởng thưởng nhờ trí thông minh và tài năng – tỉ lệ cao nhất trong 27 quốc gia tham gia cuộc thăm dò về quan niệm sống. Điều đó phản ánh niềm tin phổ biến rằng con người có tài thật sự luôn có đất sống. Tất nhiên Giấc mơ Mỹ thời suy thoái không còn đậm màu hồng nhưng nó vẫn giá trị như một niềm tin. Trong cuộc khảo sát gần đây (MetLife Study of the American Dream 2009) – dẫn lại từ U.S. News & World Report (12-3-2009), 1/3 người Mỹ nói rằng họ đã đạt được Giấc mơ Mỹ; và trong cuộc khảo sát do CBS News/New York Times thực hiện (công bố ngày 4-5-2009), 44% người Mỹ cho biết họ đã đạt được Giấc mơ Mỹ, tăng 12 điểm so với kết quả khảo sát 2005. 31% người khác cho biết họ sẽ giành được Giấc mơ Mỹ trong đời mình. Cũng trong cuộc khảo sát trên, có đến 58% cho biết chuẩn sống của họ tốt hơn đời bố mẹ họ. Giấc mơ Mỹ đối với những đối tượng này là “tự do và cơ hội” (27% – tỉ lệ cao nhất); “thành đạt” (18%); “ổn định tài chính và có việc làm” (13%); “có nhà riêng” (9%); “an lành và hạnh phúc” (6%).
Một lần nữa, giá trị “tự do” vẫn là cốt lõi trong khái niệm Giấc mơ Mỹ. Chính yếu tố đó là nền tảng căn bản tạo ra sự tồn tại và phát triển của Giấc mơ Mỹ và nó sẽ đi theo mãi trong suốt lịch sử Giấc mơ Mỹ. Giấc mơ Mỹ sẽ chết chỉ khi nào “tự do” không còn và chính điều đó sẽ giúp ổn định sức mạnh Mỹ. Điều này hoàn toàn trái ngược với siêu cường mới nổi Trung Quốc. Thử hỏi, có ai trên thế giới muốn và bằng bất cứ giá nào di cư đến Trung Quốc, nơi khái niệm dân chủ và tự do là con số không to tướng, để tìm một “giấc mơ” tương tự?
Mỹ “yếu” như thế nào?
Trong thực tế, dù bị bầm giập bởi suy thoái, kinh tế Mỹ vẫn đứng đầu thế giới với trị giá 14,3 ngàn tỉ USD; gấp ba so với nền kinh tế thứ hai thế giới là Nhật; và chỉ thấp hơn một chút so với nền kinh tế của bốn siêu cường là Nhật, Trung Quốc, Đức và Pháp. Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới hiện đại lại chứng kiến khoảng cách lớn như vậy giữa các siêu cường. Cuối Thế chiến thứ nhất, những quốc gia chính trên bàn cân quyền lực châu Âu có sức mạnh (kinh tế-quân sự) gần như bằng nhau. Cụ thể, kinh tế Đức với GDP trị giá 237 tỉ USD chỉ nhỉnh hơn Anh một chút với 225 tỉ USD (Pháp với 144 tỉ USD và Nga với 230 tỉ USD). Mỹ hiện cũng đứng đầu thế giới xét về thu nhập bình quân đầu người – 47.000 USD; so với 44.000 USD của Pháp và Đức; 38.000 USD của Nhật; 11.000 của Nga; 2.900 USD của Trung Quốc và 1.000 USD của Ấn Độ. Cần biết, nếu xét đến yếu tố dân số, Mỹ với hơn 300 triệu so với 1,4 tỉ Trung Quốc, khoảng cách giữa hai con số thu nhập giữa Mỹ và Trung Quốc thật ra còn cách xa đến nhiều lần. Với sự chênh lệch như vậy, bao giờ Trung Quốc mới bắt kịp Mỹ về thu nhập đầu người – một trong những tiêu chí để đánh giá sự giàu có của một quốc gia – còn là vấn đề ở thì tương lai bất định… Sản lượng kinh tế (hàng hóa-dịch vụ…) của Mỹ cũng gần như luôn ở tỉ lệ ổn định trong nhiều năm (chiếm 32% tổng sản lượng kinh tế thế giới năm 1913; 26% năm 1960; 22% năm 1980; 27% năm 2000; 26% năm 2007…). Không chỉ có “độ vênh” ở khoảng cách kinh tế, Mỹ còn bỏ xa nhiều nước xét về sức mạnh quân sự. Năm 2008, Mỹ chi 607 tỉ USD cho quốc phòng, chiếm gần ½ tổng ngân sách quốc phòng thế giới. Chi tiêu quốc phòng Mỹ hiện chiếm 4,1% GDP, thấp hơn mức được chi trong hầu hết giai đoạn chiến tranh lạnh (thời Dwight Eisenhower, ngân sách quốc phòng chiếm đến 10% GDP). Không như nhiều ý kiến từng nhận định, rằng hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan sẽ làm phá sản Mỹ, ngân sách cho hai cuộc chiến trên hiện khoảng 125 tỉ USD/năm, tức không đến 1% GDP (thời chiến tranh Việt Nam, ngân sách quốc phòng Mỹ chiếm 1,6% GDP).
Không thể xét đến sức mạnh của một quốc gia mà không bàn đến giáo dục – nền tảng của mọi nền tảng cho phát triển bền vững. Năm 2005, Viện Hàn lâm khoa học Hoa Kỳ tung ra báo cáo (mang tính cảnh báo) cho biết, Mỹ chẳng lâu nữa sẽ bị mất thế dẫn đầu về khoa học. Báo cáo cho biết, năm 2004, có 600.000 kỹ sư tốt nghiệp ở Trung Quốc, 350.000 tại Ấn Độ, và Mỹ chỉ có 70.000; trong khi đào tạo tại Mỹ lại tốn kém (chi phí đào tạo một nhà hóa học hoặc kỹ sư Mỹ có thể dùng để thuê 5 nhà hóa học Trung Quốc hoặc 11 kỹ sư Ấn Độ). Tuy nhiên, nói đến giáo dục, chất lượng mới là điều đáng bàn. Hơn nữa, cách “đếm” của Trung Quốc và Ấn Độ cũng là điều nên đề cập, khi mà những người tốt nghiệp trung cấp hai năm tại hai nước này cũng được gọi là “kỹ sư”. Năm 2005, Viện toàn cầu McKinsey từng công bố khảo sát thị trường lao động và nhận thấy tỉ lệ thỏa mãn trình độ và kiến thức chuyên môn của sinh viên tốt nghiệp tại 28 nước đang phát triển là rất thấp (theo Viện McKinsey, giới quản trị nhân sự tại các công ty đa quốc gia đánh giá rằng chỉ 10% kỹ sư Trung Quốc và 25% kỹ sư Ấn Độ là “có thể được sử dụng” so với 81% kỹ sư Mỹ). Cần biết, Mỹ đầu tư đến 2,6% GDP cho giáo dục nâng cao so với 1,2% tại châu Âu và 1,1% tại Nhật. Tại Ấn Độ, hệ thống đại học mỗi năm cho tốt nghiệp 35-50 tiến sĩ khoa học máy tính; trong khi đó, tại Mỹ là 1.000.
Người ta cũng không thể không để ý đến chi tiết rằng châu Á chỉ mới bắt đầu đổ tiền mạnh cho giáo dục nâng cao nhưng điều đó vẫn chưa đủ để châu Á trở thành trung tâm của giáo dục và nghiên cứu thế giới trong tương lai gần. Trong danh sách 20 đại học hàng đầu thế giới (Times Higher Education World University Rankings 2010-11) không có đại học châu Á nào! 30 năm qua, chỉ có 8 người châu Á (mà 7 là Nhật) được trao các giải Nobel khoa học. Hệ thống thi cử nặng nề còn là một trong những nguyên nhân bóp chết giáo dục châu Á. Gút lại, để có cái nhìn tổng quát (và so sánh) về giáo dục Mỹ với châu Á, có thể lấy ý kiến nguyên Bộ trưởng Giáo dục Singapore Tharman Shanmugaratnam (hiện là Bộ trưởng Tài chính) làm kết luận: “Cả hai nước Mỹ-Singapore đều theo chính sách trọng dụng chất xám. Của quí vị (Mỹ) là chính sách trọng dụng người tài và của chúng tôi là trọng dụng thi cử. Chúng tôi biết cách đào tạo người để đi thi trong khi quí vị biết cách tận dụng và phát huy tối đa tài năng. Cả hai đều quan trọng nhưng ở vài góc độ khi xét đến vấn đề chất xám, chúng tôi (Singapore) lại không thể kiểm nghiệm tốt nhân tài (bằng Mỹ) – chẳng hạn tính sáng tạo, óc tò mò, lòng ham muốn khám phá, tham vọng. Trên hết tất cả, Mỹ là một nền văn hóa tiếp thu dám thách thức những ý tưởng truyền thống, thậm chí khi điều đó đồng nghĩa với việc thách thức nhà cầm quyền”.
Đến lúc cờ đến tay Trung Quốc chưa?
