Trong Đại hội được khai mạc vào ngày mai, 12/01/2011, tại Hà Nội, ngoài việc sắp xếp lại nhân sự, đảng Cộng sản Việt Nam còn phải đưa ra một đường lối kinh tế cho năm năm tới. Tuy nhiên, đằng sau con số tăng trưởng vẫn còn khá đẹp, mô hình kinh tế do đảng cầm quyền chủ trương đang bị khủng hoảng : Lạm phát cao, đồng tiền yếu, tập đoàn quốc doanh « mũi nhọn » Vinashin không đủ khả năng trả nợ quốc tế. Trước đây, được xem là một trong những « tiểu long » tại Đông Nam Á, Việt Nam bị rơi vào trường hợp ngoại lệ tại một châu lục mà ngoại tệ đầu tư tràn vào như nước, cộng với đồng tiền quốc gia vững mạnh.
Hãng AFP, trong bài phân tích gởi đi từ Hà Nội cho biết những thiếu sót trong chính sách kinh tế của Việt Nam đã đưa đến hậu quả ngày nay. Từ thập niên 1990, ám ảnh chạy theo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế không được đi kèm với những biện pháp củng cố hệ thống ngân hàng. Cơ quan thẩm định tài chính Standars and Poor’s vừa hạ điểm tín nhiệm của Việt Nam do có nguy cơ phá sản tài chính.
Ngành công nghiệp của Việt nam không tạo ra được lợi nhuận cao, bị giới đầu tư và tài trợ chỉ trích, mua vào thì nhiều mà bán ra thì ít.
Một nhà kinh tế ẩn danh đặt nghi vấn : Kinh tế có thể tiếp tục tăng trưởng nhưng ai sẽ trả món nợ nước ngoài ?
Sau 25 năm « đổi mới », đã đến lúc phải « đổi hướng » nhưng tiến hình này rất phức tạp.
Theo giáo sư kinh tế Martin Gainsborough, đại học Bristol, Anh Quốc thì khả năng của chính quyền Việt Nam trong việc đưa nền kinh tế và các tác nhân kinh tế vào kỷ cương còn rất giới hạn. Phần lớn sinh hoạt kinh tế tại nước này là không chính thức hoặc bán chính thức, cho phép các doanh nghiệp tránh né các biện pháp kiểm soát của nhà nước.
Trường hợp điển hình là từ nhiều tháng nay , dư luận liên tục lên án các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước rút tỉa kinh tế quốc gia bỏ vào túi riêng.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A thẩm định số tiền khổng lồ 12 tỷ đô la thâm thủng cán cân thương mại trong năm 2010 vừa kết thúc là « căn bệnh trầm kha » và bắt nguồn từ sự kém hiệu năng của các xí nghiệp nhà nước. Theo ông, các xí nghiệp nhà nước « làm cho kinh tế vĩ mô bị mất cân bằng một cách nghiêm trọng » qua hành vi rút tiền từ ngân sách nhà nước, bất chấp những nguyên tắc của một nền kinh tế tư bản. Các xí nghiệp quốc doanh tạo ra chừng 26% GDP nhưng lại sử dụng đến 40% nguồn tài chính qua vay nợ. Vụ tai tiếng Vinashin là một bằng chứng rõ rệt nhất cho thấy sự kém hiệu năng của lãnh vực quốc doanh.
Thế nhưng, theo giới phân tích, không thể trông chờ Đại hội 11 của đảng Cộng sản quyết định tư hữu hóa lãnh vực công đang thua lỗ để Việt Nam có thể phục hồi niềm tin trong giới tài chính quốc tế.
Trả lời RFI tiếng Pháp, chuyên gia Mathieu Salomon của tổ chức Towards Transparency nhận xét : « Điều chắc chắn là các loại doanh nghiệp nhà nước này đã biến thành một thế lực chính trị khó lay chuyển. Đây cũng là trường hợp điển hình của tình trạng mờ ám trong quan hệ giữa kinh tế, chính trị và ngân hàng ».
