-Bàn về nghệ thuật quân sự Việt Nam
Thượng tướng - Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo đã viết cuốn sách "Bàn về nghệ thuật quân sự". Cuốn sách đề cập những lý luận về nghệ thuật quân sự nói chung, đặc biệt nhấn mạnh lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam; phân tích cụ thể, chi tiết mưu kế chiến lược của các trận đánh lớn trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta;

Việt Nam có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược do nhân dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận đánh hay đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Có thể kể ra một số trận đánh tiêu biểu như: trận Bạch Đằng chống quân Nam Hán; trận đánh trên sông Như Nguyệt chống quân Tống; trận Chương Dương - Thăng Long, trận Bạch Đằng chống quân Nguyên Mông; trận Chi Lăng - Xương Giang chống quân Minh; trận Ngọc Hồi - Đống Đa chống quân Thanh; chiến dịch Biên giới, chiến dịch Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống thực dân Pháp; chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Những trận đánh kinh điển ấy gắn liền với tên tuổi của các vị tướng tài: Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, v.v.. Ngày nay, nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta tự hào về truyền thống hào hùng ấy. Hầu hết trong các cuộc chiến tranh, ta đều gặp bất lợi về so sánh lực lượng: quân ít, vũ khí trang thiết bị lạc hậu, thô sơ, nhưng, dưới sự lãnh đạo tài tình của các vị chủ tướng kết hợp với tinh thần đoàn kết của toàn dân, dân tộc ta luôn chiến thắng những thế lực ngoại xâm hùng mạnh đó. Những mưu kế quân sự như: nghi binh, vu hồi, sử dụng chính - kỳ, dựa vào thế - thời,... đã trở thành binh pháp, thành nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Với mong muốn đi sâu nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm nghệ thuật quân sự trong lịch sử quân sự Việt Nam, Thượng tướng - Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo đã viết cuốn sách "Bàn về nghệ thuật quân sự". Cuốn sách đề cập những lý luận về nghệ thuật quân sự nói chung, đặc biệt nhấn mạnh lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam; phân tích cụ thể, chi tiết mưu kế chiến lược của các trận đánh lớn trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta; ngoài ra còn tham khảo nghệ thuật dùng binh trong một số trận đánh nổi tiếng thế giới. Có thể nói, cuốn sách đã tạo dựng lại những năm tháng chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực thù địch của dân tộc Việt Nam, góp phần gìn giữ, phát triển kho tàng nghệ thuật quân sự quý báu ấy.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Mật khẩu mở tài liệu: 3gra8344
Download: tại đây.
Nguồn: QPAN
Bàn về nghệ thuật quân sự

Thượng tướng Hoàng Minh Thảo -
Giáo sư - Nhà giáo nhân dân - Giải thưởng Hồ Chí Minh
Giáo sư - Nhà giáo nhân dân - Giải thưởng Hồ Chí Minh
Lời nhà xuất bản
Việt Nam có lịch sử truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng oanh liệt. Các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược do nhân dân ta tiến hành đều là chiến tranh nhân dân chính nghĩa, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia ủng hộ. Trong các cuộc chiến tranh ấy, nhiều trận đánh hay đã mãi mãi ghi vào sử sách, vào tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Có thể kể ra một số trận đánh tiêu biểu như: trận Bạch Đằng chống quân Nam Hán; trận đánh trên sông Như Nguyệt chống quân Tống; trận Chương Dương - Thăng Long, trận Bạch Đằng chống quân Nguyên Mông; trận Chi Lăng - Xương Giang chống quân Minh; trận Ngọc Hồi - Đống Đa chống quân Thanh; chiến dịch Biên giới, chiến dịch Điện Biên Phủ trong kháng chiến chống thực dân Pháp; chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Những trận đánh kinh điển ấy gắn liền với tên tuổi của các vị tướng tài: Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, v.v.. Ngày nay, nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta tự hào về truyền thống hào hùng ấy. Hầu hết trong các cuộc chiến tranh, ta đều gặp bất lợi về so sánh lực lượng: quân ít, vũ khí trang thiết bị lạc hậu, thô sơ, nhưng, dưới sự lãnh đạo tài tình của các vị chủ tướng kết hợp với tinh thần đoàn kết của toàn dân, dân tộc ta luôn chiến thắng những thế lực ngoại xâm hùng mạnh đó. Những mưu kế quân sự như: nghi binh, vu hồi, sử dụng chính - kỳ, dựa vào thế - thời,... đã trở thành binh pháp, thành nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
Với mong muốn đi sâu nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm nghệ thuật quân sự trong lịch sử quân sự Việt Nam, Thượng tướng - Giáo sư - Nhà giáo nhân dân Hoàng Minh Thảo đã viết cuốn sách "Bàn về nghệ thuật quân sự". Cuốn sách đề cập những lý luận về nghệ thuật quân sự nói chung, đặc biệt nhấn mạnh lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam; phân tích cụ thể, chi tiết mưu kế chiến lược của các trận đánh lớn trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta; ngoài ra còn tham khảo nghệ thuật dùng binh trong một số trận đánh nổi tiếng thế giới. Có thể nói, cuốn sách đã tạo dựng lại những năm tháng chiến đấu và chiến thắng mọi thế lực thù địch của dân tộc Việt Nam, góp phần gìn giữ, phát triển kho tàng nghệ thuật quân sự quý báu ấy.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Mật khẩu mở tài liệu: 3gra8344
Download: tại đây.
Nguồn: QPAN
-Nghệ thuật quân sự Hải quân( P-1)
Lực lương hải quân là lưc lượng quân sự hùng mạnh trên biển và đại dương, bảo vệ nhưng lợi ích quan trọng của quốc gia và nhân dân Liên bang Nga, những mục tiêu chiến lược của Liên bang, trong trường hợp xung đột và chiến tranh, là công cụ đập tan mọi âm mưu gây chiến và xâm lược của các thế lực thù địch bên ngoài.
Phần mở đầu
Học thuyết quân sự hải quân và nghệ thuật quân sự Hải quân
Sau sự tan vỡ của Liên bang xô viết, trong điều kiện cần thiết của Lịch sử, Ở Nga đã hình thành học thuyết quân sự Liên bang Nga. Học thuyết quân sự đã được phê chuẩn 02 tháng 10 năm 1993. Theo chỉ lệnh của Tổng thống Nga học thuyết có tên: Những luận điểm cơ bản của Học thuyết quân sự Liên bang Nga” Trong văn bản phát quy đã được chuẩn y này cò rất nhiều điểm được kế thừa từ chủ trương chiến lược quân sự của Liên bang Xô viết, được các lãnh đạo các nước XHCN Đông Âu phê chuẩn tại Beclin ngày 29 tháng 5 năm 1987 như Học thuyết quân sự của Hiệp ước Vacsava. Học thuyết quân sự 1993 của Liên bang Nga so với học thuyết quân sự khối Vacsava chưa có những thay đổi đáng kể về lý luận của Lực lượng vũ trang, những quan điểm tầm nhìn chiến lược cho sự hoàn thiện và phát triển của quân đội và Hải quân không được đặt ra.
Rất đáng tiếc là học thuyết quân sự năm 1987, học thuyết quân sự năm 1993 không hề quan tâm đến chiến lược và nghệ thuật quân sự Hải quân, mặc dù đến tận cuối những năm 1980 x vẫn chưa xác định được hướng phát triển chiến dịch và chiến thuật chiến tranh hiện đại của lực lượng hải quân hùng mạnh của Liên bang Xô viết. Đến sau năm 1993, với yêu cầu thực tế của việc phát triển lực lượng hải quân thế giới, các nguy cơ từ nhiều hướng đã thúc đẩy một bước đi mang tính chiến lược. Chỉ lệnh của tổng thống Liên bang Nga số 11 năm 1997 đã phê chuẩn chương trình phát triển Hải dương toàn cầu "Мировой океан". Trong chương trình đã chỉ rõ những định hướng cụ thể của việc phát triển Lực lượng Hải quân Liên bang Nga vào thế kỷ 21. Ở đây lực lượng Hải quân được xác định là công cụ quan trọng nhất của Liên bang để bảo vệ quyền lợi chiến lược của Liên bang Nga trong mối quan hệ Hải dương toàn cầu: " Lực lương hải quân là lược lượng bảo vệ nhưng lợi ích quan trọng của nhân dân Liên bang Nga và những mục tiêu chiến lược của Liên bang, trong trường hợp khác, là công cụ đập tan mọi âm mưu gây chiến và xâm lược.

Hoạt động tác chiến của Hải quân xô viết năm 1942 - 1943
Chỉ lệnh của Tổng thống Liên bang Nga từ 04 tháng 3 năm 2000 đã chuẩn y Chiến lược chính sách Hải dương của Nga. Đồng thời cùng với chỉ lệnh đó, một phần đã đưa ra Chiến lược hải dương trong lĩnh vực các hoạt động của Hải quân đến năm 2010. Những văn bản đó đã chỉ ra mục tiêu phát triển lực lượng Hải quân Liên bang Nga, làm chính xác và cụ thể hơn vị trí nhiệm vụ của Hải quân Liên bang Nga trong Học thuyết quân sự . 21 tháng 4 năm 2000. Học thuyết quân sự mới của Liên bang Nga được chuẩn y. Trong Học thuyết này, đã đánh giá thực tế tình hình chính trị quân sự trên thế giới và trong từng khu vực, chỉ ra được những nguy cơ tiềm ẩn trong và ngoài nước đang đe dọa quyền lợi chính đáng của dân tộc Nga và nước Nga, trong đó có quyền lợi trên biển và đại dương. Học thuyết quân sự Hải dương được Tổng thống Nga phê chuẩn chính thức có hiệu lực ngày 27 tháng 6 năm 2001.
Thực tế đã chứng mình, trong giai đoạn phát triển ngày nay xuất hiện nhiều nguy cơ tranh chấp, nhiều khả năng xung đột trên biển và đại dương. Có rất nhiều nguyên nhân sống còn về kinh tế, quân sự và địa chính trị làm nảy sinh những nguy cơ xung đột. Ví dụ: Khác với biên giới trên đất liền, danh giới trên biển và đại dương rất khó phân định, Nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng trên đất liền có giới hạn và sẽ cạn kiệt trong vài chục năm tới, không thể kéo dài đến hàng trăm năm. 71% của trái đất được bao bọc bởi Đại dương. Trong vực sâu của biển ẩn chưa nguồn tài nguyên khoáng sản và năng lượng khổng lồ cho sự phát triển tương lai của nhân loại. Nhưng biển và đại dương từ ngàn xưa đã là bãi chiến trường của các hạm đội, các lực lượng hải quân các nước đang phát triển và phát triển. Chân lý đơn gian là muốn phát triển, hãy ra với biển. Có nghĩa là trên biển và đại dương luôn tồn tại những nguy cơ xung đột quân sự và chiến tranh cục bộ. Đồng thời, lực lượng hải quân Liên bang Nga đang từng bước lạc hậu.


