Thứ Hai, 31 tháng 1, 2011

TƯƠNG LAI CỦA SỨC MẠNH MỸ

TƯƠNG LAI CỦA SỨC MẠNH MỸ
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Chủ Nhật, ngày 30/01/2011
(Tạp chí “Foreign Affairs” số 11-12/2010)
Thế kỷ 21 bắt đầu bằng một sự phân phối rất không đồng đều các nguồn lực sức mạnh. Với 5 phần trăm dân số thế giới, Mỹ chiếm khoảng một phần tư sản lượng kinh tế toàn cầu, chịu trách nhiệm đối với gần một nửa chi phí quân sự toàn cầu, và có các nguồn lực sức mạnh mềm văn hoá và giáo dục rộng lớn nhất. Tất cả điều này vẫn đúng, nhưng tương lai của sức mạnh Mỹ được tranh luận một cách sôi nổi. Nhiều nhà quan sát đã lý giải cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 như là khởi đầu cho sự suy đoán của Mỹ. Chẳng hạn, Hội đồng Tình báo quốc gia đã dự đoán rằng vào năm 2025, “Mỹ sẽ vẫn là cường quốc ưu việt, nhưng ưu thế đó của Mỹ sẽ bị giảm đi nhiều”.
Sức mạnh là khả năng đạt được những kết quả mà người ta mong muốn, và các nguồn lực tạo ra nó thay đổi trong những bối cảnh khác nhau. Tây Ban Nha trong thế kỷ 16 đã tận dụng quyền kiểm soát của mình đối với các thuộc địa và váng nén, Hà Lan trong thế kỷ 17 đã hưởng lợi từ thương mại và tài chính, Pháp trong thế kỷ 18 đã hưởng lợi từ dân số và quân đội to lớn của mình, và Anh trong thế kỷ 19 đã tìm được sức mạnh từ sự ưu việt của mình trong Cách mạng Công nghiệp và hải quân của nước này. Thế kỷ này được đánh dấu bằng một cuộc cách mạng phát triển nhanh chóng trong công nghệ thông tin và toàn cầu hoá, và để hiểu cuộc cách mạng này, cần phải tránh một số cạm bẫy.
Thứ nhất, người ta phải thận trọng trước những phép ẩn dụ gây hiểu lầm của sự suy thoái hữu cơ. Các quốc gia không giống như con người, với tuổi thọ có thể dự đoán được. La Mã vẫn thống trị trong hơn ba thế kỷ sau thời kỳ đỉnh cao quyền lực của mình, và thậm chí khi đó nó đã không khuất phục trước sự trỗi dậy của một nhà nước khác. Mặc dù những dự đoán có vẻ hợp thời về việc Trung Quốc, Ấn Độ hay Braxin vượt qua Mỹ trong những thập kỷ tới, mối đe doạ lớn hơn có thể đến từ những người man di hiện đại và những bên tham gia không phải nhà nước. Trong một thế giới dựa trên thông tin, sự khuếch tán sức mạnh có thể tạo ra một nguy cơ lớn hơn sự chuyển tiếp quyền lực. Sự hiểu biết thông tin thường cho rằng nhà nước với quân đội lớn nhất chiếm ưu thế, nhưng trong thời đại thông tin, nhà nước (hoặc bên tham gia không phải nhà nước) với câu chuyện hay nhất có thể đôi khi giành chiến thắng.
Ngày nay sức mạnh được phân bổ trong một mô hình giống như một ván cờ ba chiều phức tạp. Trên bàn cờ đầu, sức mạnh quân sự phần lớn là đơn cực, và Mỹ có thể giữ vị trí hàng đầu trong khoảng một thời gian. Ở bàn cờ giữa, sức mạnh kinh tế đã là đa cực trong hơn một thập kỷ, với Mỹ, châu Âu, Nhật Bản và Trung Quốc như là những bên tham gia chủ yếu và những nước khác đang có được tầm quan trọng. Bàn cờ bên dưới là lĩnh vực của các mối quan hệ xuyên quốc gia. Nó bao gồm các bên tham gia không phải nhà nước đa dạng như các chủ ngân hàng chuyển tiền bằng điện tử, những phần tử khủng bố buôn bán vũ khí, những hacker đe doạ an ninh mạng, và những thách thức như bệnh dịch và biến đổi khí hậu. Ở bàn cờ bên dưới này, sức mạnh bị khuếch tán một cách rộng rãi, và không có ý nghĩa gì khi đề cập đến đơn cực, đa cực hay bá quyền.
Trong hoạt động chính trị liên nhà nước, nhân tố quan trọng nhất sẽ là sự trở lại tiếp tục của châu Á trên vũ đài thế giới. Vào năm 1750, châu Á đã chiếm hơn một nửa dân số và sản lượng kinh tế của thế giới. Cho đến năm 1900, sau cuộc Cách mạng Công nghiệp ở châu Âu và Mỹ, phần đóng góp của châu Á thu hẹp lại còn một phần năm sản lượng kinh tế toàn cầu. Đến năm 2050, châu Á sẽ trên con đường trở lại phần đóng góp lịch sử của mình. Sự trỗi dậy của Trung Quốc và Ấn Độ có thể tạo ra sự bất ổn, nhưng đây là một vấn đề với những tiền lệ, và lịch sử cho thấy các chính sách có thể ảnh hưởng đến kết quả như thế nào.
Sự suy giảm bá quyền?
Hiện nay là hợp thời khi so sánh sức mạnh của Mỹ với sức mạnh của Anh cách đây một thế kỷ và dự đoán một sự suy giảm bá quyền tương tự. Một số người Mỹ phản ứng một cách cảm tính đối với ý tưởng về sự suy thoái, nhưng sẽ là khác thường và không mang tính lịch sử khi tin rằng Mỹ sẽ mãi mãi có một phần vượt trội trong các nguồn lực sức mạnh. Từ “suy thoái” pha trộn hai khía cạnh khác nhau: suy thoái tuyệt đối, theo nghĩa suy tàn, và suy thoái tương đối, trong đó các nguồn lực sức mạnh của những nhà nước khác tăng lên và được sử dụng hiệu quả hơn.
