Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2012

Đoàn Viết Hoạt: Giải Pháp Dân Chủ Cho Việt Nam

--Đoàn Viết Hoạt: Tại Sao Chưa Đến Việt Nam?
Dân chủ hóa là một trào lưu thời đại, một xu thế tất yếu, đã xẩy ra tại các nước Đông Âu, tại các nước Trung Á, và giờ đây đang xẩy ra tại các nước thuộc khối Hồi Giáo Bắc Phi và Trung Đông. Tại sao chưa xẩy ra tại Việt Nam, một nước cộng sản đang đổi mới?
Để trả lời câu hỏi này cần phân tích những điểm tương đồng và dị biệt giữa Việt Nam và các nước Hồi giáo Bắc Phi, để từ đó nhận ra được những yếu tố nào cần có để cách mạng dân chủ có thể xẩy ra tại Việt Nam.
Tương đồng

Chúng ta hãy tập trung vào hai nước Bắc Phi đã thành công bước đầu, đó là Tunisia và Ai Cập. Chúng ta thấy giữa Việt Nam và hai nước Bắc Phi này có 2 điểm tương đồng về kinh tế và xã hội. Trước hết, về kinh tế, cả ba nước đều đã trải qua một thời kỳ cải cách kinh tế trong hơn 20 năm qua, chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy sang kinh tế thị trường, và đã đạt được mức phát triển tương đối cao, từ 5 đến 7% mỗi năm. Lợi tức đầu người tăng từ 3 đến 5 lần so với trước khi cải cách kinh tế; tỷ lệ dân nghèo giảm từ 25-30% dân số xuống còn trên dưới 10%. Hiện nay cả ba nước đều đã được World Bank đánh giá là đã từ mức các nước có lợi tức thấp chuyển sang mức các nước có lợi tức trung bình thấp.
Về mặt xã hội, dân số ở cả ba nước này đều rất trẻ: trên 50% ở lứa tuổi dưới 30. Thành phần trẻ, nhất là nữ thanh niên, ngày càng có học và học cao hơn, tham gia nhiều hơn vào sinh họat kinh tế, xã hội, và có khả năng truy cập thông tin, kiến thức, nhiều và nhanh hơn, qua các mạng điện tử. Đây là lý do tại sao những người tổ chức và tham gia biểu tình đều rất trẻ, và đặc biệt, xuất hiện nhiều khuôn mặt nữ trong cuộc cách mạng dân chủ ở hai nước Hồi Giáo Tunisia và Ai cập, và hiện cũng đang xuất hiện tại Việt Nam. Một điểm nữa là ở cả ba nước đều có những tệ nạn xã hội giống nhau: tham nhũng, hối lộ, cửa quyền; chênh lệch giầu-nghèo, nông thôn-thành thị ngày một tăng, trong đó tầng lớp quyền quí có lợi tức bạc tỷ đô la, từ các nguồn lợi bất chánh, sống xa hoa phung phí trên sức lao động cực khổ của đa số nhân dân. Tốc độ kỹ nghệ hoá và đô thị hóa nhanh, thiếu qui hoạch, tạo thêm các vấn đề xã hội cho các thành phố, nâng cao tỷ lệ thất nghiệp, nhất là trong thành phần trẻ, tốt nghiệp trung học và đại học. Đây là nguồn nhân lực dồi dào cho các cuộc xuống đường. Và sau cùng, ở cả ba nước, kinh tế phát triển trong bối cảnh một cơ chế chính trị độc tài, chính quyền tham nhũng, thiếu trong sáng, luật pháp thiếu công minh, các quyền tự do căn bản bị hạn chế hoặc hoàn toàn bị chà đạp. Bối cảnh chinh trị-xã hội này đã tạo nên sự bất mãn tràn lan và mạnh mẽ trong dân chúng, chỉ chờ dịp nổ bùng ra. Ở Việt Nam bất mãn cũng đã làm nổ ra nhiều cuộc xuống đường, từ dân oan đến thanh niên sinh viên, tín đồ tôn giáo, đồng bào Thượng, và cả những hình thức phản kháng khác, chính trị và phi chính trị. Nhưng tại sao Việt Nam chưa có được một cuộc tổng nổi dậy làm xụp đổ chế độ độc tài kéo dài hơn nửa thế kỷ, như tại Tunisia và Ai cập? Có những khác biệt nào giữa Việt Nam với hai nước Bắc Phi khiến cho cách mạng dân chủ chưa xẩy ra được, dù nhiều người mong muốn?
Dị Biệt
Trước hết, các cuộc cách mạng dân chủ đã xẩy ra từ đệ nhị thế chiến đến nay đều diễn biến khác nhau, không đợt nào giống đợt nào –từ đợt dân chủ hóa tại các nước cựu thuộc địa mới dành lại độc lập, đến đợt dân chủ hóa tại Liên Sô và các nước Đông Âu, sau đó là các cuộc biến động tại vùng Trung Á, và giờ đây đến đợt dân chủ hóa tại các nước độc tài Hồi giáo. So sánh Việt Nam với các nước Bắc Phi và Trung Đông, điểm khác biệt đầu tiên dễ thấy là tất cả những nuớc này đều là những nước Hồi giáo không cộng sản –trừ Lybia, có một thứ chủ nghĩa xã hội riêng của Gaddhafi. Các nước này đều đã áp dụng nguyên tắc tách biệt giữa chính quyền và giáo hội, giữa chính trị và tôn giáo, dù ở mỗi nước mức độ tách biệt có khác nhau.
Ngoài ra, giữa Việt Nam và hai nước Bắc Phi còn có nhiều điểm khác biệt về kinh tế, chính trị và đường lối đối ngoại. Về kinh tế, dù phát triển nhanh, lợi tức đầu người của Việt Nam còn thấp ($1.032, năm 2009, theo World Bank) hơn so với Ai Cập ($2,270) và Tunisia ($3,792). Tỷ lệ lao động nông nghiệp tại Việt Nam còn chiếm 60% tổng số lao động, so với 20% tại Tunisia và 30% tại Ai Cập. Như vậy Việt Nam vẫn phát triển ở mức thấp hơn Tunisia và Ai cập về mặt kinh tế.
