- Một trong những đối tượng hưởng lợi nhiều nhất từ việc kinh tế Trung Quốc tăng trưởng ấn tượng không phải Trung Quốc mà chính là Việt Nam.
Chưa đầy 1 thập kỷ trước đây, nhiều chuyên gia kinh tế và giám đốc điều hành tin rằng sự đi lên của kinh tế Trung Quốc sẽ tạo ra cơ hội cho Việt Nam. Nhờ chương trình cải tổ kinh tế, dân số tăng trưởng nhanh lên đên 87 triệu người, lao động chi phí thấp, thỏa thuận tự do thương mại, Việt Nam đã trở thành một phần trong chuỗi cung toàn cầu vốn đã mang lại tăng trưởng quan trọng cho lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc.
Ông Jonathan Anderson, chuyên gia kinh tế tại UBS Hồng Kông, nhận xét: “Nếu không có Trung Quốc, mọi chuyện có thể khác.” Việt Nam chính thức mở cửa đón nhà đầu tư nước ngoài vào năm 1986 thế nhưng phải đến năm 1994 khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận thương mại và vào năm 2000 bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Thỏa thuận thương mại đạt được với Mỹ mang đến cơ hội tốt cho các công ty sản xuất hàng may mặc. Các công ty sản xuất hàng may mặc của Hàn Quốc, Đài Loan đổ xô đến Việt Nam để mở nhà máy mới.
Các ngành khác cũng tăng trưởng theo ngành dệt may, từ ngành sản xuất thiết bị gia dụng cho đến xe máy và cuối cùng đến ngành trước đây vốn chịu sự thống trị của Trung Quốc – ngành sản xuất hàng nội thất.
Ông Frederick Burke, luật sư tại công ty Baker & McKenzie ở thành phố Hồ Chí Minh chuyên tư vấn cho chính phủ Việt Nam đã hơn 10 năm nay, dự báo: “Cuối cùng toàn bộ ngành sẽ dần chuyển sang Việt Nam.”
Năm 2002 khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiều người lo sợ những ngày tốt đẹp khi Việt Nam và nhiều nước tại châu Á đóng vai trò điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư nước ngoài đã qua.
Nhiều chuyên gia thậm chí còn cảnh báo nhóm nước này sẽ phải từ bỏ mô hình phát triển theo định hướng xuất khẩu và thay vào đó tập trung vào việc phục vụ cho nhu cầu hàng hóa nguyên liệu thô của Trung Quốc.
Năm 2002, Trung Quốc ký thỏa thuận tự do thương mại với Việt Nam và 9 thành viên khác thuộc ASEAN. Thỏa thuận khiến nỗi lo trên càng lớn hơn.
Theo thỏa thuận, tới năm 2015, nhóm nước nghèo như Việt Nam mới cần mở cửa với hàng hóa Trung Quốc, Trung Quốc đã ngừng áp thuế đối với sản phẩm nông nghiệp vào năm 2003.
Thỏa thuận trên có lơi cho Việt Nam, nước xuất khẩu gạo, hạt tiêu, cà phê hàng đầu thế giới và hiện đang là nước xuất khẩu ròng dầu.
Thế nhưng nhóm nước khác như Singapore, Malaysia và Thái Lan chật vật cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị với những sản phẩm công nghệ cao hơn giúp họ duy trì trong cuộc chạy đua với Trung Quốc.
Và sau đó Trung Quốc gặp khó khăn. Vấn đề công nghệ và sự thiếu hụt nhân lực lành nghề đã khiến nhiều nhà đầu tư tìm đến các nước khác thuộc Đông Nam Á.Tệ hại hơn, mức lương lao động tại Trung Quốc tăng rất nhanh.
Ông Anderson chỉ ra: “Thập niên 1990 và 2000, nhà đầu tư có thể tuyển bao nhiêu lao động nếu cần tại Trung Quốc. Hiện nay người ta nói nhiều đến chi phí lao động tăng cao.”
Việt Nam trong khi đó chờ đợi với lực lượng lao động được đào tạo tốt, chi phí rẻ hơn.