Điểm tương đồng với sự suy thoái của Anh gây hiểu nhầm. Anh đã có vị trí hàng đầu về hải quân và một đế chế mà ở đó mặt trời không bao giờ lặn, nhưng đến Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, đất nước đứng chỉ thứ tư trong số các nước lớn về phần nhân viên quân sự, thứ tư về GDP, và thứ ba về chi phí quân sự. Với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, việc bảo vệ đế chế đã trở thành một gánh nặng hơn là tài sản. Cho dù nói về một đế chế Mỹ, Mỹ có quyền tự do hành động hơn Anh. Và trong khi Anh phải đối mặt với những nước láng giềng trỗi dậy, Đức và Nga, thì Mỹ được lợi từ việc được bao quanh bởi hai đại dương và những người láng giềng yếu hơn.
Bất chấp những khác biệt như vậy, người Mỹ nghiêng về những chu kỳ tin vào sự suy thoái của chính mình. Những thành viên đã viết ra Hiến pháp Mỹ đã lo ngại về những so sánh với nền cộng hoà La Mã. Charles Dickens đã nhận xét cách đây một thế kỷ rưỡi: “Đối với một người, nếu tin vào cá nhân các công dân của nước này thì [nước Mỹ] luôn suy yếu, và luôn đình trệ, và luôn ở trong một cuộc khủng hoảng đáng báo động, và không bao giờ khác được”. Trong nửa cuối thế kỷ, việc tin vào sự suy thoái của Mỹ đã nổi lên sau khi Liên Xô phóng Sputnik vào năm 1957, sau những điều chỉnh kinh tế của Tổng thống Richard Nixon và các cú sốc dầu lửa những năm 1970, và sau khi đóng cửa các ngành công nghiệp vùng vành đai phát triển chậm Rust Belt (Rust Belt là tên một khu vực ở miền Bắc nước Mỹ, bao gồm các bang Illinois, Michigan, Indiân, Ohio và Wisconsin, nơi nhiều ngành hớn, đặc biệt là các ngành sản xuất thép và ôtô, đã từng sử dụng nhiều nhân công nhưng ngày càng ít thành công) và những thâm hụt ngân sách trong kỷ nguyên Reagan. Mười năm sau, người Mỹ tin rằng nước Mỹ là một siêu cường duy nhất và hiện nay các cuộc thăm dò cho thấy rằng nhiều người lại tin vào sự suy thoái.
Các học giả than vãn về sự bất lực của Oasinhton trong việc kiểm soát những nhà nước như Ápganixtan hay Iran, nhưng họ để cho hào quang của quá khứ tô màu cho những đánh giá của mình. Sức mạnh của Mỹ không phải là cái đã từng có, nhưng nó cũng chưa bao giờ thực sự to lớn như được cho là vậy. Sau Chiến tranh thế giới thứ Hai, Mỹ có vũ khí hạt nhân và một ưu thế áp đảo về sức mạnh kinh tế nhưng tuy thế không thể ngăn ngừa “việc mất” Trung Quốc, không thể đẩy lui chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu, thoát khỏi sự bế tắc trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, ngăn chặn “việc mất” miền Bắc Việt Nam, hay lật đổ chế độ Castro ở Cuba. Sức mạnh đo được trong các nguồn lực hiếm khi ngang bằng với sức mạnh đo được trong những kết quả được ưa thích hơn, và những chu kỳ tin vào sự suy thoái bộc lộ ra là về tâm lý hơn là về những thay đổi thực sự trong các nguồn lực sức mạnh. Đáng tiếc là, những sự tin tưởng nhầm lẫn về suy thoái – ở trong nước và nước ngoài – có thể dẫn đến những sai lầm nguy hiểm trong chính sách.
Trung Quốc trỗi dậy
Trong hơn một thập kỷ, nhiều người đã nhìn Trung Quốc như là đối thủ có khả năng nhất để cân bằng sức mạnh Mỹ hay vượt qua nó. Một số người đã vạch ra những sự tương đồng với thách thức mà nước Đức đế quốc đã đặt ra cho Anh vào đầu thế kỷ trước. Một cuốn sách gần đây (của Martin Jacques) còn được đặt tên là Khi Trung Quốc thống trị thế giới: Sự kết thúc của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự toàn cầu mới. Goldman Sachs đã dự kiến rằng tổng quy mô của nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt của Mỹ vào năm 2027.
Tuy nhiên, Trung Quốc còn một con đường dài để tiến tới ngang bằng với các nguồn lực sức mạnh của Mỹ và nước này vẫn còn phải đối mặt với nhiều trở ngại đối với sự phát triển của mình. Ngay cả nếu tổng GDP của Trung Quốc vượt qua của Mỹ vào khoảng năm 2030, hai nền kinh tế, dù đại thể tương đương về quy mô, sẽ không tương đương về thành phần. Trung Quốc sẽ vẫn có một khu vực nông thôn kém phát triển rộng lớn, và nước này bắt đầu phải đối mặt với những vấn đề nhân khẩu học từ những tác động chậm của chính sách một con của mình. Thu nhập tính theo đầu người cung cấp một thước đo sự tinh vi của một nền kinh tế. Giả sử một tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc là 6% và tỷ lệ tăng trưởng GDP của Mỹ chỉ có 2% sau năm 2030, Trung Quốc có thể sẽ không ngang bằng với Mỹ trong thu nhập tính theo đầu người cho đến một lúc nào đó vào khoảng giữa thế kỷ. Nói cách khác, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ấn tượng và dân số ngày càng tăng của Trung Quốc sẽ có khả năng dẫn đến nền kinh tế Trung Quốc vượt nền kinh tế Mỹ về tổng quy mô trong một vài thập kỷ, nhưng nó không giống như là sự ngang bằng.
