“…Trung Quốc không thể không thấy Ủy Ban Hòa Bình Nobel dùng đòn chính trị khi chọn ông Lưu Hiểu Ba để làm bỉ mặt mình…”
Cuối năm 2010 có hai sự việc đáng quan tâm xẩy ra trên thế giới. Thứ nhất là chuyện giải hòa bình Nobel. Thứ hai là sự tiết lộ những thông tin “không tiền khoáng hậu” do mạng toàn cầu Wikileaks.Giải hòa bình Nobel
Giải hòa bình Nobel năm 2010 được trao cho ông Lưu Hiểu Ba (Liu Xiaobo), một nhà tranh đấu nhân quyền của Trung Quốc đang bị án tù 11 năm ở trong nước. Trung Quốc đã phản đối một cách quyết liệt và dùng trọng lượng kinh tế của mình thuyết phục và áp lực các nước trên thế giới không đến tham dự buổi lễ trao giải ngày 10/12/2010 tại Oslo, thủ đô Na Uy. Có tất cả 19 nước không đến tham dự trong đó có Việt Nam. Ban tổ chức đã dành một chiếc ghế trống cho ông Lưu Hiểu Ba để làm nổi bật sự vắng mặt của người được giải. Trong lịch sử 109 năm của giải đây là lần thứ 5, người được trao giải vắng mặt.
|
Lễ trao giải Nobel Hòa Bình 2010 |
Truyền thông Tây phương đã chỉ trích thái độ của Trung Quốc bằng những lời lẽ nặng nề cho rằng một nước văn minh tiến bộ đang góp phần vào việc bảo vệ trật tự thế giới như Trung Quốc mà hành xử như thảo khấu vậy thì thật là một điều đáng lo (The Australian by Rowan Callick).
Động thái của Trung Quốc thật đáng bị phỉ nhổ. Nhưng một câu hỏi cần đặt ra. Tại sao Trung Quốc hành động như vậy. Và trong 19 nước không gởi đại diện đến tham dự buỗi lễ phát giải có phải đều vì nể sợ Trung Quốc không, hay còn vì một lý do nào khác?
Na Uy có thiện chí muốn dùng chút uy tín của giải Nobel để xây đắp hòa bình thế giới. Trao giải cho Lê Đức Thọ năm 1973 với hy vọng đảng Cộng sản Việt Nam thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris. Trao giải cho Yasser Arafat và Thủ tướng Do Thái năm 1994 với hy vọng giải quyết được mối tranh chấp sinh tử giữa hai cựu thù. Trao giải cho Tổng thống Barack Obama năm 2009 theo lối “hoàng tử tốt áo” khi ông ta chưa đóng góp gì cho hòa bình thế giới với hy vọng ông sẽ giải quyết cuộc tranh chấp giữa thế giới Tây phương và thế giới Hồi giáo một cách ôn hoà.
Như vậy sự chọn lựa của Ủy Ban Hòa Bình Nobel nhuốm màu sắc chính trị và do đó đánh mất uy tín và giá trị của giải Hòa bình Nobel. Và Trung Quốc có lý do để coi thường.
Với thành tích đấu tranh cho nhân quyền, ông Lưu Hiểu Ba xứng đáng được giải (mặc dù so thành tích đấu tranh bất bạo động Hòa Thượng Thích Quảng Độ xứng đáng hơn nhiều), nhưng Trung Quốc không thể không thấy Ủy Ban Hòa Bình Nobel dùng đòn chính trị khi chọn ông Lưu Hiểu Ba để làm bỉ mặt mình.
Trong số những nước không gởi đại diện đến tham dự lễ trao giải có nhiều nước không phải sợ Trung Quốc mà là một cách gián tiếp coi thường cái giải Nobel đã mất giá trị (như Liên bang Nga, Saudi Arabia, Pakistan, Ai Cập, Philippines…).
Cuộc tranh luận về giải Hòa bình Nobel năm 2010 làm mất uy tín của Trung Quốc đến mức độ nào chưa biết, nhưng hẳn là một bước ngoặc của gỉải Hòa bình Nobel.
Wikileaks
|
Wikileads |
“Trong sáng” là mục đích căn bản của tự do ngôn luận giúp dư luận tiếp cận với thông tin chính xác để trọng tài sinh hoạt quốc gia, quốc tế, và các đại cơ sở tài chánh. Tuy nhiên trên thực tế quan hệ quốc tế (chính tri, ngoại giao, tài chánh) không thể vận hành nếu mọi thông tin đều được “trong sáng hóa” quá sớm. Cho nên giữ kín một số thông tin “tế nhị” để bảo đảm trật tự quốc gia và rộng hơn là trật tự thế giới là một điều cần thiết. Vấn đề là thông tin tế nhị nào cần giữ kín và giữ kín trong bao lâu?
Câu hỏi này được các quốc gia dân chủ trả lời bằng luật và bằng định chế chính trị. Tại Hoa Kỳ bộ luật “Freedom of Information Act” (ban hành năm 1966, tu chính năm 1996 và năm 2005) cho phép công dân Mỹ yêu cầu chính quyền liên bang cung cấp cho họ những thông tin được giữ kín sau một thời gian luật định. Và Quốc hội trong những buổi điều trần kín có thể yêu cầu hành pháp tiết lộ những điều họ muốn biết trong nhiệm vụ kiểm soát.
Nếu sự việc diễn ra trong trật tự đó thì không có vấn đề gì. Vấn đề là đảng phái và tư lợi. Đảng cầm quyền và cá nhân cầm quyền thường lạm dụng sự ém tin để làm lợi cho đảng phái hay cá nhân mình. Trong khi đó các cơ sở tài chánh, nhất là các đại ngân hàng dùng sự ém tin để sinh lợi phi pháp.
Nếu các thông tin đã được chính quyền Bill Clinton và George W. Bush khai thác một cách đứng đắn và chuyên nghiệp có thể các cơ quan an ninh Hoa Kỳ đã ngăn chận được cuộc khủng bố 11/09/2001. Nếu các thông tin về khả năng chế tạo vũ khí giết người tập thể của Saddam Hussein đã được công khai hóa nhiều hơn thì có thể Hoa Kỳ đã tránh được cuộc chiến tranh tốn kém tại Iraq. Và nếu thông tin về điều hành nội bộ của các cơ sở kinh tế tài chánh Hoa Kỳ đã được báo chí biết nhiều hơn có thể đã tránh được cuộc khủng hoảng địa ốc, tín dụng và tình trạng suy thoái kinh tế cuối năm 2008 kéo dài đến hôm nay.
Điều làm người ta lo ngại đối với vụ Wikileaks là cá nhân với phương tiện kỹ thuật điện toán trong tay có thể trở thành những “cá nhân khổng lồ” (dịch chữ super-empowered individuals của nhà kinh tế Thomas L. Friedman trong bài viết “We’ve only got one America”, International Herals Tribune 16/12/2010) sánh ngang quyền lực của một chính quyền hay của các đại ngân hàng và – qua đó – làm thay đổi trật tự thế giới.