Tính toán của Ngân hàng Thế giới cho thấy mức lương tối thiểu tại 2 thành phố lớn nhất của Việt Nam hiện khoảng 75USD/tháng, khoảng một nửa mức lương lao động tại tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc.
Năm 2010, Intel đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất chất bán dẫn 1 tỷ USD tại thành phố Hồ Chí Minh để thay thế cho nhà máy tại Malaysia, Philippin và Trung Quốc. Canon cũng có nhà máy sản xuất máy in với 18 nghìn lao động gần Hà Nội, đây là nhà máy lớn nhất của Canon.
Việt Nam hiện đã có vị trí vững chắc trong chuỗi cung cấp của Trung Quốc. Nhiều linh kiện của Canon đến từ Trung Quốc, sự thật cho thấy mặt trái trong nỗ lực tiếp bước phát triển sản xuất Trung Quốc của Việt Nam.
Nhập khẩu máy móc và thiết bị từ Trung Quốc góp phần không nhỏ khiến Việt Nam chịu thâm hụt 11,5 tỷ USD với Trung Quốc trong quá trình cố gắng cải thiện sản xuất và cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, khi Trung Quốc tiến nhanh hơn đến các ngành theo định hướng sạch và chú trọng vào người tiêu dùng, câu hỏi tiếp theo người ta đặt ra chính là liệu Việt Nam đã đù điều kiện tiếp bước Trung Quốc.
Việt Nam còn nhiều hạn chế nếu muốn nắm bắt cơ hội trên bởi nhiều yếu tố hạn chế: cơ sở hạ tầng, ngành vận tải kém, lực lượng lao động dù dồi dào nhưng kỹ năng còn thiếu.
Trong khảo sát của Ngân hàng Thế giới đối với điều kiện kinh doanh, Việt Nam vẫn đứng sau Trung Quốc.Kết quả khảo sát cho thấy Việt Nam ở trên Trung Quốc trong tiêu chí khởi nghiệp và tuyển dụng lao động thế nhưng thấp hơn trong tiêu chí bảo vệ nhà đầu tư và thực thi hợp đồng.
Dù vậy, Việt Nam vẫn giành được lợi thế trong vai trò thay thế Trung Quốc của nhà đầu tư nước ngoài.
Từ năm 2005 đến năm 2008, FDI vào Việt Nam tăng gần 4 lần lên 9,58 tỷ USD. Đến năm 2009 khi khủng hoảng xảy ra, FDI giảm xuống 7,6 tỷ USD. FDI vào Trung Quốc trong thời kỳ trên giảm một nửa.
(Theo NYtimes)-As China Rises, So Does Vietnam (NYT 21-12-10) ◄
TIN LIÊN QUAN |
---|
Chưa đầy 1 thập kỷ trước đây, nhiều chuyên gia kinh tế và giám đốc điều hành tin rằng sự đi lên của kinh tế Trung Quốc sẽ tạo ra cơ hội cho Việt Nam. Nhờ chương trình cải tổ kinh tế, dân số tăng trưởng nhanh lên đên 87 triệu người, lao động chi phí thấp, thỏa thuận tự do thương mại, Việt Nam đã trở thành một phần trong chuỗi cung toàn cầu vốn đã mang lại tăng trưởng quan trọng cho lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc.
Ông Jonathan Anderson, chuyên gia kinh tế tại UBS Hồng Kông, nhận xét: “Nếu không có Trung Quốc, mọi chuyện có thể khác.” Việt Nam chính thức mở cửa đón nhà đầu tư nước ngoài vào năm 1986 thế nhưng phải đến năm 1994 khi Mỹ dỡ bỏ cấm vận thương mại và vào năm 2000 bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Thỏa thuận thương mại đạt được với Mỹ mang đến cơ hội tốt cho các công ty sản xuất hàng may mặc. Các công ty sản xuất hàng may mặc của Hàn Quốc, Đài Loan đổ xô đến Việt Nam để mở nhà máy mới.
