Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012

Vận động nhân quyền: Khi đồng minh tháo chạy (lần 2)?

Thuyết trình đoàn của Chính Phủ Obama. Từ trái: Ô. George Selin (Giám Đốc Văn Phòng Việt Nam), Ô. Thomas Debass (Giám Đốc Đối Tác Toàn Cầu), Ô. Eric Barboriak (Quyền Giám Đốc Văn phòng Đông Nam Á Lục Địa), Ô. Michael H. Posner (Trợ Lý Thứ Trưởng Ngoại Giao đặc trách Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động). Ảnh NQK
Một chiếc trực thăng UH-1H của Quân lực VNCH bị đẩy xuống biển để lấy chỗ đậu cho phi cơ Hoa Kỳ
Khi những ngày tháng Tư đen cận kề, những người Việt hải ngoại chúng ta lại bồi hồi nhớ lại những sự kiện đã xảy ra cách đây 37 năm. Đó là sự kiện Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ và Hoa Kỳ, đồng minh mà chúng ta coi là thân thiết, chí cốt đạp bỏ chúng ta không chút thương tiếc. Họ trốn chạy trên những chiếc tàu ngoài đại dương, mặc kệ cho số phận và tương lai của vài chục triệu người từng đồng lòng sát cánh bên họ chống lại làn sóng Cộng sản tràn xuống Đông Nam Á. Đâu rồi những lời nói mỹ miều về một VNCH là tiền đồn của Thế giới tự do, những lời hứa hẹn bùi tai khi bắt ép chúng ta ký hiệp định Paris 1973 với Cộng sản. Tất cả chỉ là sự PHẢN BỘI.

Ngày 5 tháng 3 năm 2012, “đồng minh” Hoa Kỳ tiếp tục đạp bỏ những yêu cầu khẩn thiết về nhân quyền (theo tiêu chuẩn họ đặt ra) của chúng ta đối với Việt Nam. Hơn 130 ngàn chữ ký của chúng ta không làm họ quan tâm, cứu xét. Trái lại, họ thoái thác trách nhiệm, cử nhân viên cấp thấp, không có quyền quyết định về vấn đề Thương mại, Nhân quyền để tiếp đón, nhận Thỉnh nguyện thư rồi nói những điều chẳng liên quan đến nội dung chính mà chúng ta đòi hỏi là Nhân quyền và các biện pháp trừng phạt kinh tế Việt Nam. Người Việt hải ngoại chúng ta lại bị PHẢN BỘI một lần nữa. Cảm giác này còn đau đớn hơn lần đầu tiên rất rất nhiều.
Hẳn có nhiều người còn kêu lên, đâu có, Hoa Kỳ đâu có bỏ rơi chúng ta, họ đã chính thức trả lời Thỉnh nguyện thư đâu. Xin thưa, đây là trả lời của họ về hiệp định TPP (Trans-Pacific Partnership) mà chúng ta yêu cầu họ không cho Việt Nam gia nhập để ép họ cải thiện tình trạng nhân quyền.
Mỹ – Việt tăng cường quan hệ thương mại | VTV
Thương mại Việt – Mỹ sẽ được đẩy lên một tầm cao mới là khẳng định của ông Francisco Sánchez, Thứ trưởng Thương mại Mỹ chuyên trách về thương mại quốc tế trong buổi làm việc với báo chí chiều 7/3 tại HN.
Ông Francisco Sánchez cũng cho biết: “Việc đặt ra những hạn chế về nhập khẩu, các thủ tục giấy phép phiền toái thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ và đi ngược lại việc mở cửa nền kinh tế của các bạn. Chúng tôi sẽ làm việc chặt chẽ song phương với VN cũng như thông qua hiệp định TPP để tìm cách gia tăng những lợi ích chung, giúp VN tiếp tục đi theo con đường tích cực mà Việt Nam đã thực hiện trong vòng 17 năm qua cũng như thực hiện các phương pháp vận hành nền kinh tế và các công nghệ sáng tạo để thúc đẩy nền kinh tế”.
Như vậy là mọi sự đã rõ ràng, 2 ngày sau khi nhận Thỉnh nguyện thư của chúng ta, ông Thứ trưởng Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã tay bắt mặt mừng với Hà Nội và hứa sẽ hỗ trợ Việt Nam trong việc gia nhập TPP. Trong số người của Tòa Bạch Ốc tiếp đón chúng ta, có vị nào có cùng cấp Thứ trưởng của Bộ Thương mại hay Ngoại giao không. Hẳn nhiên ta dễ dàng suy đoán rằng, họ đẩy cấp thấp ra để sau này dễ bề nuốt lời hứa với chúng ta. Đến khi chúng ta chất vấn, họ có thể tỉnh bơ trả lời là các vị tiếp đón quý vị không có khả năng quyết định vấn đề này, chúng tôi đã cân nhắc và lựa chọn giải pháp có lợi nhất cho quốc gia Hoa Kỳ, mong quý vị hiểu cho.
Con tim của cả triệu người Việt hải ngoại lại bị xát muối một lần nữa. Lần trước là họ tháo chạy khỏi Việt Nam, lần này họ tháo chạy khỏi chính lương tâm họ. Xét thấy mục đích cả 2 lần tháo chạy đều chỉ là vì LỢI ÍCH của họ mà quên đi những người bạn, đồng minh họ đã từng sát cánh khi xưa.
ĐỒNG TIỀN DƠ BẨN
Nói đi thì cũng phải nói lại. Từ năm 1960 trở về trước, Hoa kỳ đại diện cho dân chủ, tự do, là ngọn đuốc soi sáng cho nhiều quốc gia noi theo, nể phục, ủng hộ. Nếu chỉ vì TIỀN, thì Hoa kỳ đã không đứng vững lâu như vậy. Khi đó, Hoa kỳ còn là vì LƯƠNG TÂM nhân loại, vì nhân quyền, nhân phẩm, nhân ái. Cũng là vì tiền, nhưng đó là thứ yếu.
Nay thì sao, vì các đồng TIỀN dơ bẩn, Hoa kỳ nay CHÀ ĐẠP lên nhân quyền khắp nơi trên thế giới, trong đó có tại CHXHCNVN.
Trong 5 năm qua mà thôi, Hoa kỳ giao dịch thương mại với CSVN tăng hơn gấp đôi, từ 9,67 tỉ USD năm 2006, lên 21,825 tỉ USD năm 2011 (U.S Census Bureau, 2012)
Trong khi đó, trong 5 năm qua, CHXHCNVN vi phạm nhân quyền lớn lao hơn 15 năm trước đó cộng lại.
Ví dụ, LS Định không bị bắt trong nhiều năm trước đó, và khi ông bị bắt thì toàn là vì các việc ông làm, nói, trước đó rất lâu.
Điều này chứng tỏ 1 sự THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH, về phia CHXHCNVN, mà theo tôi là một sự TỰ TIN mới thu thập được từ việc tăng cường thương mại với HK.
CSVN biết rất rõ: thương mại Việt – Mỹ càng gia tăng, thì phia Mỹ sẽ càng bỏ lơi về nhân quyền để chạy theo TIỀN BẠC, LỢI NHUẬN.
CSVN đã mua đứt LƯƠNG TÂM Hoa kỳ như vậy đấy. Vì TIỀN, Hoa kỳ đã bán rẻ chính lương tâm của mình, đã bán rẻ nhân quyền, nhân phẩm, lòng nhân ái của mình.