Ngoài những chuyện “trà dư tửu hậu” của các nhà chính trị hay các viên chức ngoại giao, các tiết lộ chính trị của Wikileaks không làm ai ngạc nhiên vì ai cũng đoán biết là như vậy, nhưng sự việc được tiết lộ công khai trên giấy trắng mực đen lại là một vấn đề khác.
Trong những chuyện trà dư tửu hậu có chuyện bà Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton hỏi các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ ở Argentina thử dò xem bà Tổng thống Cristina Fernandez có uống thuốc gì không mà sao quá nhạy cảm trong các quyết định quan trọng. Chuyện trà dư tửu hậu khác là viên chức Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ bề ngoài miêu tả Liên bang Nga bằng những lời hoa mỹ ngoại giao, vẫn thường “kháo” với nhau rằng Liên bang Nga thực chất là một nước Mafia (“virtual mafia state”) công an trị trong đó Tổng thống Dmitry Medvedev chỉ là anh chàng “Robin” tay sai của “Batman” Valdimir Putin. Các nhà ngọai giao Mỹ còn đi xa hơn khi thì thầm khen ngợi các cô y tá gốc Ukraine săn sóc đại tá Muanmar Qaddafi “ngon quá” với sự thèm thuồng.
Tiết lộ chính trị của Wikileaks làm mất uy tín của Hoa Kỳ là bộ ngoại giao yêu cầu viên chức Hoa Kỳ moi hồ sơ sinh học (như dấu chỉ tay, DNA …) của các viên chức ngoại giao các nước khác làm việc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc, kể cả ông Tổng thư ký Ban Ki-moon. Tiết lộ khác cho biết Hoa Kỳ hiện tồn trữ vũ khí nguyên tử tại Bỉ, Hòa Lan, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ làm ảnh hưởng đến chính sách chống sự lan tràn vũ khí nguyên tử của Hoa Kỳ. Và Hoa Kỳ ngầm nói với Slovenia rằng nếu chịu nhận một tù nhân tại nhà tù Guantanamo thì Tổng thống Slovenia có thể hội kiến Tổng thống Obama.
Các tiết lộ khác có tính tình báo nhạy cảm. Như Trung Quốc gọi Bắc Hàn là “thằng bé hư” (spolied child) và cho biết họ không “care” nếu Bắc Hàn sụp đổ và Nam Bắc Hàn thống nhất dưới chế độ chính trị của Nam Hàn. Giật gân hơn là tiết lộ Saudi Arabia chính thức ủng hộ Iran, nhưng đã ngầm yêu cầu Hoa Kỳ dùng sức mạnh quân sự để chận đứng chương trình chế tạo bom nguyên tử của Iran. Vua Addullah của Saudi Arabia qua một điện văn mật gởi chính phủ Hoa Kỳ viết nguyên văn, hãy “chặt đầu con rắn” (cut the head off the snake).
Cuộc tranh luận về lợi và hại của Wikileaks đang còn sôi nổi. Người khen Julian Assange đã hành động ngoạn mục giúp ổn định một số điểm nóng trên thế giới như làm cho Bắc Hàn bớt hung hăng, Do Thái bớt bị thế giới chê là quá khích về thái độ cứng rắn đối với chương trình nguyên tử của Iran. Kẻ chê cho rằng Julian Assange hành động một cách vô trách nhiệm làm giảm uy tín của các đại cường trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Liên bang Nga, tạo sự bất ổn định trên thế giới.
Đúng hay sai còn để hạ hồi phân giải. Nhưng một điều dễ thấy là thế giới trong sáng thì không ai cần Wkileaks. Nhưng một thế giới không trong sáng, hành động của Wikileaks có thể là một cần thiết . Thượng bất chính thì hạ tất loạn.
Trần Bình Nam
© Thông Luận 2011- DIỄN VĂN TRAO GIẢI NOBEL HÒA BÌNH 2010 Tạp chí Da Màu -
Cái ghế trống của Lưu Hiểu Ba trong buổi lễ trao giải Nobel Hòa Bình
Thưa các quốc vương, các quý ngài, quý bà, quý ông,
Ủy ban Nobel Na-Uy quyết định trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2010 cho Lưu Hiểu Ba vì sự đấu tranh bất bạo động và lâu dài cho những quyền con người cơ bản tại Trung Quốc. Ủy ban Nobel Na-Uy tin tưởng mạnh mẽ có một mối liên hệ mật thiết giữa nhân quyền và hòa bình. Những quyền như thế là điều kiện tiên quyết cho “tình hữu nghị giữa các quốc gia” điều mà Alfred Nobel đã viết trong chúc thư của ông.
Đoạn văn trên là phần mở đầu thông báo quyết định trao giải vì Hòa Bình của Ủy ban Nobel Na-Uy vào ngày 8 tháng 10 năm nay.
Chúng tôi rất tiếc người được trao giải đã không có mặt hôm nay. Ông đang bị biệt giam tại miền Đông Bắc Trung Quốc. Chẳng những thế vợ ông – bà Lưu Hà hoặc cả những họ hàng thân cận nhất cũng không thể có mặt tại đây với chúng ta. Cho nên sẽ không có huy chương hoặc bằng công nhận được trao tặng vào lúc này, tại đây.
Sự thật này đơn phương chứng tỏ rằng giải thưởng là cần thiết và xứng đáng. Chúng ta chúc mừng ông Lưu Hiểu Ba với giải thưởng Hòa Bình năm nay.
Đã có một số trường hợp trước đây khi người được trao giải bị ngăn cản tham dự lễ. Trong thực tế, những trường hợp như vậy với một số giải thưởng đã chứng tỏ nó có ý nghĩa và sự trân trọng nhất trong ánh sáng lịch sử. Thậm chí khi người được trao giải đến đây, họ cũng phải trải qua một vài lần bị các nhà chức trách tại chính quốc gia của họ kết tội.
Năm 1935 có một rắc rối lớn khi Ủy ban trao giải thưởng cho Carl von Ossietzky. Hitler đã tức giận và cấm tất cả công dân Đức nhận bất kì Giải Nobel nào. Nhà vua Haakon đã không tham dự lễ trao giải. Ossietzky cũng đã không đến Oslo, và đã mất khoảng hơn 1 năm sau đó.
Có một sự giận dữ đáng kể tại Moscow khi Andrej Sakharov nhận giải thưởng năm 1975. Cũng như thế, ông đã bị ngăn cản đích thân đi nhận giải thưởng. Ông đã cử vợ đi nhận thay. Điều tương tự cũng xảy ra đối với Lech Walesa vào năm 1983. Chính quyền Miến Điện cũng tức giận khi bà Aung San Suu Kyi nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Một lần nữa, người được trao giải không thế đến Oslo.