Một không gian rất lớn của các đại dương, đấy là vùng nước chung, không thuộc quyền quản lý của bất cứ quốc gia nào. Điều đó đồng nghĩa với việc tài nguyên khoáng sản của khu vực nước chung có thể được khai thác của bất cứ quốc gia nào. Đồng thời, cũng như quá khứ trên đất liền, sẽ có thời điểm chia xẻ quyền lợi đó, nhưng không phải ở trên đất liền mà trên biển và đại dương. Có thể khẳng định rằng, quốc gia nào yếu về hải lực, đương nhiên sẽ không được chia sẻ phần quyền lợi đó. Hải lực ở đây được hiểu là Lực lượng Hải quân về vũ khí trang bị, quân số và nghệ thuật tác chiến trên Không – Biển, khả năng tự vệ của nước đó trong vùng biển mang quyền lợi quốc gia chính đáng của mình. Những vùng biển đó sẽ bị chiếm đoạt hoặc chia xẻ. Trong giai đoạn ngày nay, đã có không ít quốc gia không một giây nào rời mắt khỏi đại dương. Đầu thế kỷ 21 trên các biển hàng ngày tuần hành 130 tầu chiến trong biên chế của 16-20 nước. Nhiệm vụ của các tầu chiến này rất khác nhau, nhưng rất nhiều nhóm tầu chiến với vũ khí trang bị, máy bay hải quân, tên lửa đạn đạo và tên lửa hành trình có khả năng tấn công đến 80% lãnh thổ của Liên bang Nga, trong đó có khả năng tấn công 60 – 65 % tiềm lực công nghiệp quốc phòng của nước Nga. Đồng thời các đảo của nước Nga đều nằm trong tầm tấn công và đổ bộ của các lực lượng linh thủy đánh bộ. Điều đó có nghĩa là trong cuộc đấu tranh dành quyền lợi trên biển và đại dương, tồn tại và hiện hữu ngày càng sâu sắc nguy cơ đe dọa quyền lợi chính đáng của Tổ quốc Russia từ hướng biển. Tính toán một cách đơn giản, lực lượng hải quân Nga đến năm 2015 có khoảng 60 tầu chiến cỡ khu trục và tuần dương sẵn sàng chiến đấu, trong đó có 30 tầu ngầm nguyên tử. Trong đó, chỉ tính riêng lực lượng Hải quân NATO, (chưa tính Trung Quốc) đã có tới 800 tầu chiến, và các hạm đội của Tây Đại tây dương hàng ngày huấn luyện, và thực hiện các nhiệm vụ tác chiến trên các đại dương. Và Trung quốc cũng đang từng ngày tăng cường lực lượng Hải quân, liên tục tập trận và đã sẵn sàng vươn tới biển xa.

Hải đường vận tải chiến lược của Trung Quốc, và cũng là chiến lược hải dương của Trung quốc

Từ những nhận định trên, từ phía Liên bang Nga, thật sự cần thiết phải xây dựng một hạm đội mới, nhưng một nhiệm vụ cũng khẩn cấp không kém, đó là xây dựng cho lực lượng hải quân Liên bang một chương trình huấn luyện tác chiến biển, đại dương và khả năng lực triển khai, điều hành các chiến dịch và các hoạt động tác chiến Không – Biển. Đối với các hạm đội, chương trình huấn luyện diễn tập đó, theo những tính toán từ những cuộc chiến tranh, những nguy cơ tiềm ẩn hiện tại, và khả năng xẩy ra trong tương lai, sẽ bao gồm 3 cấp huấn luyện tác chiến: Cấp chiến lược, cấp chiến dịch và chiến thuật. Xây dựng một hạm đội mạnh và huấn luyện sẵn sàng chiến đấu để nâng cao nghệ thuật tác chiến trên biển, đại dương không thể tách rời khỏi chiến lược phát triển kinh tế biển, đại dương và đường lối chính trị hải dương của Liên bang Nga, chiến lược phát triển kinh tế biển, đại dương và đường lối chính trị Hải dương bảo đảm quyền lợi của quốc gia và dân tộc Rus. Đương nhiên, trong điều kiện quan hệ quốc tế hiện đại đòi hỏi ưu tiên đầu tiên là bảo đảm quyền lợi của các quốc gia bằng những giải pháp hòa bình. Nhưng thực tế đáng tiếc là nhân loại vẫn còn ở rất xa với cách giải quyết những lợi ích của mình bằng con đường hòa bình. Sử dụng vũ lực và chiến tranh như một sự kiện phức tạp và có nhiều góc cạnh khác nhau, bao giờ cũng là cuộc đấu tranh bằng sức mạnh.
Để có thể khẳng định được Quốc gia có sẵn sàng tiến hành cuộc đấu tranh bằng sức mạnh quân sự hay không. Nghiên cứu về lĩnh vực đó thuộc về ngành khoa học quân sự, một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của ngành Khoa học quân sự là: Nghệ thuật quân sự. Nghệ thuật quân sự sẽ nghiên cứu và phát triển những vấn đề liên quan đến khả năng chuẩn bị cho tổng thể một cuộc chiến tranh, tư tưởng và chiến lược tiến hành chiến tranh, cũng như tiến hành các chiến dịch và chiến thuật của những hành động trên chiến trường trong mỗi trận đánh cụ thể trên đất liền, trên không và trên biển, đại dương. Như vậy, nghệ thuật quân sự căn cứ vào mức độ không gian và cấp độ các hoạt động tác chiến được chia thành ba cấp có quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau là: Chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.

Hoạt động huấn luyện tác chiến của hạm đội Thái bình dương Liên bang Nga
Để có thể khẳng định được Quốc gia có sẵn sàng tiến hành cuộc đấu tranh bằng sức mạnh quân sự hay không. Nghiên cứu về lĩnh vực đó thuộc về ngành khoa học quân sự, một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của ngành Khoa học quân sự là: Nghệ thuật quân sự. Nghệ thuật quân sự sẽ nghiên cứu và phát triển những vấn đề liên quan đến khả năng chuẩn bị cho tổng thể một cuộc chiến tranh, tư tưởng và chiến lược tiến hành chiến tranh, cũng như tiến hành các chiến dịch và chiến thuật của những hành động trên chiến trường trong mỗi trận đánh cụ thể trên đất liền, trên không và trên biển, đại dương. Như vậy, nghệ thuật quân sự căn cứ vào mức độ không gian và cấp độ các hoạt động tác chiến được chia thành ba cấp có quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau là: Chiến lược, chiến dịch và chiến thuật.

Hoạt động huấn luyện tác chiến của hạm đội Thái bình dương Liên bang Nga
Chiến lược tiến hành chiến tranh là lĩnh vực nghiên cứu cao nhất của khoa học quân sự, khoa học quân sự sẽ giải quyết những vấn đề quan trọng nhất trong đấu tranh vũ trang, mà kết quả của những vấn đề đó có thể quyết định thắng lợi của một cuộc đấu tranh vũ trang hoặc chiến tranh cục bộ khi sự kiện đó có thể bắt đầu. Như vậy, với tầm nhìn rộng hơn của khoa học quân sự. Chiến lược quân sự có có thể được xem xét như đường lối chính trị của Liên bang Nga trong lĩnh vực quốc phòng, được phản ánh trong các chương trình nâng cấp phát triển, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu cho nền Quốc phòng đất nước, các lực lượng vũ trang với mục tiêu đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn khiêu khích, tiến hành xung đột hoặc chiến tranh cục bộ của các lực lượng thù địch từ bên ngoài.
Ở cấp độ thấp hơn theo không gian, thời gian và binh lực chiến trường, khoa học quân sự nghiên cứu 2 thành phần còn lại của nghệ thuật quân sự - nghệ thuật điều hành các hoạt động tác chiến trên chiến trường (chiến dịch) và nghệ thuật tác chiến (chiến thuật). Nghệ thuật chiến dịch nghiên cứu khoảng không gian lập thể giữa nghệ thuật chiến lược điều hành chiến tranh và những hoạt động tác chiến cụ thể trên chiến trường xác định và kết nối mục tiêu đạt được của mỗi trận đánh với mục tiêu giành thắng lợi trong chiến tranh. Do tính chất đặc thù của mỗi không gian chiến trường và đặc điểm tác chiến, phương tiện chiến trang của các quân chủng trong lực lượng, đồng thời tính chất của nhiệm vụ mà các quân chủng đảm nhận, cần phải xây dựng nghệ thuật điều hành chiến dịch, điều khiển chiến trường cho từng quân chủng riêng biệt, trong đó có lực lượng Hải quân.


Chiến thuật, đó là lĩnh vực nghệ thuật quân sự, bao gồm lý luận và thực tiễn tác chiến của các đơn vị, các binh chủng và các đơn vị binh chủng hợp thành. Chiến thuật được hình thành từ chiến lược và chiến dịch, tuân thủ theo những yêu cầu và mục tiêu cần đạt được của nghệ thuật chiến dịch và chiến lược. So với nghệ thuật chiến dịch và chiến lược Chiến thuật là môn nghệ thuật tác chiến năng động, sáng tạo và biến đổi liên tục theo sự thay đổi của cơ sở vật chất tiến hành chiến trang, tổ chức biên chế trong đơn vị và phương tiện, vũ khí trang bị. Chính con người và trang thiết bị, phương tiện ảnh hưởng trực tiếp lên mục tiêu và phương thức tiến hành những hoạt động chiến đấu cụ thể trong trận đánh.
Các quân chủng của lực lượng vũ trang, bao gồm cả Hải quân, đều có các phương thức tiến hành các hoạt động tác chiến riêng, chiến thuật riêng, và trong mỗi quân chủng, các binh chủng hợp thành, cũng có những đặc điểm riêng biệt trong nghệ thuật tác chiến.
Chiến lược và những thành tố của nó là chiến dịch và chiến thuật, như một hệ thống trí thức quân sự, cần tuân thủ theo đường lối chính trị và tiềm lực quân sự (Hải quân), thực tế của đất nước, có nghĩa là Học thuyết quân sự. Đối với lực lượng Hải quân, đó là Khoa học quân sự Hải quân (KHQSHQ), và trong ngành khoa học quân sự Hải quân (KHQSHQ) đóng vai trò quan trọng là nghệ thuật quân sự hải quân (NTQSHQ), NTQSHQС bao gồm có chiến lược sử dụng lực lượng Hải quân thời bình và thời chiến, nghệ thuật chiến dịch Hải quân (thời bình và thời chiến) và chiến thuật Hải quân (huấn luyện tác chiến và tác chiến thời bình và thời chiến). Mỗi quan hệ chiến lược, chiến dịch và chiến thuật của NTQSHQ gắn bó chặt chẽ trong cả thời bình lẫn thời chiến, và đặc biệt là thời bình, do NTQSHQ quyết định khả năng phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn mới. Chiến lược Hải quân có vị trí quan trọng nhất trong NTQSHQ, do Chiến lược Hải quân quyết định sự phát triển của lực lượng, sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch Hải quân và chiến thuật Hải quân. Nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật phục vụ cho mục tiêu của chiến lược sử dụng Hải quân, đảm bảo cho Chiến lược sử dụng Hải quân đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ trong thời bình và thời chiến.
Chiến lược và những thành tố của nó là chiến dịch và chiến thuật, như một hệ thống trí thức quân sự, cần tuân thủ theo đường lối chính trị và tiềm lực quân sự (Hải quân), thực tế của đất nước, có nghĩa là Học thuyết quân sự. Đối với lực lượng Hải quân, đó là Khoa học quân sự Hải quân (KHQSHQ), và trong ngành khoa học quân sự Hải quân (KHQSHQ) đóng vai trò quan trọng là nghệ thuật quân sự hải quân (NTQSHQ), NTQSHQС bao gồm có chiến lược sử dụng lực lượng Hải quân thời bình và thời chiến, nghệ thuật chiến dịch Hải quân (thời bình và thời chiến) và chiến thuật Hải quân (huấn luyện tác chiến và tác chiến thời bình và thời chiến). Mỗi quan hệ chiến lược, chiến dịch và chiến thuật của NTQSHQ gắn bó chặt chẽ trong cả thời bình lẫn thời chiến, và đặc biệt là thời bình, do NTQSHQ quyết định khả năng phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn mới. Chiến lược Hải quân có vị trí quan trọng nhất trong NTQSHQ, do Chiến lược Hải quân quyết định sự phát triển của lực lượng, sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch Hải quân và chiến thuật Hải quân. Nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật phục vụ cho mục tiêu của chiến lược sử dụng Hải quân, đảm bảo cho Chiến lược sử dụng Hải quân đạt được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ trong thời bình và thời chiến.
Nhiệm vụ chủ yếu của Hải quân Liên bang Nga, kế thừa của Hải quân Xô viết, như đã được khẳng định bằng các văn bản pháp quy của nhà nước, trong điều kiện thời bình thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đâu và bảo vệ quyền lợi của Quốc gia dân tộc Nga trên các vùng nước chủ quyền và lợi ích, sẵn sàng sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích chính đáng của đất nước. Trong giai đoạn mới, lực lượng Hải quân đảm nhiệm thêm nhiệm vụ chống khủng bố và cướp biển trên mặt biển. Trong điều kiện thời chiến, lực lượng Hải quân đảm nhiệm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển đất nước, đánh chặn các đòn tấn công từ biển vào các mục tiêu quan trọng của đất nước, đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa hành trinh và không quân Hải quân của địch. Đồng thời bè gẫy những đòn tấn công từ phía biển của đối phương. Như vậy, mục tiêu tác chiến của Hải quân là tất cả đơn vị chiến đấu của đối phương trên đại dương và trên biển, có vùng nước gắn liền với bờ biển của đất nước hoặc gắn liền với biển của đất nước, các đơn vị chiến đấu có thể là tầu sân bay, tầu ngầm tên lửa, tầu chiến nổi, vũ khí của các đơn vị này có thể tấn công các mục tiêu trên biển hoặc trên đất liền của đất nước hoặc quân đội Liên bang Nga.
Lực lượng hải quân Liên bang Nga trong trường hợp bắt đầu chiến tranh, sẽ phải chiến đấu chống lại các lực lượng Hải quân của các quốc gia Biển hùng mạnh, có thể phải tiền hành các hoạt động tác chiến chiến dịch như:
- Các đòn tấn công tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất của đối phương, các đòn tấn công sẽ tiến hành song song cùng với các đơn vị tên lửa đạn đạo, tên lửa chiến trường, các đòn tấn công tên lửa là đòn đánh chủ đạo của hoạt động tác chiến này.
- Tiến hành các chiến dịch tìm kiếm và tiêu diệt các tầu ngầm tên lửa, tầu ngầm tấn công của địch.
- Tiến hành các chiến dịch tấn công tiêu diệt các hạm tầu của đối phương trong các vùng nước nằm cạnh bờ, các vùng nước đe dọa các mục tiêu của Hải quân và của hệ thống phòng thủ đất nước và các vùng biển kín bàn đạp tấn công trong đại dương.
- Tấn công tiêu diệt các hạm tầu vận tải của đối phương, cắt đứt đường vận tải biển của đối phương.