Ảnh minh họa (IE) |
Ông Frederick Burke, luật sư tại công ty Baker & McKenzie ở thành phố Hồ Chí Minh chuyên tư vấn cho chính phủ Việt Nam đã hơn 10 năm nay, dự báo: “Cuối cùng toàn bộ ngành sẽ dần chuyển sang Việt Nam.”
Năm 2002 khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), nhiều người lo sợ những ngày tốt đẹp khi Việt Nam và nhiều nước tại châu Á đóng vai trò điểm đến hấp dẫn của dòng vốn đầu tư nước ngoài đã qua.
Nhiều chuyên gia thậm chí còn cảnh báo nhóm nước này sẽ phải từ bỏ mô hình phát triển theo định hướng xuất khẩu và thay vào đó tập trung vào việc phục vụ cho nhu cầu hàng hóa nguyên liệu thô của Trung Quốc.
Năm 2002, Trung Quốc ký thỏa thuận tự do thương mại với Việt Nam và 9 thành viên khác thuộc ASEAN. Thỏa thuận khiến nỗi lo trên càng lớn hơn.
Theo thỏa thuận, tới năm 2015, nhóm nước nghèo như Việt Nam mới cần mở cửa với hàng hóa Trung Quốc, Trung Quốc đã ngừng áp thuế đối với sản phẩm nông nghiệp vào năm 2003.
Thỏa thuận trên có lơi cho Việt Nam, nước xuất khẩu gạo, hạt tiêu, cà phê hàng đầu thế giới và hiện đang là nước xuất khẩu ròng dầu.
Thế nhưng nhóm nước khác như Singapore, Malaysia và Thái Lan chật vật cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị với những sản phẩm công nghệ cao hơn giúp họ duy trì trong cuộc chạy đua với Trung Quốc.
Và sau đó Trung Quốc gặp khó khăn. Vấn đề công nghệ và sự thiếu hụt nhân lực lành nghề đã khiến nhiều nhà đầu tư tìm đến các nước khác thuộc Đông Nam Á.Tệ hại hơn, mức lương lao động tại Trung Quốc tăng rất nhanh.
Ông Anderson chỉ ra: “Thập niên 1990 và 2000, nhà đầu tư có thể tuyển bao nhiêu lao động nếu cần tại Trung Quốc. Hiện nay người ta nói nhiều đến chi phí lao động tăng cao.”
Việt Nam trong khi đó chờ đợi với lực lượng lao động được đào tạo tốt, chi phí rẻ hơn.
Tính toán của Ngân hàng Thế giới cho thấy mức lương tối thiểu tại 2 thành phố lớn nhất của Việt Nam hiện khoảng 75USD/tháng, khoảng một nửa mức lương lao động tại tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc.
Năm 2010, Intel đưa vào hoạt động nhà máy sản xuất chất bán dẫn 1 tỷ USD tại thành phố Hồ Chí Minh để thay thế cho nhà máy tại Malaysia, Philippin và Trung Quốc. Canon cũng có nhà máy sản xuất máy in với 18 nghìn lao động gần Hà Nội, đây là nhà máy lớn nhất của Canon.
Việt Nam hiện đã có vị trí vững chắc trong chuỗi cung cấp của Trung Quốc. Nhiều linh kiện của Canon đến từ Trung Quốc, sự thật cho thấy mặt trái trong nỗ lực tiếp bước phát triển sản xuất Trung Quốc của Việt Nam.
Nhập khẩu máy móc và thiết bị từ Trung Quốc góp phần không nhỏ khiến Việt Nam chịu thâm hụt 11,5 tỷ USD với Trung Quốc trong quá trình cố gắng cải thiện sản xuất và cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, khi Trung Quốc tiến nhanh hơn đến các ngành theo định hướng sạch và chú trọng vào người tiêu dùng, câu hỏi tiếp theo người ta đặt ra chính là liệu Việt Nam đã đù điều kiện tiếp bước Trung Quốc.
Việt Nam còn nhiều hạn chế nếu muốn nắm bắt cơ hội trên bởi nhiều yếu tố hạn chế: cơ sở hạ tầng, ngành vận tải kém, lực lượng lao động dù dồi dào nhưng kỹ năng còn thiếu.