Khó có thể nói một quốc gia là giàu nếu chỉ “điểm danh” vài anh tỉ phú. Giữa năm 2008, báo cáo ngân hàng Merrill Lynch cho biết Trung Quốc có nhiều triệu phú hơn cả Pháp. Tính đến cuối năm 2007, Trung Quốc có tổng cộng 414.900 người với tài sản hơn 1 triệu USD (chỉ sau Mỹ, Nhật, Đức và Anh). Tuy nhiên, thống kê Chính phủ Trung Quốc cho thấy nông dân nước này chỉ kiếm được không bằng 1/3 so với dân thành thị; và nhà xã hội học nổi tiếng Tôn Lập Bình (Sun Liping) thuộc Đại học Thanh Hoa nói rằng chuẩn sống giữa thành thị và nông thôn Trung Quốc khác nhau đến 6 lần… Tính hiệu quả của kinh tế cũng là điều cần đề cập. Từ năm 1991-1995, theo nhà nghiên cứu gốc Hoa Bùi Mẫn Hân (Minxin Pei; thuộc Viện nghiên cứu Carnegie Endowment), 100 triệu tệ trong đầu tư vào các nguồn tài sản cố định của Trung Quốc mang lại lợi nhuận 66,2 triệu tệ cho GDP và tạo ra 400 việc làm mới; 10 năm sau, cũng theo họ Bùi, số tiền đầu tư tương tự chỉ mang lại 28,6 triệu tệ cho GDP và 170 việc làm. Trên World Politics Review (25-12-2009), tác giả John Lee (Trung tâm nghiên cứu độc lập tại Sydney, Úc) còn chỉ thêm rằng, chính sách kinh tế ưu ái hệ thống doanh nghiệp thuộc quản lý nhà nước là một trong những nguy cơ đe dọa kinh tế nước này trước mắt cũng như lâu dài. Năm 1978, số công ty nhà nước làm ăn không lãi là 19%; tăng lên 40% năm 1997 rồi 51% năm 2006…
Một mối lo lớn nữa đối với sinh mạng kinh tế Trung Quốc là khoảng cách giàu nghèo. Hệ số Gini (do nhà thống kê học Corrado Gini đưa ra đầu thế kỷ 20; một cách tính phân phối nguồn thu nhập, với 0 có nghĩa công bằng hoàn hảo và 1 có nghĩa bất bình đẳng tuyệt đối) tại Trung Quốc đã tăng từ 0,25 thập niên 1980 lên khoảng 0,47 năm 2009, cao nhất châu Á (Tân Hoa Xã 10-12-2010). Dù GDP quốc gia tăng phi mã nhưng khoảng 400 triệu người Trung Quốc đang chứng kiến tình trạng lương không tăng hoặc thậm chí giảm trong một thập niên qua (khảo sát Ngân hàng Thế giới-WB cho biết thu nhập 10% người nghèo nhất Trung Quốc giảm 2,4%/năm từ đầu thế kỷ 21 đến nay). Tập đoàn ngân hàng-tài chính toàn cầu Goldman Sachs từng dự báo Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ năm 2050 để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới với giá trị GDP 45 ngàn tỉ USD so với 35 ngàn tỉ USD của Mỹ. Tuy nhiên, đến thời điểm “huy hoàng” đó, tỉ lệ người lao động tại Mỹ tăng khoảng 30% trong khi Trung Quốc giảm 3%. Tại sao? Dự báo WB cho biết, đến năm 2015 sẽ có nhiều người Trung Quốc rời lực lượng lao động hơn so với tỉ lệ được thay thế và tình hình càng u ám vào năm 2030, khi ¼ dân số Trung Quốc sẽ vượt quá 60 tuổi, so với 10% hiện nay. Dân số đông luôn dẫn đến nhiều mặt trái nan giải: tài nguyên bị khai thác ráo riết hơn; môi trường bị đối xử tệ hơn; nguồn nước ngọt (và sạch) khan hiếm hơn; ô nhiễm nặng nề hơn (không khí ô nhiễm làm thiệt mạng gần 400.000 người Trung Quốc mỗi năm). Ngân sách nuôi 329 triệu người già vào năm 2050 của Trung Quốc chắc chắn chiếm tỉ lệ không nhỏ trong GDP… Giả dụ tăng trưởng kinh tế Trung Quốc duy trì ổn định với 7%/năm (gấp đôi so với Mỹ) thì GDP Trung Quốc sẽ gấp đôi từ năm 2007-2015, tức từ 3,3 ngàn tỉ USD lên 6,6 ngàn tỉ USD; rồi lại gấp đôi vào trước năm 2025, lên 13,2 ngàn tỉ USD. Tuy nhiên, đó cũng là thời điểm mà GDP Mỹ lên đến 28 ngàn tỉ USD (nếu kinh tế Mỹ tăng trung bình 3,5%/năm)! Đây mới là một thực tế, “thật” đến mức có thể “sờ mó” được, hơn là những dự báo chỉ dựa vào các con số “khủng” trong tỉ lệ tăng trưởng mà lại không xét đến nhiều yếu tố bất cập trong mô hình phát triển cũng như thực tế bất bình đẳng xã hội…
Trong thực tế, GDP chỉ cho thấy Trung Quốc có nhiều tiền hơn chứ không hề giàu có và thịnh vượng hơn. So với tất cả những nước mà Trung Quốc đã qua mặt về GDP, nước này vẫn là một quốc gia đang phát triển, nghèo nàn và lạc hậu, hơn là một quốc gia tiến bộ đồng đều với lực lượng lao động trình độ cao cùng một diện mạo xã hội ấm no, hạnh phúc và công bằng. Trung Quốc vẫn sẽ ì ạch chạy theo sau Nhật, Anh hay Đức một thời gian rất dài, thậm chí đủ dài để có thể mãi mãi… không theo kịp, bởi những nước trên tất nhiên sẽ chẳng giậm chân tại chỗ. Theo Ngân hàng Thế giới, GDP đầu người Trung Quốc hiện nhỉnh hơn 3.600 USD (năm 2009), xếp thứ 124 thế giới (không bằng 1/10 của Nhật và Mỹ; và không bằng 1/6 của Pháp và Anh). Mức GDP/đầu người hiện tại Trung Quốc thật ra chỉ tương đương Nhật năm 1973! Một số nhà phân tích cho rằng phải đến ít nhất năm 2050, GDP/đầu người Trung Quốc mới có thể bắt kịp mức GDP/đầu người của các nước phát triển vào thời điểm năm 2009. Những thống kê so sánh GDP Nhật-Trung cũng chẳng cho thấy Nhật vì ít hơn mà kém hơn Trung Quốc hay ngược lại. Xét ở góc độ phát triển kinh tế, Trung Quốc đang thua Nhật ở nhiều lĩnh vực. Trong khi tỉ lệ nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đối với tỉ trọng nền kinh tế tại Nhật là 2%, 30% và 69% (theo thứ tự tương ứng), thì tại Trung Quốc, tỉ lệ trên là 12%, 48% và 40%. Nói cách khác, trong khi Nhật là nước công nghiệp thì Trung Quốc vẫn là quốc gia mang đậm màu sắc và “phong thái” hoành tráng… của nền “văn minh lúa nước”. Với Nhật, sức mạnh kinh tế của họ là kỹ thuật cao trong khi công nghiệp Trung Quốc chủ yếu là bán sức lao động với giá rẻ mạt cho gia công làm mướn. Năm 2008, đầu tư nước ngoài của Trung Quốc đã tăng gấp đôi, từ 25 tỉ USD lên 50 tỉ USD. Tuy nhiên, ngay cả ở yếu tố phủ sóng toàn cầu này, Trung Quốc vẫn còn thua xa Mỹ, với 318 tỉ USD…
Như tác giả Dịch Hiến Dung (Yi Xianrong), giám đốc Viện tài chính thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc, viết trên Tân Hoa Xã (9-8-2010), rằng “chất lượng nền kinh tế Trung Quốc không thể so bì với phương Tây”. Từ năm 2003 đến nay, kinh tế Trung Quốc được vận hành theo mô hình dựa vào hai cột chống: thị trường xuất khẩu và bất động sản. Sự bùng nổ thị trường bất động sản, dù “bồi bổ” nhiều cho sự “tăng trưởng chiều cao” GDP trên các biểu đồ hàng năm, nhưng cùng lúc nó cũng cho thấy rõ sự quản lý kém về tài nguyên đất đai dẫn đến hiện tượng đầu cơ và cuối cùng giá bị đội lên đến chóng mặt. “Nếu sự phát triển Trung Quốc tiếp tục lệ thuộc vào những lĩnh vực này, sự phát triển kinh tế quốc gia sẽ bị biến dạng nghiêm trọng” – họ Dịch nhận định. Hơn nữa, lực sĩ kinh tế Trung Quốc không là một vận động viên có thể hình hoàn hảo. Trong khi bắp thịt GDP cuồn cuộn căng phồng, nhiều cơ quan khác lại chứng kiến hiện tượng teo cơ! Trước hết, đó là sự mất cân đối giữa phát triển nông thôn và thành thị, biến thành cái hố không chỉ sâu mà còn rộng, khiến khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách giữa trù phú và xác xơ, trở nên một trời một vực. Báo cáo chính thức từ Cơ quan thống kê Trung Quốc công bố đầu năm 2010 cho biết, khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn hiện là 3,33/1 vào năm 2009 – mức cao nhất kể từ năm 1978. Sự thiếu hiệu quả và không công bằng trong hệ thống chăm sóc y tế Trung Quốc được Tổ chức y tế thế giới xếp hạng 188 trong 191 quốc gia (Forbes 24-8-2010)! Yếu tố mất cân đối thứ hai là giữa các khu vực. Trong khi kinh tế khu vực duyên hải đang tiệm cận sự ngang bằng với những thành phố tại các nước phát triển, khu vực ở giữa lại tụt hậu đến 10-20 năm. Tỉnh thành càng nằm giữa đất nước Trung Quốc càng còi cọc, èo uột. Yếu tố mất cân đối thứ ba là sự phân phối thu nhập. Giáo sư Dịch đã nói thẳng ra rằng “thu nhập của một cá nhân (Trung Quốc) chịu ảnh hưởng mạnh bởi mức độ gần gũi thế nào của anh ta với quyền lực. Càng xa quyền lực chính quyền, anh ta càng kém giàu”. Một xã hội như vậy là bằng chứng của một xã hội lạc hậu hơn là dấu chỉ của một anh siêu cường!
