Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014

Nhạc Sĩ Nguyễn đức Quang - Mũ Nâu 11

--Trần Trung Đạo: Khi bài hát trở về
Giới thiệu: Trong thời gian qua, nhiều hình ảnh của anh Điếu Cày có kèm theo hàng chữ “Khi bài hát trở về”. Nhiều bạn, và có lẽ cả anh Điếu Cày, không biết rõ nguồn gốc từ đâu. Đó là bìa tác phẩm Khi Bài Hát Trở Về của Trần Trung Đạo do các em thanh niên, sinh viên in trong nước in 5 năm trước. Dĩ nhiên in không kiểm duyệt, chuyền tay nhau đọc và phát hành trong vòng kín đáo.  Các em chọn bài Khi Bài Hát Trở Về, một trong những tiểu luận có trong tác phẩm để làm tựa cho cuốn sách và đặt tên cho nhà xuất bản là Điếu Cày. Bài viết khởi nguồn từ cảm xúc lần đầu nghe nhạc phẩm Việt Nam quê hương ngạo nghễ của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang được tuổi trẻ Việt Nam trong nước hát lên trong ngày biểu tình chống chủ nghĩa bành trướng Trung Cộng năm 2008. Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã đọc bài viết và nhạc sĩ Việt Dzũng cũng đã đọc một phần của bài viết để giới thiệu nhạc phẩmViệt Nam quê hương ngạo nghễ tưởng nhớ nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang. Cả hai anh đều đã qua đời. Những người yêu nước, có kẻ vừa đến và người đã ra đi nhưng bài hát đầy ngạo nghễ của một dân tộc đã vươn lên từ bao nhiêu khốn khó sẽ còn được hát.  Xin chia sẻ bài viết Khi Bài Hát Trở Về:



Nếu phải xếp hạng những bài hát được sinh ra và lớn lên cùng với thăng trầm của đất nước, với thao thức của thanh niên, sinh viên, học sinh, với tâm trạng của những người lính trẻ trong cuộc chiến tranh tự vệ đầy gian khổ ở miền Nam trước đây, tôi tin, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của nhạc sĩ du ca Nguyễn Đức Quang sẽ là một trong những bài ca được xếp hàng đầu.

Không giống như một số hành khúc quen thuộc trong giới trẻ trước 1975 như Dậy mà đicủa Nguyễn Xuân Tân, Tổ quốc ơi ta đã nghe của La Hữu Vang thiết tha, mạnh mẽ nhưng chỉ giới hạn trong các phong trào sinh viên tranh đấu và ngay khi ra đời đã bị đảng sử dụng cho mục đích tuyên truyền trong các trường đại học, các đô thị miền Nam, hay Việt Nam Việt Nam của Phạm Duy chan chứa tình dân tộc, kêu gọi người người thương mến nhau nhưng thiếu đi cái hùng khí, sôi nổi của tuổi trẻ, Việt Nam quê hương ngạo nghễ của Nguyễn Đức Quang không dừng lại ở nỗi đau của đất nước mà còn nói lên cả những bi thương, công phẫn, thách đố của tuổi trẻ Việt Nam trước những tàn phá của chiến tranh và tham vọng của con người.

Trong vườn hoa âm nhạc Việt Nam, Việt Nam quê hương ngạo nghễ nổi bật lên như một biểu tượng cho khát vọng của một dân tộc đã vượt qua bao nhiêu gian nan khốn khó để tồn tại và vươn lên cùng các dân tộc khác trên mặt đất nầy.

Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang
 Lê sau bàn chân gông xiềng của thời xa xăm
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loang xoang.

Lời nhạc của Việt Nam quê hương ngạo nghễ tương đối khó nhớ nhưng nhờ cách sử dụng ngôn ngữ trẻ trung, mạnh mẽ, tượng thanh, tượng hình như “tiếng cười ngạo nghễ”, “xích kêu loang xoang”, “trên bàn chông hát cười đùa vang vang” hay “Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi” đã làm cho Việt Nam quê hương ngạo nghễ trở thành độc đáo, không giống như những bài ca yêu nước khác với những ý tưởng quen thuộc và lời ca phần lớn là lập lại nhau.

Việt Nam quê hương ngạo nghễ đẹp tự nhiên như một đoá lan rừng, không mang màu sắc chính trị, không nhằm cổ võ hay biện minh cho một chủ nghĩa nào, không cơ quan nhà nước nào chỉ đạo thanh niên sinh viên học sinh phải hát và bài hát cũng chẳng nhằm phục vụ lợi ích riêng của chính quyền, tôn giáo hay đảng phái chính trị nào. Trước 1975, từ thành phố đến thôn quê, từ các trường trung học tỉnh lẻ đến đại học lớn như Huế, Sài Gòn, từ các phong trào Hướng đạo, Du ca đến các tổ chức trẻ của các tôn giáo như Thanh niên Công giáo, Gia đình Phật tử, từ các quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, Quang Trung, Nha Trang đến các tổ chức, đoàn thể xã hội từ thiện đều hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

Sau 1975, bài hát theo chân hàng trăm ngàn sĩ quan và viên chức miền Nam đi vào tù. Nhiều hồi ký, bút ký kể lại Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát lên, kín đáo hoặc cả công khai, ở nhiều trại tù khắp ba miền đất nước. Trong tận cùng của đói khát, khổ nhục, đớn đau, Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã hoá thành những hạt cơm trắng, hạt nếp thơm nuôi sống tinh thần những người lính miền Nam sa cơ thất thế.