Trong khảo sát của Ngân hàng Thế giới đối với điều kiện kinh doanh, Việt Nam vẫn đứng sau Trung Quốc.Kết quả khảo sát cho thấy Việt Nam ở trên Trung Quốc trong tiêu chí khởi nghiệp và tuyển dụng lao động thế nhưng thấp hơn trong tiêu chí bảo vệ nhà đầu tư và thực thi hợp đồng.
Dù vậy, Việt Nam vẫn giành được lợi thế trong vai trò thay thế Trung Quốc của nhà đầu tư nước ngoài.
Từ năm 2005 đến năm 2008, FDI vào Việt Nam tăng gần 4 lần lên 9,58 tỷ USD. Đến năm 2009 khi khủng hoảng xảy ra, FDI giảm xuống 7,6 tỷ USD. FDI vào Trung Quốc trong thời kỳ trên giảm một nửa.
(Theo NYtimes)-As China Rises, So Does Vietnam (NYT 21-12-10) ◄
Trong những cái nhất đó, có nhiều cái khá bất ngờ như quý thính giả có thể nghe qua phần thực hiện của Việt Long sau đây.
Mô hình mẫu mực?
Việt Long: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Như đã hẹn trong chương trình tuần trước, kỳ này chúng tôi xin đề cập tới một số thành tựu của nền kinh tế Trung Quốc mà Việt Nam có thể coi là một mô hình mẫu mực. Thí dụ như có tốc độ tăng trưởng cao nhất, lượng xuất khẩu nhiều nhất hay một khối dự trữ dồi dào nhất. Ông nghĩ sao về những cái "nhất" này?Nếu tính bằng tỷ giá sức mua PPP thì kinh tế TQ đã vượt Nhật từ cả chục năm trước vì một đô la tại TQ mua được nhiều hàng hóa hơn cùng một đồng bạc đó ở tại Nhật.Nguyễn Xuân Nghĩa: Chúng ta sẽ lần lượt nói đến những cái nhất của Trung Quốc nhưng khi bàn về chuyện nhất nhì thì đã có hàm ý so sánh nên trước đó mình cần xác định lại nội dung để có một nền tảng so sánh hay đối chiếu trung thực hơn.
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
Trước hết, xin nói về tổng trị giá sản xuất phụ trội của một nền kinh tế trong một năm, gọi là Tổng sản lượng Nội địa và viết tắt là GDP. Không trở lại hồ sơ thống kê mà ta đề cập kỳ trước để nhắc tới sự thiếu khả tín của thống kê Trung Quốc, người ta có thể tính ra GDP bằng bạc mặt, là mệnh giá, hoặc bằng sức mua của đồng bạc theo phương pháp tỷ giá mãi lực gọi là PPP.
Nói về mệnh giá thì kinh tế Trung Quốc vượt qua kinh tế Nhật Bản từ tháng Tám vừa rồi để là nền kinh tế thứ nhì thế giới sau Hoa Kỳ. Thật ra, nếu tính bằng tỷ giá sức mua PPP thì kinh tế Trung Quốc đã vượt Nhật từ cả chục năm trước vì một đô la tại Trung Quốc mua được nhiều hàng hóa hơn cùng một đồng bạc đó ở tại Nhật. Dù sao, khi so sánh thì ta cũng không quên dân số Trung Quốc là một tỷ 330 triệu người, hơn gấp 10 nước Nhật chỉ có 127 triệu, nôm na là một người Nhật sản xuất gấp 10 người Tàu.
Việt Long: Tức là nếu tính bình quân sản lượng một đầu người thì Trung Quốc còn thua xa Nhật hay nền kinh tế đứng hàng thứ tư sau Mỹ, Tàu, Nhật là của Đức, chỉ có dân số là 82 triệu người?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa đúng vậy, nếu tính ra sản lượng một đầu người thì Trung Quốc chỉ đứng hàng thứ 93, tính theo lợi tức bình quân thì còn là một xứ nghèo. Nếu tính đến năng suất, như bình quân một người trong một giờ sản xuất được bao nhiêu thì Trung Quốc lọt sổ. Tính theo cách này thì năng suất một người dân Trung Quốc chỉ bằng 3% của dân Mỹ, cầy một tháng mới bằng dân Mỹ làm một ngày.