Về chính trị, ở Tunisia và Ai Cập đều đã có những họat động chính trị đối lập và những cuộc bầu cử đa đảng, ngay cả bầu cử Tổng Thống cũng có hai ba ứng cử viên, và trực tiếp do dân bầu. Dù đảng cầm quyền luôn dành được đa số ghế trong Quốc Hội qua các cuộc bầu cử gian lận, nhưng Tunisia cũng đã có 8 chính đảng đối lập được phép họat động, trong đó 6 chính đảng có ghế trong Quốc Hội; Ai cập có 7 chính đảng đối lập có ghế trong Quốc Hội dù hai chính đảng đối lập mạnh nhất cũng chỉ có được 6 và 5 ghế. Ở Tunisia và Ai cập cũng đã có báo chí tư nhân, dù vẫn bị đàn áp và kiểm duyệt. Đây là điểm mà Việt Nam, cũng như Lybia, hoàn toàn chưa có.
Điểm khác biệt thứ hai, về mặt chính trị, là ở Việt Nam đảng cầm quyền là đảng cộng sản, mà đảng CS thì chúng ta đã biết, hệ thống tổ chức từ trên xuống dưới rất chặt chẽ và thống nhất, nắm tất cả, từ công an, quân đội, đến chính quyền, từ giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, truyền thông báo chí đến các hội đoàn quần chúng. Nó khác hoàn toàn với các đảng cầm quyền ở bất cứ nước nào không phải là cộng sản. Về điểm này, Lybia giống Việt Nam. Lybia cũng có một hệ thống chính trị, chặt chẽ còn hơn đảng, cũng từ trên xuống dưới, nắm toàn bộ sinh hoạt xã hội, một hệ thống chính trị song song với hệ thống nhà nước và chi phối toàn bộ xã hội. Cách mạng ở Lybia đã bùng nổ ra khác với Tunisia và Ai cập cũng vì thế.
Về mặt đối ngọai, hai nước Bắc Phi đều đã thân Tây phương, đã được Mỹ và Âu Châu viện trợ. Và quan trọng nữa là Tunisia và Ai cập đều không chịu áp lực của một cường quốc lân bang như Trung quốc đối với Việt Nam. Việt Nam chưa thân thiện hẳn được với Mỹ, dù đang muốn, trong khi đó lại bắt buộc phải thân thiện với Trung quốc dù luôn bị Trung quốc kiềm chế. Đây là một trong những trở lực đáng kể cho cuộc vận động dân chủ. Tình trạng này khiến chúng ta phải suy nghĩ xem ở Việt Nam phải thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa như thế nào để phong trào dân chủ có thể tiến ra được, và để Việt Nam có thể chuyển sang dân chủ mà không phải đối đầu với Trung quốc. Nếu không tìm cách chuyển hóa dân chủ thích hợp thì trước mắt, Việt Nam có thể bị Trung quốc can thiệp rất nhanh trước khi Tây phương kịp hành động, dù có muốn như ở Lybia hiện nay.
Những yếu tố cần có
Những khác biệt khá to lớn nói trên –về văn hóa, kinh tế, chính trị và quan hệ quốc tế– giữa Việt Nam và hai nước Bắc Phi, cho ta thấy Việt Nam còn cần thêm thời gian để có đủ những yếu tố cần thiết cho một “đột biến” dân chủ, dù đột biến đó xẩy ra như thế nào. Theo chúng tôi, những yếu tố này nằm trong 3 khu vực đóng vai trò tác nhân thúc đẩy tiến trình dân chủ để đưa đến đột biến đó.
Khối tác nhân thứ nhất bao gồm ban lãnh đạo cộng sản và đường lối chính sách của họ. Kinh nghiệm Bắc Phi cho ta thấy nơi nào đảng cầm quyền không thuần nhất và phe tiến bộ mạnh hơn thì nơi đó cách mạng dân chủ ít đổ máu và thành công nhanh hơn: Ai cập chỉ cần 18 ngày, Tunisia, 24 ngày, còn Lybia đến nay vẫn nội chiến. Như vậy, cần có được những thay đổi mạnh mẽ và nhanh chóng trong nội bộ ban lãnh đạo đảng cộng sản theo chiều hướng dân chủ hơn, trong sáng hơn, tiến bộ hơn. Đồng thời, cần có những cải cách mạnh mẽ về luật pháp, hành chánh, công quyền theo hướng phù hợp hơn với các nguyên tắc văn minh của thế giới. Những cải cách này nhằm tạo thuận lợi cho tiến trình tự do hóa xã hội và dân chủ hóa cơ chế chính quyền. Các yếu tố này tại Việt Nam đã manh nha nhưng chưa đủ vững mạnh. Và sẽ không đủ nếu không có áp lực vào ban lãnh đạo cộng sản, ngày càng mạnh hơn và từ nhiều phía.
Khối tác nhân thứ hai gồm 3 yếu tố là quần chúng, thành phần trí thức trẻ tiến bộ, và lực lượng dân chủ nồng cốt. Quần chúng đã sẵn sàng, đã tự phát đấu tranh nhiều lần, nhưng không thể có “đột biến” toàn diện, rộng lớn nếu thành phần trí thức trẻ thành thị chưa tích cực tham gia, hoặc muốn nhưng chưa tham gia được, và nhất là nếu không có lực lượng dân chủ nồng cốt có khả năng tổ chức và hướng dẫn được quần chúng trước và trong khi cách mạng nổ ra, mà không bị phá vỡ quá sớm. Hai yếu tố sau cùng này đang xuất hiện nhưng chưa đủ mạnh cả về chất và về lượng.
Khối tác nhân thứ ba bao gồm các yếu tố tác động vào Việt Nam từ hải ngọai và từ quốc tế. Quốc tế đã tác động khá mạnh và có hiệu quả vào khối tác nhân thứ nhất, tập trung vào thay đổi kinh tế trong 20 năm qua, và hiện đang chuyển sang các lãnh vực ngoài kinh tế như hành chánh, luật pháp, giáo dục, thông tin…Vận động của cộng đồng hải ngọai cần được điều chỉnh để hỗ trợ hữu hiệu hơn khối tác nhân thứ hai, giúp khối này có được thực lực để vừa tiếp tục áp lực vào khối tác nhân thứ nhất vừa chuẩn bị cho đột biến chính trị khi có cơ hội.