Đã già cỗi rồi một Nữ Thần Tự do giơ cao ngọn đuốc soi sáng lương tâm nhân loại, làm sáng ngời lòng tin những ai bị áp bức, đọa đày tại quê hương họ.
Hết rồi một Hoa kỳ làm ánh sáng soi đường của các dân tộc bị xâu xé bởi Chủ nghĩa Cộng sản giáo điều và tư bản hoang dã, hoặc một sự trộn lẫn của cả hai.

Đã qua rồi thời quân đội Hoa kỳ anh dũng hy sinh mạng sống mình để đổ bộ lên bờ biển Normandy ngày nào, máu họ làm đỏ thẩm lòng Đại Tây dương, để giải phóng Âu châu; quân đội Hoa kỳ chịu tổn thất nặng nề trong trận Iwo Jima và Okinawa để sau đó giải phóng Á châu.
Hình ảnh các chiến sĩ Mỹ anh dũng ngày nào đã bị các tài phiệt Wall Street đè bẹp dưới đồ gạt tàn thuốc xì gà, xấp check tranh cử / tái tranh cử của các chính trị gia Hoa kỳ ngày nay.
Khi xưa, Hoa kỳ vì lý tưởng tự do, dân chủ toàn thế giới mà hoạt động.
Nay, Hoa kỳ chỉ vì TIỀN tại Wall Street, tại K Street, mà hoạt động.
TỰ LỰC TỰ CƯỜNG
Chúng ta không thể ngồi yên và cầu mong sẽ có ai đó giúp chúng ta. Thay vào đó phải xác định rõ rằng: phải dựa vào sức mình, đứng trên chính đôi chân của mình.
Chúng ta kêu gọi Hoa Kỳ ngưng mở rộng giao thương với CSVN, song hàng năm có hơn 400.000 Việt Kiều về quê du hí, chơi bời, đầu tư làm ăn … đồng thời gửi về Việt Nam 9 tỷ USD kiều hối thì không khác gì “tự tay vả vào mặt mình”.
Vì vậy, nhất thiết phải NGƯNG VỀ VIỆT NAM DU LỊCH, ĐẦU TƯ, CHƠI BỜI VÀ NGƯNG GỬI KIỀU HỐI NGOÀI MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO cho thân nhân tại Việt Nam. Chúng ta phải làm được điều đó, phải khẳng định được sức mạnh cộng đồng của chúng ta một lần nữa.
Trước hết, hãy đặt ra mục tiêu nhỏ, ví dụ ngưng kiều hối, về Việt Nam du lịch, chơi bời, thăm thân để kỷ niệm tháng Tư đen.
Quan trọng không kém là chúng ta không được quá đặt niềm tin vào ngoại bang, bài học về “đồng minh” Hoa Kỳ là quá đủ. Thiết nghĩ, chúng ta thà tự cấm vận kinh tế Việt Nam bằng ngưng gửi kiều hối, ngưng về Việt Nam du lịch, đầu tư, chơi bời hơn là cần 1 “đồng minh” không hết lòng vì bạn bè như vậy.
Nhân đây, tôi xin nhắc lại một tấm gương tự lực tự cường của người Đại Hàn. Trong chiến tranh Triều Tiên, sau khi đẩy lui được quân đội Cộng sản Bắc Hàn về vĩ tuyến 38 thì có sự lấn cấn, tranh luận giữa lực lượng quân đội Liên Hiệp quốc do Hoa Kỳ dẫn đầu và quân đội Đại Hàn rằng có nên đánh qua vĩ tuyến 38, giải phóng toàn bộ bán đảo Triều Tiên không. Có tin Mỹ muốn ngưng đánh, thỏa thuận với Liên Xô, Trung Cộng để ổn định tình hình bán đảo Triều Tiên vì Chu Ân Lai (thủ tướng Trung Cộng) đe dọa sẽ can thiệp nếu Mỹ tiến quân qua vĩ tuyến 38.
Thế nhưng lãnh đạo Đại Hàn bấy giờ đã quyết định tiến quân qua vĩ tuyến 38 để giải phóng toàn bộ đất nước, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc mình lên trên những lợi ích của đồng minh Hoa Kỳ và các quốc gia khác. Đó là tinh thần tự lực tự cường của người Đại Hàn, đáng để cho chúng ta học hỏi trong công cuộc đấu tranh cho dân chủ, tự do cho Việt Nam.
CHẶN KIỀU HỐI
Việc này không quá khó khăn, tôi cũng đã nêu qua phương pháp trong bài “Kiều hối” đăng tại đây. (Dự đoán kinh tế, 7/3/2012)
Chúng ta nên lập database loan truyền khắp nơi tên, hình ảnh, các chủ tiệm nhận gởi kiều hối. Đăng báo quảng cáo chống việc này, viết bài hát, lập slogans, ví dụ như:
- “Một đồng đô la [Euro] gởi về VN là một cây đinh đóng hòm cho Dân chủ Tự do Việt Nam”,
- “Gởi Kiều hối quá mức nhân đạo là TỘI ÁC”,
- “Làm ăn đầu tư với Việt Cộng là PHẢN QUỐC”,
- “Một đồng đô la ngoài lý do nhân đạo gởi về VN là một tội ác chống nhân loại và nhân dân Việt Nam”. (A dollar beyond humanitarian purpose sent to Vietnam is crime against humanity and the Vietnamese people.)
Tôi hy vọng sẽ có những hội đoàn, cá nhân can đảm đứng lên nhận trách nhiệm việc này. Đừng để tinh thần đoàn kết của 150 ngàn chữ ký Thỉnh nguyện thư Nhân quyền bị mai một theo thời gian.

————————————
U.S Census Bureau, Trade in Goods with Vietnam, 2012, http://www.census.gov/foreign-trade/balance/c5520.html
Dự đoán kinh tế, Kiều hối, 7/3/2012, http://dudoankinhte.wordpress.com/2012/03/07/kieu-hoi/
-----------------
-Vận động nhân quyền: Đâu là mục tiêu khả thi?- 
Thỉnh Nguyện Thư Nhân Quyền của cộng đồng Việt Nam do Nhạc Sĩ Trúc Hồ khởi xướng đã được đệ nạp Tổng Thống Barack Obama qua mạng của Tòa Nhà Trắng trong chương trình “We, The People – Your Voice in Our Government” (Chúng Ta, Những Người Dân – Tiếng Nói của Quý Vị trong Chính Phủ của Chúng Tôi) vào ngày 7/2/2012.