Tên lửa chống tầu có cánh Iakol bắn từ tầu chiến
- Tiêu diệt các lực lượng chống tấu của địch, bao gồm cả lực lượng chống tầu nổi và tầu ngầm.
- Cùng với lực lượng phòng thủ bờ biển, thiết lập vành đai phòng thủ bảo vệ các căn cứ hải quân, các mục tiêu quan trọng về kinh tế và hệ thống truyền thông, thông tin liên lạc.


Hệ thống phòng thủ bờ biển Bastion
Để tiến hành các hoạt động tác chiến trên biển và trên đại dương, do tính chất đặc thù của tác chiến không - biển – đại dương, đó là sử dụng và điều hành binh lực và phương tiện hải chiến với phương thức tác chiến hiệu quả nhất. Căn cứ vào những hoạt động tác chiến trên biển, trong lý luận tác chiến không - biển – đại dương. Một vị trí vô cùng quan trọng là hệ thống hóa các hoạt động tác chiến liên tục và khả năng bảo đảm hậu cần kỹ thuật cho các hoạt động tác chiến. Khác với những hoạt động tác chiến trên bộ và trên không, hệ thống các hoạt động sẵn sàng chiến đấu của Hải quân diễn ra thường xuyên liên tục, với cường độ và mức độ sẵn sàng chiến đấu ngày càng cao, không chỉ trong thời chiến mà ngay cả trong thời bình. Đối với lực lượng hải quân hiên đại, rút kinh nghiệm từ thời kỳ Liên bang Xô viết, huấn luyện sẵn sàng chiến đầu cường độ cao và thường trực sẵn sàng chiến đấu là hoạt động quan trọng bậc nhất của lực lượng Hải quân thời bình.
Xem phần 1
Xem phần 2
Xem phần 1
Xem phần 2
Lực lượng Hải quân từ nhiệm vụ yểm trợ và tác chiến độc lập, đã hình thành lực lượng tác chiến mang tính chiến lược, chiến lược hải quân thời bình và thời chiến phản ánh trung thành đường lối chính trị của quốc gia, dân tốc với mục tiêu phát triển và bảo vệ lợi ích biển, đại dương.


Tuyến cơ động chiến đấu











Những yếu tố lịch sử của nghệ thuật quân sự Hải quân
Những thành tố đầu tiên của nghệ thuật quân sự Hải quân được hình thành từ rất lâu, khi xuất hiện các hạm đội và hoàn thiện cùng với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, vũ khí trang bị và các mô hình tác chiến. Thời kỳ chiếm hữu nô lệ, nhà nước Hy Lạp cổ đại, La mã cổ đại và các nước khác, hạm đội được hình thành từ những tầu có mái chèo do nô lệ chèo thuyền. Chiến lược chiến tranh của các nước cổ đại đã để lực lượng Hải quân như là lực lượng hỗ trợ và các hoạt động tác chiến của Hải quân chủ yếu là vùng bờ biển. Phương pháp tác chiến cổ điển vẫn là dùng mũi nhọn thân tầu để đâm và đổ bộ lên tầu đối phương để đánh chiếm tầu. chiến thuật duy nhất là các tầu chiến dàn hàng ngang và lao vào nhau, khả năng dành ưu thế ban đầu là kỹ năng điều khiển tầu của thuyền trưởng. Một sự cố gắng đầu tiên trong xây dựng nghệ thuật quân sự Hải quân là tác phẩm của Vegetius thế kỷ thứ 5 " Bản tóm tắt những đề xuất về tác chiến” trong bản tóm tắt này cùng với những hoạt động tác chiến khác ông đã đưa ra những giới thiệu sơ lược về phương pháp chiến đấu trên biển.

Châu Âu vào thời kỳ tiền phong kiến (đến thế kỷ thứ 10) hạm đội và nghệ thuật tác chiến trên biển chưa có những phát triển đáng kể, do sự phát triển mạnh mẽ về thương mại, trong thời kỳ chế độ phong kiến phát triển rực rỡ nhất ở châu Âu, kỹ thuật đóng tầu đã có những bước tiến mạnh mẽ. Thế kỷ thứ 10 và 11 xuất hiện các tầu buồm, đồng thời là các thiết bị dẫn đường trên biển ( la bàn, kính lục phân- dụng cụ đo độ cao mặt trời, để xác định vị trí con tầu, bàn đồ biển) cho phép tầu có thể bơi dài ngày trên biển rộng. Từ thế kỷ 15 – 16 bắt đầu chuyển hướng từ tầu có mái chèo sang sử dụng các tầu buồm, quá trình này kết thú vào giữa thế kỷ 17. Tù thế kỷ 14 trên các tầu buồm được trang bị pháo thần công. Chiến lược quân sự Hải quân hình thành vào thế kỷ 15 – 16, trong quân đội các nước thực dân như Ý, Bồ Đào Nha, sau đó là Anh, Pháp, và Hà Lan. Chiến lược xâm lược thuộc địa bằng Hải quân đã nâng cao vị trí của hải quân trong chiến tranh, thay đổi tính chất sử dụng hải quân, đồng thời đặt lên vai của Hải quân nhiệm vụ độc lập như tiến công tầu hàng, chống cướp biến, cắt đứt các đường giao thông, liên lạc và vận tải đường biển, đồng thời bảo vệ các tuyến giao thông đường biển của quân mình. Nhưng nghệ thuật tác chiến vẫn chưa phát triển, vẫn gần giống với nghệ thuật tác chiến thời La mã cổ đại.

Thiết giáp hạm - buồm
Thế kỷ thứ 17. Đã hình thành các Hạm đội thường trực chiến đấu, các hạm đội trở thành công cụ quan trọng cho chính sách đối ngoại pháo hạm của các nước phát triển. Sự phát triển mạnh mẽ của pháo hạm, sử dụng hạm đội pháo hạm như một vũ khí quan trọng chính trong các cuộc chiến đấu trên biển trong chiến tranh Anh – Hà Lan thế kỷ 17 đã làm thay đổi căn bản tận gốc về biên chế lực lượng, cơ cấu tổ chức của hạm đội tầu buồm và nghệ thuật tác chiến của hải quân. Đòn tấn công chủ lực dành cho các thiết giáp hạm (tuần dương) có trang bị pháo cỡ nòng lớn và số lượng nhiều, các tầu khu trục frigate nhỏ, các thuyền có mái chèo trang bị pháo nhỏ và các tầu hỏa công (fire – ship) đóng vai trò hỗ trợ trong các cuộc chiến đấu trên biển và phong tỏa trên biển. Cơ cấu tổ chức hạm đội đã phức tạp hơn, các tầu đã liên kết lại thành các liên đội tầu dưới sự chỉ huy thống nhất của một tầu chỉ huy (Flagship) liên đội. Đội hình tác chiến của liên đội trong hải chiến và của hạm đội là tuyến cơ động chiến đấu, cho phép các tầu có thể cơ động trong tuyến cơ động của liên đội. Phương án tác chiến này cho phép sử dụng hiệu quả hỏa lực của pháo hạm được bố trí nhiều hành bên sườn tầu. Đâm tầu vào nhau sử dụng ngày càng ít hơn, phương pháp đổ bộ lên tầu đối phương vẫn được áp dụng khi sử dụng tầu buồm. tác chiến theo phương pháp tuyến cơ động chiến đấu được sử dụng trong suốt thế kỷ 17 và 18.
Tuyến cơ động chiến đấuMột đóng góp quan trọng trong việc phát triển nghệ thuật quân sự Hải quân là nghệ thuật tác chiến của Hải quân Nga vào ¼ đầu thế kỷ 18 trong cuộc chiến tranh Bắc Âu, (Great Northern War năm 1700—21) chống lại lực lượng Hải quân hùng mạnh của Thụy Điển Sweden. Thay vì cùng với lực lượng của các nước phương tây đổ bộ lên bờ, đánh phá đường vận tải của đối phương và một cuộc chiến tổng lực của các hạm đội. Vua Peter I đã áp dụng chiến thuật kiên quyết và chắc chắn, kết hợp tác chiến chặt chẽ giữa hải quân và lục quân đánh chiếm căn cứ hải quân của đối phương, lợi dụng hướng gió cơ động nhanh, tấn công hạm đội đối phương từ phía bên sườn, chia cắt đội hình tầu địch, bao vây và đổ bộ chiếm tầu. Chiến thuật của vua Peter I đã được ghi vào Điều lệnh tác chiến Hải quân năm 1720. Giữa thế kỷ 18, pháo hạm đã có sự phát triển vượt bậc, (tầm bắn xa hơn, khả năng xuyên và nổ phá mạnh hơn của đạn pháo, khả năng bắn chính xác hơn) do đó, đã xuất hiện những mâu thuẫn đối kháng trong tác chiến bằng phương thức tuyến cơ động chiến đấu cổ điển. Đô đốc G.A.Spiridov, đô đốc F.F. Usacov ( Nga) là hai đô đốc đầu tiền trong thực tế hải chiến đã từ bỏ phương án tác chiến tuyến cơ động chiến đấu và đặt những bước đầu tiên cho phương án tác chiến hạm đội mới, vận động tác chiến chiều sâu. Nghệ thuật hải chiến mới có đặc điểm khác hẳn so với phương án tác chiến trước đây là tính năng động cao trong tác chiến, quyết tâm đạt mục tiêu đã đặt trước, có sự phối hợp tốt giữa các lực lượng trong liên đội và đã có những thành công trong các trận hải chiến ở Kênh Chios năm 1770, Tendra 1790, và Mũi Hảo vọng năm 1971.

