- THÁI ĐỘ CỦA TRUNG QUỐC TRONG VẤN ĐỀ BẮC TRIỀU TIÊNTài liệu tham khảo đặc biệt - Thứ Sáu, ngày 25/2/2011- TTXVN (Xítni 20/2)
Thời gian qua, dựa trên thông tin do mạng WikiLeaks tiết lộ, báo chí thế giới xôn xao bàn tán chuyện Trung Quốc sẵn sàng bỏ rơi Bắc Triều Tiên. Tờ “Vietnamese Herald” số ra gần đây có bài viết đánh giá về thực hư xung quanh nhận định này như sau:
Trong bức điện mật gửi về Bộ Ngoại giao Mỹ, Đại sứ Mỹ tại Bắc Kinh Richard Hoagland cho biết Trung Quốc sẽ bỏ rơi Bắc Triều Tiên và ủng hộ việc thống nhất bán đảo Triều Tiên. Tài liệu do ông Hoagland tiết lộ ghi nhận những ý kiến của Đại sứ Trung Quốc tại Cadăcxtan là Trình Quốc Bình trong một bữa dạ tiệc, trong đó ông Trình cho hay việc phải chứng kiến sự phát triển của chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên là một sự phiền toái đối với Chính phủ Trung Quốc.
Trong khi đó một tài liệu khác cho thấy thế hệ lãnh đạo mới tại Trung Quốc không có mối quan hệ sâu xa với Bắc Triều Tiên và ngày càng bực mình với thái độ ương ngạnh của Chính quyền Kim Châng In. Theo nguồn tin này thì cựu Thứ trưởng Ngoại giao Hàn Quốc Chun Yung-woo cho rằng thế hệ lãnh đạo mới này của Trung Quốc “không còn xem Bắc Triều Tiên là một đồng minh hữu ích và đáng tin cậy”. Ông Chun nhận xét là Trung Quốc “không ảnh hưởng nhiều đến Bắc Triều Tiên như những gì mà mọi người lầm tưởng”.
Cũng theo quan điểm của ông Chun, Hàn Quốc cho rằng Bắc Triều Tiên “đã sụp đổ về kinh tế” và “sẽ sụp đổ về chính trị” khoảng từ hai đến ba năm sau khi nhà lãnh đạo Kim Châng In qua đời. Vậy thực tế thế nào?
Không ai muốn Triều Tiên thống nhất
Thông tin này hoàn toàn khác với những toan tính chiến lược được xem như “hiển nhiên” là Trung Quốc không bao giờ muốn Bắc Triều Tiên sụp đổ. Thứ nhất, không nói gì cấp đại sứ, kể cả ngoại trưởng Trung Quốc cũng không có quyền quyết định đối sách ngoại gia và những gì nói ra trong bàn tiệc chỉ là một thông tin mang tính tham khảo. Thứ hai, Chun Yung-woo chỉ là một cựu thứ trưởng ngoại giao và đó chỉ là nhận định riêng của cá nhân ông.
Theo giới phân tích chiến lược, toàn bộ các nước láng giềng và các bên tham gia có quyền lực tại bán đảo Triều Tiên đều không muốn bán đảo này thống nhất. Điều này cũng giống như việc cựu Thủ tướng Anh Magaret Thatcher phản đối việc thống nhất nước Đức trước đây. Trong góc nhìn địa chính trị thì cả Trung Quốc và Nhật Bản đều không muốn Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc trở thành một nước thống nhất.
Trước Chiến tranh thế giới thứ Hai Triều Tiên là một thuộc địa của Nhật Bản. Khi đánh bại nhà Thanh trong cuộc chiến 1894-1895, Nhật Bản đã chiếm giữ những phần đất chiến lược của Triều Tiên để kiềm chế Trung Hoa. Mười năm sau, Nhật Bản đánh bại Nga trong cuộc chiến Nga-Nhật (1904-1905) và thuận đà chiếm đóng toàn bộ bán đảo Triều Tiên và mở rộng bộ máy cai trị tại đây. Tháng 9/1910, Nhật Bản chính thức tuyên bố Triều Tiên là một phần lãnh thổ của mình. Do vậy, rất dễ hiểu khi thấy rằng Bắc Kinh không muốn Triều Tiên thống nhất và vững mạnh, lại có xu hướng ngả về phương Tây, nên Trung Quốc phải lo bảo vệ Bắc Triều Tiên. Giới chức Trung Quốc cho rằng đất nước này phải bị chia cắt để làm “tấm đệm” an ninh cho Trung Quốc. Ngoài ra, Trung Quốc còn coi Bắc Triều Tiên là một thứ “con tin” để ngã giá với Mỹ và phương Tây. Chính vì các lý do này nên Trung Quốc mới nương tay với Bắc Triều Tiên.