Cả ba khối tác nhân này đều cần thiết, đều tác động vào tiến trình chuyển hóa dẫn đến đột biến dân chủ; tuy nhiên, đột biến xẩy ra nhanh hay chậm, bạo động nhiều hay ít, tùy thuộc nhiều vào biến đổi chất và lượng của hai khối tác nhân một và hai. Trong bài sau chúng tôi sẽ đề xuất các phương thức để giúp tăng cường chất và lượng cần thiết và thích hợp trong hai khối tác nhân này.
(10.4.2011)



Đoàn Viết Hoạt: Giải Pháp Dân Chủ Cho Việt Nam – Phần 1



II. Những Đồng Thuận Khởi Đầu
Làm thế nào để giúp tăng cường chất và lượng cần thiết và thích hợp trong hai khối tác nhân này? Trước khi đề xuất sách lược và phương thức vận động trong ba khối tác nhân này, có ba điểm tiên quyết khởi đầu cần đạt được sự đồng thuận.
Điểm đồng thuận đầu tiên là cần có một niềm tin vững chắc không gì lay chuyển được khi tiến hành cuộc vận động khó khăn, phức tạp hiện nay. Niềm tin này có hai nội dung khác nhau nhưng tương tác và không thể tách biệt. Đó là niềm tin vào dân tộc và vào dân chủ. Dân tộc Việt có khả năng và cơ hội để xây dựng một quốc gia phồn vinh trong tự do, công lý và hòa bìnhVà dân chủ là giải pháp tối ưu để dân tộc Việt phát huy được khả năng và cơ hội này. Dân chủ là xu thế chung của nhân loại nhưng nội dung, hình thức và sinh họat dân chủ phải phù hợp với thực tại và đặc thù văn hóa-xã hội của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Như thế dân chủ mới thực tại và chân chính, và quốc gia mới thực tại và chân chính độc lập. Niềm tin vào dân chủ dễ được chấp nhận, dù đối với khối tác nhân thứ nhất (ban lãnh đạo cộng sản) còn cần nhiều áp lực và không dễ dàng. Nhưng niềm tin vào dân tộc cần được vận động mạnh mẽ vì hiện nay người Việt mọi nơi đang mất niềm tin vào dân tộc rất nhiều.
Lịch sử Việt Nam cận hiện đại, vượt qua thời gian và vượt trên mọi biến động văn hóa, xã hội và chính trị, có thể nhìn tổng quan như là một quá trình quốc tế hóa đời sống quốc dân Việt. Bản sắc đặc thù của dân tộc –phong tục, tập quán, ngôn ngữ, nghệ thuật…– đã và đang bị thử thách sâu rộng. Dân tộc chưa tìm lại được sự tự tin, nếu không muốn nói là chưa thật sự thoát ra khỏi tình trạng “vong thân” văn hóa và chính trị, dù không còn bị ngoại nhân đô hộ. Quá trình tiếp thu và thẩm thấu các chất liệu văn hóa-xã hội mới đến từ Âu-Mỹ vẫn chưa chấm dứt, và không thể chấm dứt được khi chưa có một sáng tạo văn hóa-chính trị, tổng hợp được tinh hoa dân tộc (tồn tại trong thực tại đời sống quốc dân) và tinh hoa nhân loại (đãi lọc qua quá trình hội nhập sinh hoạt quốc tế). Chưa có được sáng tạo văn hóa-xã hội-chính trị, tổng hợp và thích hợp trong thời đại toàn cầu, thì dân tộc chưa thể ổn định, thống nhất và phát triển bền vững. Dân chủ là một điều kiện và mội trường sinh họat cần có cho sáng tạo này. Nhưng niềm tin vào dân tộc phải là điểm tựa cần thiết khởi đầu cho cuộc vận động dân chủ, để thống nhất được mọi sức mạnh đa dạng và còn nhiều khác biệt, kể cả xung khắc, trong cộng đồng dân tộc trong ngoài nước. Niềm tin vào dân chủ và vào dân tộc không thể tách biệt và đều cần thiết. Niềm tin vào dân tộc còn cần thiết hơn cả niềm tin vào dân chủ, hay nói đúng hơn, không có niềm tin vào dân tộc thì cuộc vận động dân chủ thiếu sức mạnh tổng hợp, dễ trở thành cuộc đấu tranh phe phái, phân tán mục tiêu và thiếu sức mạnh chung. Trong bối cảnh phân tang dân tộc hiện nay, chỉ có chia sẻ một niềm tin chung về dân tộc mới tập hợp được sức mạnh toàn dân và toàn diện cần thiết cho cuộc vận động dân chủ được sớm thành công.
Bản thân niềm tin dân tộc đã là một sức mạnh. Không có một suy nghĩ và hành động nào có thể tiến hành được nếu không có một niềm tin vững chắc, nhất là trong bối cảnh còn nhiều khó khăn hơn thuận lợi, và trước mắt còn đầy bất trắc, rủi ro. Cũng không có một niềm tin nào được xây dựng hoàn toàn trên thực tế chính xác và cụ thể, vì nếu thế không còn là niềm tin mà đã là sự thực, mà sự thực hiện còn nhiều tiềm ẩn. Niềm tin cũng không phải là hoang tưởng và mơ ước. Niềm tin được xây dựng trên nền tảng những gì đã được quá khứ thực chứng, những gì đang diễn biến trong hiện tại, và những ươm mầm dự phóng cho tương lai. Niềm tin dựa cả trên những khó khăn, khuyết tật của quá khứ và hiện tại, và trên những khả năng vượt khó của con người nói chung và của người dân Việt nói riêng, cả bình dân và thức giả. Niềm tin bao giờ cũng xây dựng trên một cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào khả năng vựợt qua mọi trở ngại của con người, trước mọi nghịch cảnh. Khả năng này đã được thực chứng qua nhiều giai đoạn lịch sử thế giới và Việt Nam, trong đó nhân loại cũng như dân tộc Việt đã vượt thoát những nguy biến to lớn mà họa diệt vong tưởng đã là sự thật. Chúng ta tin rằng người Việt Nam cũng có khả năng và cơ hội phát triển như mọi con người khác, mọi dân tộc khác, nhất là trong giai đọan toàn cầu hóa hiện nay. Người dân Việt chỉ thiếu điều kiện và môi trường để phát huy khả năng và cơ hội này. Vấn đề chúng ta cần tập trung là tìm cách phát huy tiềm năng và cơ hội này, hơn là tiếp tục hoài nghi và “tra vấn” niềm tin vào khả năng và cơ hội đó. Không thể khởi đầu bất cứ việc gì một cách tích cực, toàn tâm toàn sức, nếu không có niềm tin. Không một cá nhân, một dân tộc nào, dù có tiềm năng và sức mạnh như thế nào, có thể sống còn và phát triển được khi đã mất niềm tin vào chính mình. Do đó, kiên định một niềm tin vào dân tộc là điểm xuất phát vững chắc cần có của những người Việt nào muốn tiến hành cuộc vận động dân chủ. Đây cũng là điểm đồng thuận đầu tiên và căn bản, cần có để tiếp tục thảo luận về phương thức vân động dân chủ cho Việt Nam.