Năm 2003, Shirin Ebadi nhận giải Nobel Hòa Bình. Bà đã đến. Có nhiều điều có thể nói đến phản ứng của các nhà chức trách Iran lúc đó, nhưng Đại sứ quán Iran thực tế vẫn đến tham dự lễ trao giải.
Ủy ban Nobel Na-Uy đã trao bốn giải cho Nam Phi. Tất cả những người được trao giải đó đều đến Oslo, nhưng các giải thưởng cho Albert Lutuli năm 1960 và cho Desmond Tutu năm 1984 đã gây ra một cơn phẫn nộ đối với chính quyền phân biệt chủng tộc tại Nam Phi, trước khi những tán dương ca ngợi bùng phát đối với các giải thưởng dành cho Nelson Mandela và F.W. de Klerk vào năm 1993.
Điều chính yếu của các giải thưởng này dĩ nhiên chẳng bao giờ cốt để xúc phạm bất cứ ai. Mục đích của Ủy ban Nobel để nói lên điều gì đó về mối quan hệ giữa nhân quyền, dân chủ và hòa bình. Và điều đó rất quan trọng để nhắc nhở thế giới rằng các quyền đang được tận hưởng một cách rộng rãi ngày hôm nay đã được đấu tranh và chiến thắng bởi những người chịu những hiểm nguy to lớn.
Họ đã làm như thế vì người khác. Đó là lý do ông Lưu Hiểu Ba xứng đáng nhận được sự ủng hộ của chúng ta.
Mặc dù không có thành viên nào trong Ủy ban từng gặp ông Lưu, chúng tôi cảm nhận rằng chúng tôi biết ông ấy. Chúng tôi đã tìm hiểu ông sát sao qua một thời gian dài.
Ông Lưu sinh ngày 28-12-1955 tại Trường Xuân thuộc tỉnh Cát Lâm Trung Quốc. Ông có bằng cử nhân văn học tại trường đại học Cát Lâm, một bằng thạc sĩ và một bằng tiến sĩ tại đại học Sư phạm Bắc Kinh nơi ông cũng đã giảng dạy tại đấy. Ông có những thời kì sống ở nước ngoài, gồm cả những chuyến viếng thăm Oslo, Hawaii, đại học Columbia, New York.
Năm 1989, ông trở về quê hương tham gia vào hoạt động dân chủ sơ khai. Vào ngày 2-6, ông và một số bạn bè bắt đầu đình công tuyệt thực tại quảng trường Thiên An Môn biểu tình chống lại tình trạng khẩn cấp vừa được ban bố. Họ đã đưa ra tuyên ngôn dân chủ sáu điểm, do ông Lưu viết, phản đối chế độ độc tài và ủng hộ dân chủ. Ông Lưu phản đối bất kì các cuộc đấu tranh bằng thể lực chống lại chính quyền từ phía cho sinh viên. Ông cố gắng tìm giải pháp hòa bình cho căng thẳng giữa sinh viên và chính phủ. Bất bạo động đã được thể hiện rõ ràng trong thông điệp của ông. Ngày 4-6, ông và bạn bè đã cố ngăn cản cuộc xung đột giữa quân đội và sinh viên. Ông chỉ thành công một phần. Rất nhiều sinh mạng đã mất đi, phần lớn nằm ở ngoài quảng trường Thiên An Môn.
Ông Lưu đã nói với vợ mong muốn giải hòa bình năm nay dành cho những linh hồn đã mất vào ngày 4-6. Đây chính là vinh dự cho chúng tôi đã hoàn thành ước muốn của ông.
Ông Lưu đã nói rằng “Sự vĩ đại của việc phản kháng bất bạo động chính là con người thậm chí khi đối diện với sự bạo quyền và sự đau khổ từ đó mà ra, nạn nhân vẫn phản ứng lại sự hận thù bằng yêu thương, với thành kiến bằng khoan dung, với ngạo mạn bằng đức khiêm tốn, với tủi nhục bằng lòng phẩm giá, và bạo lực bằng trí tuệ.”
Thiên An Môn đã trở thành bước ngoặc trong cuộc đời ông Lưu.
Năm 1996, ông Lưu đã bị kết án ba năm cải tạo lao động vì tội “phát tán tin đồn và xuyên tạc”. Ông là chủ tịch trung tâm Văn bút Trung Quốc độc lập từ năm 2003 đến 2007. Ông Lưu đã viết gần 800 bài luận văn, 499 bài trong số đó được viết từ năm 2005. Ông là một trong các kiến trúc sư trưởng đứng đằng sau Hiến chương 08, được công bố vào ngày 10-12-2008, trong đó Lời Mở Đầu của bản hiến chương nói rằng: nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 Hiến pháp đầu tiên của Trung Quốc, kỷ niệm lần thứ 60 việc ban hành Bản tuyên ngôn quốc tế Nhân Quyền, kỷ niệm lần thứ 30 ngày khai sinh Bức tường Dân chủ, kỷ niệm lần thứ 10 ngày chính phủ Trung Quốc đặt bút ký vào Công ước quốc tế quyền dân sự và chính trị.” Hiến chương 08 bảo vệ các quyền cơ bản của con người và trong tiến trình cho đến nay được nhiều ngàn người ở Trung Quốc và nước ngoài ký tên.
Vào ngày 25-12-2009, ông Lưu đã bị kết án 11 năm tù và 2 năm bị tước các quyền về chính trị, theo lời lẽ của bản án, “kích động lật đổ chính quyền nhà nước, hệ thống xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính dân chủ của nhân dân.” Ông Lưu đã kiên trì cho rằng bản án đã vi phạm cả hiến pháp Trung Quốc và các quyền con người cơ bản.
Có rất nhiều người bất đồng chính kiến tại Trung Quốc và những ý kiến của họ khác nhau về nhiều điểm. Hình phạt nghiêm khắc áp đặt lên ông Lưu làm cho ông còn hơn là một phát ngôn viên trung tâm cho nhân quyền. Thực tế chỉ qua đêm, ông trở thành một biểu tượng đích thực, cả ở Trung Quốc và thế giới, cho sự đấu tranh cho các quyền con người tại Trung Quốc.
Thưa các quốc vương, quý bà, quý ông,
Trong suốt chiến tranh lạnh, những mối liên hệ giữa hòa bình và nhân quyền đã từng bị tranh cãi. Tuy nhiên, từ khi kết thúc chiến tranh lạnh hầu hết các nhà tìm kiếm hòa bình và các nhà khoa học chính trị đã nhấn mạnh rằng những mối liên hệ đó mật thiết đến chừng nào. Điều này, được cho là một trong những khám phá “vững mạnh” nhất mà họ đạt tới. Các chế độ dân chủ có thể khai chiến chống các chế độ độc tài, và chắc chắn là đã mở ra những cuộc chiến tranh thuộc địa, nhưng dường như không có một ví dụ nào về việc một chế độ dân chủ khai chiến với một nền dân chủ khác.
