“… Các tổng công ty nhà nước ở Việt Nam thì thoi thóp như người bị ung thư giai đoạn cuối, ở Trung Quốc thì chúng hung hăng như người bị tâm thần, còn ở Bắc Triều Tiên thì chúng trở nên độc đoán như những kẻ quản ngục…”
Con nhà ai và sẽ dựng được nghiệp gì?
Trần Thành Nam
LTS: Chuyên gia kinh tế Trần Thành Nam có loạt ba bài viết rất sắc bén lột tả bản chất của mô hình “Tập đoàn kinh tế nhà nước”. Để độc giả có thể theo dõi một cách mạch lạc ý của tác giả, Thông Luận đã kết hợp ba bài này thành một bài duy nhất để giới thiệu cùng bạn đọc.Thông Luận
Tập đoàn kinh tế nhà nước: Từ đâu ra và đi về đâu?
Hiện nay hầu như mọi tầng lớp xã hội đều quan tâm sâu sắc đến thực trạng và tương lai của mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước.
Con cái nhà ai?
Vậy mô hình kinh tế này của Việt Nam sinh ra từ đâu?
Dù là người ủng hộ hay phản đối mô hình này thì đại đa số các chuyên gia đều nhất trí cho rằng các tổng công ty chuyên ngành và đầu ngành, các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam (xuất thân từ 17 tổng công ty 91 và hơn 80 tổng công ty 90 cũ) đã được sinh ra trên cơ sở chính sách coi lực lượng kinh tế nhà nước là chủ đạo của nền kinh tế quốc gia trong cơ chế thị trường. Đa số cũng cho rằng đó là kết quả từ những cố gắng của chính phủ nhằm xây dựng lực lượng trên theo mô hình các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn và thành công như các keiretsu của Nhật hay các chaebol của Hàn quốc, với hy vọng để chúng có thể cạnh tranh với chính các hình mẫu đó trong nền kinh tế thị trường tương lai.
Bên ngoài tưởng đó là các keiretsu của Nhật hay các chaebol của Hàn Quốc, nhưng thực chất thì các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam là con đẻ của mô hình kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa cũ...
Khoan hãy nói đến chuyện chúng có cơ hội cạnh tranh được với “cha mẹ nuôi” hay không, mà hãy xem xét lại nguồn gốc sinh ra chúng – có phải là theo các hình mẫu keiretsu hay chaebol hay không, bởi vì điều này vô cùng quan trọng, quyết định việc dự đoán tương lai của chúng.
Theo tôi, chúng ta đã vội vã quên nguồn gốc phát sinh ra thực sự của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam hiện nay. Có lý do “chính đáng” về việc cố tình lẩn tránh hay lãng quên này. Chính sự lãng quên và nhầm lẫn nghiêm trọng về nguồn gốc sinh ra – sự nhầm lẫn về cha sinh mẹ đẻ của mô hình doanh nghiệp này – làm chúng ta luôn tranh cãi nhau về nó, vì không hiểu bản chất thực của mô hình đó, và càng không thể thống nhất trong dự đoán tương lai của nó.
Đó chắc chắn không phải là những đứa con của sự kết hôn giữa kinh tế nhà nước Việt Nam với các ông Chaebol hay các bà Keiretsu trong điều kiện kinh tế thị trường đang toàn cầu hóa. Đó chỉ là báo chí nước ngoài họ gọi so sánh như thế và chúng ta ngộ nhận, tưởng thế là hay. Nếu Việt Nam có các keiretsu, có các chaebol thì đích thị chúng ta là rồng rồi còn gì? Thực ra các ông chaebol, các bà keiretsu chẳng dính líu gì đến mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam cả.
Để tìm hiểu điều này, chúng ta hãy quay lại ít nhất với nền kinh tế kế hoạch tập trung những năm 50 và 60 của các nước phe Xã Hội Chủ Nghĩa, mà Việt Nam (Miền Bắc) là một. Dù còn non trẻ và gặp nhiều khó khăn về lý luận, chính trị, kinh nghiệm và thực tiễn, nhưng nói chung các nền kinh tế kế hoạch tập trung của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa đều đã phát triển khá ngoạn mục, nhanh và đồng đều giai đoạn này. Đó là nhờ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung giai đoạn đầu đã vô tình tách biệt được việc sở hữu và quản lý của nhà nước (thổi còi) ra khỏi nhiệm vụ sản xuất theo những kế hoạch đó (đá bóng) vốn được giao cho rất nhiều các xí nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã và nông trường thực hiện. Việc phân phối kết quả lao động cũng theo kế hoạch và quyền phân phối được tập trung vào trung ương, nên nó cũng vô tình vừa gắn và vừa tách rời hai khu vực với nhau. Trong giai đoạn này, sức sản xuất của con người và cả xã hội được giải phóng tương đối hiệu quả do vấn đề sở hữu phương tiện và thành quả lao động chưa tạo ra những mâu thuẫn xã hội trực tiếp, do người đá bóng (sản xuất) và người thổi còi (quản lý nhà nước) được tách biệt khá rõ ràng ở cấp cơ sở là nơi thực hiện/sản xuất, đều yên tâm (toàn tâm toàn ý) làm tốt công việc của mình. Rất tiếc, sự tăng trưởng này tuy nhanh và mạnh nhưng chỉ thiên về lượng mà không chú trọng về phẩm, thiên về hình thức, thiếu nội dung trong mọi khía cạnh cuả nền kinh tế, từ vật chất đến văn hóa, tinh thần, khoa học kỹ thuật, nhất là xã hội, lý luận, tinh thần. Những thiếu hụt, yếu kém về phẩm chất của nền kinh tế cũng đã xuất hiện rất nhiều và tích tụ, nhưng bị cố tình bỏ qua, cố tình không được nhận biết để đề phòng, tránh né, ai nhắc đến thì bị trù dập cô lập hoặc cho là phản động…
Đến những năm 70 và 80 tại các nước Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu và Liên Xô bắt đầu có phong trào hình thành các Liên hiệp xí nghiệp theo ngành trong mọi ngành kinh tế, được thúc đẩy do sự phát triển về lượng nói trên tạo điều kiện tích lũy tài sản, công cụ, vốn sản xuất. Đây là qua trình chuyển biến tất yếu của sự tích tụ vật chất lớn thành lớn hơn để tăng hơn nữa hiệu quả kinh tế, trình độ kỹ thuật, tập trung nguồn lực đầu tư và nhiều mục tiêu hợp lý khác… Vì sự hợp lý của các mục tiêu và hiệu quả cao mà nó mang lại mà mô hình Liên hiệp các Xí nghiệp hay Tổng công ty phát triển rất nhanh và không thể cưỡng lại, hình thành các tổ chức kinh tế siêu lớn nhiều tầng lớp lên đến cấp các bộ ngành, đối trọng lại với các tập đoàn kinh tế quốc gia và siêu quốc gia của các nước tư bản trong môi trường của chiến tranh lạnh. Vấn đề là sự phát triển này vẫn chỉ là sự liên kết cơ học, lỏng lẻo, bề ngoài, rất hình thức và không có chất lượng, không có sự kết dính cũng như sự đồng nhất, nhất quán nào… Tóm lại, sức mạnh bên trong là không có, trỗng rỗng, không tương xứng qui mô bên ngoài.
