New York PostTại sao Việt Nam muốn chúng ta quay lại?
Arthur HermanNgày 20-6-2011
36 năm sau khi đuổi người Mỹ khỏi Việt Nam, những nhà lãnh đạo cộng sản ở Hà Nội bây giờ lại muốn chúng ta (Mỹ) quay lại. Sự thay đổi kỳ cục này có nhiều khía cạnh đáng châm biếm, nhưng nguyên nhân của nó thì đơn giản: Trung Quốc.
Bắc Kinh đã và đang gồng cơ bắp quân sự mới nhú cùng những tham vọng địa chính trị của họ, bất chấp sự hiện diện của các nước láng giềng. Cùng với các chiến dịch tấn công trên mạng toàn cầu, Trung Quốc bớt giống một siêu cường đang nổi lên mà lại có vẻ giống một kẻ hay bắt nạt và đang mất kiểm soát hơn.
Cuộc cãi cọ gần đây nhất với Việt Nam – một thời là đồng minh, bây giờ là kẻ thù không thay đổi của Trung Quốc – xoay quanh việc thăm dò dầu khí ở biển Nam Trung Hoa, nơi Trung Quốc yêu sách về chủ quyền duy nhất của họ, và là nơi Việt Nam vừa tiến hành tập trận hải quân bắn đạn thật để bảo vệ quyền của mình. Trung Quốc đã phản ứng bằng những cuộc tập trận riêng kéo dài suốt ba ngày đêm, mặc dù họ nói họ sẽ không “dùng đến vũ lực” để giải quyết tranh chấp. Tuy vậy, Việt Nam đã đưa ra một tuyên bố mạnh mẽ hoan nghênh sự trợ giúp của nước ngoài – một lời mời kín đáo nhưng rất rõ ràng đối với Mỹ và hải quân Mỹ.
Ở đây có một cơ hội cho chính sách của nước Mỹ, không chỉ để khép lại mọi tranh cãi xung quanh cuộc chiến tranh gây chia rẽ nhất trong lịch sử Mỹ, mà còn để tìm ra một cách mới, có tính thực tiễn hơn, trong việc đương đầu với những nhà cầm quyền ở Bắc Kinh. Đó là bởi vì đang có những vấn đề đang sắp xảy ra cho Trung Quốc – và không chỉ trong quan hệ với láng giềng.
Trong vài tuần qua, một đợt sóng bất ổn nghiêm trọng đã tràn qua các thành phố ở Trung Quốc. Bạo lực bùng nổ – thậm chí có cả những vụ nổ bom – chống lại chính quyền Bắc Kinh.
Không có dấu hiệu nào của một cuộc nổi dậy có tổ chức theo kiểu Mùa xuân Ả-rập. Nhưng số vụ việc mà chính quyền gọi là “sự cố đám đông” (mass incidents, có người dịch là “sự cố lớn”) đang gia tăng đều đều. Năm 2008 có tới 127.000 vụ. Những vụ như thế sẽ tồi tệ đi trước khi chúng tốt lên – và không chỉ là do chính quyền Bắc Kinh vẫn không làm sao mà dập tắt được những ý kiến bất đồng trên Internet.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế như một hiện tượng của Trung Quốc đang chựng lại. Giá dầu tăng cao cùng lạm phát dâng lên đang xóa sạch nhiều thành tựu kinh tế. Nếu nền kinh tế Mỹ – nguồn đầu ra chủ lực cho hàng xuất khẩu Trung Quốc – không sớm phục hồi, thì điều ấy có thể đe dọa kỷ lục tăng trưởng dài lâu, chưa từng bị gián đoạn của Trung Quốc, và từ đây sẽ tạo đà cho nhiều rắc rối hơn.
Vâng, chuyện này thách thức hình ảnh trên truyền thông của Trung Quốc, vốn được khắc họa như một thế lực hùng mạnh biết tuốt, làm được tuốt. Thậm chí nhiều người trong chính quyền Obama có vẻ nghĩ rằng Trung Quốc lớn và hùng mạnh quá đến nỗi chúng ta không dám cản trở hoặc xúc phạm họ – nhất là khi họ nắm giữ tất cả các khoản nợ của Mỹ. Nhưng người Mỹ có thói quen đánh giá quá cao các đối thủ. Trong Thế chiến II, truyền thông và thậm chí cả CIA cũng tin vào những lời tuyên truyền rằng kinh tế Xô Viết đang cạnh tranh với chúng ta – mãi cho đến những năm 1980 khi Liên Xô lộ ra là cũng chỉ là một nước chậm phát triển. (Nguyên văn: Third World basket, nghĩa là tập hợp các nước chậm phát triển, hoặc khối các nước không liên kết ở châu Phi và châu Á – ND).