Ý nghĩa sâu xa của “tình hữu nghị giữa các quốc gia” mà Alfred Nobel đề cập trong chúc thư, và cũng chính là điều kiện tiên quyết cho hòa bình đích thực, khó mà tạo dựng khi không có nhân quyền và dân chủ.
Hiếm có những ví dụ nào trong lịch sử thế giới về một cường quốc đạt được một sự phát triển mau đến thế trong một thời kỳ dài đến thế như Trung Quốc. Kể từ 1978, năm này qua năm khác, thập kỷ này tiếp đến thập kỷ kia, tỉ suất phát triển của xứ sở này đứng ở mức từ 10% trở lên. Một vài năm trước sản lượng của xứ sở này đã lớn hơn của Đức, năm nay nó đã vượt qua Nhật Bản. Trung Quốc vì thế đã đạt được tổng sản lượng quốc gia lớn hàng thứ hai trên thế giới. Sản lượng quốc gia của Mỹ vẫn còn gấp ba so với Trung Quốc, nhưng trong khi Trung Quốc vẫn tiếp tục tiến tới thì Mỹ vẫn còn những khó khăn nghiêm trọng.
Thành công trong kinh tế đã cất vài trăm triệu người Trung Quốc ra khỏi đói nghèo. Về việc giảm thiểu số lượng người nghèo trên thế giới, Trung Quốc phải được trao tín nhiệm chủ yếu.
Chúng ta có thể nói trong một mức độ nhất định rằng Trung Quốc với dân số 1,3 tỷ đang gánh số phận của nhân loại trên đôi vai của mình. Nếu quốc gia này chứng minh khả năng phát triển nền kinh tế thị trường xã hội với các quyền công dân đầy đủ, thì nó sẽ có tác động thuận lợi lớn lao trên thế giới. Bằng không, đây sẽ là mối nguy cơ cho những khủng hoảng xã hội và kinh tế khởi lên tại xứ sở này, với những hậu quả tiêu cực cho tất cả chúng ta.
Kinh nghiệm lịch sử đem cho chúng ta lý do tin rằng sự phát triển kinh tế nhanh chóng liên tục tiền giả định những cơ hội cho việc nghiên cứu, tư duy và tranh luận tự do. Thêm nữa, khi không có tự do ngôn luận thì tham nhũng, lạm dụng quyền lực, và sự cai trị sai lầm sẽ phát triển. Mọi hệ thống quyền lực phải được đối trọng bằng sự kiểm soát dân cử, truyền thông tự do, và quyền của từng công dân được phê bình.
Những nhà nước ít nhiều chuyên quyền có thể có những thời kỳ dài phát triển kinh tế mau lẹ, nhưng không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các quốc gia giàu nhất trên thế giới đều dân chủ. Dân chủ huy động các nguồn nhân lực và kỹ thuật học mới.
Địa vị mới của Trung Quốc bao gồm trách nhiệm gia tăng. Trung Quốc phải sẵn sàng nhận sự phê phán và xem điều đó là tích cực như một cơ hội cho sự cải thiện. Đây phải là trường hợp cho bất cứ cường quốc nào. Tất cả chúng ta đã hình thành các ý kiến về vai trò của Mỹ trong suốt nhiều năm. Thân hữu và đồng minh đã phê phán xứ sở này cả về cuộc chiến Việt Nam và về khiếm khuyết quyền công dân cho người da màu. Rất nhiều người Mỹ đã phản đối giải thưởng Nobel vì hòa bình cho Martin Luther King năm 1964. Nhìn lại, chúng ta có thể thấy rằng nước Mỹ đã trở nên mạnh mẽ hơn khi người Mỹ Phi châu có được quyền của họ.
Nhiều người sẽ hỏi liệu có phải điểm yếu của Trung Quốc – dù với tất cả sức mạnh xứ sở này đang thể hiện – chính là bộc lộ sự không yếu kém khi bỏ tù một người trong 11 năm chỉ vì ông ấy phát biểu ý kiến về việc xứ sở của ông ấy nên được quản lý như thế nào.
Sự yếu kém này bộc lộ rõ trong bản án đối với ông Lưu, khi nó nhấn mạnh rằng đặc biệt quan trọng là ông đã phát tán ý kiến của ông trên Internet. Tuy nhiên những người sợ những tiến bộ kỹ thuật học sẽ có đủ mọi lý do sợ tương lai. Kỹ thuật học thông tin không thể bị thủ tiêu. Nó sẽ tiếp tục khai mở các xã hội. Như Tổng thống Nga Dmitrij Medvedev nói về điều đó trong bài diễn văn tại quốc hội Duma: “Kỹ thuật hóa về thông tin mới cho chúng ta một cơ hội được kết nối với thế giới. Thế giới và xã hội đang tăng trưởng cởi mở hơn dù cho giai cấp cai trị không ưa điều này.”
Không nghi ngờ gì TT Medvedev đã nghĩ về số phận Liên Xô. Sự đồng loạt cưỡng bách và kiểm soát tư tưởng đã ngăn cản xứ sở này tham gia vào cuộc cách mạng kỹ thuật học diễn ra trong thập niên 1970 và 1980. Hệ thống này đã sụp đổ. Xứ sở này hẳn đã có thể lợi lạt rất nhiều nếu bước vào cuộc đối thoại ngay từ thoạt đầu với những người như Andrej Sakharov.
Thưa các quốc vương, quý bà và quý ông.
Ngày nay chẳng nhà nước quốc gia nào hoặc đa số trong nhà nước quốc gia nào có một quyền uy vô hạn. Nhân quyền giới hạn những gì nhà nước quốc gia hoặc đa số trong nhà nước quốc gia có thể làm. Điều này phải được áp dụng cho tất cả nhà nước là thành viên của Liên Hiệp Quốc và đã ký vào Bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Trung quốc đã ký và thậm chí đã phê chuẩn một số công ước quốc tế chính về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Lao động quốc tế. Điều thú vị là Trung Quốc đã chấp nhận cơ chế giải quyết mâu thuẫn siêu quốc gia của Liên Hiệp Quốc.
Chính Hiến pháp của Trung Quốc nêu cao các quyền con người cơ bản. Điều 35 Hiến pháp xứ sở này như thế đã đặt định rằng “Những công dân của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do diễu hành, và tự do biểu tình”. Điều 41 bắt đầu bằng sự phát biểu rằng các công dân” có quyền phê phán và kiến nghị về bất cứ cơ quan hoặc viên chức nào của nhà nước”.
Ông Lưu đã thi hành quyền công dân của mình. Ông đã không làm gì sai trái. Vì vậy ông phải được phóng thích.