Nhưng đến lúc này thì các Liên hiệp xí nghiệp hay các Tổng Công ty nhà nước lớn nhất nghiễm nhiên trở thành các cơ quan quản lý thực chất ngành của mình, có nghĩa là chúng bắt đầu vừa đá bóng, vừa thổi còi. Nói là “quản lý thực chất” là bởi vì vẫn còn đó các nhà quản lý nhà nước đang bị mất dần thực quyền vì xa rời thực tế và không nắm quyền lực vật chất…
Thế là, trên sân bóng “nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa” xuất hiện nhiều người vừa thổi còi cùng lúc vừa đá bóng. Họ vốn là các huấn luyện viên của các đội hay các cầu thủ giỏi, nay được giao vừa đá bóng vừa thổi còi, bên cạnh những tiếng còi ngày càng yếu ớt và lạc điệu của trọng tài chính (quản lý nhà nước) vì họ không “đá bóng” được… Trên sân bóng đó ngày càng ít cầu thủ đá bóng thực sự vì họ phải đá theo nhiều tiếng còi quá. Cuối cùng là họ chỉ đá vờ… là hiệu quả nhất!
Trong các công ty, liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty nhà nước… của nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa phát triển và lây lan nhanh chóng bệnh “đá vờ”: quan liêu, hình thức, lãng phí, giả dối, tham nhũng, quyền hành và lợi ích nhóm… Sự mâu thuẫn của việc các đơn vị kinh tế lớn vừa quản lý vừa kinh doanh trên qui mô lớn tạo ra môi trường nguy hiểm cho các “cú đá vờ” lớn, và thuận lợi cho rất nhiều tệ nạn xã hội, đạo đức vốn đã ấp ủ từ giai đoạn phát triển trước đó. Xã hội các nước Đông Âu và Liên Xô từ đó nhanh chóng rối loạn các bậc thang giá trị, đạo đức cá nhân và xã hội xuống cấp, các tổ chức tan rã hàng loạt.
Chính quá trình hình thành và phát triển chưa đầy 20 năm của mô hình kinh tế Tổng công ty nhà nước đã trực tiếp phá vỡ các nền kinh tế và góp phần làm bệnh hoạn không thuốc chữa cho cả xã hội của hệ thống các nước Xã Hội Chủ Nghĩa những năm 80, tạo môi trường hỗn loạn rồi góp phần chính yếu và quyết định vào sự sụp đổ của cả hệ thống các nước Xã Hội Chủ Nghĩa tại Châu Âu, vào chính thời điểm khi mà họ tưởng như đã mơ thấy mình vượt qua chủ nghĩa tư bản và sờ tay vào chủ nghĩa cộng sản.
Đáng lẽ ra những năm 70 và 80 của thể kỷ trước phải là giai đoạn phát triển cực thịnh của các nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa, mang tính chất tập trung lượng lớn để chuyển thành chất mới, để “lên chế độ cộng sản chủ nghĩa” như các chính phủ đó tin tưởng và kỳ vọng. Điều bất ngờ đã xảy ra là bởi cái chất bên trong không có gì vì không được coi trọng nhiều năm trước đó của chính thể, hay cái có đó lại là sự nhu nhược, ung thối tràn lan nay được nhanh chóng phát tán dẫn đến tan nát cả hệ thống và toàn xã hội!
Những kẻ vào những thập niên 50-60 đã bỏ qua và bao che tội trộm gà của những đứa trẻ lớp con cháu mình thì đến năm 80-90 đã phải đắng họng chấp nhận bị chúng (lớn khôn và có quyền hành rồi) ngang nhiên trộm hết trâu bò cày kéo của các “hợp tác xã” xã hội chủ nghĩa đem thịt hay chiếm dụng riêng, làm thương hiệu HỢP TÁC XÃ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA sập tiệm hoàn toàn trên Trái Đất.
Khi các nước Xã Hội Chủ Nghĩa châu Âu sụp đổ, cả Trung Quốc và Việt Nam đều choáng váng vì số phận của các bậc tiền bối và lo sợ cho tương lại của chính mình. Họ nhanh chóng qui các nguyên nhân và trách nhiệm làm sụp đổ cho các đường lối chính trị sai lầm hay/và sự yếu kém của tổ chức cá nhân lãnh đạo trong các đảng cầm quyền của các nước “đàn anh” đó, mà không ai thực sự nhìn thấy và chỉ ra nguyên nhân sâu xa và quyết định nhất chính là sự nguy hại bệnh hoạn của mô hình kinh tế dựa trên các tổng công ty nhà nước làm lực lượng chủ đạo (khi đó thậm chí gần như là duy nhất).
Công bằng mà nói, mô hình liên hiệp xí nghiệp hay tổng công ty nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là những mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng, bất công và các loaị bệnh hoạn xã hội khác nảy mầm và phát triển man rợ mà thôi, bản thân chúng không làm sụp đổ cả thể chế được, nhưng các thể chế Xã Hội Chủ Nghĩa lại đứng trên chúng, dồn vốn xã hội cho chúng, hy vọng được dựa vào chúng để có sức mạnh kinh tế. Tác nhân phá hủy nằm ở chính “cơ chế”, chính sách, đường lối và đạo đức con người trong các tổ chức trong toàn xã hội. Còn những hạt giống bệnh hoạn đã luôn có sẵn trong mỗi con người. Khi có thêm trong những sai lầm lý luận chính trị, cơ sở lý thuyết và các phương thức tổ chức xã hội của các nền kinh tế tự gọi mình là Xã Hội Chủ Nghĩa chăm vun vào, khuyến khích thêm, chúng phát triển và “phát huy tác dụng” nhanh đến không ai có thể ngờ tới.