Điểm đồng thuận thứ hai là: thời đại hiện nay là thời đại của “quyền lực mềm” (soft power). Chúng ta có thể liên tưởng đến một số tên gọi khác để hiểu phần nào về “quyền lực mềm”, như bất tuân dân sự, bất bạo động, tinh thần Ghandi…Nhưng quyền lực mềm mang nội dung phong phú và cụ thể hơn thế. Nó vừa mang tính chất bất bạo động, lại vừa có sức mạnh, có quyền lực. Quyền lực mềm là một khái niệm mới, xuất hiện từ một thực tế là nhân lọai đã bước đến một giai đọan tiến hóa mới. Quan hệ giữa người với người, dù giữa cá nhân với nhau hay giữa chính quyền với người dân, giữa quốc gia với quốc gia, không còn có thể giải quyết được thuần túy bằng các phương thức bạo lực sinh-vât lý thô thiển–tay chân, vũ khí hay bạo quyền. Những tiến bộ của nhân lọai trong mọi ngành khoa học tự nhiên, xã hội, nhân văn, và kỹ thuật, đang cho phép con người sử dụng được sức mạnh mềm, phi quân sự, phi bạo lực –kinh tế, văn hóa-giáo dục, tri thức, thông tin, chính trị, luật pháp….Cộng đồng nhân loại cũng ngày càng phản ứng mạnh mẽ chống lại các biện pháp bạo lực, dưới mọi hình thái và trong mọi tình huống. Những biện pháp trấn áp bạo hành, dù đôi khi còn cần thiết, phải được coi là biện pháp cuối cùng, trong các trường hợp bất khả kháng, không thể không áp dụng. Quyền lực mềm do đó cụng bao hàm việc tôn trọng sinh mạng và phẩm giá của mọi con người ngay cả khi người đó gây tác hại cho người khác và phải bị trừng phạt. Ngày nay, môi trường thế giới ngày càng thuận lợi hơn cho việc sử dụng “quyền lực mềm” để giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Đối với cuộc vận động dân chủ của chúng ta, “quyền lực mềm” cũng thích hợp hơn. Một mặt, chúng ta không thể có “quyền lực cứng” đủ mạnh để đương đầu được với một đối phương chuyên dùng bạo lực. Mặt khác, các biện pháp mềm không trực diện đương cự với bạo lực để bị đè bẹp, mà vận dụng tính chất mềm để vượt qua và/hoặc thẩm thấu vào quyền lực cứng, như nước xói mòn hoặc vượt qua đá để chẩy vào chỗ trũng.    Chọn “quyền lực mềm” có nghĩa cụ thể là chọn sách lược, lộ trình và phương thức vận dụng các yếu tố “mềm”, xây dựng sức mạnh mềm và sử dụng được nó một cách tối ưu, vừa vận dụng được các hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi vừa khắc phục được yếu tố thời gian (chậm) và không gian (cô lập và hạn hẹp). Nhìn một cách tồng quát, không gian của sức mạnh mềm càng rộng (toàn dân và toàn diện) thì thời gian diễm biến càng nhanh mà bạo lực của đối phương càng bị phân tán mỏng ra, để từ đó khả năng thẩm thấu và vượt qua của chúng ta càng rộng hơn, mạnh hơn và nhanh hơn.
Sau hơn 20 năm thay đổi về kinh tế, mở cửa hội nhập khu vực và quốc tế, Việt Nam đang có được môi trường và các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa thuận lợi cho việc phát triển, tập hợp và sử dụng sức mạnh mềm đang có và đang tiếp tục phát triển trong xã hội và trong quần chúng, ngày một lan tỏa về không gian và bằng tốc độ nano của thời đại thông tin điện tử. Sức mạnh mềm này đang âm thầm phát triển, vựợt qua khả năng ngăn chặn của chính quyền độc tài, quan liêu và tham nhũng. Chúng ta cần nhận diện ra nó trong các giới quần chúng, mà mũi nhọn là giới trí thức trẻ ở thành thị, trong các trường đại học, trong các hội đoàn thanh niên, trong các tòa báo “lề phải” và trên những blog “lề trái” hoặc “không lề” trong cộng đồng mạng –một xã hội dân sự “trên trời” đang hình thành, trước khi hạ cánh được xuống đất. Sức mạnh mềm này chúng ta chỉ nhận diện ra được, tập hợp và sử dụng được, bằng những phương thức “mềm”, như nước, như không khí, “phi truyền thống”, phi hình tích, phi danh tính, nhưng ở khắp mọi nơi.