Nhật Bản cũng không muốn Bắc Triều Tiên thống nhất. Từng chiếm giữ và khai thác bán đảo này như thuộc địa, nhiều người dân Hàn Quốc vẫn xem Nhật Bản là kẻ thù dân tộc. Trong thâm tâm Nhật Bản không muốn đối thủ cạnh tranh của mình có ngày thống nhất và vững mạnh, có nguy cơ đến một ngày nào đó sẽ qua mặt Nhật Bản. Do vậy, Nhật Bản cũng như Trung Quốc rất muốn giữ nguyên tình thế hiện nay.
Cả Mỹ cũng không muốn Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc thống nhất và chỉ muốn duy trì tình thế hiện tại. Nguyên nhân là chỉ trong trường hợp hai nước chia cắt thì Mỹ mới có lý do để đóng quân tại đây, từ đó gia tăng sự kiểm soát đối với biển Hoa Đông và biển Hoa Nam (Biển Đông). Tình trạng này cũng giống như Mỹ đã thể hiện tại Việt Nam trước năm 1975: kiên quyết không cho miền Nam đổ quân ra Bắc.
Ý kiến của chuyên gia Ôxtrâylia
Trả lời phỏng vấn Đài truyền hình ABC tối 30/11/2010, chuyên gia phân tích tình hình khu vực Đông Á, ông Matthew Gertken đã phân tích về đề tài này một cách tường tận. Trả lời câu hỏi tại sao đến nay Bắc Kinh vẫn giữ thái độ khoan dung đối với các hành động quá đáng của Bắc Triều Tiên và liệu vấn đề của Bình Nhưỡng có ảnh hưởng đến uy tín của Trung Quốc với vai trò là một cường quốc trong khu vực hay không, ông Gertken cho rằng: “Chúng ta cần phải nhìn nhận vấn đề này trên phương diện vị trí địa lý các quốc gia. Trung Quốc đã và vẫn muốn giữ vị trí bàn đạp trong khu vực Đông Á. Nếu nhìn lại lịch sử, chúng ta có thể thấy hễ một lực lượng bên ngoài nào chiếm giữ được Triều Tiên đều có thể gây nguy hại cho lãnh thổ Trung Quốc. Vì lý do đó mà từ Chiến tranh thế giới thứ Hai đến nay, Trung Quốc lúc nào cũng xem Bắc Triều Tiên như một bàn đạp chiến lược. Điều này rất quan trọng đối với Trung Quốc. Bất kỳ tình huống nào nảy sinh trên bán đảo Triều Tiên thì Trung Quốc sẽ là quốc gia bị ảnh hưởng nhiều nhất. Do đó, Bắc Kinh không bao giờ muốn Mỹ và các đồng minh bao vây áp sát biên giới nước này”.
Tuy nhiên, ông Matthew Gertken cũng đề cập đến các ưu tiên khác nhau trong nội bộ giới lãnh đạo Trung Quốc. Theo ông, nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc lại có những ý kiến khác nhau về giải pháp cho tình hình Bắc Triều Tiên. Một bộ phận trong Đảng đưa ra những yêu cầu cấp thiết để tiếp tục phát triển nền kinh tế tăng trưởng nhanh, bởi thực tế là sau ba thập niên bành trướng thì kinh tế Trung Quốc đang có dấu hiệu chững lại. Những áp lực xã hội khác cũng ngày càng tăng cao vào cùng thời điểm có nhiều biến chuyển về mặt chính trị, thay đổi tầng lớp lãnh đạo cao cấp nhất sắp diễn ra vào năm 2012. Tất cả đặt Trung Quốc vào một tình thế khá căng thẳng nên trong thời gian này họ thực sự không muốn phải đưa ra một hành động mạnh mẽ nào liên quan đến vấn đề biên giới lãnh thổ. Trung Quốc cũng không muốn dấn một bước đột phá nào trong quan hệ ngoại giao khiến nếu không khéo sẽ làm giản đi vai trò cường quốc của mình hoặc ảnh hưởng đến vai trò cường quốc trong tương lai.