Những năm sau đó, bài hát, như tác giả của nó và hàng triệu người Việt khác lên đường ra biển tìm tự do. Việt Nam quê hương ngạo nghễ lại được hát lên giữa Thái bình dương giông bão, hát lên ở các trại tỵ nạn Palawan, Paula Bidong, Panat Nikhom trong nỗi nhớ nhà, hát lên ở Sungai Besi, White Head trong những ngày chống cưỡng bách hồi hương, hát lên ở San Jose, Santa Ana, Boston, Paris, Oslo, Sydney trong những cuộc biểu tình cho tự do dân chủ Việt Nam, hát lên ở các trại hè, trại họp bạn Hướng đạo, các tổng hội sinh viên Việt Nam tại hải ngoại.

Nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, trong buổi phỏng vấn dành cho chương trình Tiếng Nói Trẻ đã kể lại câu chuyện ra đời của Việt Nam quê hương ngạo nghễ trong âm nhạc Việt Nam: “…Thế bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng vậy, nó không phải là một bài ca tôi nghĩ là quá lớn, nhưng lúc bấy giờ khi tôi kết thúc tập Trường Ca vào năm 1965, cuối 1965 hay đầu 1966 gì đó, khoảng thời gian đó, 10 bài trường ca, những bài như Nỗi buồn nhược tiểu, Tiếng rống đàn bò, Lìa nhau, Thảm kịch khó nói v.v. những bài nói về đất nước của mình rất là khổ sở, tôi nghĩ nên kết nó bằng một bài hát có tiếng gọi hùng tráng và tha thiết hơn. Thành ra tôi viết bài Việt Nam quê hương ngạo nghễ một cách rất là dễ dàng. Tất cả những ý đó tôi đem vào hết trong bài hát đó để nó vượt qua cái khốn khó, vượt qua cái quê hương nhỏ bé, nhược tiểu mà trở thành một nước to lớn, và lòng người cực kỳ dũng mãnh. Viết xong bài đó tôi nghĩ chỉ kết thúc tập Trường Ca mà thôi, không ngờ về sau càng ngày đi các nơi càng thấy nhiều người ưa thích bài đó, có lẽ đáp được ước vọng của nhiều người, tôi nghĩ tiếng gọi đáp ứng đúng được tiếng của nhiều người, không riêng gì giới trẻ đâu, cả người lớn tuổi ở các hội đoàn về sau này, rồi đi vào trong quân đội, đi rất nhiều nơi. Thành ra, tôi cho đó là một bài hát tự nó trưởng thành nhưng khi viết tôi chỉ đúc kết cho tập Trường Ca lúc đó mà thôi.

Thật đơn giản và tự nhiên như thế. Không một ông Bộ trưởng Bộ Chiêu hồi nào đặt hàng hay một ông Tổng ủy trưởng Dân vận nào chỉ thị anh phải viết. Anh viết không phải để thi đua sáng tác hay mong mang về giải thưởng, huân chương. Trong tâm hồn của một nghệ sĩ chân chính, tình yêu nước bao giờ cũng là sự thôi thúc tự nguyện. Anh viết Việt Nam quê hương ngạo nghễ để kết thúc tập trường ca của riêng anh nhưng cũng nối tiếp tập trường ca lớn hơn của đất nước. Sau ba mươi năm, nhiều nhạc sĩ, ca sĩ đã trở về qua nhiều ngả, trong nhiều tư cách khác nhau, một số tình ca sáng tác trước 1975 đã được nghe lại trong nước, nhưng đây là lần đầu tiên một bài hát đã về lại quê hương qua ngả của trái tim, trở về trong vòng tay nồng ấm của tuổi trẻ Việt Nam.

Bất ngờ và cảm động, một buổi sáng tuần trước, khi đi dạo một vòng qua các blog Việt ngữ, tôi bắt gặp không chỉ những mẩu tin nóng viết vội vàng trên đường phố, những đoạn phim biểu tình vừa mới đưa lên YouTube, những tấm hình ghi lại cảnh xô xát giữa đồng bào, sinh viên với công an, nhưng còn được nghe lại bài hát quen thuộc Việt Nam quê hương ngạo nghễ. Tôi cảm nhận qua lần gặp gỡ đó một niềm vui chung khi có một bản nhạc mà các em sinh viên Việt Nam ở California, Washington DC, Oslo, Paris, Hà Nội, Sài Gòn cùng hăng say hát trong những cuộc biểu tình chống Trung Cộng bành trướng bá quyền mà không cảm thấy ngần ngại, nghi ngờ, xa cách.

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi
 Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian.

Trong số một trăm em đang hát trong nước hôm nay có thể hơn chín mươi em chưa hề nghe đến tên Nguyễn Đức Quang lần nào, và nếu có nghe, có đọc qua bộ máy tuyên truyền của Đảng, cũng chỉ là một “nhạc sĩ ngụy đã theo chân đế quốc”. Biết hay không biết, nghe hay không nghe không phải là điều quan trọng. Điều quan trọng là bài hát đã đáp ứng được ước vọng về tương lai và tình yêu tổ quốc của tuổi trẻ. Tổ quốc, vâng, không có gì lớn hơn tổ quốc.

Văn hoá không phải chỉ là đời sống của một dân tộc mà còn là những gì giữ lại được sau những tàn phá, lãng quên. Việt Nam quê hương ngạo nghễ sau 30 tháng Tư 1975 hẳn đã nằm trong danh sách các tác phẩm “văn hoá đồi trụy” mà đảng tìm mọi cách để xóa bỏ, tận diệt. Thế nhưng, như giọt nước rỉ ra từ kẽ đá và như bông hoa mọc giữa rừng gai, bài hát đã sống sót, đã ra đi và đã trở về.