Sau đó lại có nỗi lo sợ rằng công ty Nhật Bản sẽ mua Mỹ cùng với Trung tâm Rockefeller, cho tới tận những năm 90 khi những chiếc bánh xe văng khỏi cỗ máy tăng trưởng của Nhật Bản. Suốt hơn một thập niên, gói kích thích kinh tế kiểu Obama đã giữ cho Nhật Bản trụ được ở vị trí thứ hai.
Tăng trưởng của Trung Quốc thì là tăng trưởng thật sự, khoảng 6,1% GNP đầu người một năm trong thời gian 1978-2003 – mặc dù không ấn tượng lắm so với Nhật Bản (8,2%), Hàn Quốc (7,6%), và Đài Loan (7,1%) trong những giai đoạn cất cánh tương tự.
Nhưng điều ấy cũng tạo ra những vấn đề to lớn cho một chính quyền trung ương đang cố gắng kiểm soát nhân dân – những người dân mà, sau khi được hưởng quyền tự do kinh tế lớn hơn, đã bắt đầu muốn được tự quản đời sống của mình. Làn sóng bất ổn mới đây nhất đã cho thấy điều đó.
Nỗi sợ mất kiểm soát ở trong nước góp một phần vào việc nuôi sự phiêu lưu và hung hãn của Trung Quốc ở nước ngoài. Việt Nam chỉ là trường hợp mới đây nhất, và là lời đề nghị mở đối với Mỹ, xin sự giúp đỡ của Mỹ. Đề nghị này không nên bị bỏ qua.
Nhà Trắng dưới thời Obama đã mụ mị đi khi phải đối phó với Trung Quốc, chỉ trừ những lúc tung ra các bữa tiệc chiêu đãi khúm núm để tôn vinh các vị lãnh đạo của họ. Tuy nhiên, một lập trường mạnh mẽ, không vô nghĩa, sẽ được hoan nghênh bởi gần như mọi quốc gia khác, kể cả Ấn Độ, Nhật Bản, và toàn Tây Âu. Tin tặc Trung Quốc không chỉ theo sát Mỹ. Bọn họ đã làm đảo lộn các ngân hàng và doanh nghiệp ở Anh, và có tin rằng bọn họ còn thâm nhập cả vào máy tính của cả thủ tướng Đức lẫn thủ tướng Australia.
Cuối cùng thì, quả thật đứng dậy trước Trung Quốc có thể lại là điều tốt đẹp nhất cho chính người Trung Quốc.
Một nước Mỹ mạnh mẽ, quyết đoán, có thể khiến Bắc Kinh phải ngừng hành động bắt nạt nước khác và tập trung vào cải cách ở trong nước, trước khi nền kinh tế của chính họ trượt dốc và bất ổn bắt đầu lan tràn. Đó là điều Trung Quốc không muốn, và chúng ta không thể để như thế được.
Arthur Herman là tác giả cuốn sách “Gandhi và Churchill”, giải Pulitzer năm 2009.
Người dịch: Đỗ Quyên
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
--- “Đối thoại chính trị – an ninh – quốc phòng Mỹ – Việt “- Cơ hội trong tầm tay (Người LĐ). - Ghi nhận nhanh về Hội thảo an ninh Biển Đông — (RFA).– Việt – Mỹ hợp tác tìm kiếm MIA lần thứ hai.- Khai mạc Hội thảo về an ninh ở Biển Đông tại Hoa Kỳ — (RFA).
- Cảng Cam Ranh, lá bài chiến lược của Việt Nam để đối phó với hải quân Trung Quốc — (RFI).
- Liệu Hoa Kỳ có kiềm chế được Trung Quốc? BBC -Hai người viết của phương Tây bất đồng về chuyện liệu Hoa Kỳ có thể kiểm soát được Trung Quốc tại Thái Bình Dương.
-US Navy in MIA search off Vietnam: US official (Straits Times)-HANOI - A US Navy ship on Monday ended a near month-long search off the Vietnamese coast for the wreckage of aircraft which crashed during the Vietnam War, a US official said. It was only the second time that a naval ship has joined the search for American service members listed as missing in action, said Ron Ward, of the Joint POW/MIA Accounting Command (JPAC).