Trong khoảng thời gian 100 đến 150 năm qua, nhân quyền và dân chủ đã chiếm được một vị thế ngày càng mạnh mẽ hơn trên thế giới. Và cùng với nhân quyền và dân chủ là hòa bình. Điều này có thể nhìn thấy rõ ở châu Âu, nơi có rất nhiều cuộc chiến giao tranh, và những chính quyền thực dân đã khởi sự biết bao chiến tranh trên khắp thế giới. Châu Âu ngày nay là một châu lục hòa bình. Việc giải trừ chế độ thực dân sau Thế chiến thứ II cho một số xứ sở, đầu tiên ở châu Á và tiếp đến là châu Phi, cơ hội tự trị với sự tôn trọng các quyền con người cơ bản. Với Ấn Độ đi đầu, rất nhiều quốc gia đã nắm lấy cơ hội. Đối với những thập niên gần đây nhất, chúng ta đã thấy dân chủ đã củng cố vị trí của nó như thế nào ở châu Mỹ Latinh và ở Trung và Đông Âu. Rất nhiều xứ sở trong khu vự Hồi giáo trên thế giới đang bước trên con đường như vậy: Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Malaysia. Một vài xứ sở khác đang trong tiến trình khai mở hệ thống chính trị của họ.
Những nhà hoạt động nhân quyền tại Trung Quốc là những người bảo vệ cho trật tự quốc tế và là các xu hướng chính trong cộng đồng toàn cầu. Nhìn trong ánh sáng đó, họ như thế không chỉ là những người bất đồng chính kiến, mà là những đại biểu cho các đường lối chủ yếu cho sự phát triển trong thế giới ngày nay.
Ông Lưu đã bác bỏ sự phê phán Đảng Cộng Sản đồng nghĩa với sự xúc phạm quốc gia và nhân dân Trung Quốc. Ông lập luận rằng “Dù cho Đảng Cộng Sản là đảng cầm quyền, nó vẫn không thể được đánh đồng với xứ sở, chứ đừng nói đến quốc gia và văn hóa”. Những thay đổi ở Trung Quốc có thể phải có thời gian, một thời gian rất dài: những cải cách chính trị nên, như ông Lưu nói: “từng bước, ôn hòa, trật tự và được kiểm soát”. Trung Quốc đã có quá đủ những toan tính thay đổi bằng cách mạng. Chúng chỉ dẫn đến sự hỗn loạn. Nhưng như ông Lưu cũng viết “đã có một chuyển biến lớn lao hướng đến tính đa nguyên trong xã hội, và nhà chức trách không còn có thể kiểm soát toàn bộ xã hội.” Dù cho, quyền lực của chế độ có tỏ ra mạnh đến đâu đi nữa, mọi cá nhân đơn lẻ phải làm hết sức mình để sống, trong ngôn từ của ông, “sống một đời sống lương thiện với phẩm giá”.
Câu trả lời từ giới chức Trung Quốc là tuyên bố giải thưởng Nobel vì hòa bình năm nay sỉ nhục Trung Quốc và đưa ra những mô tả xúc phạm về ông Lưu.
Lịch sử cho thấy nhiều ví dụ các nhà lãnh đạo chính trị lợi dụng tình tự chủ nghĩa quốc gia và toan tính bôi nhọ những người bất đồng chính kiến. Họ sớm trở thành tay sai cho ngoại bang. Điều này đôi khi xảy ra dưới danh nghĩa dân chủ và tự do, nhưng hầu hết luôn luôn có một kết cục bi thảm.
Chúng ta nhận ra điều này trong luận điệu đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố: “một là bạn về phe tôi tôi hoặc chống lại tôi”. Những phương pháp phi dân chủ như tra tấn và bỏ tù không cần luận tội đã được sử dụng nhân danh tự do. Điều này đã dẫn đến sự phân cực nhiều hơn trên thế giới và gây tổn hại đến cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố.
Lưu Hiểu Ba là một người lạc quan, dù cho ông trải qua nhiều năm trong tù. Trong kháng cáo cuối cùng với tòa án vào ngày 23-12-2009, ông nói: “Tôi, tràn đầy lạc quan, nhìn về phía trước sự ra đời của một Trung Quốc tự do trong tương lai. Không có một thế lực nào có thể đặt dấu chấm hết cho việc tìm kiếm tự do của con người, và Trung Quốc kết cuộc sẽ trở thành một quốc gia được cai trị bằng pháp quyền, nơi nhân quyền ngự trị tối cao.”
Isaac Newton từng nói rằng: “Nếu tôi đã nhìn xa hơn, đó là bằng cách đứng trên vai của những người khổng lồ”. Khi chúng ta có thể nhìn về phía trước ngày hôm nay, đó là vì chúng ta đang đứng trên vai của rất nhiều người, những người đàn ông và đàn bà họ qua nhiều năm – thường khi với nguy cơ lớn – đã đứng lên cho những điều họ tin tưởng và như thế đã làm cho tự do của chúng ta khả dĩ.
Vì vậy: trong khi những người khác ngay thời điểm này đang đếm tiền, chuyên chú vào những lợi ích quốc gia ngắn hạn, hoặc còn thờ ơ, thì Ủy Ban Nobel Na-Uy một lần nữa đã chọn cách ủng hộ những người chiến đấu cho tất cả chúng ta.
Chúng tôi chúc mừng Lưu Hiểu Ba với giải Nobel vì hòa bình năm 2010. Những quan điểm của ông về lâu dài sẽ làm Trung Quốc hùng mạnh. Chúng tôi gửi đến ông và Trung Quốc những lời chúc tốt đẹp nhất
Thưa các quốc vương, các quý ngài, quý bà, quý ông,
Ủy ban Nobel Na-Uy quyết định trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2010 cho Lưu Hiểu Ba vì sự đấu tranh bất bạo động và lâu dài cho những quyền con người cơ bản tại Trung Quốc. Ủy ban Nobel Na-Uy tin tưởng mạnh mẽ có một mối liên hệ mật thiết giữa nhân quyền và hòa bình. Những quyền như thế là điều kiện tiên quyết cho “tình hữu nghị giữa các quốc gia” điều mà Alfred Nobel đã viết trong chúc thư của ông.
Đoạn văn trên là phần mở đầu thông báo quyết định trao giải vì Hòa Bình của Ủy ban Nobel Na-Uy vào ngày 8 tháng 10 năm nay.
Chúng tôi rất tiếc người được trao giải đã không có mặt hôm nay. Ông đang bị biệt giam tại miền Đông Bắc Trung Quốc. Chẳng những thế vợ ông – bà Lưu Hà hoặc cả những họ hàng thân cận nhất cũng không thể có mặt tại đây với chúng ta. Cho nên sẽ không có huy chương hoặc bằng công nhận được trao tặng vào lúc này, tại đây.
Sự thật này đơn phương chứng tỏ rằng giải thưởng là cần thiết và xứng đáng. Chúng ta chúc mừng ông Lưu Hiểu Ba với giải thưởng Hòa Bình năm nay.