Hơn nữa, những dự đoán thẳng băng có thể khiến hiểu nhầm, và các tỷ lệ tăng trưởng nói chung chậm lại khi các nền kinh tế đạt tới những mức độ phát triển cao. Hệ thống chính trị độc đoán của Trung Quốc đã thể hiện một khả năng đầy ấn tượng khai thác sức mạnh của đất nước, nhưng liệu chính phủ có thể duy trì khả năng đó trong dài hạn hay không là một điều bí ẩn cả đối với người bên ngoài lẫn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Không giống như Ấn Độ, vốn được sinh ra với một hiến pháp dân chủ, Trung Quốc vẫn chưa tìm ra con đường để giải quyết vấn đề đòi hỏi tham gia vào chính trị (nếu không phải là dân chủ) có xu hướng đi cùng với việc tăng thu nhập bình quân đầu người. Liệu Trung Quốc có thể phát triển một công thức quản lý một tầng lớp trung lưu thành thị đang mở rộng, sự bất bình đẳng khu vực, đói nghèo ở nông thôn, và sự oán giận giữa các nhóm thiểu số sắc tộc hay không thì vẫn còn phải xem xét.
Một số người đã lập luận rằng Trung Quốc đặt mục tiêu thách thức vị trí của Mỹ ở Đông Á và cuối là thế giới. Ngay cả nếu đây là một sự đánh giá chính xác về những ý định hiện nay của Trung Quốc (và thậm chí bản thân người Trung Quốc không thể biết quan điểm của những thế hệ tương lai), điều đáng ngờ là Trung Quốc sẽ có khả năng quân sự để khiến điều này có thể sớm thực hiện được bất cứ lúc nào. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ phải đấu tranh với những phản ứng của những nước khác và những sự kiềm chế được tạo ra bởi nhu cầu của Trung Quốc đối với các thị trường và nguồn lực bên ngoài. Một tư thế quân sự quá hung hăng của Trung Quốc có thể tạo ra một sự liên minh bù lại giữa các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ làm suy yếu cả sức mạnh cứng lẫn sức mạnh mềm của nước này.
Sự trỗi dậy của sức mạnh Trung Quốc ở châu Á bị cạnh tranh bởi cả Ấn Độ lẫn Nhật Bản (cũng như những nhà nước khác), và điều đó tạo ra một lợi thế sức mạnh chủ yếu cho Mỹ. Liên minh Mỹ – Nhật và sự cải thiện trong các mối quan hệ Mỹ-Ấn có nghĩa rằng Trung Quốc không thể dễ dàng đánh bật người Mỹ ra khỏi châu Á. Từ quan điểm sức mạnh đó, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Ôxtrâylia, và những nước khác có thể can dự với Trung Quốc và tạo ra những sự khích lệ để nước này đóng một vai trò có trách nhiệm, trong khi ngăn cản khả năng cư xử hung hăng khi sức mạnh của Trung Quốc tăng lên.
Sự suy tàn ở trong nước?
Một số người lập luận rằng Mỹ gánh chịu tổn thất bởi “sự dàn trải quá mức kiểu đế quốc”, nhưng cho đến nay, thực tế không đúng với thuyết đó. Ngược lại, các khoản chi tiêu cho quốc phòng và các vấn đề quốc tế đã giảm đi như là một phần của GDP trong vài thập kỷ vừa qua. Tuy vậy, Mỹ có thể suy thoái không phải vì sự dàn trải quá mức kiểu đế quốc mà vì khả năng hoạt động kém ở trong nước. La Mã mục nát từ bên trong, và một số nhà quan sát, lưu ý đến tình trạng xấu đi trong hoạt động chính trị của Mỹ hiện nay, dự đoán rằng Mỹ sẽ mất đi khả năng của mình ảnh hưởng đến các sự kiện của thế giới bởi các cuộc chiến trong nước về văn hoá, sự sụp đổ của các thể chế chính trị nước này, và sự đình trệ về kinh tế. Không thể loại bỏ khả năng này, nhưng các xu thế không rõ ràng như tâm trạng u ám hiện nay cho thấy.
Mặc dù Mỹ có nhiều vấn đề về xã hội – và luôn có – họ dường như không trở nên tồi tệ đi theo bất cứ cách thức thẳng băng nào. Một số trong những vấn đề đó thậm chí còn đang cải thiện, như tỷ lệ tội phạm, ly hôn và mang thai ở tuổi vị thành niên. Mặc dù có các cuộc chiến văn hoá đối với những vấn đề như kết hôn đồng giới và phá thai, các cuộc thăm dò cho thấy một sự gia tăng tổng thể về sự dung nạp. Xã hội dân sự vững mạnh, và tỷ lệ đi đến nhà thờ cao, 42%. Những cuộc chiến văn hoá trước đây của đất nước này, về nhập cư, nô lệ, tiến hoá, sự ôn hoà, chủ nghĩa McCarthy và nhân quyền, được cho là còn nghiêm trọng hơn bất cứ cuộc chiến nào của ngày nay.
Một mối lo ngại nghiêm trọng hơn sẽ là liệu đất nước này có chuyển sang hướng nội và hạn chế một cách trầm trọng sự nhập cư. Với mức nhập cư hiện nay của mình, Mỹ là một trong số ít những nước phát triển có thể tranh được sự suy giảm về nhân khẩu học và giữ phần đóng góp của mình trong dân số thế giới, nhưng điều này có thể thay đổi nếu sự bài ngoại hay những phản ứng đối với khủng bố đã đóng cửa các đường biên giới của nước này. Tỷ lệ phần trăm các cư dân sinh ra ở nước ngoài ở Mỹ đã đạt đỉnh cao của thế kỷ 20, 14,7% vào năm 1910. Hiện nay, 11,7% cư dân Mỹ được sinh ra ở nước ngoài, nhưng vào năm 2009, 50% người Mỹ ủng hộ giảm nhập cư, tăng từ 39% vào năm 2008. Suy thoái kinh tế chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề.