Tại Trung Quốc và Việt Nam những năm cuối 80 đầu 90 cũng đã hình thành các tổng công ty toàn ngành với tất cả các hệ lụy bệnh hoạn của chúng như ở các nước Xã Hội Chủ Nghĩa châu Âu trước đó. Nhưng do đặc thù văn hóa châu Á, do đặc thù của các đảng cộng sản châu Á (“chuyên chính vô sản” hơn), và nhất là do họ là người phải học theo Liên Xô và Đông Âu nên các tổng công ty nhà nước XÃ Hội Chủ Nghĩa ở châu Á được hình thành muộn hơn chừng 5-10 năm. Các tổng công ty nhà nước ở châu Á chưa kịp “biến lượng lớn thành chất mới” để làm nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa của nước mình sụp đổ thì các đảng cộng sản cầm quyền đã phải tiến hành gấp rút các cuộc cải tổ chính trị rộng khắp để cứu vãn chế độ. Trung Quốc thì tiến hành “mở cửa”, Việt Nam thì “đổi mới”, còn Bắc Triều Tiên thì “đóng cửa”… Các tổng công ty nhà nước ở Việt Nam thì thoi thóp như người bị ung thư giai đoạn cuối, ở Trung Quốc thì chúng hung hăng như người bị tâm thần, còn ở Bắc Triều Tiên thì chúng trở nên độc đoán như những kẻ quản ngục…
Hai mươi năm sau sự sụp đổ của hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa, nhân dân Việt Nam thần kỳ vực dậy đất nước mình, nền kinh tế từng bước phục hồi với nhiều thành phần mới. Những kẻ vượt qua “ung thư giai đoạn cuối” vẫn được coi là “lực lượng chủ đạo”, đã vô thức quên mất cha sinh mẹ đẻ của chúng là ai. Lý do: điều đó nhắc đến cái chết hàng loạt đã nói trên của các nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa châu Âu! Tâm thức con người có bản năng tránh né sự đau buồn, tâm thức xã hội và nhà nước hóa ra cũng vậy! Thay vào lý lịch đó, chính phủ khoác lên chúng hai chữ “tập đoàn” mới mượn từ các nền kinh tế tư bản mà cụ thể là từ Nhật Bản và Hàn Quốc, và chỉ sang tư bản bảo với chúng rằng cha mẹ chúng là nền kinh tế thị trường, hãy ra đó mà tung hoành và chủ đạo!
Không ai muốn nhớ và nhắc nhở rằng chúng là con cháu thực và mang gien di truyền của những tổng công ty toàn ngành nhà nước bên trời Âu đã từng phá vỡ nhanh chóng các nền kinh tế từng khá hùng mạnh của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa châu Âu thuở nào.
Đến đây thì chúng ta đã hiểu và trả lời được câu hỏi: cha sinh mẹ đẻ của mô hình tổng công ty và tập đoàn nhà nước là ai? Khi biết thân cha, thế mẹ của một người là ai thì chúng ta dễ đoán sự nghiệp tương lai của kẻ đó, thông qua hiểu biết về sự nghiệp của cha mẹ họ. Điều đó giúp chúng ta không cần tranh luận về sứ mệnh và tương lai của mô hình tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam nữa.
|
Sự nghiệp của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam |
Sẽ đi về đâu?
Vậy là chúng ta cũng đã trả lời được cả câu hỏi thứ hai: Các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam sẽ đi về đâu? Đó là: Chúng sẽ thực hiện sứ mệnh của chúng. Chúng sẽ phá vỡ hoàn toàn và nhanh chóng nền kinh tế của Việt Nam.
Chúng ta đã có một số “kết quả ban đầu” qua thành tích gần đây của tập đoàn kinh tế Vinashin. Giống như trước Khởi nghĩa 1945 đã có Xô viêt Nghệ tĩnh 1930, trước Đồng Khởi 1960 đã có Nam Kỳ Khởi Nghĩa 1940 vậy. Nhưng tại sao lại là Vinashin “nổ phát súng đầu tiên” mà không phải tập đoàn nào khác? Có vài ba nguyên nhân góp lại làm nên chuyện này.
Thứ nhất, Vinashin hoạt động trong ngành công nghiệp cần vốn rất lớn nhưng lại chỉ bán được sức lao động của công nhân là chính. Ở đấy không có dầu bơm lên mà đổi đôla, không có than đào lên mà bán, không có điện nước cứ đo đếm mà thu tiền, chỉ có nhân công lao động chất lượng và hiệu quả mới đổi lấy tiền của người khác được. Ở đó cứ phạm sai lầm làm mất mát lớn, rất lớn qua đồng tiền lãi vay, qua số vốn đầu tư lớn nằm chết và qua số tiền để nuôi giữ lực lượng lao động cực lớn… Ở đó cần nhất cái tâm sáng của những con người và cơ cấu tài chính minh bạch. Cả hai điều này đã không có tại Vinashin; tất cả các tập đoàn khác có lẽ cũng thế thôi, không có.
Thứ hai, Vinashin lại được nhà nước kỳ vọng và giao trọng trách làm trụ cột cho việc thực hiện chiến lược biển quốc gia, với một số vốn cực lớn và sự ưu ái đặc biệt thông thoáng. Việc này giống như một gia đình nghèo giao cả tài sản cho cậu trai út đóng thuyền đi buôn và tìm đường đi cho cả nhà, chỉ vì cậu hứa sẽ làm được. Thực tế là cậu không đủ sức, ít kinh nghiệm nhất, cậu còn không thích sửa chữa tàu bè và chưa bao giờ biết quản lý tiền cả nên cậu mang tiền đi đầu tư đất đai và ăn tiêu sạch, con tàu để ra khơi vẫn chưa mua ván để đóng… Tóm lại cậu út đã bị số tiền vốn đè bẹp dí trước khi có thể điều khiển nó.
Thứ ba, mô hình tổng công ty rồi tập đoàn kinh tế cho Vinashin quá nhiều quyền quản lý và huy động vốn đầu tư mà không đòi hỏi phải có năng lực và kết quả gì tương xứng. Thế là Vinashin sát nhập mọi loại đơn vị khác đang hấp hối vào với mình để “phát triển” theo chiều rộng. Số tiền Vinashin vay chỉ đủ để làm lễ khởi công các công trình hoành tráng khắp đất nước là đủ… bốc hơi hết. Điều này giống hệt các công trình lớn của các tổng công ty nhà nước bên Liên Xô và Đông Âu những năm 80, để lại cảnh hoang tàn khắp nơi mà nhiều năm sau người ta vẫn phải dọn dẹp.
Các tập đoàn khác cũng có ba vấn đề đầu tiên trên ở mức độ khác nhau không hề kém nghiêm trọng, nhưng họ có vốn kinh doanh tự có rất lớn từ việc bán rẻ tài nguyên đất nước (dầu khí, điện, nước, than, khoáng sản…) – cái mà họ có thực quyền quản lý, nên họ còn đang xoay sở, chưa sụp đổ mà thôi.
Rồi sẽ đến ngày các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam đồng loạt “chuyển lượng thành chất”, hay đồng loạt sụp đổ, hay sụp đổ theo dây chuyền – anh này kéo anh kia theo. Lúc đó là chúng hoàn thành “sứ mệnh” của mình – làm cho nền kinh tế quốc gia sụp đổ (vì chúng là lực lượng chủ đạo), nhờ có cái gien mà chúng mang theo trong mình từ khi cha sinh mẹ đẻ – cái gien tài năng vừa đá bóng vừa thổi còi. Người biết chuyện gọi đó là cuộc cách mạng đổi màu sở hữu chủ. Vật chất không tự nhiên sinh ra và cũng không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ chủ này sang chủ khác.