Mức độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc do Ngân Hàng Thế Giới đánh giá. AFP PHOTO.
Một thí dụ khác về phẩm chất là tính công bằng của đà tăng trưởng. Do địa dư hình thể lẫn chính sách phát triển, kinh tế Trung Quốc thuộc vào loại bất công nhất Đông Á với dị biệt về lợi tức giữa các thành phần dân cư hay địa phương chẳng những đã quá cao mà ngày càng đào sâu. Xin nói thêm là khác biệt về địa phương tại Trung Quốc còn cao hơn các tiểu bang Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, giữa các nước giàu nhất và nghèo nhất trong 27 quốc gia của Liên hiệp Âu châu. Và đấy là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng về chính trị vì Trung Quốc là xứ thống nhất mà có ba nền kinh tế khác nhau và dù có chế độ chính trị độc đảng thì các đảng viên lại không nhìn cùng một hướng và có những mục tiêu khác biệt nên đà tăng trưởng này sẽ không bền vững. Chúng ta sẽ còn trở lại hiện tượng tôi gọi là "nhất quốc tam kinh" đó.
Tăng trưởng cao
Việt Long: Dù sao, Trung Quốc cũng có đà tăng trưởng hiện được coi là cao nhất thế giới chứ?Trung Quốc có 2.600 tỷ Mỹ kim dự trữ, sao không đầu tư tài sản đó để phát triển xứ sở lạc hậu? Vì không có lợi bằng, là một chuyện rất đáng nói.Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa đúng như vậy nếu ta quên mất Nhật Bản, Đài Loan hay Nam Hàn đã có đà tăng trưởng rồng cọp như vậy từ nửa thế kỷ trước, lại có công bằng xã hội nhiều hơn.
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
Nói về đà tăng trưởng mạnh yếu thì ta cũng nên nhớ tới điểm khởi phát, là nền tảng ban đầu khi kinh tế cất cánh vào hình thái công nghiệp. Vào giai đoạn khởi phát đó thì các nền kinh tế chuyển hướng đều có thể đạt tốc độ rất cao, là điều chúng ta sẽ thấy tại Ấn Độ, với nền kinh tế sẽ có tốc độ nay mai vượt qua Trung Quốc. Nói cho đơn giản mà dễ hiểu, có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới hiện nay chính là kinh tế... Afghanistan đang bị chiến tranh, còn cao hơn Ethiopia hay Azerbaijian, rồi mới tới Trung Quốc!
Chuyện thứ hai là một khía cạnh chúng ta đã trình bày nhiều lần từ năm ngoái mà tôi xin nhắc lại, đó là nền kinh tế tôi gọi là "đi xe đạp" của Trung Quốc vì nếu lăn bánh chậm thì dễ đổ!
Cụ thể thì lãnh đạo xứ này đề ra chỉ tiêu chiến lược là phải tăng trưởng tối thiểu là 8% để còn tạo ra viêc làm. Thấp hơn nữa là sẽ bị nguy cơ động loạn. Kinh tế Trung Quốc đang có đà tăng trưởng là hơn 9% và còn bị nguy cơ lạm phát, mà nặng chừng nào thì có lẽ chính họ cũng không tính được vì kỹ thuật thống kê khá lệch lạc của xứ này. Bây giờ vì nguy cơ lạm phát đó, Bắc Kinh phải hạn chế bớt khối tín dụng bơm vào kinh tế, qua việc tăng lãi suất hay mức dự trữ pháp định hoặc hạn ngạch cung cấp tín dụng. Nhưng, vì rủi ro xe mà lăn bánh chậm thì sẽ đổ nên lãnh đạo mới lúng túng. Tin tuần qua cho thấy xứ này lại không giảm chỉ tiêu tín dụng cho năm tới, vẫn ở mức bảy ngàn tỷ 500 triệu đồng Nguyên như năm nay. Năm tới là năm mà Trung Quốc chuẩn bị Đại hội đảng cho khóa 18 vào năm 2012, có thể vì vậy mà họ không dám đạp thắng và cứ tống ga cho xe chạy nhanh hơn. Điều ấy cho thấy tình trạng tranh luận gay go trong nội bộ và thế hệ lãnh đạo thứ năm, của những ông Tập Cận Bình, Lý Khắc Cường hay Bạc Hy Lai sẽ tiếp nhận một di sản kinh tế đầy bất trắc là khó hạ cánh an toàn, có khi cỗ xe bị lật hay bong bóng đầu tư sẽ bể, là điều nhiều trung tâm nghiên cứu về đầu tư đã dự báo ngay cho năm tới.