Mặc dù một số tốc độ nhập cư quá nhanh có thể tạo ra những vấn đề xã hội, nhưng về dài hạn sự nhập cư củng cố sức mạnh của Mỹ. Ngày nay, Mỹ là nước đông dân thứ ba trên thế giới; 50 năm kể từ bây giờ, nó có thể vẫn là thứ ba (sau Ấn Độ và Trung Quốc). Điều này không chỉ liên quan đến sức mạnh kinh tế, mà do gần như tất cả các nước phát triển đang già đi và phải đối mặt với gánh nặng lo liệu cho thế hệ già hơn, sự nhập cư có thể giúp giảm bớt tính gay gắt của vấn đề chính sách do kết quả của điều đó. Thêm vào đó, có một sự tương quan giữa số visa H-1B và số bằng sáng chế được đệ trình tại Mỹ. Vào năm 1998, các kỹ sư sinh ra tại Trung Quốc và Ấn Độ điều hành một phần tư các doanh nghiệp công nghệ cao của Thung lũng Silicon, và vào năm 2005, người ta thấy cứ bốn công ty công nghệ khởi nghiệp của Mỹ trong thập kỷ qua thì có một công ty là do người nhập cư đã giúp khởi đầu.
Quan trọng không kém là những lợi ích của sự nhập cư đối với sức mạnh mềm của Mỹ. Bị thu hút bởi sự phấn đấu của những người nhập cư Mỹ, mọi người muốn tới Mỹ. Nước Mỹ là một cục nam châm, và nhiều người có thể hình dung bản thân mình là người Mỹ. Nhiều người Mỹ thành công trông giống như người ở những nước khácl. Thay vì làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm, sự nhập cư tăng cường cả hai. Khi Lý Quang Diệu của Xinhgapo kết luận rằng Trung Quốc sẽ không vượt qua Mỹ với tư cách cường quốc hàng đầu của thế kỷ 21, ông trích dẫn khả năng của Mỹ thu hút những người giỏi nhất và thông minh nhất từ phần còn lại của thế giới và dung nạp họ vào một nền văn hoá đa dạng của sự sáng tạo. Trung Quốc có một dân số lớn hơn để tuyển chọn từ trong nước, nhưng theo quan điểm của ông, nền văn hoá lấy Trung Quốc làm trung tâm của nước này sẽ khiến nó ít tính sáng tạo hơn Mỹ, vốn có thể lôi kéo toàn thế giới.
Mặt khác, một thất bại trong thành tích của nền kinh tế Mỹ sẽ là một điểm dừng. Hãy nhớ rằng những dự báo về kinh tế vĩ mô (giống như dự báo thời tiết) nổi tiếng là không thể tin cậy được, dường như là Mỹ sẽ trải qua sự tăng trưởng chậm hơn trong thập kỷ sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Quỹ Tiền tệ Quốc tế hy vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đạt trung bình khoảng 2% trong năm 201. Con số này thấp hơn mức trung bình trong vài thập kỷ trước đó nhưng xấp xỉ gần với tỷ lệ trung bình trong 10 năm qua.
Trong những năm 1980, nhiều nhà quan sát tin rằng nền kinh tế Mỹ đã xì hết hơi và Đức và Nhật Bản đang vượt Mỹ. Đất nước này dường như đã đánh mất lợi thế cạnh tranh của mình. Tuy nhiên, hiện nay ngay cả sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kéo dài, Diễn đàn Kinh tế Thế giới đã xếp Mỹ đứng thứ 4 (sau Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển và Xinhgapo) về năng lực canh tranh kinh tế toàn cầu (so với Trung Quốc xếp thứ 27). Nền kinh tế Mỹ đi đầu trong nhiều khu vực tăng trưởng mới, như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và công nghệ nano. Và ngay dù những người lạc quan có xu hướng dẫn ra sự vượt trội của Mỹ trong sản xuất và sử dụng công nghệ thông tin, thì đó không phải là nguồn năng suất duy nhất của Mỹ. Mỹ cũng đã chứng kiến sự đổi mới nông nghiệp đáng kể và sự mở cửa của nước này đối với toàn cầu hoá, nếu điều này tiếp tục, cũng sẽ kéo năng suất lên. Các chuyên gia kinh tế dự đoán rằng tăng trưởng về năng suất của Mỹ sẽ từ 1,5% đến 2,25% trong thập kỷ tới.
Về đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, Mỹ là nước đứng đầu thế giới vào năm 2007, với 369 tỉ USD, theo sau là toàn bộ châu Á (338 tỉ USD) và Liên minh châu Âu (263 tỉ USD). Mỹ đã chi 2,7 GDP của mình vào nghiên cứu và phát triển, gần gấp đôi những gì Trung Quốc đã chi (nhưng ít hơn một chút so với 3% mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã chi). Trong năm 2007, các nhà sáng chế Mỹ đã đăng ký khoảng 80.000 bằng sáng chế ở Mỹ, hay nhiều hơn phần còn lại của thế giới hợp lại. Một số báo cáo đã bày tỏ mối lo ngại về những vấn đề như tỷ lệ thuế công ty cao, chảy máu nguồn vốn con người, và số bằng sáng chế ở nước ngoài ngày càng tăng, nhưng các công ty vốn mạo hiểm đầu tư 70% tiền của họ vào các công ty khởi nghiệp ở trong nước. Một cuộc điều tra nam 2009 của tổ chức Global Entrepreneurship Monitor (Giám sát doanh nhân toàn cầu) đã xếp Mỹ ở trên những nước khác về các cơ hội cho doanh nhân bởi nước này có một nền văn hoá kinh doanh thuận lợi, ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm trưởng thành nhất, các mối quan hệ thân thiết giữa các trường đại học và ngành công nghiệp, và một chính sách nhập cư mở.
Những mối lo ngại khác về tương lai của nền kinh tế Mỹ tập trung vào thâm hụt tài khoản vãng lai (mà mức hiện nay chỉ ra rằng người Mỹ đang ngày càng mắc nợ người nước ngoài hơn) và sự gia tăng nợ chính phủ. Theo lời của sử gia Niall Ferguson, “Đây là cách các đế quốc suy thoái. Nó bắt đầu bằng một sự bùng nổ nợ”. Không chỉ cứu trợ tài chính ngân hàng gần đây và gói kích thích kinh tế kiểu Keynes làm tăng thêm nợ của Mỹ, mà phí tổn ngày càng tăng của các chương trình chăm sóc y tế và đảm bảo phúc lợi cho tất cả những người được thụ hưởng như An sinh xã hội, cùng với phí tổn ngày càng tăng của việc trả lãi cho các khoản nợ, sẽ đòi hỏi những phần đóng góp lớn của thu nhập tương lai. Các nhà quan sát khác ít gây hoang mang hơn. Họ tuyên bố Mỹ không giống như Hy Lạp.