Ở đây nảy sinh câu hỏi thứ ba: Ai sẽ được lợi khi điều đó xảy ra? Ai sẽ là chủ mới của các Tổng công ty và tập đoàn đó khi không còn nhà nước vốn bảo hộ cho chúng? Câu hỏi này hơi phức tạp và xin để làm chủ đề cho phần sau.
Tập đoàn kinh tế nhà nước: Tại sao sẽ phá sản?
Có thể tái cấu trúc được không?
Trong bài “Tập đoàn Kinh tế Nhà nước: Từ đâu ra và đi về đâu?” tôi đã trả lời hai câu hỏi đã nêu ra, rằng tập đoàn kinh tế Nhà nước Việt Nam hình thành theo và từ mô hình các Tổng Công ty đầu ngành của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa cũ vốn đã làm các nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa đó sụp đổ, nên cũng sẽ làm nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa của Việt Nam sụp đổ.
Với bài này tôi muốn phân tích tiếp, tại sao mô hình kinh tế này sẽ sụp đổ ở Việt Nam và nếu thế thì nó sẽ sụp đổ như thế nào? Liệu có cách nào “tái cấu trúc” chúng để tránh sự sụp đổ được báo trước đó không?
Ở Việt Nam hiện nay, kinh tế Nhà nước năm 2010 chỉ góp 21% GDP nhưng chiếm trên 40% vốn đầu tư quốc gia và chỉ tạo công việc cho chưa tới 4% lực lượng lao động. Đó là các con số của Chính phủ. Còn theo ước tính của các nhà quan sát kinh tế độc lập thì, nếu tính cả các đơn vị làm kinh tế của Đảng, của các đoàn thể Công đoàn, Phụ nữ, Đoàn Thanh Niên, của các lực lượng vũ trang và an ninh (Quân đội và Công an, Cảnh sát Biển và Biên phòng, An Ninh chìm, nổi-trong và ngoài nước), kinh tế nhà nước tại Việt Nam chiếm đến trên 80% nguồn vốn đầu tư của quốc gia và vì thế nó phải được coi là lực lượng kinh tế chủ đạo.
Nhìn sơ qua ai cũng thấy ngay tính không hiệu quả trầm trọng đến vô lý của mô hình kinh tế Nhà Nước. Đó là lý do đầu tiên-hậu quả kinh tế thua lỗ thất thoát, sẽ làm nó phá sản và chính những người hỗ trợ nó là Chính Phủ cũng không chịu được và càng không bao biện được. Chính phủ càng bơm nhiều vốn vào các Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước càng dễ mất hết.
tính không hiệu quả trầm trọng đến vô lý của mô hình kinh tế Nhà Nước |
Hai hậu quả trên khi được biểu hiện kết hợp trên diện rộng, mức độ sâu xa, thời hạn lâu dài nhiều năm và trong khắp mọi nghành kinh tế với số lượng đầu tư vật chất lớn… sẽ làm nên tình trạng: Về văn hoá thì cả xã hội ghê tởm và căm ghét, về kinh tế thì cả nền kinh tế bị khủng hoảng “vạ lây”, về xã hội thì làm mất hết cơ hội vươn lên cuộc sống giàu có cho đất nước, cuối cùng cả xã hội sẽ phải đứng lên xoá bỏ mô hình Kinh Tế Nhà Nước này.
Tại sao hai hiện tượng “hậu quả” trên sẽ nhất định sẽ xảy ra với mô hình Kinh Tế Nhà Nước?
Đó là một phép qui nạp: Vì chúng đã và đang xảy ra… và: Bởi vì mô hình Kinh tế nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa vốn nó đã chứa những hạt giống, mầm mống mâu thuẫn sẽ làm đổ vỡ đó xảy ra, từ trong cơ sở triết học và lý thuyết kinh tế sinh ra chúng: lý thuyết Kinh Tế Kế Hoạch Tập trung (KTKHTT) Xã Hội Chủ Nghĩa! Vâng, cha mẹ tinh thần, hay cái gen gốc, của mô hình Kinh Tế Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa hiện nay vẫn là lý thuyết Kinh tế Kế hoạch tập trung Xã Hội Chủ Nghĩa!
Chúng ta lại phải giật lùi một chút đến những năm 50, xem lại về lịch sử hình thành từ đầu các hình thái tổ chức công ty nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa nói chung.
Chúng ta (và các nước cựu Xã Hội Chủ Nghĩa trước kia) tưởng mình đã cắt đuôi và đoạn tuyệt dứt khoát với lý thuyết kinh tế kế hoạch hóa tập trung từ khi giải tán các Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước từ Trung Ương đến địa phương? Không hề! Chúng ta đã chỉ không “làm kế hoạch tập trung” tại TƯ hay các Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh, mà chỉ “lập” và “giao” chỉ tiêu cho các ngành theo đó tự làm kế hoạch thực hiện, từ TƯ đến địa phương, mà thôi. Đó chỉ là tự dối chính mình, còn bản chất sự việc vẫn như cũ: các “chỉ tiêu” vẫn được xác lập từ TƯ và rồi “phân chia”, “giao” về các địa phương, các đơn vị kinh tế chủ đạo là các Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước, để họ “làm kế hoạch”. Các kế hoạch đó liệu có thể được chấp nhận nếu làm không theo các chỉ tiêu “trên giao”?
Bước “cải tổ” trên, mà bản chất như một trò lưu manh vặt, từng được ca ngợi như bước tiến lớn về lý luận và lý thuyết của nền Kinh Tế Xã Hội Chủ Nghĩa khắp Âu, Á, Mỹ! Theo tôi, dù có gọi tên thế nào, hiện nay thành phần Kinh Tế Nhà Nước của ta vẫn là kinh tế Kế Hoạch Tập Trung.
Yếu tố cơ bản sống còn trong lý thuyết Kinh Tế Kế Hoạch Tập Trung là đại diện và bảo vệ Sở Hữu Nhà Nước (SHNN) trong các mô hình kinh tế sản xuất, kinh doanh và phân phối dạng nông trường, công ty, tổng công ty, Hợp Tác Xã mua bán…, đến nay hoàn toàn chưa được Lênin và các lý thuyết gia Kinh Tế Xã Hội Chủ Nghĩa sau ông giải quyết. Đó là, quyền sở hữu toàn bộ tài sản quốc gia đã được tập trung vào Sở Hữu Nhà Nước (SHNN) bằng bạo lực cách mạng rồi, làm sao phân chia lại quyền Sở Hữu Nhà Nước đó ra cho các đơn vị kinh tế nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa đây? Thành ra, các công ty Nhà nước Xã Hội Cá Nhân chưa bao giờ và chưa ở đâu thực chất là một pháp nhân độc lập và có thể sống độc lập pháp lý với chủ của chúng như các công ty tư bản (corporate) được. Ví dụ: nhà nước XHCN sụp đổ thì các công ty Nhà Nước lập ra có còn tồn tại được không? Trong khi các công ty tư bản tồn tại pháp lý độc lập vài trăm năm sau khi chủ thành lập ra chúng đã qua đời? Hay: Vinashin có thể độc lập “chết” mà không liên can gì đến Chính phủ Việt Nam không? Không.