M. K.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
- Tương lai quyền lực Mỹ (Một cái nhìn toàn cảnh về sức mạnh khống chế và sự suy yếu của Hoa Kỳ)
Joseph S. Nye Jr.
imageForeign Affairs, Nov/Dec 2010
JOSEPH S. NYE, JR. là giáo sư đại học Harvard. Nhiều phần trong bài tiểu luận này được rút ra từ sách sắp xuất bản, Tương lai quyền lực (The Future of Power) do nhà xuất bản Public Affairs, năm 2011.
Thế kỷ 21 bắt đầu với sự phân bố không đồng đều các nguồn lực. Với năm phần trăm dân số thế giới, Hoa Kỳ tạo ra khoảng một phần tư sản lượng kinh tế thế giới, có ngân sách quốc phòng gần bằng một nửa chi phí quân sự toàn cầu, và nắm các nguồn quyền lực mềm về văn hóa và giáo dục rộng lớn nhất. Tất cả điều này vẫn còn đúng, nhưng tương lai quyền lực của Hoa Kỳ đang được tranh luận sôi nổi. Nhiều nhà quan sát thời cuộc lý giải rằng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đánh dấu bước khởi đầu cho sự xuống dốc của Hoa Kỳ. Hội đồng Tình báo Quốc gia [của chính phủ Hoa Kỳ] dự kiến rằng vào năm 2025, "Hoa Kỳ vẫn còn là siêu cường, nhưng sức mạnh khống chế của Hoa Kỳ sẽ suy giảm nhiều".

Quyền lực là khả năng đạt được những thành quả mong muốn, và các tài nguyên tạo ra quyền lực thay đổi trong những bối cảnh khác nhau. Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 lợi dụng quyền kiểm soát các thuộc địa và vàng nén, Hoà Lan trong thế kỷ 17 hưởng được lợi thế thương mại và tài chính, Pháp trong thế kỷ 18 nhờ vào dân số đông và các đội quân hùng mạnh, và Vương quốc Anh trong thế kỷ 19 xây dựng quyền lực từ ưu thế của mình trong cuộc Cách mạng công nghiệp và lực lượng hải quân. Thế kỷ này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng bùng phát trong công nghệ thông tin và toàn cầu hóa, và để hiểu rõ cuộc cách mạng này, ta cần phải tránh một số cạm bẫy lý luận.

Trước hết, ta phải cảnh giác những ẩn dụ lệch lạc về một cuộc thoái hóa hữu cơ (organic decline). Các quốc gia không giống như những con người, với tuổi thọ có thể tiên đoán được. Đế quốc La Mã vẫn còn giữ được ưu thế suốt hơn ba thế kỷ sau khi kinh qua đỉnh cao quyền lực, và kể cả lúc đó họ cũng không chịu khuất phục trước sự vươn dậy của một quốc gia khác. Dù có những tiên đoán thời thượng về khả năng Trung Quốc, Ấn Độ hay Brazil có thể vượt qua Hoa Kỳ trong thập niên tới, nhưng một mối đe dọa lớn hơn có thể đến từ bọn man rợ hiện đại (modern barbarians) và các tác nhân phi nhà nước. [vụ Wikileaks gần đây là một trường hợp điển hình, ND.] Trong một thế giới dựa trên sức mạnh thông tin, sự phân tán quyền lực (power diffusion) có thể đặt ra một nguy cơ lớn hơn sự chuyển dịch quyền lực (power transition). Cứ lẽ thường, quốc gia nào có đội quân mạnh nhất thì sẽ chiến thắng, nhưng trong thời đại thông tin, quốc gia nào (hoặc tác nhân phi nhà nước nào) có thông tin hấp dẫn nhất đôi khi lại chiến thắng.
Quyền lực ngày nay được phân bố theo một mô hình giống như một ván cờ diễn ra trên ba chiều phức tạp. Ở bàn cờ cao nhất, quyền lực quân sự chủ yếu là đơn cực (unipolar), và Hoa Kỳ có khả năng giữ được địa vị siêu cường quân sự trong một thời gian khá dài. Ở bàn cờ chính giữa, quyền lực kinh tế đã trở nên đa cực trong hơn một thập niên qua, với Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản và Trung Quốc thủ các vai chính và các nước khác đang trở nên quan trọng hơn. Bàn cờ thấp nhất là lãnh vực của các quan hệ xuyên quốc gia. Nó bao gồm các tác nhân phi nhà nước đa dạng như các chủ ngân hàng chuyển ngân khoản bằng điện tử, bọn khủng bố buôn lậu vũ khí, bọn tin tặc đe dọa an ninh mạng và các thách thức như dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Trên bàn cờ thấp nhất này, quyền lực được phân tán rộng rãi và thật là vô nghĩa khi ta nói đến đơn cực, đa cực hay bá quyền.
Trong lãnh vực chính trị giữa các quốc gia, yếu tố quan trọng nhất sẽ là sự phục hồi địa của châu Á trên sân khấu thế giới. Năm 1750, châu Á đã chiếm hơn một nửa dân số thế giới và sản lượng kinh tế thế giới. Khoảng trước năm 1900, tiếp theo sau cuộc Cách mạng công nghiệp ở châu Âu và Hoa Kỳ, sản lượng kinh tế của châu Á giảm xuống còn một phần năm của thế giới. Đến năm 2050, châu Á sẽ vững bước trên con đường khôi phục lại sản lượng mà nó từng đạt được trong lịch sử. Sự vươn dậy của Trung Quốc và Ấn Độ có thể tạo ra bất ổn, nhưng đây là một vấn đề đã có tiền lệ, và lịch sử cho thấy các chính sách có thể ảnh hưởng tới thành quả.
Sự suy yếu của bá quyền?
Đem sức mạnh của Hoa Kỳ ra ví với sức mạnh của Vương quốc Anh một thế kỷ trước để rồi tiên đoán một sự suy tàn bá quyền tương tự là cách nói thời thượng hiện nay. Một số người Mỹ đang phản ứng đầy cảm tính trước ý niệm về một sự xuống dốc của đất nước mình. Nhưng nếu tin rằng Hoa Kỳ sẽ mãi mãi sở đắc vượt trỗi các nguồn lực, thì đó là một quan điểm vừa phi lý vừa phi lịch sử. Từ "suy yếu" (decline) làm lẫn lộn hai ý niệm khác nhau: suy yếu tuyệt đối, theo nghĩa tan rã (decay), và suy yếu tương đối, theo nghĩa là các tài nguyên tạo ra quyền lực của các nước khác tăng lên hoặc được sử dụng hiệu quả hơn.
Đem so sự suy yếu của Hoa Kỳ với sự xuống dốc của Anh là sai lầm. Vương quốc Anh đã là một siêu cường hải quân và là một đế quốc trên đó mặt trời không bao giờ lặn, nhưng trong khoảng Thế chiến thứ nhất, nước này chỉ đứng thứ tư trong các đại cường về quân số, đứng thứ tư về GDP, và thứ ba về chi tiêu quốc phòng. Với sự vùng lên của chủ nghĩa dân tộc, việc bảo vệ một đế quốc rộng lớn đã trở thành một gánh nặng hơn là một sản nghiệp. Dù người ta có nói về một đế quốc Mỹ chăng nữa, Hoa Kỳ vẫn có nhiều tự do hành động hơn Vương quốc Anh trước đây. Và trong khi Anh phải đối phó với các nước láng giềng đang trổi dậy, đó là Đức và Nga, thì Hoa Kỳ có lợi thế được hai đại dương bao bọc và những nước láng giềng yếu kém hơn.