Văn phòng Ngân sách Quốc hội tính toán rằng tổng nợ chính phủ sẽ lên tới 100% GDP vào năm 2023, và nhiều nhà kinh tế bắt đầu lo ngại khi các mức nợ ở những nước giàu đã vượt quá 90%. Nhưng như tạp chí The Economist đã chỉ ra hồi cuối tháng 6, “Mỹ có hai lợi thế khổng lồ so với những nước khác cho phép nước này đối mặt với những khoản nợ của mình với thái độ tương đối bình thản: có cả đồng tiền dự trữ của thế giới lẫn thị trường tài sản có tính thanh khoản cao nhất của mình, trong trái phiếu kho bạc”. Và trái ngược với những ngại về một sự sụp đổ lòng tin vào đồng đôla, trong cuộc khủng hoảng tài chính, đồng đôla đã tăng lên và lợi tức trái phiếu giảm xuống. Một cuộc khủng hoảng lòng tin đột ngột ít là vấn đề hơn một sự gia tăng dần dần trong chi phí trả lãi cho các khoản nợ có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ dài hạn của nền kinh tế.
Chính trong nghĩa này mà vấn đề nợ là quan trọng, và những nghiên cứu cho thấy rằng lãi suất tăng 0,03% cho mỗi một phần trăm tăng lên trong tỉ suất nợ trên GDP trong dài hạn. Lãi suất cao hơn có nghĩa là đầu tư vào khu vực tư nhân thấp hơn và tăng trưởng chậm hơn. Những tác động này có thể được giảm nhẹ bằng những chính sách tốt hoặc bị làm trầm trọng thêm bởi những chính sách tồi. Nợ tăng lên không nhất thiết dẫn tới sự suy thoái của Mỹ, nhưng nó chắc chắn làm tăng rủi ro dài hạn.
Một lực lượng lao động được đào tạo tốt là một chìa khoá khác cho thành công về kinh tế trong thời đại thông tin. Thoạt nhìn, Mỹ làm tốt về mặt này. Nước này đã chi cho giáo dục đại học gấp đôi tính theo tỉ lệ phần trăm GDP so với Pháp, Đức, Nhật Bản và Anh. Danh sách top 10 trường đại học năm 2009 của Times Higher Education có trụ sở tại Luân Đôn bao gồm 6 trường ở Mỹ, và một nghiên cứu năm 2010 của Đại học Giao thông Thượng Hải xếp 17 trường của Mỹ – và không có trường nào của Trung Quốc – trong top 20 của mình. Người Mỹ giành giải Nôben và công bố các tài liệu khoa học trên những tạp chí được các nhà chuyên môn kiểm duyệt – gâp ba lần người Trung Quốc – nhiều hơn công dân của bất cứ nước nào khác. Những thành tựu này tăng cường cả sức mạnh kinh tế lẫn sức mạnh mềm của đất nước này.
Nền giáo dục Mỹ trong điều kiện tốt nhất của mình – nhiều trường đại học và bộ phận trên trong hệ thống giáo dục trung học – đáp ứng hoặc đưa ra các tiêu chuẩn toàn cầu. Nhưng nền giáo dục Mỹ trong điều kiện tồi tệ nhất của mình – quá nhiều trường tiểu học và trung học, đặc biệt tại những khu vực ít giàu có – tụt hậu nặng nề. Điều này có nghĩa là chất lượng của lực lượng lao động sẽ không theo kịp các tiêu chuẩn đang tăng lên cần thiết trong một nền kinh tế do thông tin thúc đẩy. Không có bằng chứng thuyết phục rằng các sinh viên đang thể hiện tồi hơn trong quá khứ, nhưng lợi thế về giáo dục của Mỹ đang xói mòn bởi vì các nước khác đang làm tốt hơn bao giờ hết. Sự cải thiện trong hệ thống giáo dục K-12 của đất nước sẽ là cần thiết nếu nước này muốn đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết trong một nền kinh tế dựa trên thông tin.
Hoạt động chính trị và các thể chế
Bất chấp những vấn đề và sự không chắc chắn này, dường như khả năng là với các chính sách đúng đắn, nền kinh tế Mỹ có thể tiếp tục tạo ra sức mạnh cứng cho đất nước. Nhưng còn về các thể chế của Mỹ thì sao? Nhà báo James Fallows, người đã sống nhiều năm ở Trung Quốc, trở về nước lo lắng về thành tích kinh tế của Mỹ thì ít hơn so với những tắc nghẽn trong hệ thống chính trị của nước này. Theo quan điểm của ông, “Mỹ vẫn có các phương tiện để đối phó với gần như bất kỳ sự yếu kém về cơ cấu nào của nó… Đó là bi kịch của Mỹ đầu thế kỷ 21: một nền văn hoá có ý nghĩa sống còn và tự đổi mới thu hút nhân tài của thế giới và một hệ thống quản lý ngày càng giống như một trò đùa”. Mặc dù bế tắc chính trị trong một giai đoạn suy thoái có vẻ tồi tệ, nhưng khó xác định liệu tình trạng hiện nay có tồi tệ hơn nhiều so với quá khứ hay không.
Sự chuyển đổi sức mạnh – chuyển các nguồn lực sức mạnh thành kết quả mong muốn – là một vấn đề lâu dài đối với Mỹ. Hiến pháp Mỹ dựa trên quan điểm tự do của thế kỷ 18 rằng sức mạnh được kiểm soát tốt nhất bởi sự phân mảng và hệ thống “checks and balances” (kiểm tra và cân bằng) bù lại (“checks and balances” là một hệ thống chính trị trong một nước dân chủ, gồm 3 ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó mỗi ngành có nhiệm vụ kiểm soát quyền lực của hai ngành kia để tạo ra sự cân bằng quyền lực). Trong chính sách đối ngoại, Hiến pháp luôn luôn khuyến khích Tổng thống và Quốc hội cạnh tranh để giành quyền kiểm soát. Các nhóm gây sức ép về kinh tế và sắc tộc mạnh mẽ đấu tranh đòi những sự định nghĩa có tính tư lợi của họ về lợi ích quốc gia, và Quốc hội được định ra để tập trung vào những vấn đề trục trặc.