Ngoài ra, ông Gertken cũng nêu ra trò hai mặt giữa Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trong quá khứ, Trung Quốc đã từng đe doạ và thực hiện một số phương án cứng rắn đối với Bắc Triều Tiên, chẳng hạn như cắt nguồn cung cấp năng lượng. Trung Quốc là nước đứng đầu về viện trợ và giúp đỡ cho Bắc Triều Tiên. Trung Quốc đã mở rộng thị trường cho các công ty của Bắc Triều Tiên vào làm ăn và đem đến các nguồn đầu tư đáng kể. Do đó, Trung Quốc phải tính toán làm sao vừa có thể đáp ứng được mong muốn của Mỹ và các nước phương Tây để tạo ấn tượng cho cả thế giới biết mình là quốc gia có trách nhiệm, vừa duy trì được mối quan hệ chiến lược đối với Bình Nhưỡng, làm sao để Bắc Triều Tiên không thuộc về phía Mỹ và phương Tây.
Thế nhưng tại sao Trung Quốc là ủng hội Bắc Triều Tiên tấn công Hàn Quốc vào năm 1950 với ý đồ thống nhất? Các tài liệu giải mật cho thấy đây là ý đồ của Nga và Nguyên soái Joseph Stalin đã gài bẫy Chủ tịch Mao Trạch Đông.
Mao mắc mưu Stalin
Từ ngày 30/3 đến 25/4/1950, Chủ tịch Kim Nhật Thành mang bản kế hoạch chiến tranh sang Liên Xô để thuyết trình với Stalin. Nguyên soái Stalin chấp nhận, hứa giúp đỡ vũ khí và cố vấn quân sự nhưng nhấn mạnh nếu Mỹ can thiệp, Liên Xô không thể ra mặt tham chiến, do đó Bắc Triều Tiên phải dựa vào Trung Quốc. Tính toán của ông Stalin là cho cả Mỹ và Trung Quốc sa lầy ở Triều Tiên, còn Nga sẽ làm “ngư ông đắc lợi”. Ông Stalin muốn dùng một mũi tên bắn hai con chim: Mỹ sẽ bị sa lầy, còn Trung Quốc thì bị kiềm giữ, phải phụ thuộc vào Liên Xô.
Trước đó, tháng 7/1949, Lưu Thiếu Kỳ bí mật đến Liên Xô và được Nguyên soái Stalin chỉ thị Trung Quốc cần giúp đỡ phong trào cách mạng quốc tế, gánh vác trách nhiệm đối với cách mạng các nước châu Á.
Theo các ý kiến phân tích thì Stalin lo sợ rằng Mao Trạch Đông sẽ trở thành một “Tito phương Đông” và thoát khỏi sự kiềm toả của mình. Do đó, Stalin muốn Trung Quốc mắc bẫy chiến tranh và sẽ cần đến viện trợ của Nga. Cách mà Stalin xử sự với Trung Quốc ngày đó cũng giống như cách mà Trung Quốc xử sự với Bắc Triều Tiên bây giờ: phải yếu để phụ thuộc vào mình.
Quay lại với chuyện nêu ở trên, lúc đó Mao Trạch Đông đã rất hãnh diện với sứ mệnh lịch sử này vì cho rằng đây là con đường đẩy chiến lược “lấy nông thôn bao vây thành thị” lên cao hơn: lấy nông thôn thế giới bao vây thành thị thế giới, cuối cùng bóp nghẹt châu Âu và tiêu diệt nước Mỹ tư bản chủ nghĩa. Do đó, ông Mao Trạch Đông đã nhận lời với Nguyên soái Stalin trên nguyên tắc.
