Thứ Tư, 23 tháng 2, 2011

NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐCS TRUNG QUỐC

Trung Quốc: Triển Vọng và Hiểm Nguy

Tạp Chí Kinh Tế  RFI  Mai Vân và Nguyễn Xuân Nghĩa
Phát thanh ngày Thứ Ba 22 Tháng hai 2011
Kinh tế Trung Quốc hạng nhì thế giới, mà dân không hưởng lợi nhiều
Trung Quốc đứng nhì thế giới về GDP, nhưng đứng nhất về xuất khẩu.
Trung Quốc đứng nhì thế giới về GDP, nhưng đứng nhất về xuất khẩu. Ảnh REUTERS/Aly Song

Ngày 14/02/201, Nhật Bản chính thức xác nhận GDP năm 2010 chỉ đạt 5.474 tỷ đô la, trong lúc Trung Quốc đạt hơn 5.878 tỷ. Trung Quốc như vậy đã chính thức trở thành nền kinh tế thứ nhì thế giới, chỉ thua Hoa Kỳ. Tuy nhiên, theo giới phân tích, GDP to lớn của Trung Quốc đã không che giấu được một số nhược điểm nghiêm trọng, trong đó có vấn đề đa số người dân không được hưởng lợi.


Đúng như mọi người chờ đợi, ngày 14 tháng 2 vừa qua, chính phủ Nhật Bản đã chính thức xác nhận sự kiện tổng sản lượng kinh tế của Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản trong năm 2010. GDP của Nhật là 5.474 tỷ đô la, trong lúc Trung Quốc đạt hơn 5.878 tỷ. Như vậy, Trung Quốc đã chính thức trở thành nền kinh tế thứ nhì thế giới, chỉ đứng sau Hoa Kỳ, và lẽ dĩ nhiên đứng trước Nhật Bản. 

Thế mạnh của kinh tế Trung Quốc được thấy qua nhiều yếu tố. Đó là đứng đầu thế giới về khả năng xuất khẩu (hơn 1.200 tỷ đô la mỗi năm), có dự trữ ngoại tệ mấp mé 3.000 tỷ đô la, và là chủ nợ số một của siêu cường quốc thế giới  là Hoa Kỳ: Trung Quốc nắm trong tay khoảng 900 tỷ đô la công khố phiếu của nước Mỹ. Cứ theo đà tăng trưởng được thấy kể từ khi ông Đặng Tiểu Bình cải cách kinh tế từ năm 1979, thì Trung Quốc có thể bắt kịp Hoa Kỳ về sản lượng kinh tế trong vòng một thập niên.
GDP càng tăng, chính quyền càng giàu, nhưng sức mua người dân càng giảm
Tuy vậy, theo nhiều nhà phân tích, tăng trưởng GDP ngoạn mục của Trung Quốc trong thời gian qua, giúp nước này qua mặt Đức, rồi Nhật, để giành ngôi vị cường quốc kinh tế thứ hai, đã không che giấu được một số nhược điểm nghiêm trọng.

Nhật báo Pháp Libération, số ra ngày 15/02/2011 đã nêu bật nhiều điểm yếu trong nền kinh tế Trung Quốc, với một cơ cấu phi lý, phí phạm từ nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên, cho đến nhiên liệu, nhân lực... Mặt khác, các khoản tín dụng vô hạn dành cho các tập đoàn, công ty nhà nước độc quyền trong lãnh vực của họ, cũng rất bất hợp lý và kém hiệu quả.

Theo ước tính của Libération, tài sản các tập đoàn nhà nước Trung Quốc chiếm đến 61,7% GDP (gần 3.000 tỷ euro) trong lúc khu vực tư nhân không được hỗ trợ bao nhiêu. Điều đáng nói là các doanh nghiệp nhà nước với tài sản kếch xù, lại nằm trong tay con cái, thân nhân giới lãnh đạo.

Một trong những điểm khiến Libération hết sức quan ngại là tại Trung Quốc, thuế nhà nước thu được tăng nhanh hơn GDP, và GDP lại tăng nhanh hơn thu nhập của người dân. Nói cách khác, GDP Trung Quốc càng tăng, chính quyền Trung Quốc càng có tiền, sức mua của người dân càng giảm.

Tóm lại, kinh tế Trung Quốc có thật sự vững mạnh hay không, có những chỗ yếu nào đáng ngại nhất? RFI đã nêu câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại California, người đã tìm hiểu rất kỹ về kinh tế Trung Quốc.