Vận động tác chiến của chiến hạm chống lại tuyến cơ động chiến đấu
Những thử nghiệm đầu tiên của lý thuyết nghệ thuật quân sự Hải quân vận động tác chiến được phản ánh khá sâu sắc trong tác phẩm của người Anh J. Clerk " Kinh nghiệm hải chiến” chương 1-4 xuất bản năm 1790 – 1797. Được dịch ra tiếng Nga với tiêu đề " Hạm đội vận đông chiến” năm 1803. Trong tác phẩm ông đã tổng kết những nguyên nhân dẫn đến những thất bại của Hạm đội Anh trong nhưng trận đánh giữa thế kỷ 18, đề xuất những kiến nghị thay đổi chiến thuật tuyến cơ động chiến đấu bằng những chiến thuật vận động chiến trong Hải chiến. Nhưng trong nghệ thuật tác chiến Hải quân của những cường quốc biển ( Anh, Pháp, Ý, Hà lan) chiến thuật tuyến vận động chiến đấu vẫn được áp dụng chủ đạo đến cuối thế kỷ 18. Chiến thắng của đô đốc người Anh G. Nelson ở Aboukir năm 1798, Trafalgar năm 1805, đô đốc người Nga ở trận "Battle of Athos” với sự áp dụng chiến thuật vận động tác chiến linh hoạt đã khẳng định tính ưu việt của chiến thuật vận động tiến công. Chiến thuật này được xem xét cùng với quá trình vận động tiến cồng của liên đội hạm tầu để sử dụng triệt để hỏa lực pháo hạm và phá hủy khả năng điều khiển hải lực của hạm đội đối phương, đã phát huy tối đa khả năng độc lập tác chiến của chiến hạm. Chiến thuật vận động đã bổ xung thêm nội dung tác chiến độc lập của hải thuyền và xuất hiện những đòi hỏi rất cao đối với thuyền trưởng trong nghệ thuật điều khiển tầu và sử dụng hỏa lực pháo binh trong hải chiến.

Chiến thuật vận động chiến và tác chiến độc lập của chiến hạm
Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp tư bản, khoa học công nghệ, kỹ thuật quân sự cũng cho phép hoàn thiện cấu trúc thân tầu chiến, hệ thống điều khiển buồm và pháo hạm. Kinh nghiệm của chiến tranh Crưm 1853 – 1856 đã chứng minh sự vượt trội của tầu hơi nước so với tầu buồm trong tác chiến vận động trên biển. Nửa cuối thế kỷ 19 Anh, Pháp, Mỹ đã chế tạo các tầu chiến hơi nước và bọc thép. Lực lượng tấn công chủ lực của hạm đội là tầu hơi nước với giáp thép và pháo binh hạng nặng. Xuất hiện tầu tuần dương, tầu rải mìn, tầu khu trục. Sự thay đổi cơ bản hạ tầng kỹ thuật của tầu chiến đã làm thay đổi quan điểm tác chiến, đòi hỏi phải có lý luận tác chiến của các liên đội tầu bọc thép trong hải chiến. Một sự đóng góp to lớn vào nghệ thuật tác chiến hải quân là Đô đốc G.I.Butakov với tác phẩm " Những cơ sở lý luận mới cho tác chiến của tầu hơi nước’ 1863. Trong tác phẩm đã trình bầy và tổng kết những kinh nghiệm tác chiến của tầu hơi nước trong chiến tranh Crưm. Những cơ sở lý luận cơ bản đó đã trở thành nguyên tắc tác chiến tầu hơi nước và được áp dụng trên các hạm đội toàn thế giới. Đô đôc G.I.Butakov trên kinh nghiệm của chiến tranh Crưm lần đầu tiên đã đánh giá cao vị trí của hạm đội tầu hơi nước trong các trân đánh trên biển. Đô đốc S.O.Macarov cũng đưa ra chiến thuật sử dụng ngư lôi, vũ khí chủ đạo của tác chiến biển. Trong tác phẩm "Nghiên cứu những vấn đề về nghệ thuật Hải chiến” Ông đã phát triển chiến thuật của tầu hơi nước bọc thép, Makarov đã đưa ra những lý luận cơ bản về việc cần thiết liên kết phối hợp giữa ngư lôi và pháo hạm, đưa ra lý thuyết áp dụng đội hình mũi nêm nối đuôi nhau của các liên đội tầu chiến bọc thép. Đưa ra nguyên tắc công phá hệ thống phòng thủ, phương pháp chống chống thủy lôi, chống tầu ngầm và hệ thống vật cản chống tầu.
Vào những năm 90x của thế kỷ 19, một trong những người xây dựng lên chiến lược hải quân Tướng 2 sao chuẩn Đô đốc Hải quân Rear Admiral A. Mahan và Trung tướng Hải quân F. Colomb cố gắng xây dựng lý thuyết "Thống trị biển khơi” Lý thuyết được xây dựng trên cơ sở xây dựng một lực lượng Hải quân áp đảo bằng các tầu tuần dương bọc thép hơi nước, sẵn sàng tiêu diệt các hạm đội tầu chiến của đối phương trong một trận đánh lớn trên biển. Kolomb tuyên truyền rộng rãi Điều lệnh tác chiến hải quân (Vĩnh viễn và không thay đổi), áp dụng một cách máy móc phương pháp và đội hình chiến đấu của tầu buồm vào tầu chiến hơi nước, không tính đến sự phát triển của hạ tầng kỹ thuật và vũ khí trang bị hiện đại. Điều lệnh tác chiến " thống lĩnh biển khơi” đi ngược lại sự phát triển của Hạm đội và Hải quân, không tính đến lực lượng lục quân, không tính đến toàn bộ cục diện chiến trường và kết quả của các hoạt động tác chiến trên bộ và trên biển. Sau một thời gian dài của sự phát triển hải quân, các nhà lý luận chiến lược sau đại chiến thế giới lần thứ II 1939 – 1945 lại quay trở lại với học thuyết "Thống trị biển khơi” của A.Mahan và Colomb với sự phát triển vượt trội về khoa học công nghệ, kỹ thuật quân sự và tiềm lực kinh tế quân sự.