Từ ngày 13-15/5/1950, Chủ tịch Kim Nhật Thành đã bí mật sang Bắc Kinh hội đàm với Mao Trạch Đông để thuyết trình kế hoạch hành quân chi tiết và những gì cần Trung Quốc giúp đỡ. Tại đây, ông Mao Trạch Đông tuyên bố Trung Quốc muốn giúp giải quyết vấn đề Đài Loan trước rồi mới giúp Bắc Triều Tiên sau. Tuy nhiên, vì nghĩa vụ của mình và sự phân công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ Bắc Triều Tiên, đồng thời nhấn mạnh nếu Mỹ can thiệp thì Trung Quốc sẽ xuất quân.
Rạng sáng 25/6/1950, quân Bắc Triều Tiên bất thần tấn công và thọc sâu về phía Nam với ưu thế hơn hẳn quân đội Hàn Quốc và chỉ sau ba ngày, quân đội Bắc Triều Tiên đã chiếm thủ đô Xơun của Hàn Quốc. Quân đội Bắc Triều Tiên tiến về phái Nam với thế chẻ tre và chỉ trong hai tháng đã tràn ngập phần lớn lãnh thổ Hàn Quốc. Lực lượng Mỹ, Hàn Quốc và liên quân của Liên hợp quốc phải co cụm lại tại bán đảo Pusan trên vĩ tuyến 35 và tổ chức trận tuyến phòng thủ tại đây.
Đến lúc đó thì Stalin lại có một tính toán sai lầm khi tẩy chay Liên hợp quốc, phản đối rằng chiếc ghế tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải được chuyển sang cho Trung Quốc. Vì Stalin tẩy chay, không cử đại diện tham dự các cuộc họp của Hội đồng Bảo an nên Mỹ đã lợi dụng cơ hội này để thông qua nghị quyết thành lập lực lượng liên quân vào ngày 7/7/1950. Như vậy, bên cạnh quân đội Mỹ còn có thêm 39.000 quân của 15 nước khác và tất cả đều nằm dưới quyền chỉ huy của Đại tướng McArthur, thuộc quân đội Mỹ.
Ngày 15/8/1950, Chủ tịch Kim Nhật Thành ra lệnh phải “giải phóng hoàn toàn” Hàn Quốc trong tháng Tám, tuy nhiên lúc này quân đội Bắc Triều Tiên đang rơi vào tình thế nguy cấp. Do tiến sâu hơn nên họ gặp khó khăn về tiếp liệu, trong khi quân đội đã mệt mỏi cùng với số thương vong cũng khá cao do chiến thuật “biển người” nên không thể vượt qua được phòng tuyến Pusan.
Trước đó, kể từ tháng 7/1950, Mao Trạch Đông đã ba lần nhắc nhở Kim Nhật Thành phải quan tâm đến hậu phương, bảo vệ đường giao thông, đề phòng Mỹ đổ bộ vào Incheon. Nhưng do Kim Nhật Thành lúc đó đang háo thắng nên đã không điều chỉnh chiến lược tốc chiến tốc thắng.
Đúng như ông Mao Trạch Đông đã lo ngại, ngày 15/9/1950, Tướng Arthur cho quân đổ bộ cắt đường tiếp tế của đối phương. Chiến dịch này khiến tám sư đoàn chủ lực của Bắc Triều Tiên bị cô lập ở phòng tuyến Pusan. Ngày 1/10, các đơn vị này liều chết mở vòng vây để rút về phía Bắc vĩ tuyến 38 thì bị thiệt hại nặng nề với con số thương vong không dưới 58.000 người.
Trong khi đó thì quân đội liên quân tiến sâu về phía Bắc và ngày 19/10 Chính phủ Bắc Triều Tiên đã rút khỏi thủ đô Bình Nhưỡng. Kim Nhật Thành và trung ương đảng rút về cố thủ tại sát biên giới phía Bắc, chỉ cách Trung Quốc 50km.