Đã có một số trường hợp trước đây khi người được trao giải bị ngăn cản tham dự lễ. Trong thực tế, những trường hợp như vậy với một số giải thưởng đã chứng tỏ nó có ý nghĩa và sự trân trọng nhất trong ánh sáng lịch sử. Thậm chí khi người được trao giải đến đây, họ cũng phải trải qua một vài lần bị các nhà chức trách tại chính quốc gia của họ kết tội.
Năm 1935 có một rắc rối lớn khi Ủy ban trao giải thưởng cho Carl von Ossietzky. Hitler đã tức giận và cấm tất cả công dân Đức nhận bất kì Giải Nobel nào. Nhà vua Haakon đã không tham dự lễ trao giải. Ossietzky cũng đã không đến Oslo, và đã mất khoảng hơn 1 năm sau đó.
Có một sự giận dữ đáng kể tại Moscow khi Andrej Sakharov nhận giải thưởng năm 1975. Cũng như thế, ông đã bị ngăn cản đích thân đi nhận giải thưởng. Ông đã cử vợ đi nhận thay. Điều tương tự cũng xảy ra đối với Lech Walesa vào năm 1983. Chính quyền Miến Điện cũng tức giận khi bà Aung San Suu Kyi nhận giải Nobel Hòa Bình năm 1991. Một lần nữa, người được trao giải không thế đến Oslo.
Năm 2003, Shirin Ebadi nhận giải Nobel Hòa Bình. Bà đã đến. Có nhiều điều có thể nói đến phản ứng của các nhà chức trách Iran lúc đó, nhưng Đại sứ quán Iran thực tế vẫn đến tham dự lễ trao giải.
Ủy ban Nobel Na-Uy đã trao bốn giải cho Nam Phi. Tất cả những người được trao giải đó đều đến Oslo, nhưng các giải thưởng cho Albert Lutuli năm 1960 và cho Desmond Tutu năm 1984 đã gây ra một cơn phẫn nộ đối với chính quyền phân biệt chủng tộc tại Nam Phi, trước khi những tán dương ca ngợi bùng phát đối với các giải thưởng dành cho Nelson Mandela và F.W. de Klerk vào năm 1993.
Điều chính yếu của các giải thưởng này dĩ nhiên chẳng bao giờ cốt để xúc phạm bất cứ ai. Mục đích của Ủy ban Nobel để nói lên điều gì đó về mối quan hệ giữa nhân quyền, dân chủ và hòa bình. Và điều đó rất quan trọng để nhắc nhở thế giới rằng các quyền đang được tận hưởng một cách rộng rãi ngày hôm nay đã được đấu tranh và chiến thắng bởi những người chịu những hiểm nguy to lớn.
Họ đã làm như thế vì người khác. Đó là lý do ông Lưu Hiểu Ba xứng đáng nhận được sự ủng hộ của chúng ta.
Mặc dù không có thành viên nào trong Ủy ban từng gặp ông Lưu, chúng tôi cảm nhận rằng chúng tôi biết ông ấy. Chúng tôi đã tìm hiểu ông sát sao qua một thời gian dài.
Ông Lưu sinh ngày 28-12-1955 tại Trường Xuân thuộc tỉnh Cát Lâm Trung Quốc. Ông có bằng cử nhân văn học tại trường đại học Cát Lâm, một bằng thạc sĩ và một bằng tiến sĩ tại đại học Sư phạm Bắc Kinh nơi ông cũng đã giảng dạy tại đấy. Ông có những thời kì sống ở nước ngoài, gồm cả những chuyến viếng thăm Oslo, Hawaii, đại học Columbia, New York.
Năm 1989, ông trở về quê hương tham gia vào hoạt động dân chủ sơ khai. Vào ngày 2-6, ông và một số bạn bè bắt đầu đình công tuyệt thực tại quảng trường Thiên An Môn biểu tình chống lại tình trạng khẩn cấp vừa được ban bố. Họ đã đưa ra tuyên ngôn dân chủ sáu điểm, do ông Lưu viết, phản đối chế độ độc tài và ủng hộ dân chủ. Ông Lưu phản đối bất kì các cuộc đấu tranh bằng thể lực chống lại chính quyền từ phía cho sinh viên. Ông cố gắng tìm giải pháp hòa bình cho căng thẳng giữa sinh viên và chính phủ. Bất bạo động đã được thể hiện rõ ràng trong thông điệp của ông. Ngày 4-6, ông và bạn bè đã cố ngăn cản cuộc xung đột giữa quân đội và sinh viên. Ông chỉ thành công một phần. Rất nhiều sinh mạng đã mất đi, phần lớn nằm ở ngoài quảng trường Thiên An Môn.
Ông Lưu đã nói với vợ mong muốn giải hòa bình năm nay dành cho những linh hồn đã mất vào ngày 4-6. Đây chính là vinh dự cho chúng tôi đã hoàn thành ước muốn của ông.
Ông Lưu đã nói rằng “Sự vĩ đại của việc phản kháng bất bạo động chính là con người thậm chí khi đối diện với sự bạo quyền và sự đau khổ từ đó mà ra, nạn nhân vẫn phản ứng lại sự hận thù bằng yêu thương, với thành kiến bằng khoan dung, với ngạo mạn bằng đức khiêm tốn, với tủi nhục bằng lòng phẩm giá, và bạo lực bằng trí tuệ.”
Thiên An Môn đã trở thành bước ngoặc trong cuộc đời ông Lưu.
Năm 1996, ông Lưu đã bị kết án ba năm cải tạo lao động vì tội “phát tán tin đồn và xuyên tạc”. Ông là chủ tịch trung tâm Văn bút Trung Quốc độc lập từ năm 2003 đến 2007. Ông Lưu đã viết gần 800 bài luận văn, 499 bài trong số đó được viết từ năm 2005. Ông là một trong các kiến trúc sư trưởng đứng đằng sau Hiến chương 08, được công bố vào ngày 10-12-2008, trong đó Lời Mở Đầu của bản hiến chương nói rằng: nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 Hiến pháp đầu tiên của Trung Quốc, kỷ niệm lần thứ 60 việc ban hành Bản tuyên ngôn quốc tế Nhân Quyền, kỷ niệm lần thứ 30 ngày khai sinh Bức tường Dân chủ, kỷ niệm lần thứ 10 ngày chính phủ Trung Quốc đặt bút ký vào Công ước quốc tế quyền dân sự và chính trị.” Hiến chương 08 bảo vệ các quyền cơ bản của con người và trong tiến trình cho đến nay được nhiều ngàn người ở Trung Quốc và nước ngoài ký tên.
Vào ngày 25-12-2009, ông Lưu đã bị kết án 11 năm tù và 2 năm bị tước các quyền về chính trị, theo lời lẽ của bản án, “kích động lật đổ chính quyền nhà nước, hệ thống xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính dân chủ của nhân dân.” Ông Lưu đã kiên trì cho rằng bản án đã vi phạm cả hiến pháp Trung Quốc và các quyền con người cơ bản.