Một nguyên nhân khác của mối lo ngại là sự suy giảm lòng tin của công chúng vào cac thể chế chính phủ. Trong năm 2010, một cuộc thăm dò của Trung tâm nghiên cứu Pew thấy rằng 61% số người được hỏi nghĩ rằng Mỹ đã suy thoái, và chỉ 19% tin rằng chính phủ làm điều gì là đúng đắn trong phần lớn thời gian. Ngược lại, vào năm 1964, ba phần tư công chúng Mỹ nói rằng họ tin chính phủ liên bang làm những việc đúng đắn trong hầu hết thời gian. Các con số đã thay đổi phần nào qua thời gian, tăng sau sự kiện ngày 11/9 trước khi giảm dần trở lại.
Mỹ được hình thành một phần dựa vào một mối ngờ vực về chính phủ, và hiến pháp của nước này được thiết kế để chống lại quyền lực tập trung. Hơn nữa, khi được hỏi không phải về chính phủ thường ngày, mà về khuôn khổ hiến pháp cơ bản, người Mỹ rất tích cực. Nếu được hỏi nơi tốt nhất để sống là ở đâu, đại đa số trong số họ nói là Mỹ. Nếu được hỏi liệu họ có thích hệ thống chính phủ dân chủ của mình hay không, gần như tất cả mọi người nói có. Ít người cảm thấy hệ thống này mục nát và phải bị lật đổ.
Một số khía cạnh của tâm trạng hiện tại có thể thể hiện sự bất mãn với những cuộc cãi vã và bế tắc trong tiến trình chính trị. So với thời gian gần đây, hoạt động chính trị đảng phái đã trở nên phân cực hơn, nhưng hoạt động chính trị tồi tệ không có gì mới – như John Adams, Alexander Hamilton, và Thomas Jefferson có thể chứng thực. Một phần của vấn đề với việc đánh giá bầu không khí hiện nay là việc niềm tin vào chính phủ đã trở nên cao khác thường trong thế hệ đã sống sót qua cuộc Suy thoái và chiến thắng Chiến tranh thế giới thứ Hai. Trong tầm nhìn dài về lịch sử nước Mỹ, thế hệ đó có thể là bất thường. Nhiều bằng chứng về một sự mất lòng tin vào chính phủ xuất phát từ dữ liệu thăm dò hiện đại, và những phản ứng rất nhạy cảm với cách các câu hỏi được nêu ra. Sự suy thoái mạnh nhất đã xảy ra hơn bốn thập kỷ trước, dưới thời Chính quyền Johnson và Nixon.
Điều này không có nghĩa là không có vấn đề với niềm tin đang suy giảm vào chính phủ. Nếu công chúng trở nên không sẵn lòng nộp thuế hoặc tuân theo pháp luật, hoặc nếu người trẻ tuổi sáng dạ từ chối tham gia khu vực dịch vụ công, năng lực của chính phủ sẽ bị ảnh hưởng, và người ta sẽ trở nên bất mãn hơn với chính phủ. Hơn nữa, một không khí nghi ngờ có thể gây ra những hành động cực đoan của các thành viên lầm đường lạc lối trong dân số, chẳng hạn như vụ đánh bom năm 1995 một toà nhà văn phòng liên bang ở Oklahoma City. Những kết quả như vậy có thể làm giảm bớt sức mạnh cứng và mềm của Mỹ.
Tuy nhiên, cho đến nay, những nỗi lo sợ này dường như chưa thành hiện thực. Cơ quan thuế vụ đã không thấy sự gia tăng trong gian lận thuế. Theo nhiều thông tin thu thập đựơc, các quan chức chính phủ đã trở nên ít tham nhũng hơn trong những thập kỷ trước đó, và Ngân hàng Thế giới cho Mỹ một điểm số cao (đạt phân vị 90 trên một trăm) về “kiểm soát tham nhũng”. Việc tự nguyện nộp lại bản khai điều tra tăng lên 67% vào năm 200 và cao hơn một chút vào năm 2010, đảo ngược sự suy giảm 30 năm. Các tỷ lệ bỏ phiếu đã rơi từ 62% xuống 50% trong bốn thập niên sau năm 1960, nhưng sự suy giảm đã dừng lại vào năm 2000 và quay trở lại 58% vào năm 2008. Nói cách khác, hành vi của công chúng không thay đổi đột ngột như phản ứng của họ đối với những câu hỏi thăm dò ý kiến cho thấy.
Những thay đổi trong vốn xã hội nghiêm trọng như thế nào khi nói đến hiệu quả của các thể chế của Mỹ? Nhà khoa học chính trị Robert Putnam lưu ý rằng trái phiếu cộng đồng đã không suy yếu dần dần trong thế kỷ qua. Ngược lại, lịch sử Mỹ, được xem xét một cách cẩn thận, là một câu chuyện về những thăng trầm trong sự can sự dân sự. Theo Pew Partnership for Civic Change, ba phần tư người Mỹ cảm thấy có liên kết với cộng đồng của họ và nói rằng chất lượng cuộc sống ở đó tuyệt vời hoặc tốt. Một cuộc thăm dò khác trong các cuộc thăm dò của nhóm này thấy rằng 111 triệu người Mỹ đã tình nguyện dành thời gian của họ để giúp giải quyết những vấn đề trong các cộng đồng của họ trong 12 tháng qua và rằng 60 triệu người tình nguyện trên cơ sở thường xuyên. Bốn mươi phần trăm nói rằng làm việc cùng với những người khác trong cộng đồng của họ là điều quan trọng nhất mà họ có thể làm.