Tình trạng thiếu hụt tài chính của Việt Nam nghiêm trọng đến mức, theo chuyên gia Philippes Delalande, chính phủ sắp phải vay nợ hoặc của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF hoặc của Trung Quốc . « Kêu gọi sự giúp đỡ của IMF thì chẳng khác nào chính phủ thú nhận là tình trạng phá sản gần kề. Còn vay của Trung Quốc thì kín đáo hơn nhưng Bắc Kinh khi cho vay, bao giờ cũng đòi đền đáp bằng chính trị ».
Giới quan sát xem Vinashin là bằng chứng của lãnh vực quốc doanh mà chính phủ Việt nam thành lập đã thất bại. Trừ Vietnam Airlines và Petro Vietnam có vẻ khả quan, hầu hết các xí nghiệp khác đều thua lỗ.
Một nhà ngoại giao Á châu tại Hà Nội mỉa mai : Chính quyền Việt Nam muốn có những tập đoàn theo kiểu Samsung, Hyundai của Hàn Quốc.
Chuyên gia Carl Thayer bình luận thêm là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn « sử dụng các tập đoàn quốc doanh để phát triển Việt Nam nhưng Vinashin là một thất bại cay đắng ».
Theo AFP, giới phân tích cũng ghi nhận một dấu hiệu tích cực là chính phủ tuyên bố không trả nợ cho Vinashin. Tuy trong ngắn hạn, quyết định có làm cho các cơ quan thẩm định quan ngại nhưng nó nói lên được là ở Việt Nam, người ta bắt đầu chấp nhận trách nhiệm. Bây giờ đã đến lúc phải chấn chỉnh kinh tế vi mô lẫn vĩ mô để đưa đất nước đi lên.
Phát triển kinh tế được đảng Cộng sản Việt Nam xem là lý do chính đáng để độc quyền về chính trị. So sánh với những nước trong khu vực, Việt Nam đã quá tụt hậu. Có cùng mức phát triển của miền nam Việt Nam trong thập niên 60 mà Hàn Quốc ngày nay, dù dân số chỉ có 40 triệu người, đã có GDP lên đến 1.300 tỷ đô la cao gấp 13 lần Việt Nam thống nhất.
Đài Loan, với dân số 20 triệu, GDP của hải đảo luôn bị Trung Quốc đe dọa, cũng cao gấp hơn 4 lần Việt Nam theo thống kê 2010 (Đài Loan 427 tỷ đô la / Việt Nam 102 tỷ).
-Tranh cãi lý luận vẫn quan trọng với Việt Nam?
Trong tài liệu công bố mới đây mà người ta cho là của cựu tổng bí thư Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, ủy viên Bộ chính trị Nguyễn Đức Bình, phe kiên định cộng sản thẳng tay phê phán đề nghị cải tổ hệ thống của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An.
Ông Nguyễn Văn An, trong bài trả lời phỏng vấn báo Việt Nam hồi đầu tháng 12/2010, lỗi hệ thống ở Việt Nam nằm ở chỗ Đảng Cộng sản "chưa hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ đã vội chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Nay, các lá thư được nói là của các ông Lê Khả Phiêu và Nguyễn Đức Bình cho rằng bài viết của ông Nguyễn Văn An, người mà họ vẫn gọi là 'đồng chí', đã "đi ngược lại đường lối chính trị của Đảng".
Trong một diễn biến như để cảnh cáo những ai hy vọng có thay đổi về lý luận tại Đại hội này, ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị ngay hôm qua 10/1 đã chủ trì cuộc họp báo, nơi Đảng kiên quyết bác bỏ "nhu cầu đa nguyên" về chính trị tại Việt Nam.
Kinh tế và đối ngoại
Nhưng chính việc tranh cãi về lý luận vốn ngày càng cũ kỹ và xa lạ với sinh hoạt kinh tế quốc tế này đang có khả năng tác động mạnh đến cách Đảng chọn lãnh đạo.
Hai ông Phiêu và Bình được trích lời đề nghị TBT Nông Đức Mạnh và Ban lãnh đạo "đấu tranh bảo vệ đường lối của Đảng, luôn cảnh giác với nguy cơ đi chệch hướng cách mạng, đồng thời từ đường lối mà lựa chọn nhân sự Trung ương, nhất là nhân sự chủ chốt".