Dù có những khác biệt như vậy, người Mỹ vẫn trải qua những chu kỳ trong đó họ đã tin rằng sự xuống dốc của Hoa Kỳ đã gần kề. Những vị cha già lập quốc (the Founding Fathers) đã từng lo lắng vì những đặc tính tương đồng với cộng hòa La Mã. Một thế kỷ rưỡi về trước, Charles Dickens đã nhận xét: “Nếu lời của từng cá nhân người Mỹ đáng để cho ta tin, thì Hoa Kỳ luôn luôn bị trầm cảm, luôn luôn bế tắc, luôn luôn ở trong một cuộc khủng hoảng đáng báo động, và chẳng bao giờ khác hơn”.  Trong nửa thế kỷ qua, có thêm nhiều người Mỹ đã tin vào sự xuống dốc của Hoa Kỳ sau khi Liên Xô phóng tàu vũ trụ Sputnik năm 1957, sau những điều chỉnh chính sách kinh tế của tổng thống Richard Nixon và các cú sốc dầu lửa trong thập niên 70 của thế kỷ trước, và sau loạt đóng cửa nhiều công nghiệp ở vùng đông và đông bắc Hoa Kỳ (the rust belt) và tình trạng thâm thủng ngân sách dưới thời Reagan. Nhưng 10 năm sau đó, người Mỹ lại tin rằng nước Mỹ là siêu cường duy nhất, và bây giờ các cuộc thăm dò lại cho biết nhiều người Mỹ nghĩ rằng Hoa Kỳ đang suy yếu trở lại.
Giới học giả than phiền việc chính quyền Washington không kiểm soát được những quốc gia như Afghanistan hay Iran. Nhưng họ đã để ánh hào quang của dĩ vãng chi phối sự đánh giá tình hình hiện nay. Sức mạnh của Hoa Kỳ không còn như trước, nhưng thực sự sức mạnh đó chẳng bao giờ vĩ đại như người ta tưởng. Sau Thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ có vũ khí hạt nhân và một ưu thế khống chế bằng sức mạnh kinh tế nhưng lại không thể ngăn cản được “sự mất” nước Trung Hoa vào tay cộng sản, không thể đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, không thể vượt qua bế tắc trong chiến tranh Triều Tiên, không thể ngăn chặn “sự mất” Miền Bắc Việt Nam, hay lật đổ chế độ Castro ở Cuba. Quyền lực được đo bằng tài nguyên hiếm khi tương đồng với quyền lực được đo bằng những thành quả mong muốn, và các chu kỳ của niềm tin tưởng cho rằng một quốc gia đang xuống dốc nói lên một sự kiện tâm lý hơn là các biến đổi thực sự trong các nguồn tài nguyên tạo ra quyền lực. Đáng tiếc là, những tin tưởng lệch lạc về sự xuống dốc này – cả trong nước và ngoài nước – có thể dẫn tới những sai lầm nguy hiểm trong chính sách.
Trung Quốc đang trổi dậy
Hơn một thập niên nay, nhiều người đã coi Trung Quốc là địch thủ có khả năng nhất để quân bình lực lượng với Hoa Kỳ hay vượt qua Hoa Kỳ. Một số người đã rút ra những tương đồng với sự thách thức mà đế chế Đức đã đặt ra cho Vương quốc Anh vào đầu thế kỷ trước. Một cuốn sách mới xuất bản (của Martin Jacques) thậm chí lấy tựa đề Khi Trung Quốc cai trị thế giới: Sự kết thúc của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự toàn cầu mới. Goldman Sachs đã tiên đoán rằng toàn bộ kinh tế Trung Quốc sẽ vượt trổi hơn toàn bộ kinh tế Hoa Kỳ vào năm 2027.
Tuy nhiên, còn lâu Trung Quốc mới có được các nguồn lực ngang hàng với Hoa Kỳ, và Trung Quốc vẫn còn đối diện với nhiều chướng ngại trên con đường phát triển. Cho dù toàn bộ GDP của Trung Quốc có vượt qua GDP của Hoa Kỳ vào năm 2030 chăng nữa, thì hai nền kinh tế, mặc dù tương đương về tầm cỡ, cũng không hề tương đương về cấu trúc. Trung Quốc vẫn còn một vùng nông thôn rộng lớn kém phát triển và còn phải bắt đầu đối diện với các vấn đề dân số do hậu quả đến chậm của chính sách một con. Chỉ có lợi tức đầu người (per capita income) mới cung cấp được một thước đo về sự tinh vi của một nền kinh tế. Cứ giả định mức tăng trưởng GDP của Trung Quốc là 6 phần trăm và của Hoa Kỳ là 2 phần trăm sau năm 2030, thì mãi đến khoảng giữa thế kỷ này Trung Quốc mới ngang hàng với Hoa Kỳ về lợi tức đầu người. Nói thế khác, mức tăng trưởng kinh tế rất ấn tượng và sự gia tăng dân số của Trung Quốc có khả năng giúp kinh tế Trung Quốc qua mặt kinh tế Hoa Kỳ về tổng sản lượng trong vài thập niên tới, nhưng điều này không đồng nghĩa với một sự bình đẳng.
Ngoài ra, những đự doán về một sự tăng trưởng đều đặn là có thể sai lầm, vì tốc độ tăng trưởng thường chậm lại khi một nền kinh tế đạt được mức phát triển cao hơn. Hệ thống chính trị độc tài của Trung Quốc đã chứng tỏ một khả năng ấn tượng trong việc sử dụng quyền lực quốc gia, nhưng liệu chính phủ có duy trì được khả năng này trong trường kỳ hay không thì vẫn còn là một điều bí ẩn đối với thế giới bên ngoài và với cả giới lãnh đạo Trung Quốc. Khác hẳn với Ấn Độ, một quốc gia được khai sinh với một bản hiến pháp dân chủ, Trung Quốc vẫn chưa tìm ra đường lối để giải quyết vần đề liên quan đến những đòi hỏi tham gia chính chị của người dân (nếu không muốn nói đến vấn đề dân chủ), những đòi hỏi này thường đi theo với lợi tức đầu người đang gia tăng. Liệu Trung Quốc có thể phát triển được một công thức để quản lý giai cấp trung lưu thành thị đang trở nên đông đảo, tình trạng bất quân bình giữa các vùng, nạn nghèo đói ở nông thôn, và sự bất mãn của các dân tộc ít người là một vấn đề cần phải chờ xem.
Một số người tranh luận rằng Trung Quốc quyết thách thức địa vị của Hoa Kỳ ở châu Á và, sau cùng, ở khắp thế giới. Cho dù đây là một đánh giá chính xác về các ý định của Trung Quốc đi nữa (và với sự kiện người Trung Quốc không biết được quan điểm của các thế hệ tương lai), thì vẫn không mấy ai tin được được rằng Trung Quốc có đủ khả năng quân sự để thực hiện ý định này trong một tương lai gần. Hơn nữa, lãnh đạo Trung Quốc còn phải đương đầu với phản ứng của những nước khác và với những hạn chế được đặt ra do nhu cầu của Trung Quốc cần phải tìm thị trường và nguồn lực ở nước ngoài. Một lập trường quân sự quá hung hăng của Trung Quốc có thể dẫn đến một liên minh gồm các nước láng giềng chống lại Trung Quốc, một liên minh có thể làm suy yếu cả quyền lực cứng lẫn quyền lực mềm của Trung Quốc.
Sự trỗi dậy của quyền lực Trung Quốc tại châu Á bị cả Ấn Độ lẫn Nhật Bản (cũng như nhiều quốc gia khác) phản ứng lại, và bản thân việc này đã tạo cho Hoa Kỳ một lợi thế quyền lực quan trọng ở trong vùng. Liên minh Mỹ-Nhật và sự cải thiện quan hệ Mỹ-Ấn có nghĩa là Trung Quốc không thể trục xuất người Mỹ ra khỏi châu Á dễ dàng. Từ thế mạnh đó, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Australia, cùng nhiều quốc gia khác, có thể đối thoại với Trung Quốc và đưa ra những quyền lợi nhằm khuyến khích Trung Quốc đóng một vai trò có trách nhiệm, đồng thời đề phòng khả năng Trung Quốc trở nên hung hăng khi thấy quyền lực của mình đủ mạnh.
Sự mục rã từ bên trong?
Một số người cho rằng Hoa Kỳ bị suy yếu vì “bành trướng đế quốc quá rộng”, nhưng cho đến nay, các sự thật diễn ra không chứng minh được lý thuyết này. Trái lại, trong nhiều thập niên qua, các chi phí quốc phòng và ngoại giao đã giảm bớt nếu xét như một tỉ lệ [phần trăm] của GDP. Tuy nhiên, Hoa Kỳ có thể suy yếu không phải vì bành trướng đế quốc quá rộng lớn, nhưng vì những bất cập nội bộ. Đế quốc La Mã bị mục nát từ bên trong, và một số nhà quan sát, vì nhận thấy tình trạng tồi tệ trong chính trị nội bội của Hoa Kỳ hiện nay, đã tiên đoán rằng Hoa Kỳ có thể mất khả năng ảnh hưởng lên các biến cố thế giới chỉ vì những tranh chấp về văn hóa, vì sự sụp đổ của các định chế chính trị và nạn đình đốn kinh tế. Người ta không thể loại trừ khả năng này, nhưng các chiều hướng của tình hình hiện nay không diễn ra rõ nét như tâm trạng u buồn của người dân cho thấy. Mặc dù Hoa Kỳ có nhiều vấn đề xã hội – và luôn luôn có vấn đề xã hội – nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy chúng luôn luôn trở nên tồi tệ theo một trình tự đường thẳng. Thậm chí một số vấn đề còn được cải thiện, như các tỉ lệ tội phạm, ly dị và thanh thiếu niên mang thai. Mặc dù có những tranh chấp văn hóa về các vấn đề như hôn nhân đồng giới tính và phá thai, nhưng các cuộc thăm dò cho thấy, nói chung, xã hội đang trở nên bao dung hơn. Xã hội dân sự sinh hoạt mạnh mẽ, và số người đi nhà thờ vẫn đông đảo, đến những 42 phần trăm. Những trận chiến văn hoá trong lịch sử Hoa Kỳ về các vấn đề như di dân, chế độ nô lệ, thuyết tiến hoá, cấm rượu, chủ nghĩa chống cộng cực đoan (McCarthyism), và các vấn đề dân quyền còn nghiêm trọng hơn các vấn đề hiện nay rất nhiều.