Điềm đồng thuận thứ 3 cần đạt được để có thể đồng hành trên con đường dân chủ chính là dân chủDân chủ phải chân chính, thực tiễn, tại đây và ngay bây giờ. Dân chủ không phải chỉ là một lý tưởng mà trước hết phải là một thực tế, được áp dụng ngay cho những người đang vận động dân chủ. Cuộc vận động dân chủ hóa Việt Nam trước hết phải mang tính chất dân chủ, tôn trọng mọi khác biệt, tạo điều kiện để mọi người Việt đều có thể tham gia. Dân chủ phải là quyền và lợi ích của mọi người Việt và cho mọi người Việt. Không thể chỉ dân chủ cho riêng một nhóm nào, một đoàn thể, một khuynh hướng tôn giáo, tư tưởng và chính trị đặc thù nào. Dân chủ, từ bản chất đến hình thức và sinh hoạt, tự nó đã hàm nghĩa “cho mọi người dân”, không loại trừ ai. Từ đó, mọi người Việt đều có quyền tham gia vào cuộc vận động dân chủ, và mọi đóng góp thúc đầy tiến trình dân chủ, dù nhỏ bé, khác biệt và trong lãnh vực nào, đều phải được chấp nhận và trân trọng. Chính trong tinh thần và sinh họat dân chủ thực tiễn đó mà sức mạnh mềm được nầy sinh và phát triển. Sức mạnh mềm trong cuộc vận động dân chủ được hình thành và tập họp từ những cố gắng nhỏ nhoi, âm thầm nhưng đa dạng, như những giọt nước làm nên dòng nước. Bất cứ người Việt nào, dù trước đây hay hiện nay, đang đứng trong hàng ngũ nào, quan điểm chính trị, tư tưởng nào, chấp nhận những điểm đồng thuận khởi đầu này, đều có thể đóng góp vào cuộc vận động dân chủ trong các lãnh vực và bằng các phương thức thích hợp với họ.
Tôi tin rằng nhãn quan dân chủ đích thực này giúp chúng ta nhận ra được tiềm năng phát triển rộng lớn của sức mạnh mềm và lực lượng dân chủ, trong bối cảnh kinh tế, xã hội và văn hóa, chính trị tại Việt Nam hiện nay và những năm tới. Việc nhận diện ra, trân trọng và nối kết được những nỗ lực đa dạng, tản mạn khắp nơi và trong mọi tầng lớp xã hội, từ trong chính quyền đến ngoài quần chúng, hiện có và sẽ có, chính là một trong những nhiệm vụ chiến lược của cuộc vận động dân chủ những năm tới đây –để chuẩn bị cho cuộc đột biến chắc chắn phải xẩy ra.
(còn tiếp)
Đoàn Viết Hoạt
(Cuối năm 2011)


Đoàn Viết Hoạt: Giải Pháp Dân Chủ Cho Việt Nam – Phần 2 và hết

Đoàn Viết Hoạt
(tiếp theo và hết)

III. Sách Lược Chuyển Hóa
Như chúng tôi đã trình bầy từ nhiều năm trước, có 3 phương thức giải thể chế độ cộng sản tại Việt Nam: trông đợi sự chấp nhận dân chủ của ban lãnh đạo cộng sản, lật đổ chế độ bằng bạo lực quân sự hay quần chúng, và tạo các áp lực và môi trường, điều kiện để đưa đến chế độ dân chủ hoặc qua thay đổi nội bộ ban lãnh đạo cộng sản, hoặc bằng một phong trào quần chúng. Tất nhiên chúng ta không thể chấp nhận phương thức thứ nhất vì đơn giản thụ động ngồi chờ không phải là phương thức vận động cho dân chủ. Phương thức thứ hai không khả thi về mặt bạo lực quân sự, chỉ khả thi về mặt quần chúng, với điều kiện tạo được phong trào quần chúng. Do đó, tôi đã đề nghị chọn phương thức thứ 3, mà tôi gọi là sách lược chuyển hóa. Từ nhiều năm nay tôi đã vận động cho phương thức này và đã cùng làm việc để thực hiện phương thức này với những cá nhân, nhóm và tổ chức nào đồng ý.
Trước hết, sách lược chuyển hóa nhằm bốn mục tiêu cụ thể: (1) tạo được áp lực từ xã hội và quần chúng đòi thay đổi chế độ chính trị; (2) nới lỏng được sự kiểm soát của đảng CSVN trong các lãnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, tư tưởng; (3) tạo được sự ủng hộ của quốc tế cho tiến trình dân chủ hóa; (4) xây dựng được nhân sự nồng cốt (core) và lực lượng dân chủ trong nước.
Ba mục tiêu đầu không thể thực hiện được nếu thiếu điều kiện thứ tư. Nhưng nhân sự nồng cốt và lực lượng dân chủ không thể xây dựng được từ chân không, thuần lý thuyết, và ở ngoài nước, mà phải từ quần chúng ở ngay trong nước, và bằng các phương pháp chuyên nghiệp.
Trước hết và trên hết, cần có môi trường nhân xã (kinh tế, xã hội, văn hóa, tâm lý quần chúng…) thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu thú 4 này. Hiện nay, các điều kiện kinh tế, xã hội khá thuận lợi. Sức mua của dân chúng được nâng cao, thông lưu trong nước với khu vực và quốc tế tương đối cởi mở (regional and global mobility), thông lưu giữa các miền trong nước dễ dàng (social mobility). Các phương tiện truyền thông, kể cả điện tử hiện đại, ngày càng phổ biến từ nông thôn đến thành thị. Chỉ còn vấn đề tâm lý quần chúng cần được khai thông hơn nữa.  Đại đa số người dân chưa thật sự thấy cần thay đổi chế độ chính trị hiện nay. Họ bất mãn, chống đối, ít hay không còn tin tưởng vào ban lãnh đạo cộng sản hiện nay. Tuy nhiên đa số vẫn chỉ chống bất công, tham nhũng, lạm dụng quyền thế, đòi hỏi công lý, công bằng xã hội, đòi hỏi “đổi mới” để có được ban lãnh đạo tốt hơn, đáp ứng nguyện vọng quần chúng. Những đòi hỏi này là cần thiết, cần được hỗ trợ để phát triển mạnh và rộng khắp hơn nữa. Những đòi hỏi này cũng khá thuận lợi cho việc đạt mục tiêu thứ 2: bào mòn uy tín và sức mạnh của đảng và nhà nước cộng sản, nới lỏng và thu hẹp phạm vi và khả năng kiểm soát xã hội của họ. Tuy nhiên để xây dựng được nhân sự nồng cốt và lực lượng dân chủ thì những đòi hỏi này chưa đủ. Dù sao chúng ta thấy những yếu tố tâm lý xã hội mới đang nầy sinh từ bối cảnh xã hội đã có nhiều đổi thay.