Thỉnh nguyện thư, dài 11 dòng gồm 642 chữ, bắt đầu bằng câu “Chúng tôi thỉnh nguyện chính phủ Obama ngưng mở rộng thương mại với Việt Nam, hi sinh nhân quyền.”
Thỉnh nguyện thư đưa ra một đề nghị ở ba dòng cuối cùng “Chúng tôi thỉnh cầu Tổng Thống sử dụng Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement – TPP) và Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát (Generalized System of Preferences – GSP) để buộc Cộng Sản Việt Nam (CSVN) trả tự do lập tức và vô điều kiện cho những nhà hoạt động nhân quyền đang bị bắt giữ hoặc giam cầm trong các nhà tù tại Việt Nam. Bầy tỏ cho thế giới biết rằng Hoa Kỳ đặt tự do trên hết.”
Giới hạn trao đổi thương mại với Việt Nam – mục tiêu được xác định trong thỉnh nguyện thư – nhắm gây áp lực đòi CSVN cải thiện nhân quyền. Rất tiếc là trong những tập tài liệu do ban tổ chức Chiến Dịch Thỉnh Nguyện Thư Nhân Quyền (BTC) phổ biến không có một chi tiết nào về đề nghị này cả. Một số người trong Tòa Nhà Trắng và tại Quốc Hội Hoa Kỳ cũng không rõ TPP và GSP là cái gì. Nhiều người đi vận động nhân quyền lại càng không biết (ngoại trừ hai toán Arizona và Virginia). Các cơ quan truyền thông Việt ngữ không hề nhắc nhở đến mục tiêu chính của thỉnh nguyện thư. Tại các cuộc họp của BTC trong ba ngày 4-5-6/3/2012, không ai nhắc tới việc giới hạn trao đổi thương mại với Việt Nam.
Bài phân tách này sẽ tìm hiểu về Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương và Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát và phân tách xem chúng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho cuộc tranh đấu nhân quyền ở Việt Nam hay không.
Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương
1. Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên Thái Bình Dương là gì?
TPP là một thỏa hiệp thương mại tự do rộng rãi với mục đích hội nhập kinh tế giữa những nước trong khu vực xuyên Thái Bình Dương từ Mỹ châu qua Á châu. Mức độ tự do hóa là đặc điểm để phân biệt TPP với những hiệp định thương mại khác. Thỏa hiệp TPP ban đầu bao gồm có bốn nước là Brunei, Chile, New Zealand, và Singapore được ký kết vào ngày 03-06-2005 và có hiệu lực vào ngày 28-05-2006. Thỏa hiệp này nhắm xóa bỏ 90% các thuế nhập cảng vào ngày 01-01-2006 và loại trừ tất cả mọi thuế nhập cảng vào năm 2015. Hiện nay có thêm năm nước đang thương lượng để gia nhập theo thứ tự thời gian là Hoa Kỳ (02-2008), Australia (11-2008), Việt Nam (11-2008), Peru (11-2008), và Malaysia (10-2010). Vào cuối năm vừa qua Nhật Bản tuyên bố có ý định tham gia nhưng chưa chính thức tham dự. Ngoài ra, Phi Luật Tân, Đài Loan, Hàn Quốc và Canada cũng đã ngỏ ý muốn gia nhập vào tổ chức TPP. [1]
2. TPP có những đặc điểm nào?
Hiệp Định TPP đặc biệt nhấn mạnh đến những lãnh vực sau đây: (a) bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; (b) xuất xứ hàng hóa; (c) chính sách cạnh tranh; (d) bảo vệ quyền lao động; (e) hạn chế khu vực xí nghiệp quốc doanh; (f) bảo vệ môi sinh; (g) bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; (h) yểm trợ trung và tiểu thương; (i) mở rộng tiếp cận thị trường; (j) bảo đảm công nghệ thông tin tự do.
Các điểm về bảo vệ quyền lao động, hạn chế khu vực xí nghiệp quốc doanh, mở rộng tiếp cận thị trường, và bảo đảm công nghệ thông tin tự do chắc chắn sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam cải tổ kinh tế. Riêng điều kiện về bảo vệ quyền lao động, Việt Nam sẽ phải cho công nhân thành lập công đoàn độc lập, có quyền đình công và quyền tổ chức và thương lượng tập thể. Quyền lao động là một phần của nhân quyền. Nếu CSVN chấp thuận điều kiện này, công nhân Việt Nam, và những người tranh đấu cho nhân quyền nói chung sẽ thắng một trận lớn.
Hệ Thống Ưu Đãi Thuế Quan Phổ Quát
1. GSP của Hoa Kỳ là gì?
Chương trình GSP được Hoa Kỳ thực hiện vào năm 1976. Mục đích là giúp các quốc gia đang mở mang phát triển thêm về kinh tế bằng cách cho phép hàng ngàn sản phẩm từ các quốc gia này được nhập cảng miễn thuế vào Hoa Kỳ. Tính đầu năm 2012, 129 nước đã gia nhập chương trình GSP và tổng cộng xuất cảng sang Hoa-Kỳ trong chương trình GSP là 4,800 loại hàng. [2]
2. Những sản phẩm nào được nhập cảng miễn thuế vào Hoa Kỳ trong chương trình GSP?
Có khoảng 4,800 loại hàng, tức là 1/3 số hàng nhập cảng vào Hoa Kỳ, nằm trong chương trình GSP. Trong số đó, Việt-Nam có khoảng 1,000 loại sản phẩm hội đủ tiêu chuẩn để được nhập cảng vào Mỹ. Thí dụ như đồ sứ, sản phẩm điện tử (không nhậy cảm), đồ gỗ, kim loại quý, nữ trang giả, rổ rá, bao tải, túi, xắc tay.
Những loại hàng không nằm chương trình GSP gồm hàng dệt và quần áo, hầu hết những đồng hồ đeo tay, giầy dép, túi cầm tay, áo quần bằng da, găng tay, đồ điện tử (nhậy cảm), đồ thép (nhậy cảm), sản phẩm làm bằng kính (nhậy cảm), nông phẩm giới hạn bởi sản ngạch.
3. Mỗi quốc gia phải hội đủ những tiêu chuẩn nào để có thể gia nhập vào chương trình GSP?
Muốn gia nhập chương trình GSP, những nước đang phát triển phải thỏa mãn một số tiêu chuẩn sau đây:
a. Mức độ phát triển kinh tế, kể cả tổng sản phẩm quốc gia trung bình đầu người (per capita GNP), mức sống của người dân và những yếu tố kinh tế khác mà Hoa Kỳ xét thấy thích hợp.