Họ cũng cáo buộc ông Nguyễn Văn An "đòi từ bỏ chủ nghĩa Mác".
Dù tại Việt Nam ngày nay, người dân chỉ "quan tâm kiếm tiền hàng ngày", như mô tả của Margie Mason (AP) trong bài về Đại hội Đảng XI từ Hà Nội, Đảng Cộng sản vẫn dùng lý luận về chủ nghĩa xã hội để uốn nắn đường lối kinh tế.
Tuy thế, hiện chưa rõ có phải vì lý do chủ nghĩa, hay vì tâm lý 'Ta-Địch' khiến người ta nghĩ 'doanh nghiệp của ta' thì phải giữ bằng mọi giá, và được ưu tiên hơn tư nhân hay tư bản nước ngoài.
Về đối ngoại, mô hình Leninist trong công an và quân đội có thể khiến các đồng minh tiềm năng tại Phương Tây phải đặt câu hỏi liệu ứng viên Việt Nam có hoàn toàn đánh tin cậy hay không, một khi xảy ra xung khắc quyền lợi giữa họ với đối thủ Trung Quốc.
Bởi ngày nay, Phương Tây ngày càng gần đến quan điểm rằng ủng hộ cho một hệ thống chính trị theo những giá trị khác với họ, ví dụ như ở Trung Đông hay Pakistan, là chiến lược chứa đựng nhiều rủi ro.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn nhân quyền và tôn giáo đến từ cái nhìn ý thức hệ hạn hẹp tại Việt Nam cũng sẽ tiếp tục thu hút phê phán không đáng phải có từ các giới ở Âu Mỹ.
'Sự cố Marchant' ở Huế gần đây có thể sẽ khiến tân Đại sứ David Shear phải xem lại đường lối 'thuyết phục, khuyến khích là trên hết' với Việt Nam có thẩm thấu tới các địa phương.
Trước khi sang Việt Nam, ông Shear dự kiến sẽ phải điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ khóa 112 vừa có thêm đông đảo các dân biểu Cộng Hòa theo phái cứng rắn, bảo thủ.
Nếu ban lãnh đạo mới tại Việt Nam không giúp được gì lại còn làm khó cho khối hành pháp Mỹ của Tổng thống Obama đang bị Quốc hội tấn công nhiều mặt, thì đường lối của Mỹ với Việt Nam sớm muộn cũng sẽ phải đổi.
Bỏ sang một bên các 'ân oán' từ thời chiến với Hoa Kỳ thì công bằng mà nói, Việt Nam được dư luận quốc tế khen ngợi thời gian qua không phải là vì ngày càng đi vào con đường xã hội chủ nghĩa, mà là các nỗ lực hội nhập với trào lưu chung.
Niềm tin và kỹ năng
Đại hội XI vì vậy sẽ phải chọn lựa hoặc là những người chuyên thuyết giảng về đường lối xã hội chủ nghĩa mông lung, hoặc các lãnh đạo có tài kinh bang tế thế, hay ít ra là những gương mặt có khả năng quản trị.
Không ai cấm các đảng viên cộng sản ở Việt Nam tin vào chủ nghĩa xã hội hay bất cứ điều gì khác vì niềm tin của con người là điều người ta tự hào.
Trang nhà của Bấm chính phủ Singapore có tiểu sử của các bộ trưởng với mục học thức (đa số tốt nghiệp các đại học Anh hoặc Mỹ), và phần tín ngưỡng ghi rằng một số vị theo Thiên Chúa giáo.
Dù vậy, niềm tin tôn giáo của riêng họ không phải là tiêu chí chọn công chức chuyên nghiệp cho Singapore.
Nhưng tại Việt Nam, việc áp đặt niềm tin của riêng ban lãnh đạo Đảng cho mọi công dân, từ học đường tới cơ chế tuyển chọn công chức vừa gây phí phạm thời gian, vừa tạo cơ hội tham nhũng trong thi cử về đạo đức chính trị.