Một vấn đề nghiêm trọng hơn sẽ xuất hiện nếu quốc gia này bắt đầu có thái độ hướng nội và nghiêm khắc hạn chế số người nhập cư. Với mức độ di dân hiện nay, Hoa Kỳ là một trong vài quốc gia phát triển có thể tránh được nạn suy thoái dân số và duy trì được tỉ lệ so với dân số thế giới, nhưng điều này có thể thay đổi nếu thái độ bài ngoại hay những phản ứng chống lại chủ nghĩa khủng bố đưa đến việc đóng cửa biên giới. Tỉ lệ dân số sinh ở nước ngoài tại Hoa Kỳ đạt đỉnh cao của thế kỷ 20, vào năm 1910, là 14,7 phần trăm. Ngày nay, 11,7 phần trăm dân số Hoa Kỳ được sinh ra ở nước ngoài. Nhưng điều đáng nói là, vào năm 2009 có đến 50 phần trăm dân Mỹ ủng hộ việc cắt giảm số người nhập cư, nhảy lên từ con số 39 phần trăm năm 2008.
Mặc dầu một tốc độ nhập cư quá ào ạt có thể tạo ra nhiều vấn đề xã hội, nhưng qua trường kỳ, việc nhận người nhập cư lại tăng thêm quyền lực của Hoa Kỳ. Hiện nay, Hoa Kỳ là nước có dân số lớn thứ ba thế giới; 50 năm sau, rất có thể dân số Hoa Kỳ vẫn đứng thứ ba (sau Ấn Độ và Trung Quốc). Không những điều này liên quan tới sức mạnh kinh tế, nhưng trong bối cảnh hầu hết các quốc gia phát triển đều có dân số đang già nua và sẽ đối phó gánh nặng cấp dưỡng cho thế hệ già, thì việc thu nhận thêm người nhập cư lại có thể giảm bớt những gai góc trong vấn đề chính sách liên hệ. Ngoài ra, người ta thấy có một tương quan mật thiết giữ con số thị thực nhập cảnh H-1B [dành cho chuyên viên nước ngoài, ND] và số bằng sáng chế được đăng ký tại Hoa Kỳ. Năm 1998, các kỹ sư gốc Trung Hoa và Ấn Độ điều hành một phần tư số doanh nghiệp công nghệ cao tại Silicon Valley (Thung lũng điện tử), và năm 2005, tư liệu cho thấy một phần tư số hãng công nghệ mới khai trương tại Hoa Kỳ trong thập niên qua là do sự đóng góp  của người di dân.
Những lợi điểm của chính sách nhập cư cũng quan trọng không kém đối với việc xây dựng quyền lực mềm của Hoa Kỳ. Được thu hút vì nhìn thấy sự thăng tiến xã hội của những người nhập cư tại Mỹ, nhiều người khác cũng muốn đến sinh sống tại Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một tảng nam châm, và nhiều người có dự định trở thành công dân Mỹ. Nhiều người Mỹ thành công cũng có diện mạo giống như người của các nước khác. Thay vì làm suy giảm quyền lực cứng và quyền lực mềm, chính sách nhập cư tại Hoa Kỳ đã tăng cường cả hai. Khi Lý Quang Diệu của Singapore kết luận rằng Trung Quốc không thể vượt qua Hoa Kỳ để trở thành cường quốc lãnh đạo thế kỷ 21, ông ta đã dẫn chứng khả năng của Hoa Kỳ trong việc thu hút những người giỏi nhất và thông minh nhất từ những nơi khác trên thế giới và giúp họ hội nhập vào một nền văn hóa đa dạng đầy tính sáng tạo. Trung Quốc có một dân số lớn hơn, nhờ đó có thể tuyển mộ nhân tài từ trong nước, nhưng theo ông Lý Quang Diệu, cái văn hóa lấy Trung Quốc làm rốn của vũ trụ này sẽ làm cho Trung Quốc kém sáng tạo hơn Hoa Kỳ, một quốc gia thu hút nhân tài từ mọi nơi trên thế giới.
Mặt khác, một sự tê liệt trong sinh hoạt kinh tế Hoa Kỳ sẽ chấm dứt luôn sinh hoạt kinh tế toàn cầu. Nên nhớ rằng những dự báo kinh tế vĩ mô (cũng như dự báo thời tiết) là không đáng tin cậy, theo đó tiến độ tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ trong thập niên tiếp theo sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008 có vẻ là chậm chạp hơn. Quĩ tiền tế quốc tế (IMF) dự kiến Hoa Kỳ có mức tăng trưởng kinh tế trung bình là 2 phần trăm vào năm 2014. Mức tăng trưởng này là thấp hơn tỉ lệ tăng trưởng trung bình trong nhiều thập niên qua nhưng suýt soát với tỉ lệ tăng trưởng trung bình trong 10 năm qua.
Trong thập niên 1980, nhiều nhà quan sát cho rằng kinh tế Hoa Kỳ đã hết năng lực và rằng Đức và Nhật Bản đang vượt qua Hoa Kỳ. Vào lúc đó, nước Mỹ có vẻ như đã mất lợi thế cạnh tranh. Ngày nay, Diễn đàn kinh tế thế giới (the World Economic Forum) đã xếp Hoa Kỳ đứng hạng tư (sau Thụy Sĩ, Thụy Điển, và Singapore) về khả năng cạnh tranh toàn cầu. (Trung Quốc, trong bản so sánh, được xếp hạng 27). Hoa Kỳ dẫn đầu nhiều khu vực phát triển mới mẻ, như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, và công nghệ nano (nanotechnology). Và cho dù những người lạc quan thường viện dẫn ưu thế của Hoa Kỳ trong việc sản xuất và sử dụng công nghệ thông tin, nhưng ngành này không phải là khu vực duy nhất tạo ra năng suất của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã có những sáng kiến nông nghiệp rất ý nghĩa, và thái độ cởi mở của Hoa Kỳ đối với tiến trình toàn cầu hóa, nếu tiến trình này còn tiếp tục, cũng sẽ đẩy mạnh năng suất cao hơn nữa. Các chuyên gia kinh tế tiên đoán rằng mức độ gia tăng năng suất của Hoa Kỳ sẽ nằm trong khoảng 1,5 đến 2,25 phần trăm trong thập niên tới.
Xét về nỗ lực đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới năm 2007, với ngân khoản 369 tỉ đôla, tiếp đến là toàn bộ châu Á (338 tỉ đôla) và Liên minh châu Âu (263 tỉ đôla). Hoa Kỳ chi tiêu 2,7 phần trăm GDP vào nghiên cứu và phát triển, gần gấp đôi tỉ lệ phần trăm GDP mà Trung Quốc đã chi tiêu (nhưng hơi ở dưới tỉ lệ 3 phần trăm GDP của Nhật Bản và Nam Hàn). Năm 2007, giới đầu tư Mỹ đăng ký khoảng 80.000 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ, tức nhiều hơn tổng số của phần thế giới còn lại. Một số tin tức bày tỏ mối lo ngại về những những vấn đề như thuế suất đánh vào các công ty quá cao, nạn thất thoát vốn nhân lực, và số bằng sáng chế ở nước ngoài đang tăng lên, nhưng các hãng quản lý vốn kinh doanh (venture capital firms) đầu tư 70 phần trăm tiền của mình vào các công ty mới thành lập trong nước. Một nghiên cứu của Tổ chức theo dõi doanh nhân toàn cầu (Global Entrepreneurship Monitor) đã xếp Hoa Kỳ đứng trước các nước khác về cơ hội phát triển doanh nghiệp bởi vì Hoa Kỳ có một văn hoá doanh nghiệp thuận lợi, có công nghiệp vốn kinh doanh (venture capital industry) trưởng thành, quan hệ thiết thân giữa đại học và công nghiệp, và một chính sách nhập cư cởi mở.