Để tồn tại, một bài thơ, một bản nhạc cũng phải trải qua những gạn lọc, những cuộc bỏ phiếu công bằng không chỉ của người nghe, người đọc dưới một chế độ chính trị nào đó mà còn của cả lịch sử lâu dài. Bài hát phát xuất từ tình yêu nước trong sáng như Việt Nam quê hương ngạo nghễ sẽ ở lại rất lâu trong lòng tuổi trẻ Việt Nam hôm nay và nhiều thế hệ mai sau.

Là một người thích tham gia các sinh hoạt văn nghệ cộng đồng, bài hát mang tôi về thời trẻ tuổi của mình.

Tôi còn nhớ, mùa hè 1973, khi còn là sinh viên năm thứ nhất, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cũng là nhạc sinh hoạt chính của trại hè sinh viên toàn quốc quy tụ đại diện sinh viên các trường đại học và cả sinh viên du học về nghỉ hè, do Bộ Giáo dục và Thanh niên tổ chức lần đầu và có lẽ cũng là lần cuối tại trường Thiếu Sinh Quân, Vũng Tàu. Đêm trước ngày chia tay, chúng tôi không ai ngủ được. Ngày mai sẽ mỗi người mỗi ngả, chị về Huế, anh về Đà Lạt, em về Cần Thơ và đa số chúng tôi sẽ trở lại Sài Gòn. Cùng một thế hệ chiến tranh như nhau, khi chia tay biết bao giờ còn gặp lại.

Những ngày tháng đó, cuộc chiến vẫn còn trong cao điểm. Mỹ đã rút quân nên máu chảy trên ruộng đồng Việt Nam chỉ còn là máu Việt Nam. Thảm cảnh của “mùa hè đỏ lửa” chưa qua hết. Trên khắp miền Nam, đâu đâu cũng có đánh nhau, đâu đâu cũng có người chạy giặc. Mơ ước của tuổi trẻ chúng tôi là được thấy một ngày đất nước hoà bình, một ngày quê hương không còn nghe tiếng súng. Đêm cuối trại hè, chúng tôi ngồi quây quần thành một vòng tròn rộng quanh cột cờ trường Thiếu Sinh Quân và hát nhạc cộng đồng như để vơi đi những vương vấn, lo âu đang trĩu nặng trong lòng. Bài hát được hát nhiều nhất trong đêm đó là Việt Nam quê hương ngạo nghễ, và khi điệp khúc cất lên cũng là khi chúng tôi hát trong nước mắt:

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông miệt mài
 Từng ngày qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi.
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng.

Những giọt nước mắt của tuổi sinh viên nhỏ xuống xót thương cho dân tộc mình. Tại sao có chiến tranh và tại sao chiến tranh đã xảy ra trên đất nước chúng tôi mà không phải tại một quốc gia nào khác? Mấy tháng sau, tháng Giêng năm 1974, bài hát Việt Nam quê hương ngạo nghễ đã được hát vang trên đường phố Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ sau khi Hoàng Sa rơi vào tay Trung Cộng. Những bản tin đánh đi từ Đà Nẵng, danh sách những người hy sinh được đọc trên các đài phát thanh làm rơi nước mắt.

Và hôm nay, ba mươi ba năm sau, trong cái lạnh mùa đông trên xứ người, những lời nhạcViệt Nam quê hương ngạo nghễ  như xoáy vào tim. Tôi lại nghĩ đến các anh, những người đã hy sinh ở Hoàng Sa tháng Giêng năm 1974, ở Trường Sa tháng Ba năm 1988. Các anh khác nhau ở chiếc áo nhưng cùng một mái tóc đen, một màu máu đỏ, một giống da vàng, cùng ăn hạt gạo thơm, hạt muối mặn, cùng lớn lên bằng giòng sữa mẹ Việt Nam, và cùng chết dưới bàn tay hải quân Trung Cộng xâm lăng.

Việt Nam, sau hơn ba mươi ba năm “độc lập, tự do” vẫn chưa thoát ra khỏi số phận nhược tiểu bị xâm lược, vẫn chưa tháo được cái vòng kim cô Trung Cộngtrên đầu. Việt Nam có một lãnh hải dài trên ba ngàn cây số nhưng thực tế không còn có biển. Cả hành lang Đông hải rộng bao la từ Hải Nam đến Hoàng Sa và xuống tận Trường Sa đã bị Trung Cộng chiếm. Nếu vẽ một đường cung dọc theo lãnh hải đó, ngư dân Việt Nam chỉ còn có thể đi câu cá ven bờ chứ không thể đánh cá như ngư dân Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan hay các quốc gia khác trong vùng biển Đông. Phía sau tấm bảng in đậm “mười sáu chữ vàng” hữu nghị thắm thiết giữa hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc là thân xác của ngư dân Việt Nam trôi bềnh bồng dọc các hải đảo của tổ tiên mình để lại.

Trong suốt dòng lịch sử, hoạ xâm lăng từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ thường xuyên. Khác với các thời đại trước đây, cái bất hạnh của Việt Nam ngày nay không phải chỉ là mất đất nhưng mất đất mà không đòi lại được ngay. Cuộc kháng Nguyên lần thứ nhất trong hàng vương tước nhà Trần chỉ có mỗi Trần Nhật Hiệu chủ trương “Nhập Tống” và lần thứ hai chỉ có Trần Ích Tắc và đám hầu tước Trần Kiện, Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên chủ trương “Hàng Nguyên” nhưng ngày nay, về mặt lập trường quan điểm, Việt Nam có đến 14 Trần Ích Tắc và 160 Trần Kiện.

Trận đụng độ giữa Việt Nam và Trung Cộng diễn ra tại Trường Sa năm 1988 theo tác giả Daniel J. Dzurek trong biên khảo Xung Đột Trường Sa: Ai có mặt trước? (The Spratly Islands Dispute: Who’s on First?) chỉ kéo dài vỏn vẹn 28 phút và Việt Nam chịu đựng hầu hết thương vong. Với một giới lãnh đạo tham quyền cố vị và sự chênh lệch quá xa về kỹ thuật chiến tranh như thế, cuộc đấu tranh giành lại hai quần đảo sẽ vô cùng khó khăn.