Việt Long: Nhưng dù sao thì kinh tế Trung Quốc vẫn đứng nhất về khả năng xuất khẩu với 1.200 tỷ đô la, nhờ đó, xứ này có khối dự trữ ngoại tệ lớn nhất là hơn 2.600 tỷ đô la để là chủ nợ lớn nhất của Mỹ với khoảng 900 tỷ đô la Công khố phiếu Hoa Kỳ. Ông có đồng ý như vậy không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi rất đồng ý về mấy cái nhất đó của Trung Quốc, nhưng trong chuyện này ta có ít ra ba vấn đề.
Đồng Nhân dân tệ và đồng đô la Mỹ. AFP PHOTO.
Vấn đề thứ hai là khối dự trữ ngoại tệ vĩ đại của xứ này. Con số ấy cho thấy khả năng bóc lột sức dân của lãnh đạo vì ngoại tệ thu vào thì nhà nước nắm để thao túng thế giới và cho dân hưởng rất ít vì ấn định tỷ giá hối đoái quá thấp và vì chính sách đông lạnh tiền tệ khi thu vào một lượng ngoại tệ rất lớn mà không bơm ra một đối giá tương xứng bằng nội tệ vì sợ bị lạm phát.
Một chủ nợ lớn?
Việt Long: Nhưng ông trả lời sao về việc Trung Quốc đang là một chủ nợ lớn nhất của Mỹ?Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi không dám nói là chính quyền hay ai đó tại Hoa Kỳ có ẩn ý khi cứ nêu ra sự kiện Trung Quốc là chủ nợ của Mỹ. Có thể để Bắc Kinh tưởng bở, như Nhật Bản đã từng là chủ nợ và chủ đầu tư mạnh nhất tại Hoa Kỳ hơn hai chục năm trước. Sau đó là tanh bành!
Tôi xin nêu ngược vấn đề vì làm kinh tế là phải thấu hiểu tâm lý mà cũng phải lạnh lùng nhìn vào thực tế. Trung Quốc có 2.600 tỷ Mỹ kim dự trữ, sao không đầu tư tài sản đó để phát triển xứ sở lạc hậu? Vì không có lợi bằng, là một chuyện rất đáng nói. Thứ nữa, nếu muốn tài sản đó khỏi mất giá thì phải đầu tư, mà đầu tư vào cái gì, nơi đâu thì có lợi và an toàn nhất? Suy đi tính lại thì chỉ có trị trường trái phiếu Mỹ là nơi an toàn vì có mức lưu hoạt cao nhờ dễ chuyển ra tiền mặt. Thị trường vay mượn tiền bạc của Mỹ chỉ thua Nhật mà an toàn hơn vì thật ra vay mượn ít hơn Nhật và có sản lượng kinh tế lớn hơn gấp đôi. Thực tế thì thị trường trái phiếu Mỹ lớn hơn tổng số của năm thị trường đứng sau Hoa Kỳ và có thể tiếp nhận cả trăm tỷ đô la vào ra mỗi ngày mỗi giờ mà không bị chấn động. Nếu không đổi dự trữ ra đô la để đầu tư vào Mỹ thì Bắc Kinh phải đổi qua đồng Euro, đồng Bảng Anh hay Phật lăng Thụy Sĩ, v.v... mà những đồng tiền đó lại không có khả năng giao hoán hay trao đổi phổ biền bằng đồng đô la.
