
-Hoàng Sa của Việt Nam
Nguyễn Xuân Nghĩa / Trọng Nghĩa RFI Paris Ngày 20110702

Tấm bản đồ Đông Nam Á của Jodocus Hondius vào đầu thế kỷ 17.
Ngày 22/06/2011, chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại Hoa Kỳ đã trình bày trên blog riêng của ông (Dainamax.org) một tấm bản đồ Đông Nam Á từ thế kỷ 17. Tài liệu do Hà Lan xuất bản năm 1606, được in lại năm 1613 trong tập địa dư "Atlas Mercator Hondius", có thể được xem là một bằng chứng lịch sử về chủ quyền Việt Nam trên vùng quần đảo Hoàng Sa, được ghi trong bản đồ là “Pracel”.
Tài liệu vừa được công bố này đã gây chú ý trong dư luận vì cho thấy rằng từ đầu thế kỷ 17, và có thể là còn trước đó, các nhà địa dư học Âu Châu đã vẽ ra quần đảo Hoàng Sa, gọi bằng tiếng Latinh là "Pracel". Đối diện với quần đảo này trên lãnh thổ Việt Nam được viền màu vàng thấy có ghi tên "Costa de Pracel" – hay bờ biển Pracel.
Tài liệu địa dư khá đặc biệt này cho thấy rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam chứ chẳng liên hệ gì đến Trung Quốc, có đảo Hải Nam được tô hồng trong tấm bản đồ với tên là Ainan.
Trả lời phỏng vấn của RFI, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa, người công bố tấm bản đồ xác nhận là tài liệu này đã có trong gia đình ông từ lâu, và đã từng được ông công khai hóa vào năm 2008.
|
Ngoài vị trí của quần đảo Hoàng Sa, có chi tiết đáng chú ý là hướng Đông lại nằm ở trên, nên ta cần xoay theo chiều kim đồng hồ 90 độ thì dễ nhìn ra hơn!
-Một Tấm Dư Đồ Bị Lãng QuênNguyễn Xuân Nghĩa Ngày 20110622
Đông Nam Á trên bản đồ của Hondius xuất bản năm 1606 tại Amsterdam
Hoàng Sa là của ai dưới con mắt nhà địa dư học Hoà Lan?
Dainamax Magazine xin giới thiệu một tấm bản đồ Đông Nam Á xuất bản năm 1606 mà chúng tôi có bản chính từ đã lâu. Tấm bản đồ này được in lại năm 1613 trong cuốn địa đồ Atlas Mercator Hondius.
***
Gerardus Mercator và Jodocus Hondius là hai nhà địa dư học nổi tiếng của Hoà Lan (Netherland) từ thế kỷ 17, vào các năm 1600 trở về sau. Thời ấy, để cạnh tranh với Công ty Đông Ấn của Anh, Công ty Đông Ấn của Hoà Lan được lập ra năm 1602 và phát triển cơ sở kinh doanh ở khắp nơi nên mới tập trung lại các tài liệu tham khảo về địa hình địa thế Á Đông. Tấm bản đồ trên đây là do Jodocus Hondius (1563-1612) vẽ lại trước năm xuất bản 1606 và căn cứ trên những dữ kiện của nhà địa dư học Bồ Đào Nha (Portugal) là Bartolomeu Lasso vào đầu thế kỷ 16 - tức là trước đó khoảng trăm năm.
Tấm bản đồ trình bày bằng tiếng Latinh, có tên là "Insulae Indiae Orientalis Praecipuae", ghi rõ vùng biển Đông Nam Á từ đảo Sumatra phía Tây đến New Guinea và cả... đảo Guam phía cực Đông trong một chuỗi đảo họ mệnh danh là "quần đảo thổ phỉ" (Islas de las Vellas), và từ đảo Timor gần Úc Đại Lợi phía Nam lên tới Hải Nam của Trung Quốc ở phía Bắc.
Thời ấy, thế giới Tây phương vẫn mơ hồ về đảo Java, với hướng Nam còn ghi bằng hàng dấu chấm trên bản đồ. Nhưng qua tài liệu tô màu này, các sử gia thích thú tìm thấy chứng cớ cập bến của nhà thám hiểm và Phó Đề đốc nổi tiếng của Nữ Hoàng Anh Elizabeth I là Francis Drake (sinh khoảng năm 1540 và mất năm 1596): tại một hải cảng ở miền Nam Java có ghi hàng chữ "Huc Franciscus Dra. Appulit".
Họ rất vui với việc đó, nhưng người Việt chúng ta lại chú ý đến nhiều dữ kiện khác.
Góc Tây-Bắc của tấm dư đồ là đất "Cauchin, có tên khác là Cauchinchina", là Cochinchine theo lối gọi thời Tây sau này. Đấy là địa đồ của Đàng Trong khi mở ra cục diện Trịnh-Nguyễn phân tranh: chúa Nguyễn Hoàng mất năm 1613 là khi tấm bản đồ được đưa vào cuốn Atlas Mercator Hondius.
Nhân đây, xin ghi một chi tiết tồn nghi về tên gọi.