Dù sao, tuổi trẻ Việt Nam, khác với các thế hệ Tân Trào, Pác Bó trước đây, thế hệ Hoàng Sa, Trường Sa ngày nay có nhiều cơ hội tiếp xúc, học hỏi và so sánh giữa chế độ các em đang sống với các tư tưởng tự do dân chủ, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhờ đó, hy vọng các em sẽ có những chọn lựa đúng cho mình và cho đất nước phù hợp với dòng chảy của văn minh nhân loại.

Trong cuộc chiến Việt Nam dài mấy mươi năm Đảng đã sản xuất ra không biết bao nhiêu bài hát, bài thơ kích động lòng yêu nước nhưng tại sao các em không đọc, không hát nữa?

Như một độc giả trong nước đã trả lời, đơn giản chỉ vì chúng nhạt nhẽo. Ý thức sâu sắc đó đã được thể hiện không chỉ trong khẩu hiệu các em hô mà ngay cả trong những bài hát các em hát. Sau những Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắngDậy mà điNối vòng tay lớncủa những ngày đầu phong trào, các bạn trẻ trong nước đã đi tìm những nhạc phẩm nói lên lòng yêu nước trong sáng, tích cực, không bị ô nhiễm, chưa từng bị lợi dụng và họ đã tìm được Việt Nam quê hương ngạo nghễ.

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm
Da chan mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân tươi
Ôm vết thương rỉ máu ta cười dưới ánh mặt trời.

Mỗi khi nhắc đến những khó khăn đất nước, chúng ta thường nghe đến những “bất hạnh”, “nỗi đau”, “tính tự ti mặc cảm”, vâng đó là một thực tế hôm nay, thế nhưng dân tộc Việt Nam “vốn xưng nền văn hiến đã lâu, nước non bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác” như Nguyễn Trãi khẳng định, không phải chỉ biết đau, biết tự ti mặc cảm mà thôi nhưng từ những nỗi đau đã biết lớn lên bằng tự hào và kiêu hãnh làm người Việt Nam. Chỗ dựa tinh thần của tuổi trẻ Việt Nam hôm nay không có gì khác hơn là lịch sử. Không thể làm nên lịch sử mà không cần học lịch sử. Lịch sử sẽ là vũ khí, là hành trang trong hành trình tranh đấu cho một nước Việt Nam mới, cũng như để xây dựng một Việt Nam tươi đẹp sau nầy.

Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên.

Việt Nam quê hương ngạo nghễ như giọt nước mắt bi tráng của tuổi trẻ Việt Nam ngày nào nhỏ xuống trên quê hương chiến tranh khốn khổ, đã bốc thành hơi, tụ thành mây và sau bao năm vần vũ khắp góc bể chân trời đã trở về quê hương qua ánh mắt của em, qua nụ cười của chị, qua tiếng hát của anh, hồn nhiên và trong sáng.

Từ “vết thương rỉ máu” của một dân tộc đã từng bị nhiều đế quốc thay phiên bóc lột, lợi dụng và hôm nay còn đang chịu đựng trong áp bức của độc tài đảng trị, Việt Nam quê hương ngạo nghễ cất lên như một lời khuyên, hãy sống và hãy vững tin vào lịch sử, sẽ có một ngày, sẽ có một ngày.

Trần Trung Đạo
© 2008 talawas, 2014 facebook



Tham khảo:
-          Nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ(http://ducavn.nl/duca_files/PAGES/NhacUVXY.htm)




----


Radio VNHN - Chương trình Tác Giả & Tác Phẩm.

Huy Tâm biên soạn & diễn đọc
Video: Mũ Nâu 11- Thủy Gia Trang 2014
trucduong11@gmail.com

Nguyễn Đức Quang hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ


Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn 
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang 
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm 
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng 

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người 
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi 
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi 
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian 

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại 
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài 
Từng ngày qua 
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi 

Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang 
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang 
Còn Việt Nam 
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng 

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng 
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm 
Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời 
Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời 


Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người 
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam 
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian 
Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên ./.

-Nguyễn Ðức Quang và tính năng động của xã hội dân sự Việt Nam-Ðoàn Thanh Liêm (viết nhân ngày giỗ đầu của Quang)

Nhân ngày giỗ đầu của Nguyễn Ðức Quang vào cuối Tháng Ba năm 2012 này, tôi muốn ghi lại một vài suy nghĩ nho nhỏ về sinh hoạt của Quang trong lãnh vực Xã hội Dân sự của dân tộc Việt Nam chúng ta trong mấy chục năm gần đây.

Nhạc sĩ Nguyễn Ðức Quang. (Hình: Dan Huynh/Người Việt)

Có thể nói hoạt động chính yếu của Quang từ thời niên thiếu cho đến cuối đời, thì hầu như hoàn toàn là ở trong khu vực Xã hội Dân sự, mà điển hình là thông qua Phong trào Hướng Ðạo và Phong trào Du Ca. Ðể bạn đọc dễ bề theo dõi câu chuyện, người viết xin trình bày tóm lược về các giai đoạn hoạt động của Nguyễn Ðức Quang - trước khi phân tích chi tiết về các sinh hoạt của anh trong hai phong trào này.