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một lớp người mới, tuy còn ít nhưng đang phát triển, đó là thành phần thức giả và thanh niên trí thức thành thị. Tầng lớp này bắt đầu hiểu rằng căn nguyên của mọi căn bệnh Việt Nam hiện nay chính là chế độ cộng sản, và chỉ có thay đổi nó bằng chế độ dân chủ pháp trị mới hy vọng giải quyết tận gốc những căn bệnh đang làm quần chúng bất mãn. Những nhân sự nồng cốt cho lực lượng dân chủ cần được nhận diện từ trong thành phần này, và có kế họach xây dựng đúng hướng, hữu hiệu và chuyên nghiệp. Nhân sự nồng cốt tất nhiên không thể nhiều và cũng không cần nhiều, nhưng cần “tinh”. Tinh về lý tưởng và tầm nhìn, bền vững, xa dài. Tinh về kiến thức và nhận thức về dân chủ và về tiền đồ dân tộc, trong thời đại toàn cầu. Tinh về khả năng tồn tại, hoạt động hữu hiệu, và mở rộng hệ thống nối kết vi tế, sinh động, nhiều tiềm năng, trong điều kiện an ninh còn dầy đặc, chuyên nghiệp và tinh vi của chính quyền cộng sản. Tinh cả về lý tưởng, tầm nhìn, nhận thức, tấm lòng, nhân cách và khả năng. Đó mới có thể là nhân sự nồng cốt cho lực lượng dân chủ.
Nhiệm vụ của những nhân sự nồng cốt là: (1) xây dựng được lực lượng dân chủ và hệ thống nối kết dân chủ; (2) tham mưu và điều phối hệ thống nối kết (network) và các họat động của hệ thống này và của lực lượng dân chủ. Nhiệm vụ của lực lượng dân chủ và của hệ thống nối kết dân chủ là thực hiện được 3 mục tiêu chuyển hóa dân chủ 1, 2, 3 nói trên. Cần phân biệt nhân sự nồng cốt với hệ thống nối kết và lực lực lượng dân chủ.
Hệ thống nối kết rộng hơn lực lượng dân chủ, bao gồm tất cả những cá nhân, nhóm, có tổ chức, có tên gọi hay không, họat đông vì tự do, nhân quyền, dân chủ, trong mọi lãnh vực –văn hóa, giáo dục, truyền thông, xã hội, chính trị. Nhiệm vụ của nhân sự nồng cốt là nhận diện, tiếp cận, nối kết và phối hợp đựoc các họat động đa dạng này, nhưng không cần nối kết thành một tổ chức, vừa để bảo đảm an toàn cho mỗi cá nhân, mỗi nhóm, vừa giữ được tính phong phú đa dạng của các họat động này. Những hoạt động này có tác dụng nung nấu một phong trào quần chúng, và hệ thống nối kết vừa giúp đẩy nhanh và lan rộng các nhân tố hình thành phong trào đồng thời chuẩn bị phát động phong trào quần chúng khi cần thiết. Lực lượng dân chủ được hình thành và tổ chức từ hệ thống nối kết, bao gồm những cá nhân và nhóm hoạt động tích cực nhất, có tổ chức, có khả năng tập hợp và hướng dẫn khi phong trào bùng nổ. Cả ba –nhân sự nồng cốt, hệ thống nối kết và lực lượng dân chủ– đều thuộc phe dân chủ, dân tộc và tiến bộ, có chung nhiệm vụ là thực hiện 3 mục tiêu cụ thể trong sách lược chuyển hóa.
Chúng tôi xây dựng sách lược chuyển hóa dân chủ dựa trên tiền đề này: tiến trình dân chủ là xu thế tất yếu của thời đại. Ban lãnh đạo cộng sản cũng không thể đi ngược lại xu thế này, tuy nhiên họ tìm cách thực hiện tiến trình này theo lộ trình của họ. Lộ trình của họ nhằm vừa làm chậm lại tiến trình dân chủ hóa (để kịp điều chỉnh có lợi cho họ) vừa giới hạn sự chuyển hóa trong các lãnh vực kinh tế, thương mại, cho đến khi “không thể không” thay đổi trong các lãnh vực văn hóa và chính trị. Tạo được tình trạng “không thể không” cho phe cộng sản phải là mục tiêu chiến lược của phe dân chủ. Dưới áp lực của tình thế, kể từ 1990họ đã “không thể không” tự do hóa các họat động kinh tế, mở cửa cho người dân tham gia vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Chính sự phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế đang tạo ra vừa cơ hội vừa áp lực mới cho những đòi hỏi tự do hóa các lãnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin và tư tưởng. Chúng ta cần nhận diện ra và khai dụng những cơ hội và áp lực mới này để nhanh chóng tạo ra tình trạng “không thể không” tự do hóa các họat động văn hóa, giáo dục, thông tin và cơ chế chính trị. Lực lượng dân chủ hình thành và phát triển vừa bằng đấu tranh, đòi hỏi, vừa qua các hoạt động đa dạng, tự động, tự phát, nhằm mở rộng cánh cửa tự do cho mọi người trong các lãnh vực thông tin văn hóa, giáo dục, tư tưởng và chính trị. Phong trào quần chúng sẽ lớn mạnh dần lên qua cuộc vận động văn hóa-xã hội-chính trị này. Và áp lực từ mọi thành phần quần chúng, bình dân và thức giả, sẽ đặt ban lãnh đạo cộng sản trước hai lựa chọn: hoặc chấp nhận tự do hóa văn hóa-chính trị như trong kinh tế, hoặc tan rã trước cuộc cách mạng mầu Việt Nam.
Nhưng đó vẫn sẽ chỉ là triển vọng, dù xu thế tương lai chắc chắn thuộc về phía dân chủ. Để triển vọng này sớm trở thành hiện thực chúng ta còn nhiều việc phải làm.