Có rất nhiều người bất đồng chính kiến tại Trung Quốc và những ý kiến của họ khác nhau về nhiều điểm. Hình phạt nghiêm khắc áp đặt lên ông Lưu làm cho ông còn hơn là một phát ngôn viên trung tâm cho nhân quyền. Thực tế chỉ qua đêm, ông trở thành một biểu tượng đích thực, cả ở Trung Quốc và thế giới, cho sự đấu tranh cho các quyền con người tại Trung Quốc.
Thưa các quốc vương, quý bà, quý ông,
Trong suốt chiến tranh lạnh, những mối liên hệ giữa hòa bình và nhân quyền đã từng bị tranh cãi. Tuy nhiên, từ khi kết thúc chiến tranh lạnh hầu hết các nhà tìm kiếm hòa bình và các nhà khoa học chính trị đã nhấn mạnh rằng những mối liên hệ đó mật thiết đến chừng nào. Điều này, được cho là một trong những khám phá “vững mạnh” nhất mà họ đạt tới. Các chế độ dân chủ có thể khai chiến chống các chế độ độc tài, và chắc chắn là đã mở ra những cuộc chiến tranh thuộc địa, nhưng dường như không có một ví dụ nào về việc một chế độ dân chủ khai chiến với một nền dân chủ khác.
Ý nghĩa sâu xa của “tình hữu nghị giữa các quốc gia” mà Alfred Nobel đề cập trong chúc thư, và cũng chính là điều kiện tiên quyết cho hòa bình đích thực, khó mà tạo dựng khi không có nhân quyền và dân chủ.
Hiếm có những ví dụ nào trong lịch sử thế giới về một cường quốc đạt được một sự phát triển mau đến thế trong một thời kỳ dài đến thế như Trung Quốc. Kể từ 1978, năm này qua năm khác, thập kỷ này tiếp đến thập kỷ kia, tỉ suất phát triển của xứ sở này đứng ở mức từ 10% trở lên. Một vài năm trước sản lượng của xứ sở này đã lớn hơn của Đức, năm nay nó đã vượt qua Nhật Bản. Trung Quốc vì thế đã đạt được tổng sản lượng quốc gia lớn hàng thứ hai trên thế giới. Sản lượng quốc gia của Mỹ vẫn còn gấp ba so với Trung Quốc, nhưng trong khi Trung Quốc vẫn tiếp tục tiến tới thì Mỹ vẫn còn những khó khăn nghiêm trọng.
Thành công trong kinh tế đã cất vài trăm triệu người Trung Quốc ra khỏi đói nghèo. Về việc giảm thiểu số lượng người nghèo trên thế giới, Trung Quốc phải được trao tín nhiệm chủ yếu.
Chúng ta có thể nói trong một mức độ nhất định rằng Trung Quốc với dân số 1,3 tỷ đang gánh số phận của nhân loại trên đôi vai của mình. Nếu quốc gia này chứng minh khả năng phát triển nền kinh tế thị trường xã hội với các quyền công dân đầy đủ, thì nó sẽ có tác động thuận lợi lớn lao trên thế giới. Bằng không, đây sẽ là mối nguy cơ cho những khủng hoảng xã hội và kinh tế khởi lên tại xứ sở này, với những hậu quả tiêu cực cho tất cả chúng ta.
Kinh nghiệm lịch sử đem cho chúng ta lý do tin rằng sự phát triển kinh tế nhanh chóng liên tục tiền giả định những cơ hội cho việc nghiên cứu, tư duy và tranh luận tự do. Thêm nữa, khi không có tự do ngôn luận thì tham nhũng, lạm dụng quyền lực, và sự cai trị sai lầm sẽ phát triển. Mọi hệ thống quyền lực phải được đối trọng bằng sự kiểm soát dân cử, truyền thông tự do, và quyền của từng công dân được phê bình.
Những nhà nước ít nhiều chuyên quyền có thể có những thời kỳ dài phát triển kinh tế mau lẹ, nhưng không phải ngẫu nhiên mà hầu như tất cả các quốc gia giàu nhất trên thế giới đều dân chủ. Dân chủ huy động các nguồn nhân lực và kỹ thuật học mới.
Địa vị mới của Trung Quốc bao gồm trách nhiệm gia tăng. Trung Quốc phải sẵn sàng nhận sự phê phán và xem điều đó là tích cực như một cơ hội cho sự cải thiện. Đây phải là trường hợp cho bất cứ cường quốc nào. Tất cả chúng ta đã hình thành các ý kiến về vai trò của Mỹ trong suốt nhiều năm. Thân hữu và đồng minh đã phê phán xứ sở này cả về cuộc chiến Việt Nam và về khiếm khuyết quyền công dân cho người da màu. Rất nhiều người Mỹ đã phản đối giải thưởng Nobel vì hòa bình cho Martin Luther King năm 1964. Nhìn lại, chúng ta có thể thấy rằng nước Mỹ đã trở nên mạnh mẽ hơn khi người Mỹ Phi châu có được quyền của họ.
Nhiều người sẽ hỏi liệu có phải điểm yếu của Trung Quốc – dù với tất cả sức mạnh xứ sở này đang thể hiện – chính là bộc lộ sự không yếu kém khi bỏ tù một người trong 11 năm chỉ vì ông ấy phát biểu ý kiến về việc xứ sở của ông ấy nên được quản lý như thế nào.
Sự yếu kém này bộc lộ rõ trong bản án đối với ông Lưu, khi nó nhấn mạnh rằng đặc biệt quan trọng là ông đã phát tán ý kiến của ông trên Internet. Tuy nhiên những người sợ những tiến bộ kỹ thuật học sẽ có đủ mọi lý do sợ tương lai. Kỹ thuật học thông tin không thể bị thủ tiêu. Nó sẽ tiếp tục khai mở các xã hội. Như Tổng thống Nga Dmitrij Medvedev nói về điều đó trong bài diễn văn tại quốc hội Duma: “Kỹ thuật hóa về thông tin mới cho chúng ta một cơ hội được kết nối với thế giới. Thế giới và xã hội đang tăng trưởng cởi mở hơn dù cho giai cấp cai trị không ưa điều này.”
Không nghi ngờ gì TT Medvedev đã nghĩ về số phận Liên Xô. Sự đồng loạt cưỡng bách và kiểm soát tư tưởng đã ngăn cản xứ sở này tham gia vào cuộc cách mạng kỹ thuật học diễn ra trong thập niên 1970 và 1980. Hệ thống này đã sụp đổ. Xứ sở này hẳn đã có thể lợi lạt rất nhiều nếu bước vào cuộc đối thoại ngay từ thoạt đầu với những người như Andrej Sakharov.
Thưa các quốc vương, quý bà và quý ông.