I. Sơ lược về cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ðức Quang

1) Một ngày là Hướng Ðạo - Cả đời vẫn là Hướng Ðạo
Vào năm 1954, khi đi theo gia đình từ miền Bắc di cư vào miền Nam, thì Quang mới có 10 tuổi. Nhờ thân phụ là một nhà giáo, nên Quang đã được hướng dẫn chu đáo trong việc học hành cũng như trong lề lối sinh hoạt ngăn nắp lương hảo. Năm 1956 lúc mới có 12 tuổi, Quang đã gia nhập làm một hướng đạo sinh ở Ðà Lạt, và ở vào tuổi 15-16, Quang đã sáng tác được vài bài ca để cho các bạn cùng hát trong những buổi sinh hoạt của đoàn. Cả đến khi ra tới hải ngoại, lúc đã ở vào tuổi 50 rồi, thì Quang cũng vẫn còn gắn bó mật thiết với các sinh hoạt của phong trào Hướng Ðạo Việt Nam ở nước ngoài.
Vào lứa tuổi 20, lúc là sinh viên của trường Chính Trị Kinh Doanh Ðại Học Ðà Lạt hồi giữa thập niên 1960, Quang đã lăn xả hết mình vào công cuộc xây dựng phong trào Du Ca. Với trách nhiệm là vị trưởng xưởng của phong trào, Quang vừa sáng tác vừa trình diễn, lại vừa đảm trách việc huấn luyện cho các du ca viên qua rất nhiều lớp đào tạo được tổ chức ở khắp các địa phương tại miền Nam Việt Nam. Nhiều bạn vẫn còn nhớ cái xưởng Du Ca này được cho tá túc trong căn phòng nhỏ của nhà chứa xe của Dược Sĩ Hoàng Ngọc Tuệ trên đường Sương Nguyệt Anh Saigon - trong những năm tháng Nguyễn Ðức Quang và Ngô Mạnh Thu đều miệt mài sáng tác và tập dượt cho mấy đàn em hát thử những ca khúc thật là mới mẻ thời ấy.
2) Hoạt động của Nguyễn Ðức Quang trong hàng ngũ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (1968-1975)
Quang tốt nghiệp đại học vào năm 1968, lại cũng đúng vào thời gian lệnh tổng động viên được ban hành trong toàn lãnh thổ miền Nam - sau cuộc tổng tấn công hồi Tết Mậu Thân khiến cho chiến cuộc càng thêm sôi động tàn khốc ở khắp nơi, nhất là tại các vùng nông thôn. Nhưng vì là một nhạc sĩ có tài năng, nên sau khi tốt nghiệp khóa sĩ quan trừ bị Thủ Ðức, thì Quang được bố trí làm việc cho Cục Chính Huấn trong ngành Tâm Lý Chiến. Trong thời gian này, Thiếu Úy Nguyễn Ðức Quang đã cùng với nhiều đồng đội chuyên viên âm nhạc hợp nhau sáng tác những bản nhạc hùng có tác dụng động viên nâng cao tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ ngoài mặt trận. Các bản nhạc này là công trình của cả một tập thể, nên đã không hề đề tên ai là tác giả cả - nhưng đã được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, điển hình như bài: “Cờ bay, cờ bay trên thành phố thân yêu...”
Sau đó ít lâu, thì Quang được biệt phái về làm công việc chuyên môn tại cơ sở cũ là Ngân Hàng Phát Triển Nông Nghiệp ở Saigon. Vị thủ trưởng của Quang tại cơ sở này lại chính là ông Ðỗ Khắc Xiêm thân phụ của học giả Ðỗ Thông Minh. Và sau năm 1975, thì Quang phải đi “ở tù cải tạo” như bao nhiêu sĩ quan khác của quân đội miền Nam.
3) Hoạt động của Nguyễn Ðức Quang tại hải ngoại kể từ năm 1979
Sau khi được trả tự do khỏi trại tù, Quang về gặp lại Dược Sĩ Hoàng Ngọc Tuệ và hai người lại chung nhau tổ chức làm ăn với dịch vụ chuyên chở xe đò phục vụ bà con đi lại giữa Saigon với các tỉnh Long An, Mỹ Tho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhưng coi bộ chuyện kinh doanh này không khá, nên Quang đã phải đưa gia đình lên ghe để vượt biên qua Mỹ vào năm 1979.
Sau khi tạm ổn định cuộc sống cho gia đình tại California, Quang đã lăn xả vào lãnh vực truyền thông báo chí, cụ thể là cộng tác với tờ nhật báo Người Việt - mà người khởi xướng là Ðỗ Ngọc Yến vốn trước năm 1975 đã từng là một nhân vật nòng cốt của trong phong trào sinh hoạt thanh thiếu niên tại miền Nam Việt Nam. Rồi qua thập niên 1990, Quang lại đứng ra thành lập cơ sở mới là tờ báo Viễn Ðông - bắt đầu mỗi tuần ra 4 số báo, rồi sau tăng lên đến 6 số báo mỗi tuần. Tiếp theo vào đầu thập niên 2000, thì Quang cùng với các bạn khai sinh ra cơ sở truyền thông QMS gồm có hai tạp chí là tuần báo Chí Linh và nguyệt san Phụ Nữ Diễn Ðàn, cùng với một số chương trình phát thanh và truyền hình. Có thể nói Quang đã dành ra đến trên 20 năm riêng cho công việc trong ngành truyền thông báo chí ở hải ngoại.
Một số bạn thân thiết với gia đình thì cho biết là: Ông Quang với tính nghệ sĩ, mà lại say mê với công tác xã hội, cho nên mọi chuyện về kinh tế gia đình đều do một mình bà Minh Thông là người bạn đời của chàng ra tay lo toan đảm đang trọn vẹn hết. Ðúng là chàng nhạc sĩ này có cung mệnh “Thân cư thê” vậy đó. Và cũng nhờ thế, mà thế hệ chúng ta mới có được những bài ca tuyệt đẹp phát xuất từ con chim đầu đàn này của phong trào Du Ca.