b. Cho phép sản phẩm của Hoa-Kỳ tiếp cận thị trường một cách quân bình và hợp lý và sản phẩm sơ đẳng (primary products) như khoáng sản, cao su, bông gòn, trà, cà phê, v.v.
c. Bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
d. Làm giảm bớt những hàng rào ngăn cấm tự do thương mại, đặc biệt về khu vực dịch vụ.
e. Không phải là nước cộng sản, ngoại trừ nước này (i) có liên hệ thương mại bình thường với Hoa-Kỳ; (ii) là hội viên của Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế (WTO); (iii) là hội viên của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF); và (iv) không bị cưỡng chế ngự bởi cộng sản quốc tế.
f. Bảo vệ đầy đủ quyền lao động được quốc tế công nhận trên năm lãnh vực: (i) quyền lập hội; (ii) quyền tổ chức và thương lượng tập thể; (iii) cấm cưỡng bách lao động; (iv) ấn định tuổi tối thiểu của trẻ em có thể đi làm và cấm những hình thức tồi tệ nhất của lao động trẻ em; và (v) Điều kiện làm việc có thể chấp nhận được đối với mức lương tối thiểu, số giờ làm việc, và an toàn nghề nghiệp và sức khoẻ.
4. Chính phủ Việt-Nam xin gia nhập chương trình GSP từ bao giờ?
Chính quyền Hà Nội chính thức gửi văn thư cho chính phủ Hoa Kỳ để xin được hưởng quy chế GSP vào tháng 5-2008. Trong dịp thăm viếng Hoa Kỳ vào tháng 6-2008, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã đề cập vấn đề này trong thông cáo chung của hai nước Việt-Mỹ.
Vào thời điểm đó, Ủy Ban Hoa Kỳ Bảo Vệ Người Lao Động Việt Nam (Committee to Protect Vietnamese Workers – CPVW-USA), một thành viên của Liên Minh Chống Nô Lệ Mới ở Á châu (Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia – CAMSA), đã trình bầy với Văn Phòng Đại Diện Thương Mại Hoa Kỳ (Office of the U.S. Trade Representative – USTR) rằng trên nguyên tắc cơ quan này ủng hộ việc Việc Nam xin gia nhập GSP vì chương trình này sẽ giúp nông dân và công nhân Việt Nam bán sản phẩm sang Hoa Kỳ dễ dàng hơn. Tuy nhiên CPVW-USA xác định rằng Việt Nam chưa đủ điều kiện để gia nhập GSP. [3] Mặc dù CSVN được rất nhiều công ty lớn của Mỹ ủng hộ, cho tới ngày hôm nay, Hoa Kỳ chưa chấp nhận cho Việt Nam được hưởng quy chế GSP.
Vào đầu năm nay, trong thời gian viếng thăm Việt Nam của một phái đoàn gồm bốn Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng một lần nữa đã yêu cầu Hoa Kỳ cho Việt Nam hưởng quy chế GSP.
5. Hiện nay Việt-Nam có hội đủ tiêu chuẩn để gia nhập vào chương trình GSP hay không?
Theo phần 3 kể trên, Việt Nam hội đủ mọi điều kiện ngoại trừ phần (f) quyền lao động. Những lãnh vực chính quyền Hà Nội vi phạm là (i) quyền lập hội; (ii) quyền tụ tập; (iii) quyền tổ chức và thương lượng tập thể; (iv) lao động trẻ em; và (v) điều kiện làm việc và lương bổng.
Công nhân không được phép thành lập công đoàn độc lập. Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt-Nam (TLĐLĐVN) là một tổ chức nghiệp đoàn quốc gia duy nhất ở Việt-Nam. Tất cả các công đoàn phải phụ thuộc vào TLĐLĐVN. Đây là một trong những phong trào vận động quần chúng của Mặt Trận Tổ Quốc. Những người lãnh đạo của TLĐLĐVN ở cấp quốc gia và địa phương phần lớn đều là đảng viên của Đảng Cộng Sản Việt-Nam.
Công dân không có quyền tụ tập tại Việt-Nam. Nếu tụ tập từ năm người trở lên đều phải xin phép chính quyền địa phương. Điều 5.2 của Nghị Định 38/2005/NĐ-CP về trật tự công cộng, ký ngày 18-03-2005. Thông tư của Bộ Công An số 09/2005/TT-BCA ngày 05-09-2005 giải thích rõ hơn về hoạt động tập trung từ năm người ở nơi công cộng bị chi phối bởi Nghị Định 38/2005/NĐ-CP. [4]
Người lao động Việt-nam không có quyển tổ chức và thương lượng tập thể. Tất cả những cuộc đình công tại Việt-Nam có tính cách bộc phát không do cá nhân, nhóm, hay chính phủ chính thức tổ chức. Do đó, sức mạnh thương lượng tập thể rất yếu. Theo luật, bất cứ một cuộc đình công nào đều phải có sự chấp thuận của TLĐLĐVN và chính quyền địa phương theo một thủ tục kéo dài và rườm rà. Thực tế cho thấy TLĐLĐVN chưa bao giờ khởi xướng, tổ chức, hoặc cho phép bất cứ một cuộc đình công nào. Do đó tất cả các cuộc đình công tại Việt-Nam được xem là bất hợp pháp. Gần đây, chính quyền Hà Nội lại ban hành thêm một nghị định có tính cách chống người lao động bằng cách buộc người lao động tham gia đình công bất hợp pháp phải bồi thường thiệt hại cho chủ nhân. [5]
Luật Việt-Nam đòi hỏi rằng tuổi tối thiểu để làm việc là 18. Trẻ em trong lứa tuổi 15-18 có thể làm việc, nếu chủ công ty có giấy phép của cha mẹ và Bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội (LĐTBXH). Tuy nhiên, Bộ LĐTBXH không có phương tiện để có thể cương bách việc thi hành luật. Do đó tình trạng lao động trẻ em vẫn tiếp diễn ở Việt Nam. Theo Văn phòng Dân Chủ, Nhân Quyền, và Lao Động tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, trẻ em Việt-Nam bị buôn bán ở trong nước cũng như ở nước ngoài, đáng chú ý nhất là Campuchia, để khai thác tình dục. Việc buôn trẻ em ở trong nước bao gồm cả những trường hợp trẻ em bị bắt làm nghề ăn mày và bán hoa, đặc biệt ở Sài Gòn và Hà Nội. Một số trẻ em khác lại bị bi buôn ngược lại từ Campuchia và đưa vào Sài Gòn. [6]