IV. Phương Thức Chuyển Hóa Toàn Diện
Giải pháp dân chủ mà chúng tôi đưa ra là một giải pháp nhằm mở đường cho việc xây dựng và phát triển một nước Việt mới trong thời đại toàn cầu của thế kỷ 21.  Chúng tôi xây dựng giải pháp dân chủ dựa trên ba xu thế thời đại mà cũng là ba nhân tố phát triển Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đó là: Kinh tế thị trường xã hội (social market economy), văn hóa giáo dục tự do, và chính trị dân chủ pháp trị (công quyền) và toàn dân (xã hội công dân). Ba nhân tố phát triển này vận hành hỗ tương hai chiều giữa quốc gia với khu vực và quốc tế, giữa cộng đồng Việt (trong-ngoài nuớc) với cộng đồng khu vực và nhân loại, và trong bối cảnh ra đời một cộng đồng nhân loại toàn cầu hòa hợp Á-Âu. Chuyển hoa dân chủ tạo môi trường và điều kiện cho ba nhân tố phát triển này xuất hiện và tương tác. Một trong những điều kiện cần có là tính di động xã hội (social mobility)  di động toàn cầu (global mobility) nhanh và rộng khắp, giúp tạo các điều kiện vật chất và tinh thần cần thiết để khắc phục những nhược điểm, phát huy những thế mạnh, cả về vật thể lẫn tinh thần, của người dân Việt. Nhờ đó vừa phát huy nội lực dân tộc, vừa tận dụng trào lưu tiến bộ của thế giới để đưa nước ta vào thời kỳ phát triển nhẩy vọt, thu ngắn và thu hẹp cách biệt giữa nước ta và các nước khác trong khu vực ĐNÁ và Á Châu-TBD.
Chúng tôi tin rằng với những tiến bộ của thế giới về mọi mặt, nhất là về giao thông vận tải, truyền thông điện tử và các kỹ thuật quản trị và tổ chức xã hội hiện đại, trong bối cảnh cộng đồng nhân loại không biên giới hay biên giới quốc gia mở, những dự kiến về sự hình thành và vận hành của ba nhân tố phát triển trên đây ở Việt Nam là thực tế và khả thi. Các yếu tố tâm lý và vật thể nội tại và ngoại tại đã tương đối đầy đủ, chỉ còn thiếu một yếu tố quyết định là cơ chế chính trị-xã hội dân chủ, thật sự do dân và vì dân, với hai yếu tính: (1) giải phóng triệt để sức sống, sức sáng tạo và làm việc cho toàn dân trên cả ba mặt kinh tế, văn hóa và chính trị; (2) hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để toàn dân phát huy hết tiềm năng một cách bền vững và công bằng.
Sách lược chuyển hóa và các phương thức chuyển hóa dân chủ, thường được gọi là “diễn biến hòa bình”, trong thực tế, từ 1990 đến nay, đang “lừng lững” diễn ra, từ kinh tế trước, và hiện nay đến các lãnh vực văn hóa-xã hội, thông tin và chính trị. Để đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa, chỉ cần nương vào diễn tiến đang có, tạo chuyển biến trong cả ba lãnh vực kinh tế, văn hóa và chính trị, cho cùng tiến nhanh về hướng tự do hóa, với hai tác dụng hỗ tương: (1) vô hiệu hóa và tháo gỡ các cơ chế công quyền độc đoán, quan liêu, nhũng lạm; và (2) chủ động, không chờ sự “cho phép”, tạo mội trường và các hình thái sinh họat cởi mở, hòa ái, trẻ trung, nhân bản trong toàn xã hội, và với toàn dân, nhất là giới trẻ. Chuyển hoá toàn diện và toàn dân chính là giải pháp dân chủ, là tiến trình dân chủ hóa, diễn ra bởi toàn dân, đương nhiên, tự nhiên và bất bạo động. Chuyển hóa dân chủ trong thực tế đang diễn ra như thế tại Việt Nam. Một xã hội dân sự, do dân và cho dân, đang tồn tại, song song với, không chống lại nhưng độc lập với, xã hội đảng sự, do đảng và cho đảng. Cộng đồng mạng của giới trẻ là một hình thái của một xã hội dân sự trên mạng và nối mạng, trước khi được thực sự xuất hiện minh bạch, công khai, dưới đất. Chuyển hoá dân chủ toàn diện và toàn dân phải xầy ra và đang xẩy ra, trước cả sự chuyển hóa chính quyền, đồng thời liên tục tạo sức ép lên chính quyền.
Sách lược chuyển hóa và các phương thức chuyển hoá dân chủ toàn diện và toàn dân phù hợp với các nước cộng sản như Việt Nam và Trung Quốc, đang phải tự điều chỉnh cho thích hợp bối cảnh thế giới mới: chuyển từ cộng sản Leninit, Maoit, sang cộng sản “đối mới”. Riêng với Việt Nam có tính đặc thù trong tiến trình chuyển hóa này khác với Trung Quốc, vì các yếu tố lịch sử, con người và xã hội Việt khác với Trung quốc. Việt Nam lại là thành viên khối ASEAN, có quan hệ ngày càng xung khắc với Trung Quốc, và quan hệ với Mỹ và thế giới đã thay đổi. Việt Nam còn khác Trung Quốc vì có một cộng đồng hải ngoại toàn cầu khá rõ ràng, dứt khóat về lập trường chính trị đối với Hà Nội.
Trong bối cảnh thuận lợi đó, chuyển hóa dân chủ cần được tiến hành phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn tại Viêt Nam, và trong tầm nhìn toàn cảnh: toàn cầu, toàn dân tộc và toàn diện (kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị). Nguyên tắc “đa nguyên trong nhất nguyên” cần được tuân thủ: mục đích là một, nhưng chiến thuật và phương thức thực hiện phải luôn luôn đa dạng, phong phú và cải tiến, thích hợp từng đối tượng, môi trường và điều kiện khách quan và chủ quan. Dưới đây là một số đề nghị cho các phương thức hành động thực tiễn.