***

«Kinh tế Trung Quốc: Triển vọng thì ít, hiểm nguy thì nhiều»  


RFI: Xin kính chào anh Nghĩa. Thưa anh, Thứ Hai 14/02/2011 vừa qua, Nhật Bản xác nhận sản lượng kinh tế sút kém của mình trong năm 2010 vừa qua, khiến Trung Quốc chính thức có nền kinh tế đứng hạng nhì thế giới, với sản lượng là 5.879 tỷ đô la. Tuy nhiên, giới quan sát quốc tế lại chú ý đến sự nín thinh đầy vẻ khiêm nhượng của Bắc Kinh, và trước đó, một bài xã luận trên tờ Nhân Dân Nhật báo còn viết rằng " Trung Quốc có nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, nhưng không mạnh hạng nhì".  Sự kín đáo này của lãnh đạo Trung Quốc kể ra cũng hơi lạ. Là người theo dõi nền kinh tế Trung Quốc và Nhật Bản từ nhiều năm nay, anh nghĩ sao về chuyện " thay bậc đổi ngôi"  như vậy?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng chúng ta nên thận trọng khi so sánh hai nền kinh tế vì cần ngó vào cái thước đo. Như về mệnh giá chính thức thì kinh tế Trung Quốc đã vượt Nhật Bản từ đầu quý ba năm ngoái nếu ta dùng đồng Mỹ kim để so sánh. Nhưng một Mỹ kim lại có sức mua khác nhau ở từng nơi nên các chuyên gia kinh tế dùng một khí cụ khác là "tỷ giá mãi lực" của đồng bạc theo phương pháp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế FMI.

- Theo tỷ giá mà Pháp gọi là "Parité du Pouvoir d'Achat" như vậy thì kinh tế Trung Quốc đã vượt Nhật Bản từ năm 2001. Và nếu cũng dùng cách đo ấy thì năm qua, sản lượng kinh tế Ấn Độ cũng đã vượt qua 4.000 tỷ đô la để đứng hạng thứ tư của thế giới sau Mỹ, Tầu, Nhật và trước cả nước Đức! Bây giờ, nói đến chuyện "thay bậc đổi ngôi" như cô vừa hỏi thì ta nên lùi lại để nhìn vào viễn ảnh trường kỳ.

- Hơn 20 năm trước, Nhật Bản cũng đã tăng trưởng hung hãn, trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới và tung tiền mua tài sản tại Mỹ khiến dư luận Mỹ, kể cả người am hiểu như Giáo sư Đại học Harvard, đã dạt dào viết hàng chục cuốn sách về xứ "Mặt trời mọc", về thế lực kinh tế Nhật Bản. Thậm chí dân Mỹ còn có phong trào "bài Nhật", viết sách và làm phim về mối nguy Nhật Bản. Thế rồi, năm 1990, bong bóng đầu tư của Nhật đã bể và từ đó kinh tế Nhật lụn bại mãi cho đến ngày nay mới bị Trung Quốc qua mặt! Nhưng trong hai chục năm đó, Nhật cũng đã chuyển qua một hình thái kinh tế khác hẳn Trung Quốc, cho nên giờ này nếu có so sánh cũng khó.

RFI: Anh nhắc đến sự lớn mạnh rồi suy sụp của Nhật Bản có lẽ anh hàm ý là Trung Quốc cũng có thể lâm vào cảnh này ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi e rằng không được như vậy! 

- Trong tháng Hai, Trung Quốc công bố Kế hoạch Ngũ niên thứ 12, từ 2011 đến 2015, với tiêu chí là đạt mức tăng trưởng rồng cọp để vượt kinh tế Hoa Kỳ trong vòng mươi năm tới. Họ vạch một đường tuyến từ quá khứ phóng vào tương lai, mà có lẽ thâm tâm cũng biết rằng đường tuyến ấy có khi gãy khúc, như Nhật Bản cũng đã từng thấy.

- Khi Nhật suy sụp, năm 1993 Chính quyền của đảng Tự do Dân chủ bị đổ sau gần nửa thể kỷ cầm quyền gần liên tục từ năm thành lập là 1955. Từ đó, Nhật thay đổi nội các như đèn kéo quân mà không bị loạn vì nền móng dân chủ đã vững mạnh. Trung Quốc không được vậy nên suy thoái kinh tế tất nhiên lan ra động loạn xã hội và khủng hoảng chính trị, là điều có thể xảy ra trong thập niên tới.
Trung Quốc bắt đầu gặp vấn đề dân số đông nhưng nhân công ít
RFI : Nhưng Nhật Bản suy sụp một phần là vì dân số bị lão hóa, với tỷ lệ cao niên ngày một đông nên lực lượng sản xuất phải giảm dần. Trung Quốc lại có dân số rất đông là một tỷ 330 triệu người so với chưa đầy 130  triệu của Nhật ngày nay. Liệu một hiện tượng dân số hay nhân khẩu như Nhật Bản có xảy ra cho Trung Quốc không ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi thiển nghĩ rằng ngoài địa dư hình thể là một định mệnh, khiến Trung Quốc có ba vùng khác biệt và khó phát triển hài hòa nếu họ không áp dụng thể chế dân chủ liên bang, thì dân số cũng là một chuyển động ngầm có ảnh hưởng.