Việt Long: Xin hỏi ngay một câu thưa ông, Trung Quốc cũng có thể giữ tài sản này dưới dạng quý kim như vàng chứ?
Trong kinh tế thì không thể có sự chủ quan hay ác cảm, thiên kiến. Cho nên ta cần tỉnh táo nhìn ra sự thật về Trung Quốc để khỏi bị bất ngờ khi xứ này có loạn.Nguyễn Xuân Nghĩa: Quả là Bắc Kinh có thể đổi ra vàng và thực ra thừa sức mua vào tổng số sản lượng vàng một năm của thế giới, là khoảng 80 triệu troy ounce. Nhưng một quyết định như vậy sẽ đánh sụp thị trường trái phiếu thế giới và thổi giá vàng lên trời, làm ngoại thương toàn cầu - trong đó có xuất khẩu của Trung Quốc - bị chấn động và thiệt hại!
Ô. Nguyễn Xuân Nghĩa
Sau cùng ta cũng nên nhường lời cho người trong cuộc. Đầu năm ngoái và giữa năm nay, giới chức có thẩm quyền về ngân hàng của Trung Quốc có phát biểu rằng "suy đi tính lại và dù có ghét Mỹ thì cũng chẳng có cái gì hơn Công phố phiếu Mỹ!" Bây giờ có muốn gây khốn cho Mỹ bằng cách bán tháo Công khố phiếu Hoa Kỳ thì Trung Quốc bị thiệt trước tiên vì tài sản mà họ tồn trữ dưới dạng Công khố phiếu Mỹ sẽ mất giá trước tiên. Ta nên nhớ tới một quy luật phũ phàng là "nếu tôi nợ ngân hàng một triệu đô la thì khoản nợ đó là nỗi lo của tôi, nhưng khi tôi nợ trăm triệu hay cả tỷ thì khoản nợ đó là vấn đề của ngân hàng chủ nợ!"
Tựu trung, nói cho nôm na thì Trung Quốc nhờ doanh nghiệp Mỹ cò mồi chỉ chiêu để xuất khẩu, được bao nhiêu tiền thì lại cho Mỹ vay để Mỹ tiếp tục mua hàng của mình hầu còn tạo ra công ăn việc làm và tránh động loạn xã hội. Như vậy, Trung Quốc cũng lệ thuộc vào kinh tế Mỹ, mà ít dám nói ra vì cái thuộc tính khoa trương nói phét của nền văn hoá Trung Hoa.
Việt Long: Quý thính giả đang theo dõi cuộc trao đổi lý thú của Diễn đàn Kinh tế với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa về những cái nhất của nền kinh tế Trung Quốc. Câu hỏi cuối thưa ông. Ông nêu ra nhiều mặt trái về những cái nhất của kinh tế Trung Quốc với sự hoài nghi rõ rệt. Khách quan mà nói, ông có thấy gì tương đối tích cực từ Trung Quốc không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Trong kinh tế thì không thể có sự chủ quan hay ác cảm, thiên kiến. Cho nên ta cần tỉnh táo nhìn ra sự thật về Trung Quốc để khỏi bị bất ngờ khi xứ này có loạn.
Về câu hỏi sau cùng; "Có gì tương đối tốt đẹp từ Trung Quốc?" thì tôi xin nói ngay: ưu thế của xứ này là đông dân. Trong 25 năm qua, sĩ số sinh viên Trung Quốc vào đại học đã tăng gấp đôi! Họ sẽ không thiếu nhân tài, có cả trăm triệu người như vậy. Và thành phần này lại được giáo dục để tôn sùng chủ nghĩa Đại Hán kết hợp với lý luận cộng sản về quyền lực tối cao nhà nước. Họ sẽ nhìn Việt Nam như một quận huyện và coi việc thôn tính Việt Nam là phải đạo và tất yếu!
Việt Long: Xin cảm tạ ông Nguyễn Xuân Nghĩa và xin hẹn quý vị vào kỳ tới trong loạt bài tổng kết kinh tế này.