Lúc đầu (những năm 50, 60, 70) người ta phân chia quyền đại diện Sở Hữu Nhà nước theo ngành dọc cùng lúc cho các bộ ngành, bộ tài chính, đảng Cộng Sản và các đoàn thể cùng đại diện. Như vậy, trong một Công ty hay Xí Nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa luôn luôn có 5, 6 thành phần cùng đại diện quyền Sở Hữu Nhà Nước đối với các tài sản vật chất: ban giám đốc, kế toán trưởng, bí thư Đảng, Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ… Bên trên mỗi Công ty cũng có chừng đó các ông chủ SHNN cấp tổng công ty, đến các sở địa phương, rồi các bộ chủ quản, rồi Trung Ương…
Hệ thống đại diện Sở Hữu Nhà Nước chồng chéo và tầng tầng lớp lớp này đã tự kiểm soát và kiềm chế bớt tham nhũng nhưng hậu quả là người ta chỉ lo bảo vệ tài sản Xã Hội Chủ Nghĩa (mà vẫn không bảo vệ được khi 5-6 đại diện cùng thông đồng tạo nên những cái gọi là quyền lợi tập thể), nhưng không còn ai lo vì không còn sức, nhiệt huyết và thời gian làm cho tài sản nhà nước đó sinh sôi theo kế hoạch được…
Từ những thận niên 70, 80 và 90, khi các liên hiệp xí nghiệp và tổng công ty toàn ngành hình thành, người ta đã tập trung quyền hành (thực chất là quyền đại diện Sở Hữu Nhà Nước) vào hai thành phần chính: giám đốc và đảng uỷ Công ty, giai cấp lao động bị loại hẳn khỏi quyền đại diện Sở Hữu Nhà Nước hay quyền hành nói chung. Từ đó, các KHTT chỉ là cái bóng “cánh hẩu” với Đảng và chính quyền – tài chính không thể minh bạch nữa, còn các đoàn thể chỉ là “để làm cảnh” hay “lũ chầu rìa” cho vui xã hội.
Trong công ty hay tổng công ty thì người ta phải trọng tài năng và trình độ chuyên môn để làm việc, trong khi các bí thư đảng CS cơ sở thì thường rất yếu kém mặt này nên thường không có uy tín và quyền lực, do đó các giám đốc Tổng công ty luôn có quyền lực tuyệt đối: vừa là đại diện Sở Hữu Nhà Nước vừa là người điều hành kinh doanh và chịu trách nhiệm với NN về tài sản NN trong công ty của mình... hay: vừa đã bóng, vừa thổi còi cho quân mình đá.
Đại diện Sở Hữu Nhà Nước lúc đầu giống như một trách nhiệm trước một ông vua. Nhưng vì ông vua này không tồn tại, không có bóng hình, không hiện ra bao giờ, lại rất dễ lừa, dễ mua chuộc, còn các “đại diện” của vua thì rất tham lam (tiền và “hoa”) và ngu dốt, thích nịnh, thỉnh thoảng đến “cưỡi rượu” xem “hoa”, nên rất dễ điều khiển… Thế là rất nhanh sau đó các giám đốc thấy mình mới chính là vua thật có toàn quyền sinh sát với công ty, số tài sản và con người mình đang quản lý…, họ nhanh chóng trở thành các “vua con”.
Còn tâm lý tham nhũng của các ông “vua con” hình thành từ “đạo đức cộng sản trong sáng” thế này: Các “vua con” chỉ được Nhà Nước giao nhiệm vụ bảo toàn tài sản Nhà Nước thôi vì được “tin cậy”, nhưng thời gian đầu chưa có kinh nghiệm và thường ít tài năng nên thường kinh doanh bị lỗ. Vì mê chiếc ghế “vua con” và không nỡ làm thất vọng cấp trên nên đành báo cáo láo là Công ty kinh doanh “huề”, rồi tính sau. Xoay xở vài năm, được NN hỗ trợ đủ điều ưu ái vốn và độc quyền thị trường vì là “lực lượng chủ đạo”, có kinh nghiệm hơn, các “vua con” bắt đầu làm ăn có lãi, nhưng vẫn “phải” báo cáo “huề” để bù lại phần lỗ trước đó đã nỡ giấu nhẹm. Sau đó, việc kinh doanh có lãi tiếp thì các “vua” lại “phải tiếp tục” báo cáo “huề” để dự phòng nhỡ lỗ về sau và cho các “chi phí ngoài luồng” ngày càng tăng cao cho các đại diện “vua trên” và cho chính các “vua trên”… Số tài sản để ngoài sổ sách để “dự phòng” đó “phải để tạm” trong các tài khoản do người nhà các “vua con” trông hộ ngày càng lớn thì cảm giác tự tin của “vua con” ngày càng lớn… đến một lúc “tự nhiên” “vua con” tin nó là của riêng mình, vì có ai “tranh chấp” đâu? Đó là chưa kể tài sản người ta cứ mang đến cảm ơn lòng tốt của “vua con” trong việc ban phát quyền lợi cho đám “cận thần” và “xin làm cận thần”…
Hiệu quả kinh tế phá hoại, đạo đức tồi tệ, tập trung quyền hành, tham nhũng tràn lan, tổ chức chính trị xã hội mất uy tín và tan rã… đã nhanh chóng làm sụp đổ hệ thống kinh tế rồi hệ thống nhà nước của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa châu Âu những thập niên 80.
Việt Nam từ những năm 90 bắt đầu thí điểm mô hình Tổng Công ty, Tập đoàn kinh tế nhà nước với sự vô hiệu hoá hoàn toàn các tổ chức Đảng, chỉ để lại “làm vì”. Thay vào đó, Việt Nam áp dụng mô hình Hội Đồng Quản Trị để đại diện quyền Sở Hữu Nhà Nước, học từ mô hình kinh tế Tư Bản thị trường, để kiểm soát Ban Giám Đốc.
Vẫn có ít nhất vài điều không ổn trong mô hình “thí điểm” này:
- Thứ nhất, đây là mô hình được “cải tiến – hà hơi” từ lý thuyết Công ty Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa và Kinh Tế Kế Hoạch Tập Trung mà châu Âu đề xướng và đã thất bại – đã là xác chết hoàn toàn, nay Việt Nam ta thí điểm “tô vẽ-hà hơi lại xác chết” mà đã làm tràn lan khắp các ngành kinh tế thì thật không khác dựng các thây ma dậy trong khắp mọi nhà!