'Con người xã hội chủ nghĩa' tại Việt Nam nay là hiện tượng mang tính phổ biến, hay chỉ là đặc thù của Việt Nam?
Còn về kỹ năng, sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam vẫn chưa có được những lãnh đạo cao cấp nhất giỏi ngoại ngữ để giao tiếp bình thường, làm bạn với các lãnh đạo quốc tế mà không cần phiên dịch.
Hà Nội từng có nhiều đồng minh một phần nhờ các mối giao hảo trực tiếp, thân tình giữa các lãnh tụ cộng sản như ông Hồ Chí Minh với các nhân vật nước ngoài, từ Trung Quốc, Liên Xô đến Ấn Độ.
Ngày nay, các lãnh đạo Việt Nam có vẻ như không có bạn thân quốc tế mà chỉ gặp quan chức nước ngoài ở những buổi giao tiếp chính thức, nơi họ cũng không bày tỏ được gì nhiều vì rào cản ngôn ngữ.
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ để thấy sự trái ngược giữa tiêu chuẩn bên trong hệ thống, thậm chí tụt lùi đi so với trước, và nhu cầu thực tế bên ngoài đòi hỏi ngày càng cấp bách.
Và nhiều khi, tiêu chuẩn chọn lãnh đạo cũng khá đơn giản: như London bầu ra thị trưởng Boris Johnson với khẩu hiệu tranh cử là giảm bớt lượng xe hơi vào thành phố gây ách tắc và ô nhiễm.
Ông Johnson đã làm được điều này bằng cách áp đặt một lệ phí cho xe hơi, đi kèm hệ thống cho mượn xe đạp công cộng, khiến xe hơn vào nội đô London giảm chừng 20%.
Chẳng cần các tiêu chí xa xôi, chỉ cần sau kỳ đại hội này, Hà Nội chọn được người lãnh đạo giảm được 15% nạn kẹt xe thì đã là một thành công.
Đại hội Đảng dù còn nhiều tính nghi lễ, cũng nên tránh bệnh lễ hội, đi dự cho vui, bầu cho có, và vượt qua hạn chế đặc thù để chọn lãnh đạo trong tinh thần ủng hộ người có tầm nhìn xa và kỹ năng cụ thể, tương xứng với vị thế một dân tộc đã gần 90 triệu dân.

Hãng AFP, trong bài phân tích gởi đi từ Hà Nội cho biết những thiếu sót trong chính sách kinh tế của Việt Nam đã đưa đến hậu quả ngày nay. Từ thập niên 1990, ám ảnh chạy theo tỷ lệ tăng trưởng kinh tế không được đi kèm với những biện pháp củng cố hệ thống ngân hàng. Cơ quan thẩm định tài chính Standars and Poor’s vừa hạ điểm tín nhiệm của Việt Nam do có nguy cơ phá sản tài chính.
Ngành công nghiệp của Việt nam không tạo ra được lợi nhuận cao, bị giới đầu tư và tài trợ chỉ trích, mua vào thì nhiều mà bán ra thì ít.
Một nhà kinh tế ẩn danh đặt nghi vấn : Kinh tế có thể tiếp tục tăng trưởng nhưng ai sẽ trả món nợ nước ngoài ?
Sau 25 năm « đổi mới », đã đến lúc phải « đổi hướng » nhưng tiến hình này rất phức tạp.
Theo giáo sư kinh tế Martin Gainsborough, đại học Bristol, Anh Quốc thì khả năng của chính quyền Việt Nam trong việc đưa nền kinh tế và các tác nhân kinh tế vào kỷ cương còn rất giới hạn. Phần lớn sinh hoạt kinh tế tại nước này là không chính thức hoặc bán chính thức, cho phép các doanh nghiệp tránh né các biện pháp kiểm soát của nhà nước.