Trong những năm gần đây, hoạt động chính trị và các thể chế chính trị của Mỹ đã trở nên phân cực hơn so với sự phân loại thực tế của công luận cho thấy. Tình hình trầm trọng thêm bởi sự suy thoái kinh tế gần đây. Như The Economist lưu ý, “hệ thống chính trị của Mỹ được thiết kế để làm cho việc lập pháp ở cấp liên bang khó khăn, chứ không phải dễ dàng… Như vậy hệ thống cơ bản phát huy tác dụng; nhưng điều đó khong có lý do gì để bào chữa cho việc bỏ qua các khu vực mà có thể được cải cách”. Một số cải cách quan trọng, chẳng hạn như thay đổi những ghế an toàn được sắp xếp gian lận trong Hạ viện hoặc sửa đổi các quy định của Thượng viện đối với những người cản trở việc thông qua một dự luật – sẽ không yêu cầu bất kỳ sự sửa đổi về hiến pháp nào. Vẫn còn phải xem liệu hệ thống chính trị Mỹ có thể cải cách chính nó và đối phó với các vấn đề được miêu tả ở trên hay không, nhưng nó không tan vỡ như ngụ ý của các nhà phê bình vẽ ra những tương đồng đối với tình trạng suy tàn trong nước của La Mã hoặc các đế chế khác.
Sự suy thoái gây tranh luận
Bất kỳ đánh giá thực nào về quyền lực Mỹ trong những thập kỷ tới sẽ vẫn không chắc chắn, nhưng sự phân tích không được giúp đỡ bởi những phép ẩn dụ sai lệch về sự suy thoái. Những nhà phát triển lý thuyết suy thoái nên được cảnh tỉnh bằng việc ghi nhớ cách đánh giá cực kỳ phóng đại của Mỹ về sức mạnh của Liên Xô những năm 1970 và về sức mạnh của Nhật Bản những năm 1980 như thế nào. Sai lầm không kém là những người tiên đoán về sự đơn cực đó vốn lập luận một thập kỷ trước rằng Mỹ đã mạnh mẽ đến mức nước này có thể làm như mình muốn và những nước khác không có lựa chọn nào khác ngoài làm theo. Ngày nay, một số người tự tin dự đoán rằng thế kỷ 21 sẽ chứng kiến Trung Quốc thay thế Mỹ với tư cách nhà nước lãnh đạo thế giới, trong khi những người khác lập luận với sự tự tin không kém rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của Mỹ. Nhưng những sự kiện không lường trước được thường làm hỏng những dự đoán như vậy. Luôn có một loạt những tương lai có thể xảy ra, không phải một.
Về sức mạnh của Mỹ có liên quan đến sức mạnh của Trung Quốc, nhiều điều sẽ phụ thuộc vào những bấp bênh của sự thay đổi chính trị trong tương lai tại Trung Quốc. Trừ phi có bất kỳ cuộc chính biến nào, quy mô và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao của Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ làm tăng sức mạnh tương đối của nước này so với Mỹ. Điều này sẽ đưa Trung Quốc lại gần Mỹ hơn về các nguồn lực sức mạnh, nhưng không nhất thiết có nghĩa rằng Trung Quốc không phải chịu những bước thụt lùi về chính trị lớn ở trong nước. Những dự đoán dựa trên chỉ riêng tăng trưởng GDP là một chiều. Chúng bỏ qua những lợi thế của Mỹ trong sức mạnh quân sự và sức mạnh mềm, cũng như những bất lợi địa chính trị của Trung Quốc trong cán cân quyền lực của châu Á.
Trong loạt những tương lai có thể xảy ra, nhiều khả năng hơn là những tương lai trong đó Trung Quốc cạnh tranh quyết liệt với Mỹ nhưng không vượt qua nước này về sức mạnh tổng thể trong nửa đầu thế kỷ này. Nhìn lại lịch sử, chiến lược gia người Anh Lawrence Freedman đã lưu ý rằng Mỹ có “hai đặc điểm phân biệt nước này với các cường quốc thống trị trong quá khứ: sức mạnh của Mỹ dựa trên các liên minh chứ không phải các thuộc địa và được kết hợp với một ý thức hệ linh hoạt… Cùng nhau chúng tạo ra một nòng cốt của những mối quan hệ và những giá trị mà Mỹ có thể quay trở lại ngay cả sau khi nước này đã tự mình mở rộng quá mức”. Và nhìn về tương lai, học giả Anne – Marie Slaughter đã lập luận rằng văn hoá cởi mở và đổi mới của Mỹ sẽ giữ cho nó ở trung tâm trong một thế giới nơi các mạng lưới bổ sung, nếu không nói là hoàn toàn thay thế, sức mạnh theo thứ bậc.
Mỹ cũng được ở vào vị trí thuận lợi để hưởng lợi từ những mạng lưới và liên minh như vậy, nếu nước này theo các chiến lược khôn ngoan. Do những lo ngại của Nhật Bản về sự gia tăng sức mạnh của Trung Quốc, Nhật Bản có khả năng hơn tìm kiếm sự hỗ trợ của Mỹ để bảo vệ sự độc lập của mình thay vì liên minh với Trung Quốc. Điều này làm tăng vị thế của Mỹ. Trừ phi người Mỹ hành động một cách thiếu khôn ngoan đối với Nhật Bản, một Đông Á đồng minh không phải là một ứng cử viên đáng tin cậy để thay thế theo đầu người và các nền kinh tế tân tiến tương tự như của Mỹ – đó là Liên minh châu Âu và Nhật Bản – thì đều là đồng minh của Mỹ. Trong biểu hiện mang tính hiện thực truyền thống dưới dạng những cán cân nguồn lực sức mạnh, điều đó tạo ra một sự khác biệt lớn đối với vị trí thực của sức mạnh Mỹ. Và trong một quan điểm về sức mạnh kiểu mọi thành phần tham gia đều có cơ hội thắng hơn – rằng nắm quyền lực cùng với, thay vì đối với, các nước khác – châu Âu và Nhật Bản cung cấp các nhóm nguồn lực lớn nhất để đối phó với các vấn đề xuyên quốc gia chung. Mặc dù lợi ích của họ không đồng nhất với những lợi ích của Mỹ, họ chia sẻ các mạng lưới xã hội và chính phủ gối lên nhau với Mỹ, điều đem lại các cơ hội hợp tác.