- Thứ hai, việc “tô vẽ và hà hơi xác chết” có phần vụng về: Đại diện SHNN trước kia nằm đông đảo trong từng Công ty mà còn không kiểm soát được Ban Giám Đốc, nay tách ra và giao cho Hội Đồng Quản Trị đại diện thì phải có Luật đặc biệt tương xứng cho Hội Đồng Quản Trị như thanh “bảo kiếm” chứ? Thế mà Hội Đồng Quản Trị đã không có thanh bào kiếm là quyền hành bổ nhiệm Ban Giám Đốc, lại cũng chả có luật nào tương xứng nhiệm vụ đại diện Sở Hữu Nhà Nước của Hội Đồng Quản Trị, mà Hội Đồng Quản Trị lại còn “được” Ban Giám Đốc trả lương thì “há miệng mắc quai” hay bị “làm nhục quốc thể” chủ Sở Hữu Nhà Nước quá, còn kiểm soát sao được!
- Thứ ba, Hội Đồng Quản Trị giám sát Công ty và Ban Giám Đốc bằng Luật Doanh nghiệp, là bằng các qui chế và tài liệu báo cáo có tính pháp lý, nhưng ở các Tập đoàn và Tổng công ty Nhà Nước Việt Nam việc báo cáo và làm việc giữa Hội Đồng Quản Trị với Ban Giám Đốc lại có tính “nội bộ”, không minh bạch, nên công việc của HĐQT chỉ là hình thức, không minh bạch và vô tác dụng. Thực tế Việt Nam thường là Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị có quyền “bao cả sân” của Tổng Giám Đốc luôn nên coi như đá hai sân, là bắt đầu của mọi tham nhũng như tôi đã phân tích tâm lý “vua con” trên, thậm chí là hiện tượng “hai vua”: Chủ Tịch và Tổng Giám Đốc chia nhau quyền lực. Kết quả thì vẫn là một: kinh doanh không hiệu quả, tham nhũng, thoái hoá đạo đức…
- Thư tư, đến nay 2010, về lý thuyết kinh tế và pháp lý quốc tế, một công ty nhà nước hay tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn không phải một pháp nhân độc lập (a corporate) mà chỉ là một bộ phận phụ thuộc của một pháp nhân khổng lồ là nhà nước mà thôi.
Đến đây, câu hỏi tại sao mô hình Tập Đoàn Kinh Tế Nhà Nước nhất định sẽ thất bại dường như đã được trả lời: tô vẽ và hà hơi không làm các “xác chết” Công ty Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa sống thực được.
Dường như, là vì còn một nguyên nhân khách quan nữa sẽ góp phần làm nó thất bại nhanh hơn mà các Tổng Công ty Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa châu Âu ngày xưa chưa gặp: đó là nền kinh tế thị trường cạnh tranh với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khác. Sự cạnh tranh này sẽ đẩy các tập đoàn Kinh Tế Nhà Nước yếu kém nhất đến phá sản nhanh hơn, và các tập đoàn này sẽ kéo các tập đoàn KTNN khác chết theo vì chúng là bình thông nhau, cùng một chủ. Hiện tượng Vinashin là một báo hiệu “thử nghiệm” cho “cái chết đầu tiên” đó.
Với câu hỏi “Liệu có cách nào tái cấu trúc các tập đoàn Kinh Tế Nhà Nước để chúng thành công?”, câu trả lời của tôi là: Không. Chưa có. Loài người chưa nghĩ ra. Chưa có lý thuyết Kinh Tế Xã Hội Chủ Nghĩa nào thành công từ năm 1917 đến nay, 93 năm thử nghiệm trên 12 nước và 3 châu lục với khoảng trên một phần tư dân số loài người đã tham gia.
Các công ty và tập đoàn kinh tế Nhà Nước theo mô hình kinh tế Kế Hoạch Tập Trung như nước ta đang “nuôi” vẫn chỉ tiếp tục là những thây ma thí nghiệm “dũng cảm”, thây ma thì sợ gì chết nữa! Chính phủ ta vẫn nói là họ đang tiếp tục làm thí nghiệm đó thôi? Chỉ có điều cái giá phải trả cho những thí nghiệm này rất đắt, sẽ do nền kinh tế ọp ẹp của ta phải chịu, tức là do dân Việt ta cùng trả thôi mà.
Còn một câu hỏi trong cuối bài trước tôi cũng chưa trả lời, mà thực ra tôi đã trả lời ngay rồi, là: “Ai sẽ có lợi khi các tập đoàn kinh tế nhà nước cùng nhau sụp đổ?”
Tôi đã nói: “Người biết chuyện gọi đó là cuộc cách mạng ĐỔI MÀU SỞ HỮU CHỦ”, không phải như một số báo đăng lại BVN và hiểu nhầm thành: “Người biết chuyện gọi đó là cuộc cách mạng ĐỔI CHỦ SỞ HỮU”. Ở đây, chủ sở hữu chính của phần lớn các công ty Nhà Nước phá sản sẽ không thay đổi, họ chỉ đổi màu “áo” của mình thôi. Trước khi công ty sụp đổ họ “mặc áo” màu đỏ - đại diện Sở Hữu Nhà Nước, sau khi công ty sụp đổ họ sẽ ra tay “cứu vớt” mua lại công ty Nhà Nước thành “của mình”, lại trở thành chủ của công ty đó – nhưng là các nhà tư bản mặc áo vàng, thế thôi, vẫn là họ hay con cháu họ hàng anh em chiến hữu của họ…
Đỏ là màu cách mạng – là máu dân lành, Vàng là vàng, Dân thì vẫn là dân đen…
Tập đoàn kinh tế nhà nước: Những tập đoàn lợi ích?
Sau hai bài về Tập đoàn kinh tế nhà nước mà thực chất về mô hình kinh tế cơ bản (từ lý thuyết đến thực hành) của các nhà nước Xã hội chủ nghĩa như nước ta hiện nay, tôi đã tự nêu ra và cố gắng trả lời những câu hỏi cơ bản nhất về đề tài này, trước hết là cho chính mình. Thế nhưng, sao tôi vẫn cảm thấy mình như chưa xong việc? Việc phân tích và chỉ ra những cảnh tượng rất tiêu cực và bi quan, và nhất là không hề chỉ ra được lối thoát nào cho các Tập đoàn kinh tế nhà nước trong tương lai (mặc dù thực chất nó đúng là như thế!), dường như là chưa theo qui luật chung của cuộc sống?