- Trung Quốc gặp bài toán dân số đó kể từ năm nay trở đi. Trước mắt là xứ này có dân số rất lớn mà lần đầu tiên các doanh nghiệp lại không kiếm đủ nhân công cho yêu cầu sản xuất. Chuyện này là sự kiện mới và khiến cho chiến lược phát triển bằng xuất khẩu qua một lượng người rất đông và nhân công rất rẻ sẽ trở thành vô hiệu, với hậu quả vô lường về xã hội và chính trị.

- Nói cho chuyên môn một chút, nếu ta nhìn vào đồ biểu dân số Trung Quốc xếp theo tuổi và giới tính nam nữ, thì ngoài tỷ lệ nữ giới thấp hơn nam giới là điều ai cũng biết, năm nay ta thấy ra sự lạ là một lỗ hổng của lớp tuổi 30.

- Lý do văn hoá chìm sâu bên dưới là tinh thần "trọng nam khinh nữ", rất lạc hậu là coi con gái như đồ bỏ! Lý do chính sách là việc kế hoạch hóa gia đình áp đặt từ năm 1978, gọi là "mỗi hộ một con", khiến thành phần sản xuất sung mãn nhất ngày nay, từ 25 đến 35 tuổi, sụt hẳn đi và sẽ còn làm dân số Trung Quốc giảm dần. Mươi năm nữa xứ này sẽ mất 30 triệu dân và dân số người già sẽ ngày một cao hơn. Mà đó chưa là chuyện chính !

RFI: Anh nêu nhược điểm dân số chìm bên dưới, rồi bảo rằng đó chưa là chuyện chính ! Hôm 15/02/2011 vừa qua, nhật báo Libération của Pháp cũng có một bài nhận định khá bi quan căn cứ trên những phát biểu của chính giới chức hữu trách tại Bắc Kinh. Tức là Trung Quốc còn có nhiều điểm yếu khác, như bất công xã hội hay hủy hoại môi sinh, phát triển thiếu quân bình hoặc những vấn đề gì nữa mà vị trí số hai này chưa hẳn là mạnh ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin nói ngắn gọn rằng triển vọng thì ít mà hiểm nguy thì nhiều. 

- Ngay trước mắt, khi Pháp là Chủ tịch luân phiên của khối G-20 quy tụ các quốc gia hàng đầu có sản lượng tới 85% sản lượng thế giới, thì tuần rồi, Trung Quốc là xứ duy nhất chống lại đề nghị của các nước kia là định lại chuẩn mực chính xác hơn về ngoại hối hầu cùng góp sức tái lập quân bình toàn cầu giữa các nước xuất và nhập khẩu. Người ta tưởng Trung Quốc có thế mạnh nên mới dám đi ngược ý kiến của các xứ khác mà thật ra Bắc Kinh lâm vào thế yếu khi không dám cùng cộng đồng thế giới định lại luật chơi giữa các nước. Tôi xin phép nêu ra các nhược điểm ấy.

- Thứ nhất, để đạt tốc độ tăng trưởng bình quân là hơn 10%, Trung Quốc phải đầu tư một lượng rất lớn và lớn hơn nhiều xứ khác vào cùng giai đoạn hay trình độ phát triển, và đầu tư bằng tín dụng và tăng chi khiến các tỉnh bị ngập nợ mà ít ai nhìn ra sự tốn kém này. Tức là ngoài dân số rất đông thì xứ này thật ra có hiệu năng đầu tư thấp hơn thiên hạ.

- Thứ hai, ai phải cáng đáng gánh nặng đầu tư ấy? Đó là người dân, để nhà nước phe phẩy ưu thế của mình với thế giới. Lý do là trong đà tăng trưởng sản xuất, người dân hưởng rất ít nếu ta nhìn vào mức gia tăng lợi tức quá thấp của dân chúng so với nguồn thu thuế khoá và lượng tín dụng ngân hàng cấp phát cho các doanh nghiệp nhà nước.

- Như dân Á châu nói chung, dân Tầu cũng có mức tiết kiệm rất cao, họ ký thác vào hệ thống ngân hàng của nhà nước với lãi suất âm, tức là bị lỗ, để ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu năng và còn thổi lên bong bóng đầu tư cũng ảo như bong bóng Nhật Bản hai chục năm trước. Chỉ có đảng viên và cán bộ nhà nước được hưởng trong chu trình sản xuất quái đản ấy.