II. Sự đóng góp của Nguyễn Ðức Quang với Phong trào Sinh hoạt Thanh Thiếu Niên Việt Nam

1) Trưởng thành từ lò luyện Hướng Ðạo
Như đã ghi ở trên, Nguyễn Ðức Quang được đào tạo trong hàng ngũ hướng đạo sinh từ hồi còn là một thiếu niên mới được 12 tuổi. Và sau này vào tuổi trưởng thành, từ giữa thập niên 1960 Quang đã cùng với số đông bạn hữu khác dấn thân hết mình với sinh hoạt của giới thanh thiếu niên tại khắp miền Nam, điển hình là qua Phong trào Du Ca được phát triển mạnh mẽ cả ở trung tâm Saigon và cả ở rất nhiều địa phương các tỉnh miền quê nữa.
Quang đã trưởng thành qua sự đào tạo huấn luyện trong Phong trào Hướng Ðạo được khởi sự từ một tổ chức thiện nguyện tư nhân chuyên phục vụ giới thanh thiếu niên trong công cuộc mưu tìm một lối sống lành mạnh cho bản thân và cho cộng đồng xã hội nơi mình sinh sống.
Có thể nói tổ chức Hướng Ðạo là một trong những cơ sở nòng cốt của Xã hội Dân sự mà có kinh nghiệm đào tạo huấn luyện cho giới trẻ ở khắp nơi trên thế giới ngay từ đầu thế kỷ XX . Tổ chức này được du nhập vào Việt Nam từ đầu thập niên 1930 và đã phát triển rộng rãi tại nhiều địa phương trong nước ta trước năm 1945. Trong thời kỳ chiến tranh 1946-54, sinh hoạt Hướng Ðạo bị gián đoạn tại các vùng do Việt Minh kiểm soát. Nhưng từ năm 1950, tại vùng đô thị do phe quốc gia quản lý, thì các hướng đạo sinh lại có thể bắt đầu quy tụ tập hợp sinh hoạt với nhau được. Và chỉ sau năm 1954, khi hòa bình được vãn hồi, thì tại khắp các tỉnh ở miền Nam Việt Nam, Phong trào Hướng Ðạo mới lại được phục hồi một cách khởi sắc mạnh mẽ.
Và một số khá đông các huynh trưởng của Phong trào Sinh hoạt Thanh thiếu niên trong các thập niên 1960-70, thì đều xuất thân từ hàng ngũ hướng đạo sinh như Nguyễn Ðức Quang - điển hình như các chị Phạm Thị Thân, Lê Thị Dung, Hà Dương Thị Quyên, các anh Hoàng Ngọc Tuệ, Trần Văn Ngô, Ðỗ Quý Toàn, Trần Ðại Lộc, Nguyễn Văn Thuật, Ðỗ Ngọc Yến v.v...
2) Phong trào Sinh hoạt Thanh thiếu niên nở rộ vào giữa thập niên 1960
Vào giữa thập niên 1960, thì tổng số sinh viên đại học và học sinh trung học trên toàn lãnh thổ miền Nam đã lên đến con số quá nửa triệu người. Nhờ sự yểm trợ và khích lệ của các cơ quan chính quyền như Bộ Giáo Dục, Bộ Thanh Niên, Bộ Xã Hội, cũng như của các đoàn thể hiệp hội tư nhân hay của các tổ chức tôn giáo - thì sinh hoạt của giới thanh thiếu niên học đường càng có điều kiện phát triển thật đa dạng khởi sắc. Một trong những hình thức sinh hoạt được giới trẻ thích thú và nhiệt thành tham gia đông đảo nhất, đó là các trại công tác xã hội nhằm phục vụ cộng đồng địa phương - cụ thể như dọn dẹp rác rưởi, khai thông nước đọng, làm vệ sinh nơi các xóm hẻm, sửa chữa lớp học tại các trường ở ngoại ô thành phố... Ðồng thời các bạn trẻ cũng tổ chức những màn trình diễn văn nghệ và ca hát tập thể để vừa phục vụ bà con ở địa phương, vừa vui chơi giải trí lành mạnh với nhau nữa. Và chính là để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tập thể như thế đó, mà kể từ năm 1966, Nguyễn Ðức Quang và các bạn hữu thân thiết đã hợp với nhau phát động thành Phong trào Du Ca với hàng mấy chục cơ sở ở Saigon và các tỉnh miền quê.
Lịch sử phát triển của Phong trào Du Ca này cũng như của Phong trào Hướng Ðạo sẽ cho các thế hệ sau này biết rõ ràng hơn về sự dấn thân nhập cuộc của biết bao nhiêu huynh trưởng thanh niên đã miệt mài và kiên trì trong suốt bao nhiêu năm tháng để khơi động khai mở được một nếp sống lành mạnh cao đẹp cho giới thanh thiếu niên - ngay cả trong giai đoạn chiến tranh khói lửa tràn đày những đau thương tang tóc thuở đó. Ðóng góp riêng của Nguyễn Ðức Quang cho phong trào này, thì thật hết sức lớn lao quý báu - mà ta có thể nói như nhạc sĩ Hoàng Ngọc Tuấn hiện ở thành phố Sydney bên Úc châu đã có lần trao đổi trực tiếp với Nguyễn Ðức Quang rằng: “Những ca khúc của anh đã gắn liền với một phần lịch sử. Và anh đã làm trọn nhiệm vụ của anh đối với cái phần lịch sử ấy... Những ca khúc của anh đã bám vào trái tim con người...”
Quang không những đã sáng tác được đến hàng mấy trăm ca khúc, mà lại còn đích thân vừa gảy đàn vừa xướng hát cho cả trăm, cả ngàn các bạn trẻ cùng vỗ tay mà say sưa hát theo - trong không biết bao nhiêu cuộc tập họp sinh hoạt ở khắp các địa phương trong nước và sau này ở nhiều thành phố trên thế giới nữa. Nhân tiện, cũng cần phải ghi ra đây một số thành viên khác mà cũng đã có những sáng tác cho dòng Nhạc Sinh Hoạt này, điển hình như các nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu, Trần Ðình Quân, Trầm Tử Thiêng, Bùi Công Thuấn v.v...