Trung Quốc cảnh cáo Việt Nam: Vietnam should wake up to Danger! (People's Daily 20-6-11) -- Nhà "bình luận cái" (chữ của báo Công An Nhân Dân) Lý Hồng Mai cảnh cáo Việt Nam. (Nếu tôi không lầm thì đây là bài đầu tiên "chống Việt Nam" (về những sự cố gần đây) trên Nhân Dân Nhật Báo của Tàu (mấy bài truớc là trên Hoàn Cầu Thời Báo, Giải Phóng Quân Nhật Báo, và vài tờ báo nhỏ ở Hồng Công) -- Trung Quốc phát tín hiệu cứng rắn về Biển Đông? (TTXVN Bee.net 20-6-11)
Giới KH Việt phản đối chú thích sai về bản đồ TQ (Bee.net 20-6-11) -- Nguyên văn bài báo liên hệ: Municipal solid waste source-separated collection in China: A comparative analysis (Waste Management 4-11) ◄
- Tạp chí quốc tế sẽ cải chính về bản đồ “đường lưỡi bò” (VNN). – Bá quyền Trung Quốc trong giới khoa học (Nguyễn Đăng Hưng). -Hành trình tuần tra chung của VN-TQ trên Vịnh Bắc Bộ (TTXVN Bee.net 20-6-11) -- Việt-Trung hoàn tất tuần tra trên vịnh Bắc Bộ (PLTP). - . Quân đội ND – Việt-Lào muốn giải quyết vấn đề biển Đông trong hòa bình (PLTP)
South China Sea is not Shangri-La (Japan Times 20-6-11) -- Michael Richardson
Bắc Kinh tỉnh ngộ? South China Sea stand-off is just storm in a teacup (SCMP 20-6-11)◄
-Biển Đông:tranh chấp leo thang TQ&VN gây thiệt hại rất lớn về kinh tế
International Business Times
Michael Martin
Ngày 16 tháng 6 năm 2011
Hôm nay [16 tháng 6 năm 2011] Bắc Kinh đã cử một chiếc tàu tuần dương tới Biển Hoa Nam.
Ấy thế nhưng phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi vẫn xác nhận rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ “không sử dụng sức mạnh” trong tranh chấp gia tăng với Việt Nam và năm nước và vùng lãnh thổ về chủ quyền đối với vùng nước có giá trị lớn này.
Nhưng đến giờ thì thực sự cũng chẳng ai biết có bao nhiêu khí thiên nhiên và dầu mỏ ở bên dưới đáy biển Hoa Nam.
Một số nguồn tin của Trung Quốc ước tính trữ lượng là trên 200 tỉ thùng, tức là xấp xỉ 80% trữ lượng dầu mỏ của Ả-Rập Saudi, song số khác lại cho rằng đó là một sự thổi phồng quá mức.
Lợi thì chưa thấy đâu nhưng ngay bây giờ thì Trung Quốc đã có thể tính toán được rằng tình hình tranh chấp leo thang với Việt Nam về vùng biển nói trên sẽ gây thiệt hại thế nào tới nền kinh tế của Trung Quốc.
Nhìn sơ sơ thôi thì chi phí thiệt hại đã là 12,7 tỉ đô la Mỹ – tổng số tiền thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc trong năm 2010, theo nguồn tin của Tổng cục Thống Kê của Việt Nam.
Số tiền đó bằng bảy phần trăm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong năm ngoái, một con số tuy nhỏ nhưng là một khúc quan trọng trong thu nhập của nước này.
Mặt khác, các nhà phân tích cho rằng nếu Trung Quốc dốc toàn lực cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra thì tổn thất phải tính đến sẽ lớn hơn rất nhiều.
Đáp trả cuộc tập trận bắn đạn thật kéo dài sáu tiếng đồng hồ của Việt Nam ở Biển Hoa Nam – một tiếng đồng cho mỗi một nước và vùng lãnh thổ đang tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với vùng biển này – phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố rằng Trung Quốc “sẽ không sử dụng sức mạnh” để đáp trả điều họ coi là những cuộc tấn công vào một khu vực mà nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa đang khẳng định có “chủ quyền không thể tranh cãi”.”
“Tôi nghĩ rằng kinh tế dứt khoát có mối liên quan nào đó trong lời tuyên bố này,” chuyên gia kinh tế trưởng Nariman Behravesh của tổ chức phân tích kinh tế hàng đầu thế giới IHS Global Insight đã nói như vậy trong một cuộc điện đàm từ Luân Đôn.