- Thứ ba, một khía cạnh nóng không kém của sự bất công bên trong mà là vấn đề với bên ngoài, là khi dân Tầu thắt lưng buộc bụng để xuất khẩu thì ngoại tệ thu về lại do nhà nước độc quyền giữ lấy. Bắc Kinh có dự trữ ngoại tệ mấp mé 3.000 tỷ đô la để lũng đoạn thế giới trong khi lại duy trì tỷ giá đồng Yuan quá thấp và còn đông lạnh một phần đối giá của đồng ngoại tệ thu vào mà không cho dân hưởng. Tức là người dân Trung Quốc lại đang hì hục xây "Vạn lý Trường thành" thật cao và thật dài để lãnh đạo chế ngự thiên hạ.

- Nhưng ngày nay, dân chúng ý thức ra chuyện đó và bắt đầu đòi hưởng. Suốt năm qua ta đã thấy công nhân xứ này biểu tình đòi tăng lương và khi doanh nghiệp lại thiếu người thì sau này lương sẽ chỉ tăng chứ không thể giảm.
Dân Trung Quốc càng lúc càng không chấp nhận bất công xă hội
RFI: Và thế giới cũng ý thức ra chuyện đó nên đang nêu vấn đề về việc điều chỉnh để Trung Quốc mở rộng thị trường nội địa và nhập khẩu nhiều hơn. Nói như vậy thì có phải là lãnh đạo Bắc Kinh đang gặp sức ép từ cả bên trong lẫn bên ngoài để thay đổi chiến lược cố hữu không ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Bắc Kinh có thể bất chấp sức ép bên ngoài và mong rằng sẽ lại dùng lòng tham để khuyến dụ hầu phân hoá ảnh hưởng của từng nước. Nhưng tình hình đã đổi khác vì các nước hậu công nghiệp ngày nay đều cần xuất khẩu và giảm chi để trả nợ. Ở bên trong, sức ép từ người dân tại Hoa lục cũng đã thành vấn đề.

- Đầu tiên, tính theo mức sống bình quân của người dân, Trung Quốc còn thuộc loại cực nghèo, năm qua đứng hạng 95 trong182 nước và có mức tự do kinh tế hạng 135 trong 179 quốc gia được khảo sát năm qua. Mà xét vào nội dung thì tình hình còn nguy ngập hơn cũng vì dân số.

- Theo số liệu của chính Ngân hàng Nhà nước Trung Quốc, trong một tỷ 330 triệu dân, xứ này có 60 triệu là "thượng lưu" với lợi tức bình quân một năm là hơn 20.000 đô la và có người nắm tài sản thực tế hàng triệu hàng tỷ. Thành phần gây "ấn tượng phồn vinh" này chỉ là 5% dân số có quan hệ thân tộc với chế độ, chứ bên dưới, 440 triệu chỉ có lợi tức đồng niên là một hai ngàn đô la, là kiếm ra từ ba đến sáu đô la một ngày. Dưới đó nữa có 600 triệu dân chỉ có lợi tức chưa tới ngàn đồng một năm, hay ba đô la một ngày. Phân nửa là 300 triệu dân lại chưa tìm ra hai đô la một ngày để vặt mũi bỏ mồm!

- Những con số rắc rối ấy cho thấy hơn một tỷ dân Tầu hay 85% dân số thật ra cũng mạt như dân nghèo của các nước Phi châu miền Nam Sahara! Thành phần cùng khốn này bây giờ không chấp nhận sự kiện ấy nữa. Thành phần có đại học mà đang thất nghiệp ngày một nhiều cũng có phản ứng chán chường đó.

RFI: Kết cuộc thì có phải là trên cái đỉnh vinh quang vừa mới đạt, e chừng như anh vừa nói, triển vọng lại không bằng các hiểm nguy mà xứ này phải đối mặt ?

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi xin lấy ngay một thí dụ thời sự về mặt trái của vinh quang. Mới đây, đảng Cộng sản Trung Quốc vừa kỷ luật viên Bí thư đảng trong Bộ Hỏa Xa là Bộ trưởng Lưu Chí Quân. Thành tích của ông ta không chỉ là tham nhũng, chuyện thường tình của hệ thống, mà vì nâng xứ này lên hạng siêu cường với mạng lưới xe lửa cao tốc dài nhất thế giới!