Luật Lao Động Việt-Nam cam kết bảo vệ người lao động như bất cứ một quốc gia phát triển nào. Tuy nhiên, trên thực tế, phần đông công nhân Việt-Nam phải chịu thiệt thòi một cách đáng kể vì tiền lương thấp, ngày làm việc dài, không trả lương giờ phụ trội, điều kiện làm việc thiếu an toàn về sức khỏe, không bảo hiểm, và không tiền hưu trí. Một người thợ trung bình phải làm ít nhất 10 giờ một ngày và 6 ngày một tuần. Môi trường làm việc trong nhiều trường hợp không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, người thợ này chỉ được trả lương 50 Mỹ kim hàng tháng. Với lợi tức này và với mức lạm phát cao, công nhân Việt-Nam cảm thấy rất khó khăn để có thể nuôi sống gia đình.
Về quyền lao động, GSP và TPP là một. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng giữa GSP và TPP. GSP là một công cụ hoàn toàn nằm trong tay Hoa Kỳ. Việt Nam ở vào vị trí xin – cho. Trong khi đó TPP là một tổ chức đa quốc gia. Việt Nam và Hoa Kỳ còn ở trong giai đoạn thương thuyết để gia nhập. Tuy là một nước lớn và đóng một vai trò quan trọng trong TPP, Hoa Kỳ không là chủ nhân ông của TPP.
TPP, GSP và nhân quyền
Nhiều viên chức ngoại giao cao cấp của Hoa Kỳ đã nhiều lần tuyên bố rằng vấn đề nhân quyền ở Việt Nam đã cản trở hai quốc gia tiến xa hơn nữa trong mối quan hệ ngoại giao và chiến lược. Trong dịp viếng thăm Việt Nam vào tháng 10, 2010, Ngoại Trưởng Hilary Clinton đã bầy tỏ mối lo ngại về tình trạng nhân quyền tại Việt Nam. Bà tuyên bố với báo chí tại Hà Nội rằng “Với một dân tộc đặc biệt và năng động, Việt Nam đang trở thành một quốc gia vĩ đại với một tiềm năng vô giới hạn. Và đó cũng nằm trong những lý do khiến chúng tôi phải bầy tỏ sự quan tầm về việc bắt giữ và kết án những người bất đồng chính kiến ôn hòa, tấn công những nhóm tôn giáo, và hạn chế tự do Internet.” [7]
Vào đầu năm nay, trong chuyến viếng thăm Việt Nam, TNS John McCain đáp lại lời yêu cầu của Việt Nam muốn mua võ khí của Hoa Kỳ, đã tuyên bố rằng “Có một số hệ thống võ khí mà Việt Nam muốn mua của chúng tôi và chúng tôi muốn chuyển giao những võ khí này cho họ, nhưng điều này sẽ không xẩy ra ngoại trừ Việt Nam cải thiện thành tích nhân quyền của họ.” [8]
Việt Nam rất muốn gia nhập TPP vì các nước trong khối TPP sẽ là một thị trường lớn cho hàng hóa của Việt Nam. Một khi đã thỏa mãn những tiêu chuẩn cao để gia nhập TPP, Việt Nam sẽ thu hút được đầu tư của khối TPP và những quốc gia khác. Ngoài ra, TPP sẽ giúp Việt Nam độc lập hơn với Trung Quốc về phương diện kinh tế vì Trung Quốc sẽ khó thỏa mãn những điều kiện của TPP để vào tổ chức này. Nếu cần Hoa Kỳ có thể đòi hỏi thêm điều kiện về nhân quyền để gạt hẳn Trung Quốc ra ngoài. GSP hoàn toàn có lợi cho Việt Nam. Qua chương trình này, Việt Nam có thể gia tăng số lượng và trị giá hàng xuất khẩu qua thị trường Hoa Kỳ mà không phải trả thuế nhập cảng. Do đó Việt Nam kiên nhẫn chờ đợi trong nhiều năm nay để được hưởng quy chế này.
TPP và GSP sẽ là hai cơ hội lớn để Hoa Kỳ áp lực Việt Nam cải thiện nhân quyền. Việt Nam thường làm ngơ hoặc bác bỏ những lời chỉ trích vi phạm nhân quyền của các cơ quan nhân quyền quốc tế và những quốc gia văn minh trên thế giới. Tuy nhiên đối với TPP và GSP, với chủ trương rõ ràng của Hoa Kỳ, CSVN khó có thể làm ngơ được.
Trong hơn 10 năm vừa qua, cứ hai năm toàn bộ Hạ Viện được bầu lại, Hoa Kỳ lại có một quốc hội mới, cộng đồng người Mỹ gốc Việt lại vận động để Dự Luật Nhân Quyền Cho Việt Nam được thông qua tổ chức lập pháp này, nhưng chưa bao giờ thành công. Chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á không cho phép Hoa Kỳ mạnh tay với Việt Nam. Điều này ngày càng rõ rệt hơn. Do đó, chúng ta không thấy một dấu hiệu nào khiến cho dự luật này có nhiều may mắn hơn đối với Quốc Hội thứ 112 hiện nay. Quốc Hội này sẽ đi vào lịch sử trong 9 tháng sắp tới. Đâu là mục tiêu khả thi của chúng ta? Về phương diện chiến thuật, Dự Luật Nhân Quyền quả là một cái bóng. Nhưng GSP và TPP mới thực sự là con mồi.
Nguyễn Quốc Khải
Chú thích:
[1] Office of the U.S. Trade Representative, “Trans-Pacific Partnership,” March 2012.
[2] Office of the U.S. Trade Representative, Executive office of the President, “U.S. Generalized System of Preferences Guidebook,” Washington-DC, May 2011.
[3] Khai Nguyen, “Comment on Vietnam’s eligibility under the Generalized System of Preferences (GSP) program,” CPVW-USA, August 4, 2008.
[4] WorkerFreedom, “Workers Prefer Illegal Strikes To Impotent Labor Unions,” June 24, 2008.
[5] The U.S. Department of State, “Country Reports on Human Rights Practices – 2007,” released by the Bureau of Democracy, Human Rights, and Labor, March 11, 2008.
[6] Decree No. 11/2008/NĐ-CP, January 30, 2008 and Circular No. 07/2008/TTLT-BLDTBXH-BTC, May 30, 2008.
[7] Daniel Schearf, “In Vietnam Clinton Hails Relations Cites Human Rights Concerns,” VOA News, July 22, 2010.
[8] Simon Roughneen, “U.S. Calls For International Observers at Burma By-Elections,” The Irrawaddy. January 23, 2012.