“Trung Quốc đang có mối liên kết thương mại ngày càng phát triển với tất cả các nước châu Á, nhất là những nước quan tâm tới Quần đảo Trường Sa,” Behravesh nói trong lúc ám chỉ tới những hòn đảo đang có tranh chấp ở ngoài khơi bờ biển chung của Trung Quốc và Việt Nam.
Các nhà phân tích tin rằng bất chấp Trung Quốc đang dùng những từ ngữ gay gắt tuôn ra dồn dập tại thời điểm này để buộc tội Việt Nam đe dọa quyền tự trị của Trung Quốc ở khu vực này, song Trung Quốc có lẽ rồi sẽ thực hiện đúng lời hứa của họ là sẽ giảm bớt căng thẳng trong quan hệ hai nước.
“Có một cách để đánh giá khả năng có thể dẫn đến xung đột vũ trang,” Tiến sĩ Donald K. Emmerson giám đốc Diễn đàn Đông Nam Á của Đại học Stanford đã nói như vậy.
Emmerson đã tham dự cuộc đối thoại Shangri-La 2011 tại Singapore sau khi tàu của Trung Quốc cắt đứt cáp của tàu khảo sát của PetroVietnam hồi cuối tháng trước. Trung Quốc vẫn giữ giọng điệu hòa giải vào thời điểm đó và cho đến tận lần tấn công tiếp theo vào hôm 9 tháng 6 khi một chiếc tàu khác của Trung Quốc đã cắt đứt cáp của tàu của PetroVietNam trong một diễn biến mà phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga gọi là một cuộc tấn công “có suy tính trước”.
“Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào lượng nhập khẩu nhiên liệu từ Trung Đông. Nhiên liệu nhập khẩu này đi qua Eo biển Malacca để đi vào Biển Hoa Nam. Nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến tranh tại khu vực vận chuyển quá cảnh nhiên liệu quan trọng bậc nhất này thì quyết định đó sẽ là không khôn ngoan,” Emmerson nói.
Đó là một lý do để chiến tranh không xảy ra ở Biển Hoa Nam.
Một lý do khác nữa để các nước Đông Nam Á và các vùng lãnh thổ đang có tranh chấp ở vùng biển này – tổng số là sáu, trong đó có Việt Nam, Philippine và Đài Loan – không gây chiến với Trung Quốc ấy là để duy trì sự ổn định địa chính trị trong vùng.
“Các nước có chung biên giới [biển] hiểu rằng một cuộc chiến tranh thực sự với những chiếc tàu chở dầu bị nổ tung trên biển sẽ là điều quá nguy hiểm đối với những quốc gia liên quan,” ông nói đồng thời giải thích rằng nền kinh tế thế giới sẽ rung chuyển dữ dội bởi sự gián đoạn của tuyến đường vận chuyển quan trọng này.
Hàng năm một nửa số tàu thuyền thương mại của thế giới tính theo khối lượng hàng hóa đi qua Biển Hoa Nam, Emmerson nói.
“Đó là một tuyến đường huyết mạch khổng lồ của thương mại toàn cầu. Mặc dù đúng là Biển Hoa Nam là hành lang [tốt nhất], song còn có những tuyến đường lựa chọn khác đòi hỏi chi phí cao hơn, ấy là đi tiếp về phía đông qua Philippine và Indonesia.”
Nếu chọn các giải pháp đó thì cả Emmerson lẫn Behravesh làm việc tại Global Insight đều coi tương lai của Trung Quốc nằm ở sự hợp tác của nước này với các đối tác ASEAN ở phía Nam.
Và điều này là có tiền lệ.
Emmerson giải thích rằng vào tháng 7 năm 2005 Trung Quốc, Trung Quốc, Philippine và Việt Nam đã cùng nhau tiến hành một dự án khảo sát địa chấn biển – các bên tham gia ký kết là các công ty như PetroVietnam chứ không phải là các ngoại trưởng hoặc thủ tướng. Dự án được tiến hành với danh nghĩa công việc chung giữa các công ty nhằm bắt đầu tìm kiếm để biết xem trữ lượng dầu dưới đáy biển là bao nhiêu.
“Lúc đầu điều họ muốn là dự án thăm dò chung rồi sau đó mới là khai thác chung. Sau đó thì dự án này đã hết hiệu lực vào năm 2008,” ông nói thêm.