Cuộc sống bao giờ cũng có lý do của nó, và cuộc sống bao giờ cũng có giải pháp hay lối thoát để đi tiếp - đó chính là qui luật phát triển. Cùng tắc biến. Nếu Mác, Lênin và các nhà lý thuyết và thực hành kinh tế cộng sản đã đi đến “cùng” mà không thể tìm ra mô hình kinh tế cộng sản và con đường kinh tế Xã hội chủ nghĩa nào thành công trong suốt trên trăm năm “cách mạng” qua, thì phải có lý do: Có lẽ vì họ không thể làm được việc “biến” đó, vì với ý thức hệ tư tưởng cộng sản họ không thể nhìn ra hay làm nên con đường biến hoá đó. Việc cần biến hoá đó phản lại bản chất của họ? Nói theo thuyết định mệnh, họ không có sứ mệnh để làm việc đó. Sứ mệnh của họ đã xong, loài người đã đóng khung Mác, Lênin và các học trò của họ và đưa vào bảo tàng lịch sử rồi. Còn việc “biến hoá” họ đang cố làm mà chưa làm được đó phải do những con người có cách nhìn khác, cách nghĩ khác, sứ mệnh khác mới làm nên được, mới thuận theo qui luật phát triển, đòi hỏi họ tự biến là không thuận?
Từ trước và song song với thế kỷ cộng sản, ba phần tư nhân loại còn lại đã chọn con đường “gập ghềnh” khác – con đường kinh tế tư bản “mọi rợ” và “thối tha” (hai từ này của chính Mác và Lênin), và đã phải đi qua hơn trăm năm thăng trầm từ thời Adam Smith để sáng tạo ra mô hình công ty tư bản với nền kinh tế thị trường tự do như hiện nay, được coi là một trong những sáng tạo vĩ đại nhất của loài người, mà nhờ có nó các chính quyền cộng sản cuối cùng – nhất là Việt Nam và Trung Quốc, có cái để học theo và nhờ thế mà còn tồn tại được, dù vẫn cố không từ bỏ - không chịu cắt “đuôi” - “định hướng” Xã hội chủ nghĩa!...
Lúc đầu, có vẻ như kinh tế tư bản sơ khai “mọi rợ” và “thối tha” hơn kinh tế Xã hội chủ nghĩa chào đời trong hình thái các công xã và các xô viết… Điều kỳ lạ là sau hơn một trăm năm cùng phát triển song song sự “mọi rợ” và “thối tha” của Chủ nghĩa tư bản dần dần bớt đi hẳn, không còn người cộng sản nào gọi tư bản là “mọi rợ” và “thối tha” nữa (chả lẽ họ lại dẫn dắt dân tộc mình học theo nền kinh tế mọi rợ thối tha!), và hình thành nền kinh tế thị trường tự do bình đẳng cơ hội cho mọi thành phần. Trong khi đó với một phần tư nhân loại mà đảng cộng sản cầm quyền, một sự mọi rợ “mới” và cả không thơm tho gì khác lại hình thành và phát triển đến cực thịnh trong nền kinh tế và văn hoá cộng sản Xã hội chủ nghĩa! Với nền kinh tế thị trường tự do, sự phát triển là nhờ lý thuyết cơ bản của nó thuận theo các qui luật của tự nhiên và xã hội, còn với nền kinh tế kia thì là ngược lại?
Việt Nam đã học theo kinh tế thị trường bằng cách lắp ghép mô hình Hội đồng quản trị vào các “thây ma” cũ là các Tổng công ty nhà nước như thế nào thì ta đã nêu trong bài trước - một “sáng tạo” trong cố gắng giữ vững lập trường vô sản của Đảng cộng sản Việt nam! Đó cũng là cách “đi tắt đón đầu” biến lý thuyết thị trường của Adam Smith thành kết quả “sáng tạo” của lý thuyết kinh tế Mác-Lênin – cách làm rất đặc thù (“cướp cờ” người khác) của những người cộng sản, dù họ ở Trung quốc hay Việt Nam hay Cuba. Chỉ có những người cộng sản châu Âu là trung thực và dũng cảm chấp nhận sai lầm và thất bại toàn diện của lý thuyết do chính họ phát minh ra. Học trò của họ thì: “Không bao giờ!”
Vậy tại sao mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước “định hướng” Xã hội chủ nghĩa với lý thuyết đã sai, quá khứ đã thất bại và tương lai sẽ thất bại như thế lại vẫn đang tồn tại “tốt”, ít nhất ở Việt Nam, là dựa trên cơ sở lý thuyết nào? Lý thuyết cơ sở thì không có, chúng ta đã trả lời rồi, chỉ có các lý do cơ bản. Có ít nhất ba lý do chính sau đây:
- Thứ nhất, chúng tồn tại là vì chúng phải tồn tại vì chúng là những thây ma duy nhất còn lại để có thể gắn tên Xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường dang hình thành. Nếu chúng không tồn tại thì Nhà nước Xã hội chủ nghĩa mất lý do để tồn tại, vì chẳng lẽ Nhà nước công khai tồn tại chỉ bằng quân đội và công an Xã hội chủ nghĩa! Như vậy, đó là do nhu cầu “chánh danh” của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa đòi hỏi, nên các đơn vị kinh tế cần phải “mang danh” Xã hội chủ nghĩa. Đây là “nhiệm vụ chính trị” của các Tập đoàn kinh tế nhà nước. Nếu không thì công nhận Xã hội chủ nghĩa đã thất bại sao? Vì thế, không bao giờ cái đuôi này bị tự cắt đi được – vì họ biết đó là tự sát.
- Thứ hai, việc tồn tại của các Tập đoàn kinh tế nhà nước này thực chất đã và đang mang lợi ích cực lớn và trực tiếp cho một số người liên quan đến chúng trong xã hội, gọi là các Tập đoàn lợi ích, các nhóm lợi ích trong nền kinh tế thị trường méo mó kiểu Xã hội chủ nghĩa như của Viêt Nam hiện nay. Nhóm lợi ích ở đây có thể là vài người, hàng trăm, hàng ngàn người hay nhiều hơn – thành các tập đoàn lợi ích, nhưng vẫn là rất ít theo tỷ lệ so với số 86 triệu công dân Xã hội chủ nghia là “đồng chủ nhân” của các Tập đoàn kinh tế nhà nước đó. Ai cũng biết đây là “thời kỳ quá độ”, chính thức là để tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa (như cái tên của nó), nhưng thực chất là để “quá độ” tư bản hoá tài sản nhà nước sang cho các Tập đoàn lợi ích, các nhóm lợi ích cầm quyền. Lý do này là động lực mạnh nhất để các Tập đoàn kinh tế nhà nước Xã hội chủ nghĩa phải tồn tại. Chúng ta sẽ thử liệt kê danh tính những Tập đoàn lợi ích này ở phần sau, bởi vì khi biết ai là người hưởng lợi ích tư bản hoá ngầm và “quá độ” trên thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng biết cách họ đang “hưởng lợi ích” “quá độ” đó quyết liệt như thế nào? (Quyết liệt bởi vì nó chỉ là quá độ! Quyết liệt cũng lại là đặc tính của chuyên chính vô sản nữa…)
Thứ ba, việc “mượn danh” Xã hội chủ nghĩa như thế rất thuận tiện cho các Tập đoàn lợi ích vì “có cơ sở pháp lý” để che đậy cho cách điều hành can thiệp của Chính Phủ vào mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế (theo nguyên tắc tập trung), thì mới có thể kiểm soát quá trình “phát triển” “quyết liệt” của chúng và mới khiến chúng mang những lợi ích khổng lồ cho các tập đoàn lợi ích trong quá trình các Tập đoàn kinh tế được Nhà nước rót mọi ưu đãi và quyền lợi… suốt quá trình “kinh doanh”, ngay cả khi chúng có “lỡ” phá sản. Nếu Nhà nước không can thiệp và thực sự “thả” chúng vào nền kinh tế thị trường tự do thì chắc chúng có thể phát triển tốt, nhưng cho ai? Khi đó làm sao các nhóm lợi ích – vốn đã thành các tập đoàn lợi ích như những con bạch tuộc khổng lồ có thể “bảo vệ” sở hữu nhà nước bằng chuyên chính vô sản được?!