III. Tính năng động của Xã hội Dân sự Việt Nam

Như ta đã biết tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, các tổ chức phi chính phủ, bất vụ lợi được tự do thành lập và sinh hoạt, điển hình như Phong trào Hướng Ðạo và Phong trào Du Ca - là hai tổ chức mà Nguyễn Ðức Quang đã tham gia và gắn bó mật thiết trong suốt cuộc đời của anh - thì các tổ chức này đã có sự đóng góp thật đáng kể trong công cuộc rèn luyện giới thanh thiếu niên Việt Nam thời đó và cả bây giờ ở hải ngoại nữa.
Những ca khúc Quang sáng tác và trình diễn đã thổi một ngọn lửa nồng cháy nơi tâm hồn của tập thể lớp thanh thiếu niên liên tục từ nhiều năm nay. Ðiển hình như nơi ca từ trong bài “ Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” - một bài hát được các bạn trẻ ưa thích nhất - thì có những câu: “Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại. Xương da thịt này cha ông miệt mài... Còn Việt Nam, triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng...”
Hay trong bài “Cho Ðồng Bào Tôi,” thì điệp khúc ghi rõ lời kêu gọi hết sức thiết tha nồng nhiệt: “Một địa cầu mới hãy mọc lên. Một thế giới mới hãy ra đời. Một nền hòa bình vĩnh viễn mau đến cùng người. Một đoàn người mới hãy vùng lên, bài ca tranh đấu hãy vang rền và người vì người hãy chủ động nuôi lớn quê hương.”
Và như ta đã biết, trên thế giới ngày nay càng ngày sinh hoạt của khu vực Xã hội Dân sự lại càng thêm phong phú khởi sắc - vì tính chất sáng tạo năng động và dấn thân nhập cuộc của hàng hàng lớp lớp những thiện nguyện viên, đặc biệt là lớp người trẻ tuổi với bàu nhiệt huyết sôi sục. Xã hội Dân sự vừa đóng vai trò làm “đối tác với chính quyền Nhà nước” (counterpart) như trong những công việc từ thiện nhân đạo phục vụ công ích. Mà Xã hội Dân sự cũng còn đóng vai trò làm “đối trọng với Nhà nước” (counterbalance) như trong việc chống bất công, nhũng lạm, chống nạn độc tài áp bức do cán bộ Nhà nước gây nên.
Tại Việt Nam lúc này hiện có vô vàn vô số những con người bất khuất như Việt Khang, Ðỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên, Ðoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Bùi Thị Minh Hằng ... Những người bạn trẻ này của thế kỷ XXI hiện đang nối tiếp cái tinh thần nhân bản nhân ái và tấm lòng yêu mến quê hương dân tộc - trong truyền thống kiên cường bất khuất do cha ông chúng ta đã truyền lại cho thế hệ của Nguyễn Ðức Quang vào giữa thế kỷ XX.
Xin cảm ơn Nguyễn Ðức Quang vì những đóng góp tuyệt vời của anh qua những ca khúc bất hủ và qua những buổi trình diễn say sưa linh hoạt của anh tại khắp nơi trên quê hương đất nước Việt nam thời trước và cả trên khắp các châu lục có đông đảo người Việt cư ngụ thời sau này nữa.
Rõ ràng là anh đã góp phần đáng kể vào công việc làm cho cuộc sống của thế hệ trẻ có ý nghĩa cao đẹp hơn, trong sáng hơn. Anh cũng giúp trong việc mở rộng cái Không gian Xã hội (Our Social Space) của chúng ta cho tươi mát hơn, thông thoáng hơn. Và Anh cũng như các bạn Ðỗ Ngọc Yến, Ngô Mạnh Thu... đã làm cho cái Nguồn Vốn Xã hội (Our Social Capital) của dân tộc chúng ta thêm phong phú hơn, sung mãn hơn mãi nữa.
(San Clemente California, Tháng Ba 2012)
-Đêm Nhạc Tưởng Niệm Ngày Giỗ Đầu Nhạc Sĩ Nguyễn Đức Quang: CÒN ĐÓ NỖI BUỒN NHƯỢC TIỂU SAU NỬA THẾ KỶ DÂN VIỆT (04/06/2012) 
 “Tôi chót sinh ra làm dân nhược tiểu, nỗi tủi hờn căm bừng trên tay, nỗi nhục nhằn chĩu nặng đôi vai…” (Nỗi Buồn Nhược Tiểu - Nhạc & Lời: Nguyễn Đức Quang).

Vào tối Thứ Bảy ngày 31/03/2012, bạn bè, người thân, những người yêu mến cố nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã tụ họp về hội trường báo Người Việt để dự đêm nhạc tưởng nhớ lại người đàn anh du ca đã ra đi tròn một năm.