Những quan ngại khác về tương lai kinh tế Hoa Kỳ tập trung vào nạn thâm thủng tài khoản hiện nay (mức thâm thủng hiện nay cho thấy dân Mỹ ngày càng thiếu nợ người nước ngoài) và nợ chính phủ đang gia tăng. Theo lời của sử gia Niall Ferguson: “Đây là cách các đế quốc trở nên suy yếu. Nó bắt đầu bằng sự bùng nổ nợ nần”. Không những gói cứu nguy ngân hàng và kích cầu kinh tế gần đây làm tăng thêm quốc trái của Hoa Kỳ, mà những chi phí ngày càng lên cao về y tế và các chương trình lợi ích công dân như An sinh xã hội, cùng với chi phí ngày càng lên cao của việc vay mượn và trả tiền lời, sẽ lấy mất những ngân khoản lớn trong lợi tức quốc gia tương lai. Những nhà quan sát khác thì ít báo động hơn. Họ cho rằng trường hợp Hoa Kỳ không giống như trường hợp Hy Lạp.
Phòng ngân sách quốc hội Hoa Kỳ tính rằng toàn bộ nợ chính phủ sẽ lên đến100 phần trăm GDP khoảng năm 2023. Cứ lẽ thường, nhiều nhà kinh tế bắt đầu lo lắng khi những mức nợ tại các nước giàu vượt quá 90 phần trăm GDP. Nhưng như tờ The Economist vạch ra vào tháng Sáu vừa qua, “Hoa Kỳ có hai lợi thế rất to lớn so với các nước khác, những lợi thế đã cho phép quốc gia này đối diện nợ nần tương đối bình thản: vừa sở hữu trữ kim thế giới [tức đồng đôla] vừa sở hữu thị trường tài sản có khả năng thanh toán nhất, dưới dạng thức trái phiếu của Bộ tài chính”. Và trái với những lo lắng về sự mất lòng tin vào đồng đôla, ngay trong cuộc khủng hoảng tài chính, giá trị đồng đôla lại lên cao và tiền lời của trái phiếu lại xuống thấp. Một cuộc khủng hoảng lòng tin đột xuất vẫn ít có vấn đề hơn sự kiện là một sự tăng dần trong các chi phí vay nợ có thể ảnh hưởng lên sự ổn định kinh tế lâu dài.
Chính trong ý nghĩa này, vấn đề nợ nần trở thành quan trọng, và các nghiên cứu cho thấy rằng lãi suất tăng 0,03 phần trăm cho mỗi gia tăng 1 phần trăm của tỉ số nợ-trên-GDP (debt-to-GDP ratio) qua trường kỳ. Lãi suất gia tăng có nghĩa là việc đầu tư trong khu vực tư doanh giảm thiểu và mức tăng trưởng kinh tế trở nên chậm hơn. Những hậu quả này có thể được cải thiện nhờ những chính sách đúng đắn nhưng cũng có thể trở thành xấu hơn do những chính sách tồi dở. Nợ gia tăng không nhất thiết dẫn đến sự suy yếu của Hoa Kỳ, nhưng chắc chắn nó sẽ nâng cao mức rủi ro trong trường kỳ.
Một lực lượng lao động có trình độ học vấn là một chìa khóa khác đưa đến thành công kinh tế trong thời đại thông tin. Thoạt nhìn, Hoa Kỳ có vẻ thành công trong lãnh vực này. Hoa Kỳ chi phí cho giáo dục đại học một tỉ lệ GDP gấp đôi tỉ lệ GDP mà Pháp, Đức, Nhật Bản, và Vương quốc Anh đã dành cho giáo dục đại học của họ. Bản liệt kê gồm 10 đại học đứng đầu thế giới năm 2009 của tạp chí Times Higher Education, xuất bản tại Luân Đôn, có đến 6 đại học Hoa Kỳ; và một nghiên cứu của đại học Shanghai Jiao Tong đã liệt kê 17 đại học Hoa Kỳ – không có đại học nào của Trung Quốc – vào danh sách 20 đại học hàng đầu thế giới. Người Mỹ được trao nhiều giải Nobel hơn và xuất bản nhiều bài nghiên cứu khoa học trong các tạp chí được chuyên gia cùng trình độ đánh giá (peer-reviewed journals) hơn công dân của bất cứ nước nào khác – và nhiều gấp ba lần người Trung Quốc. Những thành tựu này gia tăng cả quyền lực kinh tế lẫn quyền lực mềm của Hoa Kỳ.
Giáo dục Mỹ trong khả năng tốt nhất – được biểu hiện ở nhiều trường đại học và một số ít trường ưu tú trong hệ thống giáo dục trung học – hội đủ hoặc đặt ra tiêu chuẩn toàn cầu. Nhưng giáo dục Mỹ trong khả năng xấu nhất – được biểu hiện ở quá nhiều trường tiểu học và trung học, đặc biệt trong các khu nghèo – lại tụt hậu nghiêm trọng. Điều này có nghĩa là phẩm chất của lực lượng lao động sẽ không đáp ứng những tiêu chuẩn ngày càng cao được áp dụng trong một nền kinh tế được lèo lái bằng công nghệ thông tin. Không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy học sinh Mỹ ngày nay kém hơn ngày trước, nhưng ưu thế giáo dục của Hoa Kỳ đang bị xói mòn chỉ vì các quốc gia khác đang tiến bộ hơn bao giờ cả. Cải thiện hệ thống giáo dục quốc gia từ trường mầm non đến hết lớp 12 sẽ là một nỗ lực rất cần thiết nếu Hoa Kỳ muốn đáp ứng những tiêu chuẩn cần đến trong một nên kinh tế đặt cơ sở trên công nghệ thông tin.
Chính trị và các định chế chính trị
Bất chấp những vấn đề và những khả năng bấp bênh này, một điều gần như chắc chắn là, nếu có được những  chính sách đúng đắn, kinh tế Hoa Kỳ vẫn có thể tiếp tục tạo ra quyền lực cứng cho quốc gia. Nhưng các định chế chính trị của Hoa Kỳ thì sao? Nhà báo James Fallows, qua nhiều năm sống ở Trung Quốc, khi về lại quê hương đã lo lắng về khả năng kinh tế của Hoa Kỳ thì ít, mà lo về bế tắc trong hệ thống chính trị thì nhiều. Theo quan điểm của ông: “Hoa Kỳ vẫn có đủ phương tiện để sửa đổi gần như bất cứ yếu kém nào trong cơ cấu…Đấy mới là bi kịch của Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 21: một mặt, Hoa Kỳ có một nền văn hóa sinh động, luôn luôn tự đổi mới, có sức hấp dẫn tài năng của thế giới; nhưng mặt khác là một hệ thống cai trị ngày càng trông giống như một trò đùa”. Mặc dù bế tắc chính trị trong một giai đoạn suy thoái kinh tế trông có vẻ tồi tệ, nhưng khó mà quả quyết tình hình ngày nay có tồi tệ hơn trong quá khứ hay không.
Chuyển đổi quyền lực – từ nguồn lực ra thành quả mong muốn – là một vấn đề lâu đời của nước Mỹ. Hiến pháp Hoa Kỳ dựa trên quan niệm tự do của thế kỷ 18, một quan niệm cho rằng quyền lực được kiểm soát hữu hiệu nhất bằng cách chia ra nhiều bộ phận khác nhau (phân quyền) và những bộ phận này kiểm soát và quân bình lẫn nhau. Trong chính sách đối ngoại, Hiến pháp luôn luôn khuyến khích Tổng thống và Quốc hội tranh nhau quyền kiểm soát. Các nhóm áp lực kinh tế và chủng tộc có thế lực thì tranh nhau để định nghĩa lợi ích quốc gia sao cho phù hợp với quyền lợi của nhóm mình, còn Quốc hội thì được thiết kế để chú ý đến nhóm nào đòi quyền lợi to tiếng nhất.
Một lý do khác để phải lo ngại là sự suy giảm lòng tin của dân chúng đối với các định chế chính phủ. Năm 2010, một cuộc thăm dò do Trung tâm nghiên cứu Pew tổ chức đã cho thấy rằng có đến 61 phần trăm người được phỏng vấn đã trả lời rằng Hoa Kỳ đang suy yếu, và chỉ 19 phần trăm tin tưởng chính phủ làm điều hợp lý trong hầu hết mọi trường hợp. Năm 1964, trái lại, có đến ba phần tư công chúng Hoa Kỳ nói rằng họ tin tưởng chính phủ liên bang làm điều phải trong hầu hết mọi trường hợp. Những con số này đã thay đổi phần nào qua thời gian, gia tăng sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001 để rồi dần dần suy giảm trở lại.
Nước Mỹ được thành lập một phần nào dựa vào thái độ ngờ vực đối với chính phủ, và hiến pháp được thiết kế nhằm chống lại việc tập trung quyền hành. Hơn nữa, khi được hỏi, không phải về hoạt động thường ngày của chính phủ nhưng về sườn cốt cơ bản của hiến pháp, người Mỹ có thái độ rất lạc quan. Khi được hỏi nơi nào là nơi tốt đẹp nhất để sống, tuyệt đại đa số trả lời đó là Hoa Kỳ. Nếu được hỏi họ có thích hệ thống chính phủ dân chủ của họ hay không, gần như mọi người đều trả lời có. Ít ai thấy hệ thống chính trị này là mục nát, cần phải lật đổ.