Ngày nay chẳng nhà nước quốc gia nào hoặc đa số trong nhà nước quốc gia nào có một quyền uy vô hạn. Nhân quyền giới hạn những gì nhà nước quốc gia hoặc đa số trong nhà nước quốc gia có thể làm. Điều này phải được áp dụng cho tất cả nhà nước là thành viên của Liên Hiệp Quốc và đã ký vào Bản tuyên ngôn quốc tế nhân quyền. Trung quốc đã ký và thậm chí đã phê chuẩn một số công ước quốc tế chính về nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và Tổ chức Lao động quốc tế. Điều thú vị là Trung Quốc đã chấp nhận cơ chế giải quyết mâu thuẫn siêu quốc gia của Liên Hiệp Quốc.
Chính Hiến pháp của Trung Quốc nêu cao các quyền con người cơ bản. Điều 35 Hiến pháp xứ sở này như thế đã đặt định rằng “Những công dân của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do diễu hành, và tự do biểu tình”. Điều 41 bắt đầu bằng sự phát biểu rằng các công dân” có quyền phê phán và kiến nghị về bất cứ cơ quan hoặc viên chức nào của nhà nước”.
Ông Lưu đã thi hành quyền công dân của mình. Ông đã không làm gì sai trái. Vì vậy ông phải được phóng thích.
Trong khoảng thời gian 100 đến 150 năm qua, nhân quyền và dân chủ đã chiếm được một vị thế ngày càng mạnh mẽ hơn trên thế giới. Và cùng với nhân quyền và dân chủ là hòa bình. Điều này có thể nhìn thấy rõ ở châu Âu, nơi có rất nhiều cuộc chiến giao tranh, và những chính quyền thực dân đã khởi sự biết bao chiến tranh trên khắp thế giới. Châu Âu ngày nay là một châu lục hòa bình. Việc giải trừ chế độ thực dân sau Thế chiến thứ II cho một số xứ sở, đầu tiên ở châu Á và tiếp đến là châu Phi, cơ hội tự trị với sự tôn trọng các quyền con người cơ bản. Với Ấn Độ đi đầu, rất nhiều quốc gia đã nắm lấy cơ hội. Đối với những thập niên gần đây nhất, chúng ta đã thấy dân chủ đã củng cố vị trí của nó như thế nào ở châu Mỹ Latinh và ở Trung và Đông Âu. Rất nhiều xứ sở trong khu vự Hồi giáo trên thế giới đang bước trên con đường như vậy: Thổ Nhĩ Kỳ, Indonesia, Malaysia. Một vài xứ sở khác đang trong tiến trình khai mở hệ thống chính trị của họ.
Những nhà hoạt động nhân quyền tại Trung Quốc là những người bảo vệ cho trật tự quốc tế và là các xu hướng chính trong cộng đồng toàn cầu. Nhìn trong ánh sáng đó, họ như thế không chỉ là những người bất đồng chính kiến, mà là những đại biểu cho các đường lối chủ yếu cho sự phát triển trong thế giới ngày nay.
Ông Lưu đã bác bỏ sự phê phán Đảng Cộng Sản đồng nghĩa với sự xúc phạm quốc gia và nhân dân Trung Quốc. Ông lập luận rằng “Dù cho Đảng Cộng Sản là đảng cầm quyền, nó vẫn không thể được đánh đồng với xứ sở, chứ đừng nói đến quốc gia và văn hóa”. Những thay đổi ở Trung Quốc có thể phải có thời gian, một thời gian rất dài: những cải cách chính trị nên, như ông Lưu nói: “từng bước, ôn hòa, trật tự và được kiểm soát”. Trung Quốc đã có quá đủ những toan tính thay đổi bằng cách mạng. Chúng chỉ dẫn đến sự hỗn loạn. Nhưng như ông Lưu cũng viết “đã có một chuyển biến lớn lao hướng đến tính đa nguyên trong xã hội, và nhà chức trách không còn có thể kiểm soát toàn bộ xã hội.” Dù cho, quyền lực của chế độ có tỏ ra mạnh đến đâu đi nữa, mọi cá nhân đơn lẻ phải làm hết sức mình để sống, trong ngôn từ của ông, “sống một đời sống lương thiện với phẩm giá”.
Câu trả lời từ giới chức Trung Quốc là tuyên bố giải thưởng Nobel vì hòa bình năm nay sỉ nhục Trung Quốc và đưa ra những mô tả xúc phạm về ông Lưu.
Lịch sử cho thấy nhiều ví dụ các nhà lãnh đạo chính trị lợi dụng tình tự chủ nghĩa quốc gia và toan tính bôi nhọ những người bất đồng chính kiến. Họ sớm trở thành tay sai cho ngoại bang. Điều này đôi khi xảy ra dưới danh nghĩa dân chủ và tự do, nhưng hầu hết luôn luôn có một kết cục bi thảm.
Chúng ta nhận ra điều này trong luận điệu đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố: “một là bạn về phe tôi tôi hoặc chống lại tôi”. Những phương pháp phi dân chủ như tra tấn và bỏ tù không cần luận tội đã được sử dụng nhân danh tự do. Điều này đã dẫn đến sự phân cực nhiều hơn trên thế giới và gây tổn hại đến cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa khủng bố.
Lưu Hiểu Ba là một người lạc quan, dù cho ông trải qua nhiều năm trong tù. Trong kháng cáo cuối cùng với tòa án vào ngày 23-12-2009, ông nói: “Tôi, tràn đầy lạc quan, nhìn về phía trước sự ra đời của một Trung Quốc tự do trong tương lai. Không có một thế lực nào có thể đặt dấu chấm hết cho việc tìm kiếm tự do của con người, và Trung Quốc kết cuộc sẽ trở thành một quốc gia được cai trị bằng pháp quyền, nơi nhân quyền ngự trị tối cao.”
Isaac Newton từng nói rằng: “Nếu tôi đã nhìn xa hơn, đó là bằng cách đứng trên vai của những người khổng lồ”. Khi chúng ta có thể nhìn về phía trước ngày hôm nay, đó là vì chúng ta đang đứng trên vai của rất nhiều người, những người đàn ông và đàn bà họ qua nhiều năm – thường khi với nguy cơ lớn – đã đứng lên cho những điều họ tin tưởng và như thế đã làm cho tự do của chúng ta khả dĩ.
Vì vậy: trong khi những người khác ngay thời điểm này đang đếm tiền, chuyên chú vào những lợi ích quốc gia ngắn hạn, hoặc còn thờ ơ, thì Ủy Ban Nobel Na-Uy một lần nữa đã chọn cách ủng hộ những người chiến đấu cho tất cả chúng ta.
Chúng tôi chúc mừng Lưu Hiểu Ba với giải Nobel vì hòa bình năm 2010. Những quan điểm của ông về lâu dài sẽ làm Trung Quốc hùng mạnh. Chúng tôi gửi đến ông và Trung Quốc những lời chúc tốt đẹp nhất