Cái (sở hữu “toàn dân” hay sở hữu cộng sản) đã được hình thành từ bạo lực (cách mạng vô sản), gìn giữ cũng bằng bạo lực (chuyên chính vô sản) thì cũng sẽ bị tan biến trong bạo lực: Tham nhũng vô sản! Đó là qui luật Nhất quán trong Tự nhiên.
Ai đang có lợi khi các Tập đoàn kinh tế nhà nước tồn tại và phát triển một cách rất “nhất quán” như vậy? Đó là các các tập đoàn lợi ích đã dựng lên và bám vào chúng, gồm:
Tập đoàn 1: Những nhóm lợi ích chính, nhóm “trong đường dây” với Tổng giám đốc hay Chủ tịch hội đồng quản trị và cấp trên, chiếm rất ít, khoảng một nhóm người đến dưới một phần trăm (gồm: ô dù cấp trên, người nhà Tổng giám đốc, các chiến hữu, đối tác làm ăn thân tín của Giám đốc hay chủ tịch…). Nhóm này rất quyền lực và luôn ‘vô hình”, thường hình thành cùng việc bổ nhiệm Tổng giám đốc hay Chủ tịch hội đồng quản trị các Tập đoàn kinh tế nhà nước. Nhóm “Đường dây chính” có thể và chủ yếu tham gia và ăn chia vào các phi vụ “kinh doanh” lớn của công ty với số lượng bị tham nhũng rất lớn và rất kín đáo.
Tập đoàn 2: Những nhóm đối tác “ruột” đồng hành ngoài công ty nhà nước, còn gọi là các “sân sau”, bao gồm các cá nhân, công ty là đối tác làm ăn đặc biệt với công ty nhà nước (có cả công ty tư nhân, công ty liên doanh, công ty nhà nước khác, công ty nước ngoài, các ngân hàng thân hữu và chính quyền, công an, thuế địa phương…). Nhóm 2 này vô cùng biến hoá tuỳ theo tình hình và tuỳ từng hoạt động kinh doanh, từng dự án cuả các công ty nhà nước mà chúng xuất hiện hay biến mất… Chúng cũng là thành phần quyết định sự thành công của các phi vụ “lợi ích”… Chủ thật sự của phần lớn các công ty nhóm 2 là các tập đoàn lợi ích nhóm1!
Tập đoàn 3: Những nhóm “ăn theo”, gồm những người có chức vụ và trình độ nhưng không được vào nhóm “đường dây” và không cam chịu chỉ “đổ vỏ” nên tự lập ra các đường dây, tập đoàn lợi ích của mình để kiếm chác riêng và thường được “đường dây chính” cho phép hay lờ đi, thậm chí hợp tác cùng. Khi đủ mạnh, chúng trở thành tập đoàn nhóm 1.
Tập đoàn 4: Những nhóm người “được” làm việc trong các Tập đoàn kinh tế nhà nước, từ nhân viên đến cán bộ quản lý. Nhóm này chiếm dưới 4% lao động xã hội, nhưng chia làm hai nhóm chính chiếm khoảng 90% lao động của Công ty, gọi là nhóm “an phận”. Nhóm “an phận” chỉ được hưởng các lợi ích chung, vặt vãnh, công khai như lương, chế độ xã hội… Họ an phận với những gì họ có, phần lớn là người tốt trong sáng vì Chủ nghĩa xã hội và vô tư “ăn cây nào, rào cây ấy”… Họ là “nguồn” để bổ sung cho tập đoàn nhóm 1, 2 và 3…
Tập đoàn 5: Các công ty “đối tác ăn theo” của công ty nhà nước, luôn rất đông và luôn túc trực để được gia nhập đôị ngũ các đối tác ruột (Tập đoàn 2) trên. Thành phần các Tập đoàn 5 giống các Tập đoàn 2 nhưng họ đông hơn gấp nhiều lần. Họ sớm phát hiện ra rằng trong nền kinh tế “thị trường” Việt Nam tất cả các công ty ngoài quốc doanh muốn “kinh doanh” thành công trước hết phải thuộc nhóm 2, tức là phải là đối tác ruột của một vài Tập đoàn kinh tế nhà nước. Nhưng khi một phi vụ “lợi ích” nào đó bị lực lượng chống tham nhũng quan tâm thì luôn luôn các tập đoàn nhóm 1 và 2 biến mất từ trước, các nhóm 3, 4 và 5 sẽ là “đối tượng” để bị “điều tra”… vô tận.
Như vậy, lý do tại sao các Tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn đang tồn tại “tốt” đã rõ: Vì chúng cũng chính là các Tập đoàn lợi ích, có “nhiệm vụ chính trị” cao cả, có trách nhiệm “lãnh đạo” và vì cần kiểm soát tình hình kinh tế để tìm lối thoát cho các đảng cộng sản và chính là cho… khối tài sản thuộc sở hữu nhà nước đang được đảng “bảo vệ” và “quản lý”…
Tình trạng hiện nay cuả các Tập đoàn kinh tế nhà nước Xã hội chủ nghĩa là không thể thay đổi ngay. Nhưng xã hội ta cần thực sự có ý thức và quan tâm đến tương lai của chúng, bởi vì chúng đang “quá độ” được giao “quản lý” và “bảo vệ”, “kinh ranh” khối tài sản khổng lồ của cả quốc gia, cả dân tộc Việt Nam ta đã được gìn giữ bằng xương máu và chắt chiu trong gian khó suốt mấy nghìn năm: đó không chỉ là dải Đất hình chữ S trên ba trăm ngàn kilômét vuông mà với cả mặt biển Đông hình đôi cánh chim sải rộng hơn gấp ba lần đất liền ấy nữa! Chủ quyền đã bị biến thành những lợi ích quá độ!
Đó là lợi ích sống còn của Dân tộc hay lợi ích quá độ của các Tập đoàn lợi ích?
Trần Thành Nam
© Thông Luận 2011