- Chẳng là sau tám năm lãnh đạo Bộ Hoả Xa, là cơ quan độc quyền về xây dựng thiết lộ, ông Lưu Chí Quân này có hỗn danh là "Dược Lưu" hay "Lưu Nhảy vọt", vì từ 2003 đến 2009 đã đầu tư gấp 10 vào mạng lưới thiết lộ, tập trung tại miền Đông, với hơn 8.000 cây số đường cao tốc ế khách và khiến Bộ Hoả Xa cùng nhiều địa phương và doanh nghiệp nhà nước ngập nợ đến cổ.

- Khi đảng phải cách chức người có "thành tích" như vậy thì tất nhiên là có nhìn thấy mặt trái của tấm huy chương. Vấn đề là làm sao chuyển hướng cho lành mạnh và vững bền hơn mà không bị nhiều đảng viên hay đảng bộ địa phương chống phá? Đó là bài toán của thế hệ lãnh đạo sẽ lên sau Đại hội đảng vào năm tới.

- Kết luận của tôi là trong 10 năm tới, Trung Quốc sẽ hung hăng với bên ngoài chứ thực tâm thì phải ưu tiên giải quyết chuyện bên trong và việc leo lên hạng nhì có khi chỉ là chuyện "Tái ông Thất mã", trong tin vui đã có mầm tai họa !



NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐCS TRUNG QUỐC
Tài liệu tham khảo đặc biệt
Thứ Ba, ngày 22/2/2011
TTXVN (Hồng Công 16/2)
Báo Hồng Công “Bưu điện Hoa Nam buổi sáng” ngày 15/2 đăng bài viết của Borje Ljunggren, từng là đại sứ Thuỵ Điển tại Trung Quốc gia đoạn 2002-2006. Theo tác giả, xã hội mạng đang phát triển nhanh chóng ở Trung Quốc có thể trở thành thách thức lớn nhất với chế độ cầm quyền của Đảng Cộng sản. Dưới đây là nội dung bài viết:
Sự kiện làm rung chuyển thế giới mới xảy ra ở Ai Cập là một cảnh báo gửi tới Trung Quốc, phác hoạ một thách thức mà thế hệ  lãnh đạo tiếp theo ở Bắc Kinh có thể phải đối mặt.
Trung Quốc trong tương lai gần có nhiều thách thức, từ tái cân bằng kinh tế, thu hẹp khoảng cách thành thị – nông thôn, đối phó với biển đổi khí hậu, thích ứng với sự dịch chuyển quyền lực toàn cầu… Nhưng lớn nhất có thể là những tác động mang tính dài hạn của mối quan hệ ngày càng phức tạp giữa nhà nước do Đảng Cộng sản nắm quyền với xã hội dân sự, mà các kênh thông tin mạng sẽ là một động lực chính.
Theo nhiều nhà quan sát, sự phát triển mang tính hiện tượng của xã hội mạng Trung Quốc cho đến giờ đang có lợi cho Đảng Cộng sản hơn là cho xã hội dân sự. Trung Quốc đã trở thành một quốc gia chuyên quyền có mạng lưới mà trong đó Đảng Cộng sản giám sát, kiểm soát dư luận xã hội bằng những nguồn lực không hạn chế.
Vấn đề này đã trở thành đề tài cho khá nhiều cuốn sách trong thời gian gần đây mà có thể kể ra những cuốn xuất sắc như “Sức mạnh Internet ở Trung Quốc” của Guobin Yang, “Sau Internet, trước Dân chủ-Các tiêu chuẩn cạnh tranh trong truyền thông và xã hội Trung Quốc” của Johan Lagerkvist hay “Truyền thông đang thay đổi, Trung Quốc đang thay đổi” của Sussan Shirk.
Kể từ năm 2004, hết vụ này đến vụ khác, Internet đã làm thay đổi đáng kể chiều hướng của sự kiện, buộc Đảng Cộng sản phải vận động giữa phản ứng đáp lại và ngăn chặn. Lấy trường hợp đình đám vừa qua liên quan đến Li Gang, một quan chức cảnh sát, làm ví dụ. Con trai của Li Gang lái xe trong tình trạng say rượu, đâm chết một nữ sinh và khi bị chặn lại đã khoe khoang: “Dám thì lập biên bản đi. Bố tao là Li Gang”. Ngay sau đó, tuyên bố ấy đã lan khắp các blog và mạng tin Trung Quốc, trở thành một cột mốc trong lịch sử Internet nước này. Việc xét xử con trai Li Gang thành việc không thể tránh khỏi và cuối tháng 1/2011, đối tượng này bị kết án 6 năm tù.
Một vụ khác ít nhận được sự chú ý của quốc tế hơn nhưng cũng minh hoạ rõ cho tầm quan trọng ngày càng lớn của dự luận mạng tại Trung Quốc. Tháng 9/2010, chính quyền chuẩn bị cường chế phá dỡ nhà của chị ẹm họ Zhong tại tỉnh Giang Tây. Một trong hai chị em cùng mẹ và người chú đã tự thiêu phản đối. Người chú qua đời vì vết thương quá nặng. Khi hai chị em chuẩn bị lên máy bay tới Bắc Kinh để kể câu chuyện của mình cho một chương trình truyền hình, quan chức địa phương đe doạ họ tại sân bay. Người em trốn vào một góc, gọi điện cho một phóng viên. Chỉ vài phút, câu chuyện của họ xuất hiện trên “tiểu” blog của cổng thông tin sina.com và nhanh chóng lan khắp cả nước. Một bức ảnh chụp một cô gái bị bỏng nặng nề ngồi trong lòng người chị em của mình đã giành giải cao nhất của ảnh báo chí Trung Quốc năm 2010.
Chính quyền địa phương không còn lựa chọn nào khác, buộc phải đối thoại với gia đình chị em họ Zhong. Tám quan chức đang nằm trong diện điều tra. Câu chuyện này cũng là một cột mốc đáng nhớ trong lịch sử Internet Trung Quốc. Các “tiểu” blog giờ trở thành nơi đăng tải các quan điểm chỉ trích về tham nhũng và bất công xã hội, với hàng triệu thông điệp được đăng tải mỗi ngày.
Hai vụ trên là một phần trong sự phát triển đầy ấn tượng của truyền thông ở Trung Quốc. Các cuốn sách của Lagerkvist và Shirk cung cấp một khung phân tích, thông tin phong phú về sự lớn mạnh của công nghiệp truyền thông Trung Quốc cũng như cách thức mà chính quyền cố gắng đối phó lại. Lagerkvist tập trung vào Internet trong khi Shirk có cách tiếp cận rộng hơn về truyền thông nói chung. Cả hai cuốn sách có chung nhận xét rằng Internet đang cấu thành nguy cơ truyền thông tiềm năng nhất mà Đảng Cộng sản phải đối mặt.
Thống kê về sự mở rộng bùng nổ của truyền thông ở Trung Quốc là thật khó tin: hơn 400 triệu người sử dụng Internet, 220 triệu blog, 800 triệu thuê bao điện thoại di động, hơn 2.000 tờ báo và 9.000 tạp chí, khoảng 2.200 đài truyền hình. Tất cả ngày càng được thương mại hoá: Tuy nhiên, Đảng Cộng sản vẫn đang kiểm soát. Xét về định tính, cả Lagerkvist và Shirk đều cho là đang có những thách thức ngày càng mạnh đối với chính quyền, cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các tiêu chuẩn xã hội cũ với các tiêu chuẩn đang nổi lên.