-Vận động nhân quyền: Đâu là mục tiêu khả thi?-Nguồn: Diễn Đàn Việt Thức


-Khu vực nhà nước ở VN không thể đặt điều kiện cho Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương

The Heritage Foundation
Derek Scissors và Walter Lohman
Ngày 23-5-2011
Dường như đã có lúc Việt Nam là nền kinh tế lớn kế tiếp. Việt Nam đã làm rất tốt trong những năm 1990 và trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ. Tuy nhiên hai năm qua, bất chấp tất cả những lợi thế mà họ sở hữu, chính phủ Việt Nam chỉ làm được mỗi một việc là gây bất ổn cho nền kinh tế đang đầy hứa hẹn. Bên cạnh tất cả những thứ đó, giờ đây, sự vỡ nợ của công ty đóng tàu quốc doanh Vinashin và cách chính phủ xử lý vấn đề đã khiến cho thất bại của Việt Nam trong nỗ lực tư nhân hóa trở nên trắng phớ trước dư luận.

Dứt khoát là Mỹ đáng bỏ công để hợp tác cùng Việt Nam cải thiện tình hình kinh tế. Mối quan hệ song phương giữa hai nước có một quá khứ hợp tác đáng kể trên khía cạnh cải cách. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ đã mang lại thay đổi cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, tâm điểm chú ý về thương mại hiện nay – Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) – sẽ đòi hỏi nhiều hơn nữa từ Hà Nội. Phần lớn những nội dung mà hiệp định yêu cầu – các quy định không phân biệt đối xử, cho vay không ưu đãi, minh bạch trong quản lý, xóa bỏ các rào cản đối với đầu tư – đều đụng chạm trực tiếp đến khu vực nhà nước được bao bọc.
Với tình hình kinh tế hiện tại, Việt Nam có thể không đủ khả năng tuân thủ những cam kết này và các cam kết mở rộng khác. Hậu quả là, đàm phán về TPP có thể sẽ trở thành con tin của sự yếu kém về năng lực mà khu vực Nhà nước gây ra cho Việt Nam. Mỹ sẽ không cho phép điều ấy xảy ra.
Bất ổn định về giá – mối nguy hiểm
Hiện trạng kinh tế Việt Nam hỗn loạn một cách bất thường. Một trong các vấn nạn luôn luôn là thiếu vắng thông tin đáng tin cậy. Một số nước phát hành báo cáo kinh tế gần như ngay sau khi hết một tháng, quý, hay năm – thật đáng ngờ. Việt Nam nhẹ nhàng tránh vấn đề này bằng cách công bố số liệu trước khi khoảng thời gian nghiên cứu kết thúc. Cái trò này được gọi là “ước tính”, “dự báo”, nhưng hiếm khi có sự kiểm chứng, xem xét lại kết quả sau đó.
Ngay cả số liệu chính xác cũng có thể làm người ta rối tinh lên trong bối cảnh hiện tại. Giá cả biến động quá nhanh khiến hành vi ứng xử của các công ty và cá nhân thay đổi liên tục. Trên số liệu chính thức, lạm phát giá hàng tiêu dùng ở mức gần 14% vào tháng ba, và vẫn đang gia tăng. Tỷ giá thực – giá của đồng tiền nội địa – đã giảm rất mạnh do tỷ giá danh nghĩa mà chính quyền đưa ra không theo kịp với lạm phát. Đồng Việt Nam đã bị phá giá bốn lần trong 15 tháng, nghĩa là giá ngoại tệ tính bằng tiền Việt Nam đang tăng lên. [1]
Hậu quả là thị trường có quá nhiều nội tệ mà không đủ hàng hóa và đồng tiền mạnh. Các công ty lợi dụng vốn rẻ bằng cách đi vay càng nhiều càng tốt (trong nước): Tăng trưởng tín dụng năm 2010 vượt quá 20%, phần lớn số tiền đi vay này do chính quyền trung ương và địa phương trợ cấp. Do nội tệ chẳng có mấy giá trị, các cá nhân đều tích trữ hàng hóa, vàng, và đô la Mỹ. [2] Đây không phải là lạm phát do một loại hàng hóa chủ đạo nào đó như ngũ cốc hay than gây ra; đây là lạm phát lan tràn khắp trong nền kinh tế.
Tương lai bấp bênh
Việt Nam có lẽ là quốc gia đầu bảng trong số các nước đang cố trở thành một Trung Quốc thứ hai. Các nhà hoạch định chính sách bắt chước Trung Quốc kia nên nhớ rằng Trung Quốc từng có những đợt lạm phát nghiêm trọng cả trong thập niên 1980 và 1990, đợt đầu kết thúc với một cuộc trấn áp lạm phát tàn nhẫn và đợt hai kết thúc bằng khủng hoảng tài chính khu vực. Bắc Kinh giải quyết vấn nạn lạm phát bằng cách tạo ra năng suất dư thừa và xuất khẩu phần dư thừa vào nền kinh tế thế giới đang tăng trưởng. Nhưng ngay cả nếu đặt sang một bên chuyện lãng phí và hủy diệt môi trường thì lựa chọn này hiện tại cũng không thể áp dụng cho Việt Nam.
Cách tốt nhất Việt Nam có thể thực hiện không được hấp dẫn như thế: để cho các doanh nghiệp nhà nước (SOE) thật sự sụp đổ. Việt Nam đã và đang bị mắc kẹt vì cái ham muốn rõ rệt của họ là nâng đỡ các SOE. Chúng hoạt động rất tồi, nhưng chúng lại đòi hỏi ngân sách và hỗ trợ tín dụng rất lớn. Điều này đã phá hoại chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng, và tạo tâm lý nghi ngờ về sự ổn định của hệ thống tài chính.
Năm nay, Hà Nội rất cần phải cam kết giảm ngay mọi yếu tố kích thích kinh tế, nhưng quả thật là làm việc này ở chừng mực cần thiết sẽ đòi hỏi một quyết định khó khăn: hy sinh một số SOE, cho phép khu vực tư nhân đi đầu. Hơn nữa, việc chuyển giao cũng sẽ kéo theo nó một giai đoạn tăng trưởng GDP chậm hơn.
Nếu sự hy sinh đó là không thể chấp nhận được trên phương diện chính trị, Việt Nam có thể gặp khó khăn đáng kể về kinh tế. Tăng trưởng trong quý một, được báo cáo vào cuối tháng ba, đạt 5,4%, rõ ràng là thấp hơn quý bốn năm ngoái.
Đất nước đang chảy máu ngoại tệ. Thâm hụt thương mại năm 2010 gần xấp xỉ quy mô dự trữ ngoại tệ vào thời điểm cuối năm, có nghĩa là sang năm tiếp theo, Việt Nam có thể cạn các quỹ khả dụng. [3] Như đã chứng kiến hồi năm 1997, nguy cơ hết dự trữ tiền mạnh có thể không chỉ làm giảm tăng trưởng và tăng thất nghiệp, mà còn làm bùng phát quá trình thu hẹp toàn bộ sản xuất và đẩy đất nước vào khủng hoảng tài chính sâu sắc.
Tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam cần được chú ý nghiêm túc và liên tục. Mối ưu tiên của Hà Nội phải là sửa chữa các sai lầm, khuyến khích một số biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô. Có lẽ họ không thể cùng một lúc vừa làm việc này, vừa tự do hóa nền kinh tế một cách đáng kể. Sự rút lui khỏi cải cách đó – điều chắc chắn và thậm chí là hợp lý – đi ngược hoàn toàn với mong muốn của Mỹ về việc ký kết một TPP kịp thời và thỏa mãn các tiêu chuẩn cao nhất đặt ra.
Các khuyến nghị
* Mỹ nên xúc tiến TPP càng nhanh càng tốt — không cần tính đến khả năng Việt Nam ký được hay thực hiện được hiệp định theo đúng thời gian biểu mà các bên khác đều có thể tuân thủ. Điều này áp dụng cho hiệp định con về thể thức, dự kiến ký vào tháng 11 tới, cũng như cho cả bản thỏa thuận cuối cùng.
* Nếu Việt Nam không tham gia TPP được, nên có lời mời rõ ràng rằng Việt Nam sẽ gia nhập ngay khi họ đạt được những bước tiến cần thiết, đặc biệt trong việc giảm hỗ trợ cho khu vực nhà nước và cho phép khối tư nhân lớn mạnh.
* Mỹ nên giúp Việt Nam sửa chữa ngôi nhà kinh tế và dứt khoát là phải nghiêm túc thực hiện tự do hóa như TPP yêu cầu. Với vai trò hiện nay của đồng đôla, cần đẩy mạnh hợp tác giữa bộ tài chính của hai nước.
Phép mầu bị trì hoãn
Đưa Việt Nam vào quá trình đàm phán đã từng là việc đúng đắn cần làm. Mối quan tâm của Mỹ đối với Việt Nam là Việt Nam phải làm sao vượt qua các khó khăn hiện tại và phát huy được nội lực hơn. Nhưng Việt Nam đứng trước những quyết định khó khăn và những việc khó thực hiện. Nếu họ không thể ra quyết định và hành động kịp thời, TPP cần được xúc tiến mà không có sự tham gia của Việt Nam.
Tiến sĩ Derek Scissors là nhà nghiên cứu về chính sách kinh tế châu Á và Walter Lohman là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Châu Á thuộc Quỹ Heritage.
[1] Taipei Times, “Investors Looking to Long-Term Promise of Vietnam” số ra ngày 25-4-2011. Địa chỉ: http://www.taipeitimes.com/News/biz/archives/2011/04/25/2003501606 (3-5-2011).
[2] Bloomberg, “Vietnam Needs to Reduce Dollar’s Use in Economy, ADB Aide Says” số ra ngày 6-4-2011. Địa chỉ: http://www.bloomberg.com/news/2011-04-06/vietnam-needs-to-reduce-dollar-s-use-in-economy-adb-aide-says.html (3-5-2011).
[3] Economics Newspaper, “Vietnam: Economic Growth of 5.4% in Q1”. Địa chỉ:  http://economicsnewspaper.com/world-economics/vietnam-economic-growth-of-5-4-in-q1-6256.html (3-5-2011).
Người dịch: Đan Thanh
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011