Nếu Trung Quốc cứ dứt khoát bám lấy lợi ích từ nguồn dầu mỏ có thêm này [từ Biển Đông] trong cuộc chạy đua không ngừng nhằm cung cấp nhiên liệu cho nền kinh tế đang tăng trưởng, thế thì Việt Nam cũng sẽ bám lấy lợi ích của họ.
“Tôi dĩ nhiên nghĩ rằng Việt Nam có đủ năng lực để khai thác nguồn dự trữ đó [dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông] thông qua các liên doanh,” Behravesh nói đồng thời giải thích rằng một mối quan hệ đối tác hai bên cùng có lợi trong lĩnh vực dầu mỏ có thể góp phần làm dịu sức nóng địa chính trị trong khu vực và cho phép sự khai thác chung các nguồn tài nguyên của khu vực.
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011
Michael Martin
Ngày 16 tháng 6 năm 2011
Hôm nay [16 tháng 6 năm 2011] Bắc Kinh đã cử một chiếc tàu tuần dương tới Biển Hoa Nam.
Ấy thế nhưng phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi vẫn xác nhận rằng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sẽ “không sử dụng sức mạnh” trong tranh chấp gia tăng với Việt Nam và năm nước và vùng lãnh thổ về chủ quyền đối với vùng nước có giá trị lớn này.
Nhưng đến giờ thì thực sự cũng chẳng ai biết có bao nhiêu khí thiên nhiên và dầu mỏ ở bên dưới đáy biển Hoa Nam.
Một số nguồn tin của Trung Quốc ước tính trữ lượng là trên 200 tỉ thùng, tức là xấp xỉ 80% trữ lượng dầu mỏ của Ả-Rập Saudi, song số khác lại cho rằng đó là một sự thổi phồng quá mức.
Lợi thì chưa thấy đâu nhưng ngay bây giờ thì Trung Quốc đã có thể tính toán được rằng tình hình tranh chấp leo thang với Việt Nam về vùng biển nói trên sẽ gây thiệt hại thế nào tới nền kinh tế của Trung Quốc.
Nhìn sơ sơ thôi thì chi phí thiệt hại đã là 12,7 tỉ đô la Mỹ – tổng số tiền thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc trong năm 2010, theo nguồn tin của Tổng cục Thống Kê của Việt Nam.
Số tiền đó bằng bảy phần trăm thặng dư thương mại của Trung Quốc trong năm ngoái, một con số tuy nhỏ nhưng là một khúc quan trọng trong thu nhập của nước này.
Mặt khác, các nhà phân tích cho rằng nếu Trung Quốc dốc toàn lực cho cuộc chiến tranh có thể xảy ra thì tổn thất phải tính đến sẽ lớn hơn rất nhiều.
Đáp trả cuộc tập trận bắn đạn thật kéo dài sáu tiếng đồng hồ của Việt Nam ở Biển Hoa Nam – một tiếng đồng cho mỗi một nước và vùng lãnh thổ đang tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với vùng biển này – phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi tuyên bố rằng Trung Quốc “sẽ không sử dụng sức mạnh” để đáp trả điều họ coi là những cuộc tấn công vào một khu vực mà nước Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa đang khẳng định có “chủ quyền không thể tranh cãi”.”
“Tôi nghĩ rằng kinh tế dứt khoát có mối liên quan nào đó trong lời tuyên bố này,” chuyên gia kinh tế trưởng Nariman Behravesh của tổ chức phân tích kinh tế hàng đầu thế giới IHS Global Insight đã nói như vậy trong một cuộc điện đàm từ Luân Đôn.
“Trung Quốc đang có mối liên kết thương mại ngày càng phát triển với tất cả các nước châu Á, nhất là những nước quan tâm tới Quần đảo Trường Sa,” Behravesh nói trong lúc ám chỉ tới những hòn đảo đang có tranh chấp ở ngoài khơi bờ biển chung của Trung Quốc và Việt Nam.
Các nhà phân tích tin rằng bất chấp Trung Quốc đang dùng những từ ngữ gay gắt tuôn ra dồn dập tại thời điểm này để buộc tội Việt Nam đe dọa quyền tự trị của Trung Quốc ở khu vực này, song Trung Quốc có lẽ rồi sẽ thực hiện đúng lời hứa của họ là sẽ giảm bớt căng thẳng trong quan hệ hai nước.
“Có một cách để đánh giá khả năng có thể dẫn đến xung đột vũ trang,” Tiến sĩ Donald K. Emmerson giám đốc Diễn đàn Đông Nam Á của Đại học Stanford đã nói như vậy.