Trường hợp điển hình là từ nhiều tháng nay , dư luận liên tục lên án các tập đoàn doanh nghiệp nhà nước rút tỉa kinh tế quốc gia bỏ vào túi riêng.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A thẩm định số tiền khổng lồ 12 tỷ đô la thâm thủng cán cân thương mại trong năm 2010 vừa kết thúc là « căn bệnh trầm kha » và bắt nguồn từ sự kém hiệu năng của các xí nghiệp nhà nước. Theo ông, các xí nghiệp nhà nước « làm cho kinh tế vĩ mô bị mất cân bằng một cách nghiêm trọng » qua hành vi rút tiền từ ngân sách nhà nước, bất chấp những nguyên tắc của một nền kinh tế tư bản. Các xí nghiệp quốc doanh tạo ra chừng 26% GDP nhưng lại sử dụng đến 40% nguồn tài chính qua vay nợ. Vụ tai tiếng Vinashin là một bằng chứng rõ rệt nhất cho thấy sự kém hiệu năng của lãnh vực quốc doanh.
Thế nhưng, theo giới phân tích, không thể trông chờ Đại hội 11 của đảng Cộng sản quyết định tư hữu hóa lãnh vực công đang thua lỗ để Việt Nam có thể phục hồi niềm tin trong giới tài chính quốc tế.
Trả lời RFI tiếng Pháp, chuyên gia Mathieu Salomon của tổ chức Towards Transparency nhận xét : « Điều chắc chắn là các loại doanh nghiệp nhà nước này đã biến thành một thế lực chính trị khó lay chuyển. Đây cũng là trường hợp điển hình của tình trạng mờ ám trong quan hệ giữa kinh tế, chính trị và ngân hàng ».
Tình trạng thiếu hụt tài chính của Việt Nam nghiêm trọng đến mức, theo chuyên gia Philippes Delalande, chính phủ sắp phải vay nợ hoặc của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF hoặc của Trung Quốc . « Kêu gọi sự giúp đỡ của IMF thì chẳng khác nào chính phủ thú nhận là tình trạng phá sản gần kề. Còn vay của Trung Quốc thì kín đáo hơn nhưng Bắc Kinh khi cho vay, bao giờ cũng đòi đền đáp bằng chính trị ».
Giới quan sát xem Vinashin là bằng chứng của lãnh vực quốc doanh mà chính phủ Việt nam thành lập đã thất bại. Trừ Vietnam Airlines và Petro Vietnam có vẻ khả quan, hầu hết các xí nghiệp khác đều thua lỗ.
Một nhà ngoại giao Á châu tại Hà Nội mỉa mai : Chính quyền Việt Nam muốn có những tập đoàn theo kiểu Samsung, Hyundai của Hàn Quốc.
Chuyên gia Carl Thayer bình luận thêm là thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng muốn « sử dụng các tập đoàn quốc doanh để phát triển Việt Nam nhưng Vinashin là một thất bại cay đắng ».
Theo AFP, giới phân tích cũng ghi nhận một dấu hiệu tích cực là chính phủ tuyên bố không trả nợ cho Vinashin. Tuy trong ngắn hạn, quyết định có làm cho các cơ quan thẩm định quan ngại nhưng nó nói lên được là ở Việt Nam, người ta bắt đầu chấp nhận trách nhiệm. Bây giờ đã đến lúc phải chấn chỉnh kinh tế vi mô lẫn vĩ mô để đưa đất nước đi lên.
Phát triển kinh tế được đảng Cộng sản Việt Nam xem là lý do chính đáng để độc quyền về chính trị. So sánh với những nước trong khu vực, Việt Nam đã quá tụt hậu. Có cùng mức phát triển của miền nam Việt Nam trong thập niên 60 mà Hàn Quốc ngày nay, dù dân số chỉ có 40 triệu người, đã có GDP lên đến 1.300 tỷ đô la cao gấp 13 lần Việt Nam thống nhất.
Đài Loan, với dân số 20 triệu, GDP của hải đảo luôn bị Trung Quốc đe dọa, cũng cao gấp hơn 4 lần Việt Nam theo thống kê 2010 (Đài Loan 427 tỷ đô la / Việt Nam 102 tỷ).
-Tranh cãi lý luận vẫn quan trọng với Việt Nam?