-----


-

Quan hệ đối tác xuyên-Thái Bình Dương (TPP) trước sự trỗi dậy của Trung Quốc--

 (bauxitevn)
(Việc gia nhập của Nhật Bản vào TPP có ý nghĩa gì?)
Bernard K. GordonForeign Affairs, November 7, 2011
Trần Ngọc Cư dịch
Vào hôm 14 tháng Mười, trong một bài diễn văn đọc trước Câu lạc bộ Kinh tế New York, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton đã báo hiệu cái gọi là một sự xoay chiều [chiến lược] hướng về châu Á khi bà tuyên bố rằng: “Trọng tâm chiến lược và kinh tế đang chuyển về phương Đông”. Phát biểu của bà là một phần nỗ lực gần đây của Mỹ nhằm tái khẳng định vai trò cường quốc Thái Bình Dương của mình. Đây là một câu trả lời trước những lo âu của các quốc gia châu Á-Thái Bình Dương liên quan đến sự trỗi dậy của Trung Quốc (TQ) và sự cam kết lâu dài của Mỹ đối với vùng này. Tổng thống Mỹ Barack Obama sẽ nhấn mạnh thêm thông điệp này vào cuối tháng khi ông đến thăm nhiều thủ đô châu Á và đăng cai Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương tại Hawaii. Trọng tâm của chính sách khu vực này là mậu dịch: Với việc Hiệp ước Tự do Thương mại Mỹ-Hàn đã được Quốc hội Mỹ thông qua, bây giờ Obama tìm cách thắt chặt vai trò kinh tế của Mỹ tại châu Á bằng cách thúc đẩy hoàn tất Hiệp ước Đối tác Xuyên-Thái Bình Dương (TPP), một hiệp ước thương mại đang được đàm phán giữa các nước Australia, Brunei, Chile, Malaysia, New Zealand, Peru, Singapore, Mỹ, và Việt Nam.