Trung Quốc phải giữ bằng được Bắc Triều Tiên
Mất Bắc Triều Tiên thì Trung Quốc sẽ mất tấm đệm an ninh nên Mao Trạch Đông vội vã xuất quân. Lúc đó, Chính quyền Trung Quốc mới được thành lập một năm, còn nhiều khó khăn và thậm chí nhiều sứ quân vẫn còn hoạt động tại miền núi nên nhiều uỷ viên Bộ Chính trị không muốn tham chiến. Chỉ duy nhất nguyên soái Bành Đức Hoài là ủng hộ. Theo Bành Đức Hoài thì xuất quân qua biên giới đánh Mỹ, giữ lại Bắc Triều Tiên làm “vùng đệm” sẽ có lợi hơn. Nếu để Hàn Quốc chiếm hết Bắc Triều Tiên, Trung Quốc sẽ phải trực tiếp đối mặt với Mỹ ở ngay biên giới Trung-Triều. Trong khi đó thì Liên Xô lại muốn nuôi chiến tranh nên cam kết sẽ yểm trợ về không quân và giúp vũ khí để Trung Quốc trang bị 40 sư đoàn. Nhờ các yếu tố này mà Mao Trạch Đông đã thuyết phục được Bộ Chính trị.
Ngày 19/10/1950, 4 quân đoàn Tình nguyện quân Trung Quốc gồm 260.000 quân do Bành Đức Hoài chỉ huy đã vượt sông Áp Lục. Sau ba chiến dịch lớn, đạo quân khổng lồ của họ Bành đã đẩy lùi liên quân do Mỹ đứng đầu về phía Nam. Ngày 31/12, quân đội Trung Quốc và Bắc Triều Tiên vượt vĩ tuyến 38, chiếm lại Xơun.
Giữa lúc này, Liên hợp quốc đã nhiều lần đưa ra các giải pháp ngừng bắn nhưng đều bị Stalin bác bỏ. Hai bên liên tục tăng quân và riêng Trung Quốc đã điều sang Bắc Triều Tiên 27 quân đoàn bộ binh, 15 sư đoàn pháo binh, 12 sư đoàn không quân, 3 sư đoàn xe tăng, 14 sư đoàn công binh, 10 sư đoàn đường sắt và 2 sư đoàn công an.
Ngày 30/6/1951, Mỹ đề nghị ngừng bắn. Ngày hôm sau, Bành Đức Hoài và Kim Nhật Thành trả lời đồng ý, nhưng ngay sau đó Stalin ra lệnh “vừa đánh, vừa đàm”. Chiến tranh kéo dài đến 5/3/1953 thì Stalin từ trần. Ban lãnh đạo mới của Liên Xô thay đổi quan điểm và ngày 27/7/1953, Hiệp định ngừng bắn được ký kết tại Panmunchơm.
Kết luận
Đó là “cuộc chiến giới hạn” mà hai siêu cường đánh nhau tại một nước thứ ba. Đó là toan tính của Mao Trạch Đông và Bành Đức Hoài: sang Triều Tiên đánh nhau với Mỹ, giữ cho bằng được Bắc Triều Tiên để làm vùng đệm cho mình, hơn là để Mỹ chiếm luôn Bắc Triều Tiên.
Đó là tính toán của Stalin để Trung Quốc và Mỹ đánh nhau tại Triều Tiên. Trung Quốc sa lầy tại Triều Tiên thì còn phụ thuộc vào Nga, chứ không cứng đầu như Tito tại Nam Tư. Mỹ sa lầy vào Triều Tiên thì vừa hao tốn tài nguyên, vừa buông lỏng châu Âu để Nga thao túng.
Và đó cũng là tính toán của Mỹ khi đưa quân sang châu Á để ngăn chặn làn sóng cộng sản, thay vì để cộng sản đến Mỹ rồi xung đột ngay trên lãnh thổ nước Mỹ.
Bán đảo Triều Tiên có thống nhất hay không là do hai miền của đất nước này. Trong thâm tâm, các cường quốc từ Mỹ đến Nhật Bản, Trung Quốc đều muốn giữ nguyên tình thế hiện tại. Nhưng như vậy có thể đi đến kết luận rằng thông tin “Trung Quốc sẽ bỏ rơi Bắc Triều Tiên” là một thông tin không có cơ sở xác đáng./.