Trong lúc quốc tế chú ý xem khả năng chi trả tín dụng tại Việt Nam đến đâu, tranh cãi trong nước về đường lối xã hội chủ nghĩa vẫn gay gắt trước Đại hội Đảng có thể lại ảnh hưởng đến đối ngoại và tầm nhìn của các lãnh đạo Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn An, trong bài trả lời phỏng vấn báo Việt Nam hồi đầu tháng 12/2010, lỗi hệ thống ở Việt Nam nằm ở chỗ Đảng Cộng sản "chưa hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ đã vội chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa".
Nay, các lá thư được nói là của các ông Lê Khả Phiêu và Nguyễn Đức Bình cho rằng bài viết của ông Nguyễn Văn An, người mà họ vẫn gọi là 'đồng chí', đã "đi ngược lại đường lối chính trị của Đảng".
Trong một diễn biến như để cảnh cáo những ai hy vọng có thay đổi về lý luận tại Đại hội này, ông Tô Huy Rứa, Ủy viên Bộ Chính trị ngay hôm qua 10/1 đã chủ trì cuộc họp báo, nơi Đảng kiên quyết bác bỏ "nhu cầu đa nguyên" về chính trị tại Việt Nam.
Kinh tế và đối ngoại
Nhưng chính việc tranh cãi về lý luận vốn ngày càng cũ kỹ và xa lạ với sinh hoạt kinh tế quốc tế này đang có khả năng tác động mạnh đến cách Đảng chọn lãnh đạo.
Hai ông Phiêu và Bình được trích lời đề nghị TBT Nông Đức Mạnh và Ban lãnh đạo "đấu tranh bảo vệ đường lối của Đảng, luôn cảnh giác với nguy cơ đi chệch hướng cách mạng, đồng thời từ đường lối mà lựa chọn nhân sự Trung ương, nhất là nhân sự chủ chốt".
Thực chất, Đồng chí Nguyên Văn An muốn đi theo con đường đa nguyên, đa Đảng để thực hiện cái gọi là, sữa lỗi hệ thống!
Thư được cho là của một số cựu lãnh đạo Đảng
Dù tại Việt Nam ngày nay, người dân chỉ "quan tâm kiếm tiền hàng ngày", như mô tả của Margie Mason (AP) trong bài về Đại hội Đảng XI từ Hà Nội, Đảng Cộng sản vẫn dùng lý luận về chủ nghĩa xã hội để uốn nắn đường lối kinh tế.
Tuy thế, hiện chưa rõ có phải vì lý do chủ nghĩa, hay vì tâm lý 'Ta-Địch' khiến người ta nghĩ 'doanh nghiệp của ta' thì phải giữ bằng mọi giá, và được ưu tiên hơn tư nhân hay tư bản nước ngoài.
Về đối ngoại, mô hình Leninist trong công an và quân đội có thể khiến các đồng minh tiềm năng tại Phương Tây phải đặt câu hỏi liệu ứng viên Việt Nam có hoàn toàn đánh tin cậy hay không, một khi xảy ra xung khắc quyền lợi giữa họ với đối thủ Trung Quốc.
Bởi ngày nay, Phương Tây ngày càng gần đến quan điểm rằng ủng hộ cho một hệ thống chính trị theo những giá trị khác với họ, ví dụ như ở Trung Đông hay Pakistan, là chiến lược chứa đựng nhiều rủi ro.
Bên cạnh đó, mâu thuẫn nhân quyền và tôn giáo đến từ cái nhìn ý thức hệ hạn hẹp tại Việt Nam cũng sẽ tiếp tục thu hút phê phán không đáng phải có từ các giới ở Âu Mỹ.

Phần nghi lễ: các đại biểu dự Đại hội XI thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Trước khi sang Việt Nam, ông Shear dự kiến sẽ phải điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ khóa 112 vừa có thêm đông đảo các dân biểu Cộng Hòa theo phái cứng rắn, bảo thủ.