Từ thế kỷ 13, các nước đã theo Marco Polo mà gọi tên nước ta là Caugigu (phiên âm từ "Giao Chỉ quốc), sau đọc trại thành Kiaoche rồi Coci - là cách gọi của người Bồ Đào Nha. Thế rồi, để khỏi lầm với đất Koci của Ấn Độ, người ta mới thêm chữ China hay Cina, nên Cauchinchina trở thành tên gọi chung của nước Đại Việt. Đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, người ta mới gọi Đàng Ngoài là Tunking hay Tonkin, từ chữ Đông Kinh là Hà Nội ngyà nay. Còn Đàng Trong vẫn giữ tên Cauchinchina hay Cochinchine như Pháp gọi sau này.
Nếu cứ theo mặt tên mà nói thì các nhà báo Tây phương ngày nay có thể kết luận rằng toàn cõi Việt Nam là... của Trung Quốc. Đất Cochin của nước China mà! Chúng ta nên giảng điều này cho con cháu, nhất là những thế hệ sinh đẻ ở bên ngoài, để chúng khỏi nhận giặc làm cha.
Trên tấm dư đồ, ta nhận ra Thuận Hoá dưới tên viết Latinh là Sinoa - chứ không phải là Chinois! - sau này mình mới gọi là Phú Xuân rồi Huế. Nhiều địa danh khác thì phải nghiên cứu thêm thì mới biết được - và đấy cũng là một mục tiêu khi chúng tôi giới thiệu tài liệu này. Như tại phía Bắc có thành phố ghi tên Bicuputri, dịch từ tiếng Latinh ra là "trụ đá" hay "Thạch trụ", "Thạch bi". Chẳng lẽ là núi Thạch Bi?
Xin các nhà địa dư học tìm hiểu và chỉ cho.
Xin các nhà địa dư học tìm hiểu và chỉ cho.
Tại phía Nam, quãng Phú Yên Khánh Hoà thì có địa danh Lantam. Thực tế là gì thì mình chưa rõ - hoặc nếu ai tìm ra cách lý giải thì xin góp ý - chỉ nhớ rằng tấm bản đồ được vẽ theo những tài liệu của Bồ Đào Nhà cách đó trăm năm.
Đáng chú ý hơn cả, tấm bản đồ ghi rất rõ ngoài khơi Việt Nam một vùn quần đảo có nhiều bãi cát nông chạy dài xuống hướng Tây-Nam được ghi là Pracel.
Đối diện với quần đảo - và trên lãnh thổ Việt Nam được viền màu vàng - là tên "Costa de Pracel" - Bờ Pracel. Chẳng liên hệ gì đến đảo Hải Nam của Trung Quốc được tô hồng với tên là Ainan!
Chúng ta nhớ lại thì Lê Quý Đôn viết trong "Phủ Biên Tạp Lục " (soạn thảo từ 1776) rằng: "... Trước đó, họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào. Cắt phiên, mỗi năm cứ Tháng Hai nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng. Đi bằng năm chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển ba ngày ba đêm thì đến đảo ấy."
Bây giờ, có tài liệu cho thấy người ngoại quốc đã đến Việt Nam trước khi Lê Quý Đôn theo quân Trịnh vào Thuận Hoá. Và ghi lại 170 năm trước "Phủ Biên Tạp Lục" sự căn thuộc Việt Nam của quần đảo ta gọi là Hoàng Sa. Khi ấy, Trung Quốc còn ở xa tắp và nhà Minh sắp mất vào tay Mãn tộc!
Chúng ta không quên rằng người Bồ Đào Nha và Hoà Lan đã tiếp túc và buôn bán với cả hai chúa Trịnh và Nguyễn, Khi thương thuyền Grootenbrook bị đắm tại quần đảo Hoàng Sa, người cầm đầu thương điếm của Công ty Đông Ấn Hòa Lan tại Faifo lại không lên... đảo Hải Nam mà vào Thuận Hoá để cám ơn Chúa Thượng việc thủy thủ đoàn của họ được người Việt cứu vớt. Chúng ta cũng biết rằng dưới thời Trịnh Nguyễn, nhà Đại Thanh còn phải củng cố quyền lực sau khi diệt nhà Minh vào năm 1644, cho đến lúc lẫy lừng nhất vào đời Càn Long thì bị Quang Trung bợp tai đá đít năm 1789.
Những người Hoa duy nhất mà dân ta gặp trên cái đất được Tây phương gọi là Cauchinchina là dân tỵ nạn của triều Minh, là "thuyền nhân" hay hải tặc tìm đất dung thân ở Đàng Trong, Họ được dân ta đón nhận, đối xử tử tế và bình đẳng theo truyền thống Việt Nam mà các nhà hàng hải Hoà Lan đã sớm ghi nhận. Họ góp phần khai phá miền Nam, trở thành kiện tướng hay công thần của các Chúa rồi các Hoàng đế nhà Nguyễn.
Không hề có chuyện người Trung Hoa hay nước Trung Quốc cai quản hoặc làm chủ Hoàng Sa hay Trường Sa như Bắc Kinh ngày nay đang đòi diễn giải....