Trận chiến Sicum với sự thảm bại của hạm đội Nga hoàng Thái bình dương
Trong chiến tranh Nga – Nhật 1904 – 1905 Nghệ thuật quân sự Hải quân được bổ sung kinh nghiệm tiến hành các hoạt động quân sự bảo vệ các căn cứ Hàng hải (phòng thủ Cảng Arthur) Trong các chiến dịch này đã sử dụng các chiến hạm của hạm đội, pháo binh bờ biển, thủy lôi và ngư lôi. Sử dụng ngư lôi và thủy lôi đã chứng minh rằng, mặc dù pháo hạm vẫn đóng vai trò vũ khí chủ đạo của chiến trường, đã không còn là vũ khí duy nhất để chiến đấu với đối phương. Cuộc chiến tranh đã làm xuất hiện các lớp chiến hạm mới như Tuần dương, Khu trục, Tầu quét mìn và những tầu khác…đồng thời xuất hiện thêm nhiều loại ngư, thủy lôi và pháo hạm. Hình thành cơ sở lý luận và áp dụng thực tiến kỹ chiến thuật hiệp đồng hải lực cho các trận đánh lớn trên biển với sự tham gia của các Tuần dương Thiết giáp trong trận đánh ở Tsushima, Biển Vàng (Yellow Sea), các hoạt động tác chiến của các liên đội tầu Viễn đông….Lực lượng chủ lực quyết định chiến trường được công nhận là các thiết giáp pháo hạm hạng nặng. Kinh nghiệm chống mìn – thủy lôi đã đặt ra yêu cầu sống còn của Hải quân là phải tổ chức các hoạt động chống mìn, thủy lôi, đảm bảo hoạt động ổn định của các căn cứ hải quân bờ biển. Để trinh sát, chiến đấu với các tầu khu trục (destroyer) và tác chiến trên các đường vận tải hàng hải của đối phương, ở lực lượng Hải quân các nước thường sử dụng các tầu chiến hạng nhẹ. Học thuyết quân sự Hải quân của các cường quốc biển đại dương sau chiến tranh Nga-Nhật vẫn chưa có những thay đổi lớn, vẫn là chiếm đoạt quyền thồng trị trên biển bằng những trận đánh lớn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng lực lượng hạm tầu đối phương.
Trong đại chiến thế giới lần thứ I các chiến hạm đa dụng được đưa vào biên chế là nhưng tầu khu trục hạng nặng, sử dụng các tầu khu trục hộ tống pháo hạm hạng nhẹ, và đặc biệt là sự áp dụng các tầu ngầm, tầu ngầm đã trở thành một lực lượng tác chiến độc lập của Hải quân, phát huy tác dụng ưu việt của nó là bí mật, bất ngờ và hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ chiến dịch và chiến thuật được đặt ra. Lực lượng tác chiến tầu ngầm đã làm xuất hiện các tầu tuần tiễu và các tầu săn ngầm, đồng thời lần lượt xuất hiện các loại chiến hạm đặc thù khác như tầu sân bay, xuồng phóng lôi, các phương tiện đổ bộ của lính thủy đánh bộ. Điểm quan trọng nhất trong tác chiến hải quân giai đoạn này là các pháo hạm đã giảm giá trị trong hải chiến. Sự phát triển của máy bay đã hình thành một binh chủng mới trong hải quân, binh chủng không quân hải quân. Để thực hiện học thuyết " thống trị hải dương” bằng một trận hải chiến vĩ đại đã trở thành không tưởng trong tư duy chiến lược của các chuyên gia hải quân. Nghệ thuật tác chiến Hải quân bước sang một bước phát triển mới của những hoạt động chiến đấu trên hải dương- nghệ thuật tác chiến chiến dịch hải dương.
Nghệ thuật chiến dịch Hải dương đòi hỏi những giải pháp đảm bảo: Trinh sát chiến dịch, ngụy trang, bảo vệ các chiến hạm hạng nặng trên mặt nước trong quá trình cơ động và chiến đấu trước các cuộc tấn công của tầu ngầm, cơ sở vật chất hậu cần kỹ thuật.
Từ những hoạt động yểm trợ tác chiến và hậu cần kỹ thut, các hoạt động tác chiến hàng ngày của hạm đội có mục tiêu quan trọng là bảo đảm điều kiện an toàn, thuận lợi cho các hoạt động tác chiến trong khu vực căn cứ hải quân, tuyến phòng thủ bờ biển và khu vực hình thành chiến sự.
NTQSHQ Nga đã đưa ra phương pháp tác chiến hải dương trước hết phải xây dựng và chuẩn bị thế trận bằng ngư - thủy lôi và pháo hạm, đây là phương phát bắt buộc phải áp dụng đối với những lực lượng đối kháng mạnh hơn. Thế trận này đã được xây dựng trên biển Ban Tích trên tuyến đảo Nargen đến bán đảo (Porkkala Udd) với mục đích chặn cuộc đột kích của hạm đội Đức vào khu vực phía đông của Vịnh Phần Lan. Tuyến phòng thủ bao gồm những dãy thủy lôi được đặt trước của Vịnh, và nhưng trận địa pháo bờ biển bố trí bên sườn. Hậu phương của tuyết phòng thủ triển khai tuyến chiến đấu các hải đoàn chính của hạm đội. Kinh nghiệm của chiến tranh đã khẳng định hiệu quả phòng thủ của hạm đội trong khu vực gần bờ chống lại lực lượng hải quân đối phương mạnh hơn.
Những yếu tố cấu thành của nghệ thuật quân sự hải quân Xô viết được hình thành trong cuộc chiến tranh nội chiến và cuộc chiến chống can thiệp quân sự năm 1918 – 1920, khi lực lượng Hải quân công nông Xô viết mới được thành lập đã lập tuyến phòng thủ bảo vệ Petrograd trước những cuộc đột kích từ phía biển, hỗ trợ cho các đơn vị Hồng quân bằng pháo hạm, yểm trợ hỏa lực đập tan lực lượng bạch vệ nổi loạn trong pháo đài Krastnaia Gorka và Serai Losad, tiến hành đổ bộ và triển khai chiến đấu cùng với các lực lượng trên hồ và trên sông. Lực lượng Hải quân Xô viết phát triển mạnh nhờ những thành quả cách mạng đạt được của quá trình công nghiệp hóa XHCN, Các hạm đội Hồng quân trong năm năm trước chiến tranh đã đóng các tầu chiến hiện đại, tầu ngầm, xây dựng lực lượng không quân hải quân và pháo binh bờ biển.
Trong giai đoạn giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới, Quân đội Xô viết đã xây dựng những cơ sở lý luận cho Nghệ thuật quân sự hải quân và đưa ra nhưng mô hình tác chiến khác nhau của Hải quân Xô viết với sự phối hợp chặt chẽ với lực lượng Lục quân Hồng quân trên các hướng bên bờ biển, chiến thuật tác chiến của các binh chủng trong lực lượng, những phương thức cơ bản trong liên kết phối hợp tác chiến các lực lượng, các binh chủng trong Hải quân. Những cơ sở lý luận tác chiến đó được ghi rõ trong Chỉ thị hướng dẫn các hoạt động tác chiến trên biển, Điều lệnh tác chiến của Hải quân Xô viết và những tài liệu lý luận khác, được xuất bản trước Cuộc chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại.
Nghệ thuật quân sự hải quân các cường quốc biển sau chiến tranh thế giới lần thứ 1 có nhiều quan điểm, nhiều góc nhìn khác nhau về cách sử dụng Hải quân. Sức mạnh toàn năng của pháo hạm hạng nặng đã bị sụp đổ trong chiến tranh, các chuyên gia quân sự tìm kiếm các phương thức sử dụng các binh chủng trong Hải quân với các mục đích khác nhau, tìm kiếm các loại vũ khí trang bị giúp có thể duy trì sự "Thống trị trên hải dương”, học thuyết trận đánh quyết định trên đại dương, có thể thay đổi cục diện chiến trường cũng không có được ý nghĩa thực tế. Những phương tiện chiến tranh mới, mạnh hơn và hiệu quả hơn xuất hiện đã trở thành nhu cầu làm thay đổi những quan điểm cũ của hải chiến. Trước thời điểm xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ II, các hạm đội tiếp nhận vào biên chế các tầu sân bay, tầu tuần dương, các tầu khu trục hạng nặng, xuồng phóng ngư lôi, và không quân hải quân. Xuất hiện radar và sonar. Trong các học thuyết quân sự đã phát triển các lực lượng chiến đấu mới ( không quân hải quân, tầu ngầm,…) nhưng những phương thức tác chiến mới hơn cũng không được phát triển.
Đại chiến thế giới thứ II 1939 – 1945, mặc dù kết quả của nó được quyết định bằng những trận đánh trên bộ, nhưng những trận hải chiến đã vượt xa những cuộc chiến đấu trong giai đoạn trước.
Nhưng hoạt động tác chiến của Hải quân các nước tham chiến trên Thái bình dương (1941-1945) chủ yếu là tác chiến đổ bộ đường biển và chống đổ bộ đường biển, những đòn tấn công vào các hạm đội của đối phương trên đại dương, trong các căn cứ hải quân, và các cuộc chiến trên các tuyến đường vận tải biển. Trên biển Thái bình dương đã có những cuộc chiến đấu đổ bộ của quân đội Mỹ và Austranlia lên đảo Leyte Gulf, quân đội Mỹ lên quần đảo Marshall, Marina Palluu. Đổ bộ lên đảo Okinawa 1945. Khu vực Địa trung Hải với những cuộc đổ bộ của lính thủy đánh bộ lên Angery và Maroc năm 1942, Tấn công lên đảo Sicily của Ý năm 1943 và các trận đánh khác. Tổng số có 600 trận hải chiến, trong đó có 6 trận mang tính chiến lược. Thời gian đầu của chiến tranh, hải quân các nước tham chiến như Nhật Bản, Mỹ đã tiếp nhận vào biên chế các tầu sân bay để tác chiến trên các vùng biển xa, các vùng biển kín là khu vực tác chiến của không quân hải quân có căn cứ cất cánh trên mặt đất, lực lượng không quân hải quân trên các tầu sân bay trở thành lực lượng tác chiến tiến công chủ lực của hải quân.
Những cuộc đối đầu của không quân hải quân trong các trận hải chiến lớn của chiến tranh thế giới lần thứ II , trong quá trình trận chiến, lực lượng không quân hải quân là lực lượng chủ lực tấn công các mục tiêu quan trọng của đối phương. Sử dụng lực lượng không quân hải quân và các tầu sân bay cho phép trận đánh diễn ra trong một không gian rộng, các cụm tầu chiến hai bên cách nhau hàng trăm dặm. Các hải đoàn tầu chiến, được sự yểm trợ từ trên không của không quân hải quân, có thể tác chiến rất hiệu quả trong vùng nước ven bờ của đối phương. Đặc biệt hải địa hình tại khu vực Thái bình dương có nhiều các cụm quần đảo lớn, cần tiến hành những chiến dịch tác chiến hải quân dài ngày trong khu vực quần đảo, phá hoại đường giao thông vận tải của đối phương, tấn công tiêu diệt lực lượng không quân trên đảo, bao vây cô lập các căn cứ phòng thủ cho đến khi đối phương kiệt sức kháng cự và đổ bộ lực lương lính thủy đánh bộ.

Trận chiến Trân châu cảng, với đòn tấn công của không quân hải quân, tầu ngầm cảm tử. Hải quân Nhật đã đánh thiệt hại nặng hạm đội Thái bình dương của Mỹ
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc Vĩ đại năm 1941 – 1945, trên chiến trường Liên xô - Đức, yêu cầu quan trọng đầu tiên là sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng không quân, hải quân và lục quân. Các hạm đội của hải quân Xô viết đã thành công trong các chiến dịch bảo vệ các căn cứ hải quân, bảo vệ các thành phố ven biển, phối hợp với không quân và lục quân tiến hành các chiến dịch lớn trên sông và trên biển yểm trợ tiêu diệt sinh lực quân đội phát xít. Trong các chiến dịch này, pháo hạm và pháo phòng không hạm đội đã phối hợp tốt với không quân bẻ gẫy các mũi tiến công đường không của không quân Đức. Hạm đội tiến hành các chiến dịch độc lập nhằm tiêu diệt đường vận tải của đối phương và bảo vệ đường vận tải trên biển của Hồng quân. Những hoạt động tác chiến của hạm đội mang tính đa dạng trong sử dụng lực lượng, từ tác chiến tầu ngầm, hỏa lực pháo hạm trong phòng thủ không - biển đến đổ bộ. và đặc biệt là lực lượng không quân hải quân, trong chiến tranh đã phát triển rất mạnh mẽ để trở thành một lực lượng tác chiến độc lập. Nghệ thuật quân sự hải quân đã có được những kinh nghiệm có giá trị chiến lượng trong các chiến dịch đổ bộ như Novorossian, Kerch-Etigen 1943 Moonsund năm 1944. Đồng thời các chiến dịch sử dụng tầu ngầm và tiến hành cuộc chiến tranh chống tầu ngầm trên biển.

Phòng thủ căn cứ hải quân Khanco 2 tháng 11 năm 1941

Hải đồ phòng thủ căn cứ hải quân Sevastopol
Trong chiến tranh thế giới lần thứ II, NTQSHQ cấp chiến dịch là phương thức đa dạng hóa các lực lượng tác chiến của hạm đội để tiến hành các hoạt động trên biển. Không gian hải chiến trải rộng trên biển và đại dương, chỉ đạo bởi một hệ tư duy tác chiến duy nhất và sự chỉ huy thống nhất, có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa các cụm hải đoàn (liên kết phối hợp cấp chiến dịch) liên kết phối hợp hiệp đồng binh chủng trong các trận đánh ( hiệp đồng tác chiến) đòi hỏi kỹ năng điều khiển các lực lượng tham gia tác chiến cao trong chiến dịch và các trận đánh có tính quyết định. Ý nghĩa quan trọng trong NTQSHQ là sự chuẩn bị phải đảm bảo bí mật, trinh sát chu đáo, chi tiết, tốc độ hành tiến và cơ động nhanh, linh hoạt, chủ động chiếm lĩnh và khống chế trên không trung trong khu vực tác chiến. Đồng thời công tác tổ chức phòng thủ bảo vệ, quản lý đảm bảo hậu cần kỹ thuật cho lực lượng chiến đấu, các nhiệm vụ đặc biệt và căn cứ hậu cần kỹ thuật có ý nghĩa quyết định cho thắng lợi trên chiến trường.

Hoạt động tác chiến của hạm đội Vonga bảo vệ thành phố Stalingrad
Lực lượng chủ lực của hạm đội được công nhận là lực lượng tầu ngầm và không quân hải quân. NTQSHQ đã hình thành những cơ sở lý luận và thực tiễn các phương pháp, kỹ thuật tác chiến có sử dụng tầu ngầm (cụm tầu ngầm) và không quân hải quân (ngụy trang bay từ nhiều hướng khác nhau).
Với sự phát triển của radar hải quân và sonar, pháo hạm của các chiến hạm nổi hạng nặng đã nâng cao được hiệu quả hỏa lực trên biển, khả năng sử dụng hỏa lực cũng đa dạng hơn và trở thành vũ khí yểm trợ hỏa lực hiệu quả trên biển và tấn công bờ biển.
Tầu ngầm đóng vai trò quan trọng trong các cuộc tấn công đặc nhiệm, NTQSHQ đã hình thành các phương pháp, kỹ thuật chiến đấu của tầu ngầm như tìm kiếm và tấn công mục tiêu trên biển, lẩn trốn đòn tấn công của không quân và các tầu săn ngầm, phục kích và tấn công các căn cứ hải quân đối phương.
Những cụm pháo hạm khổng lồ trên tầu trong hải chiến hiện đại đã mất đi ưu thế hỏa lực chủ đạo của mình trong các trận hải chiến trên biển do sự phát triển mạnh mẽ của tầu ngầm và không quân hải quân. Mục đích sử dụng pháo hạm dần chuyển sang yểm trợ cho lục quân, tấn công các mục tiêu bờ biển và dọn đường cho đổ bộ lính thủy đánh bộ, hoặc dùng để tự vệ trước các đòn tấn công của các cụm tầu khu trục hạng nhẹ.