Emmerson đã tham dự cuộc đối thoại Shangri-La 2011 tại Singapore sau khi tàu của Trung Quốc cắt đứt cáp của tàu khảo sát của PetroVietnam hồi cuối tháng trước. Trung Quốc vẫn giữ giọng điệu hòa giải vào thời điểm đó và cho đến tận lần tấn công tiếp theo vào hôm 9 tháng 6 khi một chiếc tàu khác của Trung Quốc đã cắt đứt cáp của tàu của PetroVietNam trong một diễn biến mà phát ngôn viên của Bộ ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga gọi là một cuộc tấn công “có suy tính trước”.
“Trung Quốc ngày càng phụ thuộc vào lượng nhập khẩu nhiên liệu từ Trung Đông. Nhiên liệu nhập khẩu này đi qua Eo biển Malacca để đi vào Biển Hoa Nam. Nếu Trung Quốc tiến hành một cuộc chiến tranh tại khu vực vận chuyển quá cảnh nhiên liệu quan trọng bậc nhất này thì quyết định đó sẽ là không khôn ngoan,” Emmerson nói.
Đó là một lý do để chiến tranh không xảy ra ở Biển Hoa Nam.
Một lý do khác nữa để các nước Đông Nam Á và các vùng lãnh thổ đang có tranh chấp ở vùng biển này – tổng số là sáu, trong đó có Việt Nam, Philippine và Đài Loan – không gây chiến với Trung Quốc ấy là để duy trì sự ổn định địa chính trị trong vùng.
“Các nước có chung biên giới [biển] hiểu rằng một cuộc chiến tranh thực sự với những chiếc tàu chở dầu bị nổ tung trên biển sẽ là điều quá nguy hiểm đối với những quốc gia liên quan,” ông nói đồng thời giải thích rằng nền kinh tế thế giới sẽ rung chuyển dữ dội bởi sự gián đoạn của tuyến đường vận chuyển quan trọng này.
Hàng năm một nửa số tàu thuyền thương mại của thế giới tính theo khối lượng hàng hóa đi qua Biển Hoa Nam, Emmerson nói.
“Đó là một tuyến đường huyết mạch khổng lồ của thương mại toàn cầu. Mặc dù đúng là Biển Hoa Nam là hành lang [tốt nhất], song còn có những tuyến đường lựa chọn khác đòi hỏi chi phí cao hơn, ấy là đi tiếp về phía đông qua Philippine và Indonesia.”
Nếu chọn các giải pháp đó thì cả Emmerson lẫn Behravesh làm việc tại Global Insight đều coi tương lai của Trung Quốc nằm ở sự hợp tác của nước này với các đối tác ASEAN ở phía Nam.
Và điều này là có tiền lệ.
Emmerson giải thích rằng vào tháng 7 năm 2005 Trung Quốc, Trung Quốc, Philippine và Việt Nam đã cùng nhau tiến hành một dự án khảo sát địa chấn biển – các bên tham gia ký kết là các công ty như PetroVietnam chứ không phải là các ngoại trưởng hoặc thủ tướng. Dự án được tiến hành với danh nghĩa công việc chung giữa các công ty nhằm bắt đầu tìm kiếm để biết xem trữ lượng dầu dưới đáy biển là bao nhiêu.
“Lúc đầu điều họ muốn là dự án thăm dò chung rồi sau đó mới là khai thác chung. Sau đó thì dự án này đã hết hiệu lực vào năm 2008,” ông nói thêm.
Nếu Trung Quốc cứ dứt khoát bám lấy lợi ích từ nguồn dầu mỏ có thêm này [từ Biển Đông] trong cuộc chạy đua không ngừng nhằm cung cấp nhiên liệu cho nền kinh tế đang tăng trưởng, thế thì Việt Nam cũng sẽ bám lấy lợi ích của họ.
“Tôi dĩ nhiên nghĩ rằng Việt Nam có đủ năng lực để khai thác nguồn dự trữ đó [dầu mỏ và khí đốt ở Biển Đông] thông qua các liên doanh,” Behravesh nói đồng thời giải thích rằng một mối quan hệ đối tác hai bên cùng có lợi trong lĩnh vực dầu mỏ có thể góp phần làm dịu sức nóng địa chính trị trong khu vực và cho phép sự khai thác chung các nguồn tài nguyên của khu vực.
Người dịch: Hiền Ba
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2011