Tuy nhiên, Lagerkvist bày tỏ lo ngại về quy mô, mức độ mà theo tác giả, các nhà phân tích phương Tây về Trung Quốc quá bị ảnh hưởng bởi những mơ tưởng. Theo Lagerkvist, Chính phủ Trung Quốc “vẫn rất vững mạnh, tự tin và có thể chống đỡ được bất ổn trong ngắn hạn”, “biến Internet thành lợi thế của họ”. Song, tác giả này cũng cho rằng “đang có sự xói mòn quyền lực của chế độ Đảng Cộng sản cầm quyền đối với xã hội dân sự”, với chủ nghĩa tích cực ngày càng lớn mạnh, sự hình thành của các giá trị, tiêu chuẩn xã hội mới cả trên mạng lẫn ngoài đời thực.
Lagerkvist phân tích rằng có cả sự biến đổi trong nội bộ Đảng Cộng sản giữa các quan chức khi chính họ cũng dành nhiều thời gian lên Internet sau giờ làm việc. Họ cũng là các “công dân mạng” và các tiêu chuẩn của họ cũng đang thay đổi. Tác giả bài viết: “Cú đánh chót vào chế độ kiểm duyệt rộng rãi của chính quyền này sẽ xảy ra khi chính những người thực hiện này dễ bị tác động hơn bởi các vấn đề tự do cá nhân, tính riêng tư trên mạng cũng như nhu cầu, đòi hỏi về sự phổ biến tự do hơn thông tin và ý kiến”. Kiểm duyệt là một phần cơ bản của chính quyền và vẫn sẽ là một vũ khí quan trọng, nhưng cách sử dụng của nó đang ngày càng bị phơi bày khi xã hội mạng Trung Quốc nhận thức hơn về quy mô mà các lợi ích gắn chặt của Đảng Cộng sản quyết định việc tiếp cận thông tin của dư luận. Hệ quả là ý tưởng về “quyền được biết” đang định hình trong xã hội mạng Trung Quốc và điều đó có thể trở thành lời hiệu triệu cho cuộc cách mạng tiếp theo ở nước này.
Trong khi khái niệm tự do Internet rõ ràng sẽ không được công bố, xã hội dân sự và công nghệ mới cùng với thời gian sẽ đẩy các giới hạn vượt ngoài ranh giới của nhà nước. Một điểm sống còn sẽ là khi các yêu cầu về thay đổi ngoài đời thực đủ lớn mạnh dẫn tới sự thay đổi cuộc chơi. Kiểm soát của đảng có thể bị “mất”, bị thử thách. Nhưng nó sẽ không dẫn đến đổ vỡ. Thế hệ lãnh đạo thứ 5 sắp tiếp quản từ năm tới ở Trung Quốc được cho là sẽ cố áp đặt các hình thức mang tính thảo luận hơn của chủ nghĩa chuyên chế cũng như các kết hợp mới giữa ngăn chặn và phản ứng đáp lại khi họ tìm cách duy trì độc quyền trong một xã hội mà thay đổi đang diễn ra nhanh hơn thay đổi trong đảng.
*
*        *
Mấy năm lại đây, một số địa phương ở Trung Quốc đã xảy ra nhiều sự kiện bùng phát với sự tham gia của đông người, có sự kiện kéo theo sự phá hoại, có sự kiện được giới truyền thông làm cho ầm ĩ, khiến nhiều ngành liên quan lâm vào thế bị động. Việc này, theo Giáo sư Tống Huệ Xương thuộc Trường Đảng Trung ương Trung Quốc, cho thấy chính quyền một số địa phương đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội và đòi hỏi phải có sự tổng kết tìm ra nguyên nhân, thực chất của vấn đề để rút ra bài học kinh nghiệm.
Trong bài phân tích đăng trên Thời báo Học tập của Trường Đảng Trung ương Trung Quốc số ra ngày 24/1, Giáo sư Tống Huệ Xương cho biết điểm qua một số sự kiện bùng phát với sự tham gia của đông người ở Trung Quốc, người ta có thể nhận thấy một đặc điểm chung là trong sự kiện đó người dân và chính quyền địa phương đã xuất hiện sự đối lập. Bản chất của sự đối lập này là người dân hoài nghi kết luận liên quan mà chính quyền công khai tuyên bố, thậm chí còn cho rằng đó là trò lừa bịp dư luận. Nói một cách khác, trong sự kiện đó, người dân đã mất đi sự tín nhiệm cơ bản vào chính quyền. Một cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội như vậy thông thường sẽ gây ra sự nhiễu loạn về tư tưởng, nghiêm trọng hơn là kéo theo hành động phá hoại của đông người. Trong bối cảnh Trung Quốc đang nỗ lực xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội hài hoà, việc để xảy ra khủng hoảng tín nhiệm xã hội nghiêm trọng kiểu này rất đáng để suy ngẫm.
Vậy tại sao “chính quyền của dân” lại không nhận được sự tín nhiệm của người dân? Về mặt lôgíc, nguyên nhân sâu xa chỉ có thể là trên thực tế người dân không còn coi chính quyền nơi đó là chính quyền của mình. Nói một cách khác, trong mắt một bộ phận quần chúng nhân dân, chính quyền nơi đó không đại diện cho lợi ích của họ, không thể hiện được ý chí của họ. Nhưng một kết luận như vậy không phù hợp với chế độ chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc.
Căn nguyên của vấn đề rốt cuộc nằm ở chỗ nào? Phân tích các sự kiện bùng phát với sự tham gia của đông người ở Trung Quốc, người ta có thể thấy sở dĩ chính quyền địa phương để xảy ra khủng hoảng tín nhiệm xã hội là do một bộ phận nhân viên công tác của chính quyền đó thiếu ý thức chính trị dân chủ chủ nghĩa xã hội cơ bản. Nội dung cốt lõi của ý thức chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa là việc người dân được làm chủ. Với hàm ý này, chính quyền của dân phải là chính quyền do người dân làm chủ. Nhưng quan chức chính quyền một số địa phương ở Trung Quốc lại cấu kết với các nhà kinh doanh để lợi dụng lẫn nhau, tranh giành lợi ích của nhân dân. Một chính quyền như vậy, người dân đương nhiên không thể chấp nhận, không thể tin tưởng được. Đây chính là nguồn gốc sâu xa nhất gây ra cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội ở một số địa phương tại Trung Quốc.