Vài khí cạnh trong tâm lý dân chúng hiện nay có lẽ tiêu biểu cho sự bất mãn của họ đối với tình trạng đôi co và bế tắc trong tiến trình chính trị. So với quá khứ gần đây, chính trị đảng phái đã trở nên phân cực hơn trước, nhưng những thô bỉ của chính trị thì thì thời nào cũng có – như [những vị cha già lập quốc] John Adams, Alexander Hamilton, và Thomas Jefferson có thể chứng minh. Một phần khó khăn cho việc đánh giá không khí chính trị hiện nay là, sự tin tưởng đặt vào chính phủ đã tăng cao một cách bất thường ở thế hệ của những người từng sống qua cuộc Đại khủng hoảng kinh tế và từng giành được chiến thắng trong cuộc Đại chiến thứ hai. Nếu nhìn qua phối cảnh lâu dài của lịch sử Hoa Kỳ, thì thế hệ đó có lẽ là một hiện tượng bất thường (anomaly). Phần lớn bằng chứng nói lên sự mất tin tưởng ở chính phủ phát xuất từ phưong pháp thăm dò ý kiến hiện đại, trong đó những câu trả lời lại rất tùy thuộc vào cách đặt câu hỏi. Sự suy giảm lòng tin của người dân đối với chính phủ xuống mức thấp nhất dưới hai chính quyền Johnson và Nixon, cách nay đã bốn thập niên.
Điều này không có nghĩa là chúng ta không có vấn đề trong việc mất lòng tin ở chính phủ. Nếu dân chúng không còn muốn đóng thuế hay tuân theo pháp luật, hay nếu những thanh niên ưu tú không chịu tham gia phục vụ công ích hay công quyền thì khả năng của chính phủ sẽ bị suy yếu rất nhiều, và khi đó dân chúng lại càng bất mãn với chính phủ. Hơn nữa, một không khí nghi kỵ chính quyền có thể nảy sinh những hành động cực đoan do những phần tử bất bình thường trong xã hội, chẳng hạn vụ đặt bom đánh sập bin-đinh của chính phủ liên bang tại Oklahoma city năm 1995. Những hậu quả như thế có thể làm suy yếu cả quyền lực cứng lẫn quyền lực mềm của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, cho đến nay, những lo sợ này gần như không trở thành hiện thực. Sở thuế vụ liên bang vẫn chưa thấy có sự gia tăng nào trong việc gian lận thuế má. Có nhiều bằng chứng cho thấy, quan chức chính phủ trở nên ít tham nhũng hơn những thập niên trước, và Ngân hàng Thế giới cho Hoa Kỳ điểm số khá cao (trên 90/100) về nỗ lực “kiềm chế tham nhũng”. Việc người dân tự nguyện điền và nộp lại các mẩu kiểm tra dân số đã lên đến 67 phần trăm năm 2000 và còn cao hơn chút đỉnh vào năm 2010, đảo ngược chiều hướng suy giảm trong 30 năm liền. Các tỉ lệ đi bầu giảm từ 62 phần trăm xuống 50 phần trăm trong suốt bốn thập niên sau năm 1960, nhưng sự suy giảm đã ngừng lại ở năm 2000 và tăng lên 58 phần trăm năm 2008. Nói thế khác, thái độ của dân chúng không thay đổi một cách đầy kịch tính như các câu trả lời trong các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy.
Những biến đổi trong vốn xã hội (social capital) đã nghiêm trọng đến mức nào nếu xét đến hiệu năng của những định chế Hoa Kỳ? Nhà nghiên cứu chính trị Robert Putnam nhận xét rằng những sợi dây ràng buộc với cộng đồng (community bonds) không luôn luôn suy yếu trong thế kỷ vừa qua. Trái lại, nếu nghiên cứu kỹ chúng ta sẽ thấy rằng lịch sử Hoa Kỳ là một lịch sử có những thăng trầm trong nỗ lực tham gia cộng đồng của người dân. Theo Pew Partnership for Civic Change, một nhóm nghiên cứu và tư vấn các tổ chức cộng đồng, ba phần tư dân Mỹ cảm thấy có liên hệ với cộng đồng của mình và cho rằng phẩm chất cuộc sống ở đó là tuyệt vời hay tốt đẹp (excellent or good). Một cuộc thăm dò khác của nhóm này cho biết rằng có đến 111 triệu người Mỹ đã tự nguyện đóng góp thì giờ để giúp giải quyết các vấn đề cộng đồng trong 12 tháng vừa qua và có đến 60 triệu người làm việc tình nguyện một cách thường xuyên. Bốn mươi phần trăm cho biết sinh hoạt cùng với người khác trong cộng đồng là việc quan trọng nhất mà họ có thể tham gia.
Trong những năm gần đây, chính trị và các định chế chính trị Hoa Kỳ đã trở nên phân cực hơn là dư luận thực sự của nhiều giới cho biết. Tình trạng này đã trở nên tồi tệ hơn do cuộc suy thoái kinh tế gần đây. Tờ The Economist nhận xét: “Hệ thống chính trị Hoa Kỳ được thiết kế để việc làm luật ở cấp liên bang trở nên khó khăn, chứ không dễ dàng… Như vậy trên cơ bản hệ thống này vẫn hoạt động; nhưng đấy không phải là lý do để bỏ qua các lãnh vực mà hệ thống này có thể được cải tổ”. Một số cải tổ quan trọng – như cần chia lại các đơn vị bầu cử để tránh các ghế chắc nịch (safe seats) trong Hạ viện hoặc thay đổi nội qui liên quan đến việc nói dông dài (filibusters) để giết chết các dự luật trong Thượng viện – sẽ không cần đến việc tu chính hiến pháp. Chúng ta phải chờ xem là liệu hệ thống chính trị Hoa Kỳ có thể tự cải tổ chính mình và đối phó với những vấn đề mô tả ở trên hay không, nhưng hệ thống chính trị này không hề đổ vỡ như một số nhà phê bình ám chỉ bằng cách so sánh với sự tan rã nội bộ của đế quốc La Mã hay các đế quốc khác.
Tranh luận về sự suy tàn
Bất cứ một đánh giá thực sự nào về quyền lực Mỹ trong những thập niên tới vẫn không có gì chắc chắn, nhưng dùng những ẩn dụ sai lầm về sự suy tàn để phân tích tình hình thì cũng chẳng có ích lợi gì. Những người tiên đoán sự suy tàn của Hoa Kỳ (declinists) cần phải được sửa sai bằng cách nhắc họ nhớ lại những đánh giá quá cường điệu từ phía Mỹ về sức mạnh quân sự của Liên Xô trong thập niên 1970 và về sức mạnh kinh tế của Nhật Bản trong thập niên 1980. Cũng sai lầm không kém là những vị tiên tri nói về một thế giới đơn cực (unipolarity) cách đây một thập niên, khi họ cho rằng Hoa Kỳ hùng mạnh đến nỗi muốn làm gì thì làm và các nước khác không còn lựa chọn nào khác hơn là phải chịu sự lãnh đạo của siêu cường này. Ngày nay, một số người lại tiên đoán chắc nịch rằng thế kỷ 21 sẽ chứng kiến Trung Quốc thay thế Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo thế giới, trong khi đó một số nhà phân tích khác lại tranh luận không kém phần tự tin rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của người Mỹ. Tuy nhiên, trong thực tế, những biến cố không ai thấy trước được thường đảo lộn những tiên đoán như thế. Trước mắt chúng ta, luôn luôn có một dãy tương lai có thể xảy ra, chứ không phải chỉ một.
Còn về tương quan lực lượng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, rất nhiều điều sẽ tùy thuộc vào tình trạng bấp bênh của những thay đổi chính trị trong tương lai tại Trung Quốc. Trừ trường hợp có xáo trộn chính trị to lớn, mức độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ gia tăng quyền lực của nước này khi đối diện (vis-à-vis) với Hoa Kỳ. Việc này sẽ đưa Trung Quốc gần hơn với Hoa Kỳ về nguồn lực, nhưng không nhất thiết có nghĩa là Trung Quốc sẽ qua mặt Hoa Kỳ để trở thành quốc gia hùng mạnh nhất – cho dù Trung Quốc không trải qua những tổn thất chính trị nội bộ quan trọng nào. Những tiên đoán dựa vào mức tăng trưởng GDP không thôi là phiến diện, một chiều. Chúng bỏ qua những lợi thế về quân sự và quyền lực mềm của Hoa Kỳ, cũng như những bất lợi địa chính trị của Trung Quốc trong cán cân lực lượng tại châu Á.
Trong dãy tương lai có thể xảy ra, những tương lai có khả năng hơn cả là những tương lai trong đó Trung Quốc sẽ cạnh tranh ngang ngữa với Hoa Kỳ nhưng không thể qua mặt Hoa Kỳ về quyền lực nói chung trong nửa phần đầu của thế kỷ này. Nhìn lại lịch sử, nhà nghiên cứu chiến lược Anh Lawrence Freedman đã nhận xét rằng Hoa Kỳ có “hai đặc điểm khác hẳn với những cường quốc thống trị thế giới trong quá khứ: Quyền lực Mỹ dựa vào liên minh chứ không dựa vào thuộc địa và quyền lực này gắn liền với một ý thức hệ mềm dẻo…Hai đặc tính này cùng nhau cung ứng một cốt lõi gồm có các tương quan và các giá trị mà Hoa Kỳ có thể trở về để cố thủ, ngay cả sau khi đã phân tán lực luợng quá mỏng”. Và nhìn về tương lai, học giả Anne-Marie Slaughter lý luận rằng văn hóa đầy tính cởi mở và óc sáng tạo của Hoa Kỳ sẽ đặt quốc gia này ở vị trí trung tâm trong một thế giới mà các mạng lưới quan hệ quốc tế bổ sung cho, nếu không hoàn toàn thay thế, quyền lực có đẳng cấp giữa nước lớn và nước bé (hierarchical power).