Chiến dịch đổ bộ lên Kerch-Etigen 1943
Tác chiến đổ bộ đường thủy đã hoàn thiện khả năng chiến đấu của lực lượng với sự phối hợp của lực lượng lục quân, hình thành các phương thức và kỹ thuật đổ bộ mới, kỹ chiến thuật độ bộ đánh chiến bàn đạp bờ biển, phát triển sâu với sự hiệp đồng của các binh chủng khác (thiết giáp, máy bay) và lực lượng lục quân được hoàn thiện.
Những tổng kết kinh nghiệm của chiến tranh hiện đại đã cho phép NTQSHQ rút ra kết luận: trong những khu vực hải chiến trên biển và trên đại dương. Những hoạt động tác chiến của các hạm đội có thể có những ảnh hưởng to lớn, có tính quyết định trong chiến tranh hiện đại. Sự phát triển tiếp theo của Hải quân đã gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ, tiềm lực kinh tế và khoa học quân sự đã hình thành các lực lượng hải quân tác chiến trên biển xa và đại dương, được trang bị tên lửa mang đầu đạn hạt nhân và các loại vũ khí có khả năng hủy diệt lớn. Hạm đội đã trở thành lực lượng tác chiến chiến lược, có thể thực hiện một cuộc chiến tranh hạn chế và xung đột khu vực.

Kỳ hạm tuần dương tên lửa Moscow thuộc hạm đội Biển Đen
Lực lượng chủ lực của Hải quân xô viết bao gồm các tầu ngầm nguyên tử và không quân hải quân, được trang bị chủ yếu là tên lửa và ngư lôi hiện đại. Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự tiên tiến, đặc biệt là tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo với các đầu đạn hạt nhân, hóa học, sinh học và nhiệt áp đã làm thay đổi căn bản NTQSHQ, hạm đội có thể tấn công đối phương trên toàn bộ diện tích lãnh thổ, tấn công các hạm tầu trên nhiều điểm khác nhau, tấn công các căn cứ hải quân với khoảng cách đến hàng ngàn km, các đòn tấn công của hạm đội có khả năng tiêu diệt các mục tiêu chiến lược của đối phương và các mục tiêu trong hải chiến tầm xa. NTQSHQ đã mang ý nghĩa chiến lược trong sử dụng hạm đội, đồng thời mang ý nghĩa chiến dịch trong xung đột khu vực, đấu tranh vũ trang trên biển. Những phương thức chiến thuật và kỹ thuật tác chiến mới được hình thành và phát triển trong nội dung chiến dịch sử dụng binh chủng hợp thành: binh chủng tầu ngầm có trang bị tên lửa và ngư lôi, không quân hải quân, các chiến hạm nổi các lớp từ tuần dương, khu trục, tầu phóng lôi, rải và quét mìn,…các đơn vị hải quân đánh bộ, lính thủy đánh bộ trong các chiến dịch và các trận hải chiến. Đồng thời các giải pháp mới cũng được triển khai nhằm duy trì và phát triển sức mạnh của hải quân, khả năng sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng đánh chặn mọi cuộc tấn công của kẻ thù, hoàn thành những nhiệm vụ chiến lược và chiến thuật mà nhà nước, tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giao phó.
NTQSHQ của các hạm đội Mỹ, Anh, Pháp và các nước khác, trọng tâm được chú ý đến là những phương án, kỹ chiến thuật tác chiến biển sâu của các tầu ngầm, những phương án kỹ chiến thuật tấn công từ tầu sân bay trong một cuộc chiến tranh hạt nhân tổng lực hoặc hạn chế, đồng thời xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột khu vực. Các chuyên gia hải quân có quan điểm cho rằng, kết quả của các nhiệm vụ tác chiến trên biển và đại dương phụ thuộc vào hiệu quả chiến đấu chống ngầm, do đó, Anh, Mỹ và các nước trong khối NATO tập trung vào nghiên cứu phương pháp đấu tranh chống các tầu ngầm nguyên tử, có trang bị tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân. Phương án tác chiến là triển khai các chiến dịch lớn với các loại vũ khí trang bị của hạm đội trên các tuyến chiến đấu chống tầu ngầm hoặc các khu vực tầu ngầm đối phương triển khai sẵn sàng chiến đấu. Không gian hải chiến chống tầu ngầm sẽ được diễn ra tại các khu vực tác chiến nhiều chiều, trên không, trên biển, đại dương và cuộc săn đuổi của các tầu ngầm.

Mô phỏng chiến trường săn đuổi và chống ngầm
Đặc biết, các cường quốc quân sự hải dương rất quan tâm đến các đòn tấn công hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân, hóa học hoặc nhiệt áp vào các căn cứ hải quân, tầu ngầm đối phương. Không quân hải quân triển khai các hoạt động tác chiến, tiến hành chống ngầm trên khu vực tầu ngầm đối phương tiến ra biển hoặc trong khu vực có sử dụng lực lượng tác chiến hiệp đồng không - hải quân. Lực lượng hải quân Mỹ xây dựng các đơn vị chuyên trách chống ngầm, các lực lượng này có thể tác chiến trong khu vực xảy ra hải chiến, hoặc tác chiến phục kích, tập kích chiến lược ngay tại vùng vịnh , cửa biển của đối phương.

Mô phỏng hệ thống phòng thủ biển của lực lượng Hải quân Trung Quốc
Quá trình lịch sử phát triển của NTQHQ cho thấy, lực lượng Hải quân từ nhiệm vụ yểm trợ và tác chiến độc lập, đã hình thành lực lượng tác chiến mang tính chiến lược, chiến lược hải quân thời bình và thời chiến phản ánh trung thành đường lối chính trị của quốc gia, dân tộc với mục tiêu phát triển và bảo vệ lợi ích biển, đại dương. Chiến lược phát triển và sử dụng hải quân phụ thuộc vào đường lối phát triển kinh tế và đối ngoại, nhưng có ý nghĩa quyết định trong nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi và sự phát triển của quốc gia. Nghệ thuật chiến dịch nghiên cứu tất cả các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch như tấn công, phòng ngủ, tổ chức và thực hiện những hoạt động bố trí, di chuyển, tập trung binh lực trong các chiến dịch và mối tương quan trong quan hệ thay đổi bố trí binh lực trên chiến trường.











Xem phần 4
Nghệ thuật chiến dịch.
Nghệ thuật chiến dịch- Một thành phần quan trọng của nghệ thuật quân sự, giải quyết những vấn đề liên quân đế lý thuyết và thực hành huấn luyện tác chiến và tiến hành các hoạt động tác chiến hợp đồng quân binh chủng, tác chiến độc lập cấp chiến dịch, các hoạt động tác chiến của các quân chủng trên những chiến trường khác nhau. Nhưng lý luận và thực tiễn của nghệ thuật chiến dịch được hình thành cơ bản trong Điều lệnh tác chiến hải quân.

Những nhiệm vụ quan trọng của nghệ thuật chiến dịch là; nghiên cứu tính chất và nội dung của những hoạt động tác chiến. Đề xuất các phương pháp huấn luyện tác chiến và tác chiến trên bộ, trên không và trên không gian vũ trụ, xác định các giải pháp tác chiến chiến dịch với khả năng sử dụng các phương tiện chiến đấu và các lực lượng chiến đấu, đồng thời sử dụng các binh chủng sao cho có thể đạt được hiệu quả cao nhất trong chiến dịch. Nghiên cứu và đề xuất những giải pháp, những phương pháp điểu hành các lực lượng tham gia tác chiến, khả năng đảm bảo hậu cần kỹ thuật, yểm trợ hỏa lực, thực tể điều khiển các hoạt động tác chiến của các lực lượng, các quân binh chủng trong các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch.

Sơ đồ tác chiến của khối quân sự NATO tấn công trên mặt trận châu Âu
Nghệ thuật chiến dịch nghiên cứu tất cả các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch như tấn công, phòng ngự, tổ chức và thực hiện những hoạt động bố trí, di chuyển, tập trung binh lực trong các chiến dịch và mối tương quan trong quan hệ thay đổi bố trí binh lực trên chiến trường. Nghệ thuật chiến dịch giữ vị trí kết nối giữa nghệ thuật chiến lược quân sự và nghệ thuật tác chiến (chiến thuật). Theo mối quan hệ với chiến thuật, nghệ thuật chiến dịch giữ vai trò vô cùng quan trọng, nó xác định cho chiến thuật nhiệm vụ và hướng phát triển tiếp theo. Giữa nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật có sự ràng buộc liên kết nhân quả và sự ràng buộc phụ thuộc phả hệ (cha-con).

Đòn tiến công của Liên quân Mỹ trong chiến dịch Operation Iraqi Freedom
Ví dụ, khi xác định mục tiêu chiến lược của chiến tranh và những phương pháp tiến hành chiến tranh ở các khu vực chiến trường (địa bàn tác chiến) cần phải tính đến khả năng thực tế của các lực lượng vũ trang, các đơn vị quân chủng và các đơn vị thành viên binh chủng của quân chủng trong điều kiện cụ thể của chiến trường. Tương tự như vậy, khi lên kế hoạch triển khai các chiến dịch, cần tính đến khả năng tác chiến của các đơn vị binh chủng hợp thành, mức độ phát triển của lý luận và thực tiến của nghệ thuật tác chiến chiến dịch. Như vậy trong điều kiện thực tế của chiến trường, kết quả thành công của các hoạt động tác chiến quyết định những thành quả của các hoạt động của chiến dịch, và chiến thắng của các hoạt động chiến dịch ảnh hưởng trực tiếp đến những thành quả đạt được của các mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển chiến tranh và mục tiêu cuối cùng của chiến lược tiến hành chiến tranh.

Sự phát triển mạnh mẽ của vũ khí trang bị và phương tiện kỹ thuật, khoa học công nghệ đã hoàn thiện cơ cấu tổ chức của các lực lượng vũ trang, thay đổi các phương thức điều hành tác chiến, sự liên kết ràng buộc và và mối quan hệ liên kết phụ thuộc giữa nghệ thuật chiến lược quân sư, nghệ thuật chiến dịch và nghệ thuật tác chiến trở nên đa dạng hóa, đa chiều, và năng động hơn. Do nghệ thuật chiến dịch giải quyết những vẫn đề của lý luận và thực tiến huấn luyện tác chiến và tiến hành triển khai các hoạt động tác chiến các chiến dịch hiệp đồng quân binh chủng hoặc các chiến dịch phát triển độc lập của Lực lượng Không quân, Hải quân và Lục quân. Do đó, trong nghệ thuật quân sự nói chung, có thể chia ra được 3 lĩnh vực có liên quan mật thiết là nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật của từng quân chủng Không quân, Hải quân và Lục quân.