Khi các cuộc đàm pháp kết thúc, Hiệp ước TPP sẽ hạ hầu hết thuế nhập khẩu thương mại giữa những nước trong nhóm xuống mức zero trong một giai đoạn 10 năm. Ngoài các mặt hàng thường được quy định theo truyền thống các hiệp ước trước đây, TPP sẽ bao gồm cả các dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các loại đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước, và nhiều lãnh vực khác. Với tính cách rộng rãi của nó, Đại diện Thương mại Mỹ Ron Kirk đã ca ngợi nó như là một hiệp ước của “thế kỷ XXI” có khả năng dẫn đến sự hưng thịnh mậu dịch trong vùng.
Nhưng nếu TPP vẫn giữ nguyên cấu trúc như hiện nay – không có sự tham dự của Nhật Bản – thì Hiệp ước nói trên sẽ không đưa ra được một đề xuất kinh tế mà nhiều người kỳ vọng. Nhóm TPP chỉ chiếm 6% thương mại của Mỹ, một tỷ số tương đương với thương mại của Mỹ với chỉ một mình Nhật Bản. Nhật Bản là nước nhập khẩu chính các hàng hóa và dịch vụ của Mỹ, đặc biệt các sản phẩm công nghệ cao đắt tiền, như đầu máy phi cơ phản lực, các máy tiện NC (điều khiển bằng số), và các sản phẩm công nghệ sinh học. Và tương phản với tình trạng nhập siêu đang gia tăng nhanh chóng của Mỹ đối với Trung Quốc, sự bất quân bình mậu dịch giữa Mỹ và Nhật Bản đang giảm bớt liên tục. Washington thấy rõ tất cả điều này, và đã kêu gọi nới rộng nhóm TPP để bao gồm luôn cả Nhật Bản. Clayton Yeutter, một cựu đại diện thương mại Mỹ, và Luật sư mậu dịch quốc tế Jonathan Stoel gần đây đã viết trong tờ Wall Street Journal rằng nếu có sự tham dự của Nhật Bản trong nhóm TPP, “thương mại trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ bộc phát, dễ dàng tăng lên 3, 4 lần”.
Trước đây, Mỹ không luôn luôn nhiệt tình trong quan hệ mậu dịch với Nhật Bản. Mặc dù ý kiến về một hiệp ước tự do mậu dịch Mỹ-Nhật đã được Đại sứ Mỹ tại Nhật Mike Mansfield đề xuất lần đầu tiên vào cuối thập niên 1980, nhưng vì những lo sợ về sự khống chế kinh tế của Nhật Bản, không mấy chính khách Mỹ chịu cứu xét ý kiến này một cách nghiêm túc. Tokyo cũng xem thường nó, chính vì quan điểm kinh tế của Nhật lúc bấy giờ tập trung vào mậu dịch toàn cầu đa phương hơn là vào các hiệp ước thương mại khu vực.
Bây giờ tất cả điều đó bắt đầu thay đổi. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ William Burn tuyên bố tại Tokyo tháng Mười vừa qua rằng Mỹ sẽ “hoan nghênh sự quan tâm của Nhật Bản đối với TPP, đương nhiên Mỹ nhìn nhận rằng quyết định theo đuổi việc gia nhập TPP của Nhật sẽ được thể hiện dựa trên sự cân nhắc cẩn thận những ưu tiên và lợi ích của Nhật”. Về phần mình, Tokyo tỏ ra sẵn sàng tham gia các cuộc đàm phán. Việc gia nhập của Nhật Bản bắt đầu được đưa ra bàn luận kể từ tháng Mười năm 2010, khi cả nguyên Thủ tướng Naoto Kan lẫn Bộ trưởng Ngoại giao của ông đều chấp nhận việc này. Dĩ nhiên, mọi vấn đề mậu dịch đều bị gián đoạn vào tháng Ba 2011 do ba đại họa cùng diễn ra một lúc – động đất, sóng thần, và tan chảy lõi lò điện hạt nhân. Nhưng Tokyo đã có thái độ thăm dò trong những tháng vừa qua, và người ta tin chắc Thủ tướng Yoshihiko Noda sẽ tuyên bố vào tuần này rằng Nhật Bản sẽ tham dự các cuộc đàm phán.
Quan tâm mới đây của Nhật Bản đối với TPP phát xuất từ ba yếu tố. Trước tiên là sự lo lắng do Hiệp ước tự do mậu dịch Mỹ-Hàn gây ra. Giới công nghiệp xuất khẩu Nhật từ lâu đã lo lắng về những sản phẩm Nam Hàn tương đương với hàng hoá Nhật trên thị trường nước ngoài. Và, sự tiếp cận của Seoul đối với giới tiêu thụ Mỹ sẽ liên tục gia tăng một khi Hiệp ước được thi hành.
Yếu tố thứ hai là sức mạnh chính trị ngày một suy yếu của các nhóm lợi ích nông nghiệp Nhật. Qua một thời gian lâu dài trong quá khứ, tập thể này đã chống lại một hiệp ước thương mại tự do với Mỹ vì giới này sợ rằng các nông gia nhỏ lẻ rất được Chính phủ che chở sẽ bị hàng nhập khẩu giá rẻ đè bẹp. Nhưng năng suất nông nghiệp hiện nay chỉ chiếm 1,5% GDP của Nhật, nghĩa là dân số làm nghề nông cũng suy giảm rất nhiều. Nhu cầu xây dựng lại nền kinh tế tiếp theo sau các đại họa tháng Ba đã tăng cường các đòi hỏi phải cải tổ khu vực nông nghiệp lỗi thời của Nhật. Xu thế này đã tạo điều kiện dễ dãi cho giới xuất khẩu Nhật, đứng đầu bởi Liên đoàn công nghiệp Keidanren, thúc đẩy nghị trình ủng hộ mậu dịch của họ.
Yếu tố sau cùng là thái độ quyết đoán trong chính sách đối ngoại mới của Trung Quốc. Một tín hiệu đầu tiên là, vào năm 2010 Bắc Kinh đã làm sống lại những tuyên bố chủ quyền trên các đảo trong Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], một vấn đề đã làm sôi sục các mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng kể từ giữa thập niên 1990. Vào năm 2002, Trung Quốc và các nước láng giềng trong khối ASEAN đã đồng ý giải quyết các tuyên bố chủ quyền theo đường lối đa phương, nhưng sau đó Trung Quốc lại đòi thương thuyết song phương với từng quốc gia láng giềng một. Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc đã tranh luận vào thời điểm đó: “Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là những nước nhỏ, và đó chỉ là một sự thật”.
Nhật Bản đã hứng chịu tất cả thái độ hung hăng của Trung Quốc vào tháng Chín năm 2010, khi một tàu đánh cá Trung Quốc húc vào một tàu tuần duyên Nhật. Khi Nhật Bản bắt giam viên Thuyền trưởng của tàu đánh cá, Bắc Kinh đòi hỏi Nhật Bản phải xin lỗi và thả ông ta. Đồng thời Trung Quốc ngưng xuất khẩu sang Nhật khoảng sản đất hiếm. Maehara, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Ngoại giao Nhật, đã gọi phản ứng của Trung Quốc là “điên cuồng”. Hiện chiếm một vị trí trung tâm trong Chính phủ Noda, Maehara là một trong những chính khách được lòng dân nhất tại Nhật Bản. Trong một bài diễn văn gần đây tại Washington, phản ánh sự đánh giá của Tokyo, ông bày tỏ mối lo ngại về sự trỗi dậy của Trung Quốc “đang thay đổi cán cân quyền lực của tình hình trong khu vực như thế nào”.
Những tuyên bố như thế này cho thấy rằng Nhật Bản đã đi một đoạn đường khá dài từ lập trường của mình vào năm 2009, khi cựu Thủ tướng Yukio Hatoyama thúc đẩy Nhật Bản phải hội nhập hơn nữa với châu Á và chấp nhận một chính sách “giữ khoảng cách đều” (equidistance) giữa Bắc Kinh và Washington. Thay vì như vậy, Chính phủ Noda đã tăng cường những quan hệ vốn đã thân thiết với Washington; đồng thời, hiện nay nhiều người Nhật lý luận rằng Nhật Bản phải tham gia nền mậu dịch xuyên Thái Bình Dương hiện đang phát triển mạnh để tránh khỏi những đình đốn kinh tế của hai thập niên qua. “Nhật Bản phải khai thác năng lực của khu vực châu Á-Thái Bình Dương và sử dụng nó cho mục đích phục hồi kinh tế”, Noda đã tuyên bố như vậy tại một buổi họp của Đảng Dân chủ Nhật.
Đại sứ Mỹ tại Tokyo, John Roos, gần đây đã nhận xét rằng việc Nhật Bản gia nhập TPP sẽ là một “biến cố thay đổi cuộc chơi”. Ông ta nói đúng. Một hiệp ước thương mại xuyên Thái Bình Dương có sự tham dự của Nhật Bản sẽ là một thắng lợi cho nguyên tắc của một hệ thống quốc tế cởi mở. Hơn nữa, như một cố vấn của Thủ tướng Noda đã tuyên bố vào đầu tháng này, việc Tokyo tham gia các cuộc đàm phán TPP sẽ giúp chính phủ này “củng cố một môi trường chiến lược tạo ấn tượng cho Trung Quốc thấy rằng Nhật Bản là một nước đáng nể sợ chứ không dễ gì bắt nạt”. Các quốc gia trong khu vực không nhất thiết phải khứng chịu sự tất yếu của một Thái Bình Dương bị Trung Quốc khống chế. Một quan hệ đối tác gồm Nhật Bản, Mỹ, Australia và các nền kinh tế nhỏ hơn trong nhóm này sẽ tiêu biểu cho một giải pháp lành mạnh hơn – một giải pháp mà những chính trị gia theo chủ nghĩa thực tế sẽ nhìn nhận là một bước tiến tới một hình thức quân bình lực lượng cổ điển.
T.N.C. dịch

Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
-

Quan hệ đối tác xuyên-Thái Bình Dương (TPP) trước sự trỗi dậy của Trung Quốc--


Tổng số lượt xem trang