1. Thế và Lực:
1.1. Chủ lực: Thành phần tiến bộ, dân tộc và dân chủ phải trở thành chủ lực trong công cuộc vận động chuyển hóa dân chủ. Thành phần này cần xây dựng và phát triển thế và lực của mình để có thể tác động ngày càng hữu hiệu, đẩy nhanh tiến trình chuyển hóa suốt dọc từ dưới đáy tầng xã hội lên trên mặt tầng chính quyền. Nếu chủ lực này không ngày càng tăng cường được thế và lực của mình thì chuyển hóa dân chủ vẫn xẩy ra nhưng tự phát, với nhiều may rủi, và nhất là tùy thuộc nhiều vào kết quả “tự diễn biến” để tồn tại của chính quyền độc tài đảng trị.
1.2. Để xây dựng và phát triển nhanh đươc thế và lực, không thể chỉ trông và chờ đợi ở sự lớn mạnh của riêng một nhóm hay tổ chức nào, vì lý do đơn giản sẽ không bắt kịp với biến chuyển. Cần tìm cách phối hợp được thế và lực của tất cả những tổ chức và nhóm đang có để tạo thế chung (với quốc tế và với quốc dân) và lực đủmạnh để tác động vào tình hình ngay từ bây giờ.
1.3. Cần bắt đầu công việc này ngay, vì phối hợp là một công việc không dễ và cần nhiều thời gian để tạo được các yếu tố cần thiết: độ tin cậy nhau cao, mức an toàn tối đa, tốc độ phối hợp nhanh, khả năng họat động cóhiệu quả thực tiễn và cụ thể. Ngoài ra còn phải giữ được nguyên tắc “trong chung vẫn có riêng, càng chung càng có riêng”, “nhất nguyên trong đa nguyên, đa nguyên trong nhất nguyên”.
1.4. Tâm lý chính trị là yếu tố cần thiết cho việc phối hợp. Tạo được tâm lý chính trị, và các điều kiện và “khung sườn” làm việc thuận lợi cho việc phối hợp có hiệu quả là công việc mang tính quyết định cho phong trào dân chủ hiện nay và những năm tới.
      2. Đối tượng vận động:  Có ba khu vực và ba đối tượng vận động trong lộ trình chuyển hóa toàn diện. Ba khu vực là trong nước, hải ngoại và quốc tế. Ba đối tượng là quần chúng, những tác nhân thay đổi (change agents), và nhóm quyết định chính sách (policy makers). Tại mỗi khu vực đều có ba đối tượng này nhưng tính chất, thành phần, mục tiêu và phương thức vận động cụ thể có thể khác nhau. Ở đây chỉ phân tích tổng quát cho cả ba khu vực.
2.1. Quần chúng: Mục tiêu chung của cuộc vận động đối với quần chúng là tạo tâm thức mới (“cùng sống giúp tiến”, cùng tồn tại) và tầm nhìn mới (tầm nhìn của một nước Việt mới trong khu vực và thế giới thế kỷ XXI) làm chất keo gắn bó mọi thành phần dân tộc và mọi tầng lớp dân chúng, nhất là thành phần trẻ. Với trong nước, giúp mọi tầng lớp dân chúng phát huy tiềm năng và chủ động được cuộc sống của họ, độc lập, và khi cần, đối lập với chính quyền cộng sản. Với cộng đồng người Việt hải ngoại, vận dụng được vị thế công dân tại mỗi quốc gia định cư để trực tiếp vận động quốc tế hỗ trợ việc xây dựng xã hội dân sự và chính quyền dân chủ, tiến đến phát triển một nước Việt văn minh và hưng thịnh. Đặc biệt chú trọng đến giới trung niên (30-40) trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay ở cả trong và ngoài nước.
2.2. Tác nhân thay đổi (change agents) là những cá nhân, nhóm, đoàn thể có khả năng và vị thế tác động và tạo thay đổi trong xã hội và chính quyền ở trong nước, trong cộng đồng người Việt hải ngoại, trong các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Thành phần này bao gồm các chuyên viên, trí thức, thức giả, thuộc mọi ngành hoạt động xã hội. Đa số ở lứa tuổi trung niên. Mục tiêu là giúp họ tăng cường hiểu biết về mọi lãnh vực, và tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng với thế giới. Đây là lực chuyển đổi chính của xã hội ở trong nước cũng như hải ngoại, hiện nay và trong tương lai gần.
2.3. Nhóm quyết định chính sách: Đây là nhóm lãnh đạo trong chính quyền và các đoàn thể xã hội. Cần đặc biệt chú trọng thành phần cấp tiến của nhóm này ở trong đảng và chính quyền CSVN hiện nay. Ba mục tiêu chính trong cuộc vận động nhóm cấp tiến này ở Việt Nam là (1) đồng tình với giải pháp dân chủ, dù chưa hoàn toàn đồng ý; (2) cảm thấy vừa cấp bách, vừa yên tâm và an toàn khi chấp nhận thay đổi trong hai lãnh vực văn hóa và chính trị; (3) chấp nhận cùng thực hiện giải pháp dân chủ và dân chủ hóa chính quyền.
Kết luận
Dân chủ hóa là bước đầu tiên cần thiết để mở ra thời kỳ hưng thịnh cho đất nước. Lộ trình chuyển hóa dân chủ ôn hòa bất bạo động là giải pháp tối ưu cho việc giải quyết những vấn nạn nghiêm trọng của đất nước hiện nay, cả đối nội và đối ngọai. Chuyển hóa dân chủ đem lại một môi trường xã hội có cạnh tranh tự do nhưng lành mạnh và công bằng cho mọi người, mọi khuynh hướng và đoàn thể xã hội, trong kinh tế thương mại, văn hoá giáo dục cũng như trong chính trị. Quốc dân sẽ vừa là mục đích vừa là trọng tài có quyền quyết định chọn lựa trong cuộc cạnh tranh toàn diện, tự do và công bằng này. Chủ động thực hiện giải pháp này, tạo môi trường và điều kiện để quốc dân tự thực hiện giải pháp này, đồng thời vừa vận động vừa tạo sức ép lên giới cầm quyền đòi hỏi thực hiện giải pháp này: đó là ba công việc mà chủ lực dân chủ-dân tộc-tiến bộ cần làm trong những năm tới.
Đoàn Viết Hoạt
(Cuối năm 2011)

Tổng số lượt xem trang