Có những người bạn du ca tự khắp nơi đổ về. Đến từ xa nhất là vợ chồng anh chị Nguyễn Quyết Thắng, du ca Ban Mê Thuộc, từ Hoà Lan về theo “tiếng chim gọi đàn”, như lời anh Thắng nói. Gần hơn một chút là những người du ca từ Bắc, Nam Cali cũng có mặt để góp lời…

Gần như toàn bộ đêm nhạc hôm đó là nhạc Nguyễn Đức Quang. Có một số người cho rằng dù anh Quang sáng tác được nhiều thể loại, nhưng dấu ấn lớn nhất của anh là thể nhạc du ca, hát trong các sinh hoạt cộng đồng, hát trong những trại hè sinh viên, hát trong những đêm lửa trại hướng đạo… Bạn bè, thế hệ đàn em của anh Quang đã cố gắng tái tạo lại không khí hào hùng của những sinh hoạt đó... Ấy vậy mà khi nghe lại những ca khúc ấy ở Little Saigon, một nơi chốn bình yên cách quê hương Việt Nam gần nửa vòng trái đất, không ít người đã có một cảm giác buồn buồn…

Vì những trăn trở của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang về quê hương Việt nam cách đây nửa thế kỷ hình như vẫn còn nguyên…

“Chuyện Việt Nam đã mấy mươi năm, mấy trăm năm hay đã hơn ngàn năm, mấy ngàn năm chưa thấy vẻ vang, trên đường đi vẫn đầy bóng tối tăm…” (Chuyện Quê Ta)

Hơn bao giờ hết, những người còn quan tâm tới Việt Nam đều nhận ra rằng tình hình Việt Nam hiện nay về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội… không mấy sáng sủa. 

“Cho đồng bào tôi ở khắp bốn phương trời
Hát những bài ca tôi đòi đã mòn hơi…
…Đêm đêm đi dạy vá vay thêm, hay mang xe đèo kiếm cơm ăn
Thân trâu kéo cày, bên lũ hưởng nhàn…” (Cho Đồng Bào Tôi)

Nếu không biết đây là những lời hát đã viết cách đây gần nửa thế kỷ, nhiều người sẽ nghĩ rằng đây chính là lời miêu tả chân thực cho xã hội Việt Nam hiện tại! Không buồn sao được, khi mà chúng ta cứ phải nhìn quê nhà ì ạch, không thoát ra khỏi những bế tắc của 50 năm trước!


Hợp ca Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ trong đêm nhạc kỷ niệm giỗ đầu nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang.
Khi viết ca khúc Nỗi Buồn Nhược Tiểu vào năm 1964, chắc nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đang nhìn quê hương chia cắt, bom đạn một cách bi ai. Nhưng chắc anh Quang lúc đó không thể ngờ rằng, vẫn có những nỗi buồn còn ray rứt hơn là việc làm con dân của một quốc gia nhược tiểu. Đó là nỗi buồn của những người dân nước chậm tiến mà lại còn không có quyền nhận ra nỗi nhục này, để mà gào to lên cho thỏa nỗi tủi hờn! Ở cuối bài hát, nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang vẫn còn đủ niềm tin để kêu gọi đồng bào đừng bỏ cuộc, mà hãy góp tay vào để vực dậy non sông:

“…Hãy đứng dậy hỡi anh này, hãy đứng dậy hỡi em này
Bao người con Việt Nam, cùng tay cầm tay, dựng xây đất nước…”

Còn bây giờ ở Việt Nam, có mấy ai dám kêu gọi như vậy khi sơn hà nguy biến? Có nhiều người liên tưởng tới nhạc sĩ Việt Khang và ca khúc “ Việt Nam Tôi Đâu”. Ca khúc này mới đây trở thành một hiện tượng trong cộng đồng chúng ta, không phải vì giá trị âm nhạc của nó, mà bởi vì tinh thần can đảm của người nhạc sĩ, dám nhận diện và nói lên thân phận nhược tiểu của đất nước mình, bất chấp hậu quả chắc chắn sẽ đến là tù tội. Nếu còn sống, hẳn anh Quang sẽ có nhiều đồng cảm dành cho Việt Khang…

Hùng ca chính là đóng góp lớn nhất của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang cho nền âm nhạc Miền Nam Việt Nam trước 1975. Đã nửa thế kỷ rồi, mà mỗi khi nghe lại bài hát Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ, hầu như ai cũng cảm thấy lòng yêu nước dâng trào: “…Còn Việt Nam, triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng…”. Hỏi ai trong chúng ta không cảm thấy hào khí ngất trời khi cùng hát   bài Đường Việt Nam:

“… Nhưng càng mưa dông càng vươn tới
Bước chân hùng còn đi rất hăng
Đi dựng lấy huy hoàng, giống da vàng này là vua đấu tranh…”  

Nhưng cũng chính những bản hùng ca đó lại làm chúng ta ngậm ngùi. Những ngọn lửa trong trái tim của thế hệ anh Nguyễn Đức Quang đã không thể đem lại mùa xuân cho dân tộc. Và giờ đây, khi Việt Nam đang cần hơn bao giờ hết những trái tim yêu nước, ngọn lửa trong những lời ca của người nghệ sĩ vẫn không thể bừng sáng lên trong thế hệ trẻ tại quê nhà. Nếu những bài hát đó chỉ được hát ở đây, ở một Little Saigon bình yên này, thì đó chỉ là sự hoài niệm. Những người cần ngồi cùng nhau hát bài Về Với Mẹ Cha “Từ Nam Quan Cà Mau, từ non cao rừng sâu, gặp nhau do non nước xây cầu…” phải là những thanh niên Việt Nam, chứ không phải là những mái đầu sương điểm ở chốn quê người…

Những lời hát cho thân phận Việt Nam vẫn đúng… Những hoài bão lớn lao cho dân tộc vẫn còn nguyên và chưa thực hiện được… Như vậy thì lời kêu gọi đoàn kết lại vẫn còn có giá trị. Và có ai đó, xin hãy chuyển lời kêu gọi này của Nguyễn Đức Quang về đến quê nhà:

“…Đường Việt Nam mời những bước chân rời, sát nhau lại vì đường vẫn còn xa…” (Đường Việt Nam)

Dân Việt
-

-------
-

Tổng số lượt xem trang