Hệ thống phòng thủ trên tầu tuần duyên hiện đại
Nghệ thuật quân sự của mỗi lực lượng quân chủng xuất phát từ những cơ sở căn bản của mô hình tác chiến lực lượng, yêu cầu của lý luận và thực tiễn chiến đấu, tính đặc thù của cơ cấu tổ chức quân chủng, của môi trường tác chiến, vũ khí trang bị, phương tiện chiến đấu, khả năng và năng lực chiến đấu của các đơn vị binh chủng hợp thành của quân chủng. Những quan điểm về nghệ thuật chiến dịch được rút ra từ những nguyên tắc cơ bản của nghệ thuật quân sự nói chung. Những điểm mấu chốt là đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu cao của lực lượng và vũ khí trang bị; mạnh dạn, kiên quyết triển khai các hoạt động tác chiến với mục tiêu chiếm và nắm giữ quyền chủ động, sẵn sàng triển khai các hoạt động tác chiến khi địch sử dụng các loại vũ khí thông thường, vũ khí hiện đại và vũ khí có sức hủy diệt lớn; hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu đặt ra bằng sức mạnh tổng hợp của của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị liên kết phối hợp của các quân chủng, trên cơ sở mối quan hệ tác chiến chặt chẽ của hiệp đồng quân binh chủng; tập trung được lực lượng đột phá chủ lực trên hướng tiến cống chính trong thời điểm quyết định. Áp dụng những nguyên tắc chung trong nghệ thuật chiến dịch phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của chiến trương, nơi diễn ra các hoạt động tác chiến của các đơn vị.
Lý luận quân sự của các nước phương Tây không sử dụng thuật ngữ Nghệ thuật chiến dich, các nhà quân sự phương Tây sử dụng khái niệm Nghê thuật tác chiến lớn, hoặc khái niệm nghệ thuật chiến lược nhỏ.
Sự phát triển của khoa học công nghệ quân sự đã đưa nghệ thuật chiến dịch phát triển lên một nấc thang mới, không gian của chiến trường mở rộng hơn, tham gia vào các hoạt động tác chiến cấp chiến dịch trên khu vực biển, đại dương và các vùng nước ven bờ, khu vực bờ biển không chỉ là lực lượng hải quân, mà cả lực lượng không quân, lực lượng lục quân, lực lượng tên lửa chiến lược và lực lượng bộ đội không gian, các chiến dịch có sử dụng hải quân diễn ra liên tục thời bình như bảo vệ thềm lục địa, lãnh hải, vùng lợi ích, các tuyến vận tải chiến lược đường biển, các hoạt động chống xâm nhập, chống cướp biển đến thời chiến, khi các hoạt động tác chiến diễn ra trên không trên biển, trên đại dương và dưới đại dương, các đòn tấn công từ biển có thể đánh sâu vào đất liền khí sử dụng các tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình, không quân hải quân, đồng thời từ đất liền, các lực lượng như phòng thủ bờ biển, tên lửa chiến lược và chiến dịch, tên lửa phòng không S-500 hoàn toàn có khả năng tấn công các mục tiêu trên biển và trên các đại dương. Hỏa lực của một tầu chiến lớp khu trục có khả năng gây tổn thất nặng nề cho các đơn vị phòng thủ biển đảo mà không cần đòn tấn công của một liên đội tầu, hỏa lực của một tầu ngầm nguyên tử có khả năng tấn công hầu hết các mục tiêu chiến lược trên đất liền của cả một đất nước. Do đó, các nguyên tắc hải chiển sẽ có những thay đổi rất nhiều, vấn đề đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng hài quân được đặt lên một tầm cao mới, đó là khả năng huấn luyện, diễn tập thực binh và thực hiện những hoạt động đa nhiệm như tuần biển, trinh sát địa hình đáy biển, dòng chảy, thực hành những hoạt động cứu hộ biển và kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của các loại tầu trên biển và đại dương, dưới biển (huấn luyện chống ngầm và chống ngầm). Để đảm bảo khả năng sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị hải quân thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, tuần tiễu hoặc cùng với lực lượng cảnh sát biển, biên phòng duyên hải được tổ chức triển khai tương đương như những hoạt động tác chiến cấp chiến dịch, với biên chế đầy đủ vũ khí trang bị và mức độ sẵn sàng chiến đấu cao nhất.

Các tầu sân bay của hải quân Mỹ trong chiến tranh Iraq
Thông thường, các hoạt động tác chiến chiến dịch của Liên bang Xô viết trước đây và nước Nga ngày nay có thể do một chiến hạm hoặc một cụm chiến hạm thực hiện, với sự yểm trợ tầm xa của các lực lượng không quân hải quân, không quân và tên lửa chiến lược. Các cường quốc biển phương Tây thường triển khai các chiến dịch trên biển với một cụm tầu hoặc một hạm đội đến nhiều hạm đội với đầy đủ biên chế, bao gồm cả tầu sân bay. Lực lượng hạm đội của Mỹ hoàn toàn có khả năng đáp ứng một cuộc chiến tranh cục bộ hoặc một cuộc xung đột khu vực. Từ góc nhìn về sử dụng lực lượng, có thể xác định được phương án chiển khai một chiến dịch tác chiến biển đại dương. Phương án tác chiến biển – đại dương cũng nằm trong những nguyên tắc tác chiến cơ bản, nhưng với không gian tác chiến rộng lớn hơn, trên vũ trụ, trên không, trên biển – đại dương và dưới biển, đại dương. Các hoạt động tác chiến có thể đơn lẻ như săn ngầm hoặc đồng bộ với mục tiêu chiếm quyền chủ động, nhằm vào các mục tiêu quan trọng về kinh tế, quân sự, chính trị của đối phương, từ các căn cứ hải quân đối phương đến các mục tiêu trên không, trên biển – đại dương.

Khả năng tấn công của tầu ngầm nguyên tử Mỹ trên biển Baren
Đối với các lực lượng Hải quân mạnh, có trong biên chế đầy đủ các phương tiện, từ tầu sân bay đến các loại tầu xuồng chiến đấu, phương thức triển khai các chiến dịch với các mục tiêu khác nhau, từ xung đột vũ trang đến chiến tranh cục bộ trong giai đoạn ngày này thông thường có tính tương đương, (ngoại trừ những hoạt động chống hải tặc) đó là thời gian chuẩn bị rất kỹ càng, có thể kéo dài nhiều năm đến nhiều tháng cho những hoạt động nghiên cứu vùng nước, địa hình đáy biển, hoạt động tầu thuyền, các sơ đồ bố trí lực lượng của đối phương, chi tiết đến từng mục tiêu, các mục tiêu này sẽ được lập trình trên tất cả các phương tiện trinh sát ( vệ tinh, máy bay trinh sát, tầu xuồng trinh sát….. và các phương tiện mang, từ các chiến hạm mạng tên lửa, pháo hạm đến các các máy bay của lực lượng không quân hải quân, các mục tiêu nay sẽ được theo dõi chặt chẽ, đảm bảo chắc chắn không có sự bất ngờ xảy ra khi chiến dịch tiến công được triển khai.
Thời điểm triển khai chiến dịch thường được giữ bí mật tối đa, khi giờ công kích đã đến các lực lượng hải quân của các cường quốc biển sẽ đồng loạt tấn công hỏa lực từ tất cả các đơn vị tác chiến như không quân hải quân, chiến hạm, tầu ngầm, lực lượng đặc nhiệm hải quân trên toàn tuyến, trên không, trên biển, các căn cứ bờ biển và trong các trường hợp chiến tranh cục bộ, sẽ đánh sâu vào đất liên, các mục tiêu được tiến công bằng nhiều phương tiện hỏa lực, từ nhiều hướng khác nhau, với yêu cầu trong thời gian ngắn của đợt công kích, các mục tiêu quan trọng phải được chế áp hoặc tiêu diệt.
Trong quá trình triển khai chiến dịch, các đơn vị hợp thành của lực lượng hải quân có thể tiếp tục truy quét, tìm diệt các mục tiêu đã được lựa chọn ( tầu ngầm, tầu chiến) hoặc chế áp các đơn vị phòng không, tên lửa, sân bay, bến cảng…với mức độ hỏa lực ngày càng tăng, các đợt tấn công dồn dập …cho đến khi mục tiêu chiên dịch đạt được.
Do tính đặc thù của các chiến dịch hải chiến, để phòng thủ không – biển đạt hiệu quả cao, yêu cầu quan trọng đầu tiên trong cả thời chiến lẫn thời bình, đó là khả năng sẵn sàng tác chiến cao độ, bí mật, bất ngờ, tính cơ động cao, khả năng sẵn sàng tham gia chiến đấu cao của các phương tiện, vũ khí trang bị lực lượng hải quân.
Việc nghiên cứu kỹ và sâu sắc, hiểu biết thực tế vùng nước, vùng biển, ven biển, tính đặc thù của bờ biển, khả năng ngụy trang che dấu lực lượng, khả năng cơ động, khả năng bố trí các lực lượng phòng thủ hiệu quả là yếu tố vô cùng quan trong trong sự sống còn của lực lượng phòng thủ.

Tên lửa chống tầu Club-K phòng từ tầu chở hàng
Để chống lại các lực lượng hải quân của các cường quốc biển, với công nghệ quân sự hiện đại ngày nay, các lực lượng hải quân liên bang Nga cần quản lý chặt chẽ các vùng nước có khả năng hình thành bàn đạp tiến công, các căn cứ hải quân mà đối phương có thể sử dụng, các phương án đột kích, phản công đánh trả ngay khi đối phương bắt đầu triển khai tấn công, các phương án phòng không, phòng hải hiệu quả nhất, đồng thời phải bố trí sẵn sàng hệ thống phòng thủ bờ biển, vùng nước nông và các hướng phản công hỏa lực từ những căn cứ đã được chuẩn bị sẵn, với những khu vực mục tiêu.Thông thường, mỗi khu vực mục tiêu phải được sự quản lý của nhiều phương tiện hỏa lực hoặc nhiều đơn vị binh chủng như tên lửa, không quân, tầu tên lửa hoặc tầu phóng ngư lôi, các đơn vị đặc nhiệm hải quân, phòng thủ bờ biển…

Quân khu Leningrad, Hạm đội ban tích và hạm đội biển Bắc
Các hoạt động huấn luyện tác chiến nhằm duy trì và nâng cao sức chiến đấu của các đơn vị phải diễn ra với sự đối kháng thực tế, những hoạt động huấn luyện tác chiến phải được tiến hành trong mội trường khách quan, với góc nhìn từ phía bên kia của lực lượng đối phương có tiềm lực hải quân mạnh và hiện đại, các hoạt động triển khai chiến đấu phải năng động, sáng tạo, nhịp độ triển khai phải nhanh chóng, bất ngờ với yêu cầu cơ động chiến đấu ngày càng cao, áp lực tác chiến càng ngày càng tăng, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo của các sỹ quan chỉ huy, đặc biệt là các hạm trưởng và các sỹ quan chỉ huy lực lượng phòng không, phòng hải.

Hệ thống radar cảnh báo sớm chiến lược chống tên lửa của Liên bang Nga
Điểm đặc biệt quan trọng trong nghệ thuật chiến dịch không-hải hiện đại là khả năng đảm bảo thông tin và khả năng trinh sát, theo dõi, bám mục tiêu và quản lý chiến trường bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Mạng lưới thông tin và truyền thông cần được xây dựng đa tầng, đa điểm, đa dạng, có khả năng chống nhiễu hiệu quả, ngay cả trong trường hợp bị tấn công (bị tấn công vệ tinh trinh sát, hệ thống định vị vệ tinh, hệ thống vệ tinh truyền thông, các trạm thông tin liên lạc, các trạm radar cảnh báo) Để thực hiện được nhiệm vụ này, hệ thống trinh sát, truyền thông phải được tính toán, xây dựng và thử nghiệm trong điều kiện tác chiến hiện đại, với khả năng bị tấn công cao nhất, hệ thống trinh sát, truyền thông và quản lý chiến trường phải biến đổi linh hoạt, chuyển hóa liên tục trong không gian chiến trường phức tạp và và hỏa lực tấn công dầy đặc với độ chính xác cao.