Mâu thuẫn xã hội kiểu này cho thấy nguồn gốc sâu xa nhất gây ra cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội của chính quyền địa phương là một vấn đề mang tính kĩ thuật. Cho nên, việc hoá giải mâu thuẫn xã hội bằng một kĩ xảo nào đó tuy không thể nói là không mang lại tác dụng gì, nhưng chắc chắn không phải là lối thoát của vấn đề. Kho tàng kinh nghiệm mách bảo rằng về mặt quan niệm, việc để cho khái niệm “do nhân dân làm chủ” thay thế khái niệm “vì nhân dân làm chủ”, xây dựng ý thức chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự và quán triệt vào trong thực tiễn mới là lối thoát cơ bản giúp giải quyết cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội của chính quyền một số địa phương ở Trung Quốc hiện nay. Đạo lý xem ra rất đơn giản: nhân dân không thể không tin tưởng vào một chính quyền thực sự do mình làm chủ.
Từ một số sự kiện bùng phát với sự tham gia của đông người ở Trung Quốc, người ta còn thấy một nguyên nhân quan trọng khác gây ra cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội nghiêm trọng, đó là việc người dân thiếu sự hiểu biết đối với các thông tin của chính quyền. Rõ ràng, không có thông tin cơ bản, chính quyền sẽ trở thành một cái gì đó “thần bí” trong mắt người dân và đương nhiên họ không thể tín nhiệm chính quyền đó được. Thực tiễn chứng minh mức độ công khai về thông tin tỉ lệ thuận với mức độ tín nhiệm xã hội của chính quyền.
Cần thừa nhận một thực tế rằng cùng với sự phát triển của chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa, mức độ công khai về thông tin của chính quyền ngày càng cao. Năm 2008, Điều lệ Công khai thông tin Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức có hiệu lực. Mấy năm lại đây, các cơ quan đảng, chính quyền ở Trung Quốc đã thiết lập chế độ người phát ngôn. Tất cả những việc đó đã thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình dân chủ tại Trung Quốc. Nhưng ở chính quyền một số địa phương, việc người dân trên thực tế chưa trở thành chủ nhân sử dụng thông tin của chính quyền có quan hệ chặt chẽ với vấn đề người dân không được làm chủ một cách thực sự. Ở khía cạnh này, sự nghiêm trọng nằm ở chỗ có chính quyền địa phương ngang nhiên làm ngược lại quyết định của trung ương, tìm mọi cách bưng bít thông tin hoặc chơi trò “đối đáp ngoại giao” bẩn thỉu để lừa gạt dư luận xã hội. Tuy nhiên, trong thời đại thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay, những thủ đoạn như vậy không thể giấu giếm được lâu. Một khi chân tướng bị bại lộ, người dân sẽ tức giận như thế nào, không cần nói ai cũng có thể biết được.
Trong nền chính trị dân chủ, việc người dân có thể biết và có được những thông tin cần thiết về chính quyền là cơ sở để chính quyền tạo dựng tín nhiệm xã hội. Vấn đề cốt lõi trong quá trình đó là người dân phải trở thành chủ thể sử dụng thông tin. Thực tế chứng minh sự tín nhiệm của người dân đối với chính quyền thực chất là sự tin tưởng chắc chắn đối với tính chân thực của những gì mà họ đã phán đoán. Do đó, người dân có quyền có được thông tin qua các kênh khác nhau bằng con đường hợp pháp, đưa ra phán đoán độc lập của bản thân về tính chất sự kiện. Nhưng do trình độ ý thức chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa thấp, chính quyền một số địa phương quen với việc coi mình là cơ quan công bố thông tin duy nhất, tìm mọi cách duy trì kênh thông tin duy nhất này. Trên thực tế, kiểu “lũng đoạn” thông tin đó, về chủ quan có thể nhằm “thống nhất tư tưởng”, “bảo vệ uy tín bản thân”, nhưng trong xã hội hiện đại, văn minh chính trị ngày càng phát triển, đây là hành vi thiếu sáng suốt, thường mang đến kết quả ngược lại.
Tín nhiệm xã hội không phải là một chiều, mà có quan hệ tương hỗ giữa người dân và chính quyền. Để người dân tín nhiệm chính quyền, phải có tiền đề là chính quyền tín nhiệm người dân. Vì thế, chính quyền phải thực sự mong muốn có được sự tín nhiệm của người dân để trở thành cơ quan quyền lực thực sự do người dân làm chủ. Bên cạnh đó, chính quyền phải nỗ lực xây dựng môi trường thông tin đa nguyên, cởi mở, thể hiện rõ việc mình tin tưởng  vào người dân. Một chính quyền thực tâm mở lòng ra với xã hội, chính quyền đó sẽ nhận được sự tín nhiệm của xã hội./.

Tổng số lượt xem trang