Hoa Kỳ ở vào tư thế thuận lợi để hưởng sự hợp tác của các mạng lưới quan hệ quốc tế và các liên minh, nếu cường quốc này chịu theo đuổi những chiến lược khôn khéo. Trong bối cảnh Nhật Bản đang lo ngại về sự trổi dậy của Trung Quốc, Nhật Bản muốn tìm hậu thuẫn của Hoa Kỳ để duy trì nền độc lập hơn là liên minh với Trung Quốc. Điều này tăng cường thế đứng của Hoa Kỳ. Trừ phi người Mỹ có hành động ngu xuẩn đối với Nhật Bản, một liên minh châu Á không phải là một trường hợp có thể xảy ra nhằm trục xuất Hoa Kỳ. Điều quan trọng là, cả hai thực thể có lợi tức đầu người và nền kinh tế tinh vi tương tự như Hoa Kỳ – Liên minh châu Âu và Nhật Bản – là đồng minh của Hoa Kỳ. Theo ý nghĩa thực tế truyền thống về tương quan lực lượng, sự liên minh này rất quan trọng cho địa vị thực sự của Hoa Kỳ. Và trên quan điểm quyền lực mọi bên đều có lợi (positive-sum view of power) – tức quan niệm nắm giữ quyền lực cùng với các nước khác, chứ không phải để khống chế họ – châu Âu và Nhật Bản sẽ cung ứng những nguồn tài nguyên to lớn nhất để đối phó với những vấn đề xuyên quốc gia thường xảy ra. Mặc dù lợi ích của những nước này không đồng nhất với lợi ích của Hoa Kỳ, nhưng họ cùng chia sẻ những mạng lưới xã hội và chính quyền trùng hợp với Hoa Kỳ, điều này cung ứng thêm cơ hội cho sự hợp tác.
Về vấn đề suy yếu tuyệt đối, chứ không phải tương đối, Hoa Kỳ đang đối diện những vấn đề nghiêm trọng như nợ nần, giáo dục bậc trung học, và bế tắc chính trị. Nhưng chúng chỉ là một phần của bức tranh toàn cảnh. Trong dãy tương lai có thể xảy ra, những tranh cãi hùng hồn vẫn nghiêng về các tương lai lạc quan hơn nghiêng về các tương lai bi quan. Nhưng trong số những tương lai bi quan này, điều có khả năng xảy ra nhất là một tương lai trong đó Hoa Kỳ phản ứng quá đà trước những vụ tấn công khủng bố bằng cách chỉ hướng về nội bộ và do đó tách mình ra khỏi ưu thế mà từ lâu Hoa Kỳ có được nhờ sự cởi mở đối với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, ngoại trừ những sai lầm chiến lược như thế, người dân Hoa Kỳ luôn luôn có giải pháp cho các vấn đề quan trọng của đất nước hôm nay. (Ví dụ, vấn đề nợ dài hạn có thể giải quyết bằng cách đưa lên kế hoạch, sau khi kinh tế đã phục hồi, các chương trình cắt giảm chi tiêu và thu thuế tiêu thụ để chi trả cho các quyền lợi của người dân). Dĩ nhiên, các giải pháp như thế cũng có thể mãi mãi nằm ngoài tầm vói. Nhưng điều quan trọng là, phải biết phân biệt những tình trạng vô vọng không tìm ra giải pháp với những tình trạng mà trên nguyên tắc có thể tìm ra giải pháp. Dẫu sao, những cải tổ do sự hợp tác lưỡng đảng trong thời Tiến bộ (the Progressive era) cách đây một thế kỷ đã đổi mới một quốc gia có vấn đề nghiêm trọng.
Một quan niệm mới
Đã đến lúc cần phải có một quan niệm mới về tương lai quyền lực của Hoa Kỳ. Mô tả sự chuyển dịch quyền lực trong thế kỷ 21 như một trường hợp cổ điển về sự suy yếu của một bá quyền là thiếu chính xác, và việc này có thể dẫn đến những ngụ ý nguy hiểm trong chính sách nếu nó khuyến khích Trung Quốc lao vào những chính sách phiêu lưu hay thúc đẩy Hoa Kỳ phản ứng quá đà vì sợ hãi. Hoa Kỳ không nằm trong tình trạng suy yếu tuyệt đối, nhưng trong ý nghĩa tương đối, vẫn có sát xuất hợp lý là Hoa Kỳ sẽ còn mạnh hơn bất cứ một quốc gia nào trong nhiều thập niên sắp tới.
Đồng thời, quốc gia này chắc chắn sẽ đối diện một sự gia tăng nguồn lực của nhiều thực thể khác – gồm cả các quốc gia lẫn các tác nhân phi nhà nước. Vì tiến trình toàn cầu hóa sẽ phổ biến các khả năng công nghệ và công nghệ thông tin sẽ cho phép một số người đông đảo hơn liên lạc với nhau, văn hóa Hoa Kỳ và kinh tế Hoa Kỳ không còn khống chế toàn cầu như vào lúc bắt đầu thế kỷ này. Tuy nhiên không có chuyện Hoa Kỳ sẽ mục nát như La Mã ngày xưa, hay thậm chí bị một nước khác qua mặt, kể cả Trung Quốc.
Như vậy, vấn đề quyền lực Mỹ trong thế kỷ 21 không phải là một vấn đề về sự suy yếu, nhưng là Hoa Kỳ cần phải làm gì khi nhận thức được rằng thậm chí một quốc gia hùng mạnh nhất cũng không dễ gì đạt được các thành quả mong muốn nếu không có sự giúp đỡ của các quốc gia khác. Những thách thức ngày một gia tăng sẽ đòi hỏi Hoa Kỳ cần phải sử dụng quyền lực cùng với các quốc gia khác cũng như đối với các quốc gia khác. Điều này, do đó, sẽ đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc hơn về quyền lực, quyền lực biến đổi như thế nào, và làm thế nào xây dựng các chiến lược “quyền lực thông minh” (smart power) nhằm kết hợp các nguồn lực cứng và mềm trong thời đại thông tin. Khả năng của Hoa Kỳ trong việc duy trì liên minh và kiến tạo các mạng lưới quan hệ quốc tế sẽ là một chiều hướng quan trọng của quyền lực cứng và quyền lực mềm.
Quyền lực tự nó không tốt mà cũng không xâu. Nó như ca-lô-ri trong chế độ dinh dưỡng: nhiều hơn chưa chắc là tốt hơn. Nếu một quốc gia có quá ít nguồn lực, nó không có cơ may đạt được những thành quả mong muốn. Nhưng nắm quá nhiều quyền lực (bằng cách nắm giữ các nguồn lực) lắm lúc lại chỉ giống như chịu một sự trù yểm (a curse) nếu quyền lực đó dẫn đến một sự tự tin quá đáng đến độ vạch ra những chiến lược không thích hợp. Cậu bé Đa-vít giết được tên khổng lồ Gô-li-a bởi vì sức mạnh phi thường của Gô-li-a đã khiến hắn theo đuổi một chiến lược thấp kém, điều này tiếp đó đã đưa hắn đến thất bại và cái chết. Một quan niệm quyền lực thông minh cho thế kỷ 21 không có mục đích gia tăng quyền lực đến mức tối đa hay duy trì bá quyền. Quan niệm này có mục đích tìm kiếm những đường lối kết hợp nguồn lực trong những chiến lược có thể thành công trong bối cảnh của sự phân tán quyền lực và “sự vươn dậy của phần thế giới còn lại”.
Là cường quốc mạnh nhất thế giới, Hoa Kỳ vẫn còn giữ vai trò quan trọng trong các vấn đề toàn cầu, nhưng quan niệm phát xuất từ thế kỷ 20 về một thế kỷ Mỹ hay bá quyền Mỹ – cũng như những quan niệm về sự suy yếu của Mỹ – là sai lầm khi quan niệm đó được sử dụng như như một cẩm nang để tìm kiếm loại chiến lược cần thiết trong thế kỷ 21. Những thập niên sắp tới chắc chưa chứng kiến một thế giới hậu-Hoa Kỳ, nhưng Hoa Kỳ sẽ cần một chiến lược thông minh để kết hợp nguồn lực cứng và nguồn lực mềm thích ứng được với bối cảnh mới của một thời đại thông tin.
J. S. N.
Túy Vân phỏng dịch từ Foreign Affairs, số tháng 11 và tháng 12 năm 2010.
Người dịch gửi trực tiếp cho BVN

Tổng số lượt xem trang