Nếu ban lãnh đạo mới tại Việt Nam không giúp được gì lại còn làm khó cho khối hành pháp Mỹ của Tổng thống Obama đang bị Quốc hội tấn công nhiều mặt, thì đường lối của Mỹ với Việt Nam sớm muộn cũng sẽ phải đổi.
Bỏ sang một bên các 'ân oán' từ thời chiến với Hoa Kỳ thì công bằng mà nói, Việt Nam được dư luận quốc tế khen ngợi thời gian qua không phải là vì ngày càng đi vào con đường xã hội chủ nghĩa, mà là các nỗ lực hội nhập với trào lưu chung.
Niềm tin và kỹ năng
Đại hội XI vì vậy sẽ phải chọn lựa hoặc là những người chuyên thuyết giảng về đường lối xã hội chủ nghĩa mông lung, hoặc các lãnh đạo có tài kinh bang tế thế, hay ít ra là những gương mặt có khả năng quản trị.
Không ai cấm các đảng viên cộng sản ở Việt Nam tin vào chủ nghĩa xã hội hay bất cứ điều gì khác vì niềm tin của con người là điều người ta tự hào.

Lãnh đạo Singapore không bắt ai theo tín ngưỡng riêng của các bộ trưởng
Dù vậy, niềm tin tôn giáo của riêng họ không phải là tiêu chí chọn công chức chuyên nghiệp cho Singapore.
Nhưng tại Việt Nam, việc áp đặt niềm tin của riêng ban lãnh đạo Đảng cho mọi công dân, từ học đường tới cơ chế tuyển chọn công chức vừa gây phí phạm thời gian, vừa tạo cơ hội tham nhũng trong thi cử về đạo đức chính trị.
'Con người xã hội chủ nghĩa' tại Việt Nam nay là hiện tượng mang tính phổ biến, hay chỉ là đặc thù của Việt Nam?
Còn về kỹ năng, sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam vẫn chưa có được những lãnh đạo cao cấp nhất giỏi ngoại ngữ để giao tiếp bình thường, làm bạn với các lãnh đạo quốc tế mà không cần phiên dịch.
Hà Nội từng có nhiều đồng minh một phần nhờ các mối giao hảo trực tiếp, thân tình giữa các lãnh tụ cộng sản như ông Hồ Chí Minh với các nhân vật nước ngoài, từ Trung Quốc, Liên Xô đến Ấn Độ.
Ngày nay, các lãnh đạo Việt Nam có vẻ như không có bạn thân quốc tế mà chỉ gặp quan chức nước ngoài ở những buổi giao tiếp chính thức, nơi họ cũng không bày tỏ được gì nhiều vì rào cản ngôn ngữ.
Đây chỉ là một ví dụ nhỏ để thấy sự trái ngược giữa tiêu chuẩn bên trong hệ thống, thậm chí tụt lùi đi so với trước, và nhu cầu thực tế bên ngoài đòi hỏi ngày càng cấp bách.
Và nhiều khi, tiêu chuẩn chọn lãnh đạo cũng khá đơn giản: như London bầu ra thị trưởng Boris Johnson với khẩu hiệu tranh cử là giảm bớt lượng xe hơi vào thành phố gây ách tắc và ô nhiễm.
Ông Johnson đã làm được điều này bằng cách áp đặt một lệ phí cho xe hơi, đi kèm hệ thống cho mượn xe đạp công cộng, khiến xe hơn vào nội đô London giảm chừng 20%.
Chẳng cần các tiêu chí xa xôi, chỉ cần sau kỳ đại hội này, Hà Nội chọn được người lãnh đạo giảm được 15% nạn kẹt xe thì đã là một thành công.
Đại hội Đảng dù còn nhiều tính nghi lễ, cũng nên tránh bệnh lễ hội, đi dự cho vui, bầu cho có, và vượt qua hạn chế đặc thù để chọn lãnh đạo trong tinh thần ủng hộ người có tầm nhìn xa và kỹ năng cụ thể, tương xứng với vị thế một dân tộc đã gần 90 triệu dân.

Xã hội Việt Nam trông đợi các quyết định chính trị có sức trẻ và hướng về tương lai