Về vấn đề sự suy thoái tuyệt đối, thay vì tương đối, của Mỹ, nước Mỹ phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng trong các lĩnh vực như nợ, giáo dục trung học, và bế tắc chính trị. Nhưng chúng chỉ là một phần của bức tranh. Nằm trong nhiều tương lai có thể xảy ra, những trường hợp rõ ràng hơn có thể được tao ra cho những tương lai tích cực hơn là những tương lai tiêu cực. Nhưng trong những tương lai tiêu cực, tương lai hợp lý nhất là một tương lai trong đó Mỹ phản ứng quá mức với các cuộc tấn công khủng bố bằng cách chuyển sang hướng nội và do đó tự cắt đứt mình khỏi sức mạnh mà nước này có được từ sự mở cửa. Tuy nhiên, trừ phi có những chiến lược sai lầm như vậy, có những giải pháp cho các vấn đề chính của Mỹ ngày nay. (Chẳng hạn, nợ dài hạn có thể được giải quyết bằng cách sau khi nền kinh tế hồi phục đưa ra những sự cắt giảm chi tiêu và thuế tiêu thụ có thể trả tiền phúc lợi.) Tất nhiên, những giải pháp như vậy có thể mãi mãi vẫn còn nằm ngoài tầm với. Nhưng điều quan trọng là phân biệt những tình huống tuyệt vọng mà trong đó không có giải pháp nào với những tình huống mà trên nguyên tắc có thể được giải quyết. Rốt cuộc, những cải cách lưỡng đảng của thời đại Tiến bộ cách đây một thế kỷ đã phục hồi  một đất nước bị rối loạn nặng nề.
Một câu chuyện mới
Đã đến lúc có một câu chuyện mới về tương lai của sức mạnh Mỹ. Mô tả sự chuyển giao quyền lực trong thế kỷ 21 như một trường hợp suy giảm bá quyền truyền thống là không chính xác, và nó có thể dẫn đến những tác động về chính sách nguy hiểm nếu nó khuyến khích Trung Quốc can dự vào các chính sách mạo hiểm hay Mỹ phản ứng thái quá vì sợ hãi. Mỹ không phải trong tình trạng suy thoái tuyệt đối, và về mặt tương đối, có một khả năng hợp lý rằng nước này sẽ vẫn hùng mạnh hơn bất kỳ nhà nước đơn lẻ nào trong những thập kỷ tới.
Đồng thời, đất nước này chắc chắn sẽ phải đối mặt với sự trỗi dậy trong các nguồn lực sức mạnh của nhiều nước khác – cả các bên tham gia nhà nước lẫn không phải nhà nước. Bởi sự toàn cầu hoá sẽ làm lan truyền những khả năng công nghệ và công nghệ thông tin sẽ cho phép thêm nhiều người giao thiệp hơn, văn hoá Mỹ và nền kinh tế Mỹ sẽ trở nên ít mang tính chi phối trên toàn cầu hơn so với lúc bắt đầu của thế kỷ này. Tuy nhiên, không có khả năng là Mỹ sẽ suy tàn giống như La Mã cổ đại, hoặc thậm chí là nước này sẽ bị một nhà nước khác vượt qua, trong đó có Trung Quốc.
Như vậy, vấn đề về sức mạnh của Mỹ trong thế kỷ 21 không phải là vấn đề suy giảm mà là phải làm gì dưới ánh sáng của nhận thức rằng ngay cả đất nước lớn nhất cũng không thể đạt được những kết quả mình mong muốn nếu không có sự giúp đỡ của những nước khác. Một số lượng ngày càng tăng những thách thức sẽ đòi hỏi Mỹ thể hiện sức mạnh cùng với những nước khác cũng nhiều như sức mạnh đối với những nước khác. Điều này đến lượt nó sẽ đòi hỏi một sự hiểu biết sâu sắc hơn về sức mạnh, nó đang thay đổi như thế nào, và làm thế nào để xây dựng những chiến lược “sức mạnh thông minh” kết hợp những nguồn lực sức mạnh cứng và mềm trong một thời đại thông tin. Khả năng của đất nước này duy trì các liên minh và tạo ra những mạng lưới sẽ là một khía cạnh quan trọng trong sức mạnh cứng và mềm của nó.
Sức mạnh bản chất là không tốt hay xấu. Nó giống như calo trong chế độ ăn uống: nhiều hơn không phải luôn tốt hơn. Nếu một đất nước có quá ít nguồn lực sức mạnh, nước này ít có khả năng đạt được những kết quả ưa thích của mình. Nhưng quá nhiều sức mạnh (về nguồn lực) thường tỏ ra là một tai ương khi nó dẫn đến sự tự tin quá mức và những chiến lược không thích hợp. David giết được Goliath vì nguồn lực sức mạnh ưu việt của Goliath khiến hắn theo đuổi một chiến lược yếu kém hơn, chiến lược mà đến lượt nó dẫn đến thất bại và cái chết của hắn. Một câu chuyện về sức mạnh thông minh cho thế kỷ 21 không phải về việc tối đa hoá sức mạnh hoặc duy trì bá quyền. Đó là về việc tìm ra cách để kết hợp các nguồn lực trong những chiến lược thành công trong bối cảnh mới của sự khuếch tán quyền lực và “sự trỗi dậy của phần còn lại”.
Là quốc gia lớn nhất, Mỹ sẽ vẫn quan trọng trong các vấn đề toàn cầu, nhưng câu chuyện của thế kỷ 20 về một thế kỷ Mỹ và sự ưu việt Mỹ – cũng như những câu chuyện về sự suy thoái của Mỹ – gây hiểu lầm khi nó được sử dụng như một sự chỉ dẫn cho kiểu chiến lược sẽ cần thiết trong thể kỷ 21. Những thập kỷ tới không có khả năng chứng kiến một thế giới hậu Mỹ, nhưng Mỹ sẽ cần một chiến lược thông minh kết hợp các nguồn lực sức mạnh cứng và mềm – và chú trọng đến những liên minh và những mạng lưới đáp ứng được với bối cảnh mới của một thời đại thông tin toàn cầu./.

Tổng số lượt xem trang