Phân bố lực lượng của hải quân viễn dương Trung Quốc
Do tính đặc thù của nghệ thuật chiến dịch trên hải dương, các hoạt động huấn luyện tác chiến thường có thể nhanh chóng chuyển thành các hoạt động tác chiến trên biển, do đó, khái niệm ranh giới về huấn luyện thời bình và chiến đấu thời chiến trong nghệ thuật quân sự hải dương rất mờ nhạt. Các đòn tấn công có thể xuất phát từ bất cứ điểm nào, bất cứ thời gian nào trên toàn bộ các đại dương hoặc vùng biển. Đánh chặn kịp thời và phản công hiệu quả là phương án tốt nhất dành thế chủ động trên chiến trường hải dương. Đó là điểm đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của nghệ thuật chiến dịch hải quân và đó cũng là mối quan hệ tương quan chặt chẽ của chiến lược và chiến dịch hải dương.
Xem phần 4
Sự phát triển của Nghệ thuật quân sự hải quân trong các giai đoạn lịch sử đương đại, ảnh hưởng của vũ khí trang bị đến phương thức tác chiến chiến dịch trên biển-đại dương
Trước thế kỷ 20 các hoạt động trên biển hầu như chỉ là nhưng hoạt động tác chiến cấp chiến thuật, các nước phương tây, những thực dân với đường lối chính trị Pháo hạm và nguyên tắc tác chiến Trận hải chiến vĩ đại đã sử dụng những hạm tầu viễn dương đánh chiếm các nước nghèo, lạc hậu của thời phong kiến với mục đích mở rộng thuộc địa, hầu hết các cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức và lực lượng hải quân mang tính yểm trợ, vận tải và đổ bộ.

Sơ đồ hải chiến Nga Nhật
Vào những năm 1904 – 1905 trong cuộc chiến tranh Nga Nhật các trận hải chiến giữa hạm đội Thái bình dương và hạm đội hải quân của Nhật đã xuất hiện những yếu tố của hải chiến hiện đại, hải quân Nhật phát triển vượt bậc với các thiết giáp hạm, các tầu tuần dương trọng tải lớn và pháo hạm hiện đại hơn, các khu trục hạm bọc giáp hạng nhẹ với khả năng tấn công nhanh đã làm chủ chiến trường trên mặt biển, các chiến dịch trong chiến tranh Nga Nhật dù thời gian kéo dài hơn, nhưng vẫn có những nét tương đồng của các trận hải chiến lớn thời kỳ tầu buồm, với sự thất bại của hải quân Nga, do đánh giá sai lầm sức mạnh hỏa lực pháo binh Nhật bản và khả năng tấn công trực diện với tốc độ cao của các tầu khu trục hạng nhẹ, là bước phát triển cao nhất của các Thiết giáp hạm, pháo hạm và các tầu khu trục ham. Lý thuyết hải chiến được xây dựng trên cơ sở: Để tiêu diệt một hạm đội cần có một hạm đội khác mạnh hơn, có nhiều pháo hạng nặng hơn và nhiều tầu thiết giáp tốc độ cao hơn.
Đặc điểm của các chiến dịch do các lực lượng hải quân tiến hành được thể hiện rõ nét nhất trên Chiến trường Đông Nam Á, và nổi bật là cuộc chiến tranh trên biển Philippines 1941-1945 giữa lực lượng hải quân Nhật bản và lực lượng Đồng Minh. Hải quân Nhật dưới quyền chỉ huy của đô đốc hải quân Isoroku Yamamoto đã nhận định, thời kỳ của những chiếc thiết giáp hạm và pháo hạm đã kết thúc, phương án để đánh bại một hạm đội thiết giáp hạm cần một hạm đội thiết giáp hạm lớn hơn, có vỏ thép dầy hơn và pháo nặng hơn đã không còn thực tế nữa. Đô đốc Yamamoto chọn phương án sử dụng máy bay chiến đấu với các loại ngư lôi tấn công dưới ngấn nước, không quân Hải quân và tầu sân bay là lực lượng tác chiến chủ lực của hải quân Nhật bản, do đó, lực lượng không quân Hải quân và tầu sân bay của Nhật được phát triển mạnh mẽ, khả năng hải hành viễn dương rất cao và có khả năng hợp đồng tác chiến quân binh chủng chặt chẽ. Lực lượng viễn chinh chủ yếu của nhật bản dưa trên sức mạnh của những hạm đội trong đó, lực lượng tầu sân bay cảm tử kamikaze đóng vai trò chủ lực, người Nhật luôn đánh giá cao lý luận thống trị trên đại dương bằng một trận hải chiến vĩ đại, tiêu diệt phần lớn lực lượng hải quân đối phương bằng những đòn tấn công liên tiếp, quyết liệt của không quân, sau đó mở rộng không gian tác chiến bằng những đòn đánh của lực lượng thiết giáp hạm, tuần dương hạm và tầu ngầm với vũ khí chủ đạo là ngư lôi – pháo hạm với sự yểm trợ của máy bay ném bom, kết thúc chiến dịch bằng các cuộc đổ bộ từ biển đánh sâu vào đất liền, chiếm đóng và tiêu diệt, để khẳng định cho lý luận quân sự này, Nhật Bản đã đưa lực lượng Hải quân viễn dương hùng mạnh vào đại chiến thế giới lần thứ II. Mở màn bằng trận tấn công Chân Trâu cảng, Hải quân Nhật đã đánh tiêu diệt hại nặng Hạm đội Thái bình dương của Mỹ do đô đốc Husband Kimmel, tư lệnh hạm đội (từ tháng 2-1941).
Xem phần 5
Những góc nhìn lịch sử của nghệ thuật chiến dịch hải quân
Trước thế kỷ 20 các hoạt động trên biển hầu như chỉ là nhưng hoạt động tác chiến cấp chiến thuật, các nước phương tây, những thực dân với đường lối chính trị Pháo hạm và nguyên tắc tác chiến Trận hải chiến vĩ đại đã sử dụng những hạm tầu viễn dương đánh chiếm các nước nghèo, lạc hậu của thời phong kiến với mục đích mở rộng thuộc địa, hầu hết các cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức và lực lượng hải quân mang tính yểm trợ, vận tải và đổ bộ.

Sơ đồ hải chiến Nga Nhật
Vào những năm 1904 – 1905 trong cuộc chiến tranh Nga Nhật các trận hải chiến giữa hạm đội Thái bình dương và hạm đội hải quân của Nhật đã xuất hiện những yếu tố của hải chiến hiện đại, hải quân Nhật phát triển vượt bậc với các thiết giáp hạm, các tầu tuần dương trọng tải lớn và pháo hạm hiện đại hơn, các khu trục hạm bọc giáp hạng nhẹ với khả năng tấn công nhanh đã làm chủ chiến trường trên mặt biển, các chiến dịch trong chiến tranh Nga Nhật dù thời gian kéo dài hơn, nhưng vẫn có những nét tương đồng của các trận hải chiến lớn thời kỳ tầu buồm, với sự thất bại của hải quân Nga, do đánh giá sai lầm sức mạnh hỏa lực pháo binh Nhật bản và khả năng tấn công trực diện với tốc độ cao của các tầu khu trục hạng nhẹ, là bước phát triển cao nhất của các Thiết giáp hạm, pháo hạm và các tầu khu trục ham. Lý thuyết hải chiến được xây dựng trên cơ sở: Để tiêu diệt một hạm đội cần có một hạm đội khác mạnh hơn, có nhiều pháo hạng nặng hơn và nhiều tầu thiết giáp tốc độ cao hơn.
Các giai đoạn của cuộc chiến thế giới I cũng cho thấy những thương vong của các thiết giáp hạm bởi các vũ khí năng động và tiết kiệm hơn và cũng là là sự phát triển mạnh mẽ của tầu ngầm. Trong tháng 9 năm 1914, mối đe dọa thực sự từ chiến dịch săn tầu của đội tầu ngầm U-boat Đức đến các tầu chiến chủ lực đã được chứng minh bởi các cuộc tấn công thành công vào các tuần dương hạm của Anh, chiếc tàu ngầm U-9 Đức trong một trận hải chiến đánh chìm ba tuần dương bọc thép cũ của người Anh chỉ trong vòng chưa đầy một giờ. Thủy lôi tiếp tục chứng minh là một mối đe dọa thường trực khi chỉ một tháng sau đó, chiếc siêu thiết giáp hạm lớp Dreadnought Audacious của Anh đã đâm vào một quả thủy lôi và chìm. Đến cuối những năm 1918 - 1920, chiến lược và chiến thuật của Anh ở Biển Bắc phải thay đổi để làm giảm sự khả năng tiêu diệt của tầu U-boat.


Sơ đồ trận hải chiến Jutland
Tại Jutland là cuộc đụng độ lớn duy nhất của các hạm đội thiết giáp hạm trong lịch sử, kế hoạch của Đức trong trận chiến là dựa vào đội tầu U-boat để tung ra các cuộc tấn công vào hạm đội Anh, và việc hạm đội thiết giáp hạm Đức thoát khỏi hỏa lực mạnh mẽ hơn của tầu Anh là bởi các tàu tuần dương và tàu khu trục của Đức có thể áp vào gần các thiết giáp hạm của Anh, làm chúng (các thiết giáp hạm của Anh) phải di chuyển để tránh sự đe dọa của các cuộc tấn công bằng ngư lôi. Hơn nữa những thiếu sót để cho các tầu ngầm tấn công các tuần dương hạm làm cho các tầu tuần dương bị thương vong lớn đã dẫn đến những hoang tưởng ngày càng tăng trong Hải quân Hoàng gia Anh về chỗ yếu của thiết giáp hạm. Trận hải chiến Jutland vào cuối tháng 3 năm 1916 giữa hạm đội của Anh và của Đức đã kết thức tư duy chiến lược, trận đánh vĩ đại trên biển. Trong trận hải chiến này, người Anh đã mất 14 tầu với trọng tải là 113570 tấn, 6097 thủy thủ hy sinh, 510 bị thương. Người Đức mất 11 chiến hạm với trọng tải là 60250 tấn, 2551 thủy thủ hy sinh, 507 người bị thương. Nhưng trận chiến lớn nhất này không kết thúc bằng sự hủy diệt của Hải quân Anh, và người Đức cũng không chiếm được vị trí thống trị trên biển. Tư duy nghệ thuật chiến dịch kết thúc bằng một trận hải chiến vĩ đại đã mất hoàn toàn giá trị hiện thực của nó.
Sau đại chiến thế giới lần thứ I, nghệ thuật quân sự phát triển mạnh với sự phát triển của xe tăng, xe thiết giáp, pháo nòng dài, tư duy chiến dịch có chiều sâu vào các chiến dịch mà lực lượng chủ lực giải quyết chiến trường là lực lượng bộ binh, lực lượng hải quân đóng vai trò yểm trợ, các chiến dịch hải chiến chủ yếu có mục đích bảo vệ đường vận tải biển, tấn công tầu ngầm và chống ngầm, đồng thời phát triển mạnh binh chủng không quân hải quân, nghệ thuật chiến dịch tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu, bảo vệ các căn cứ kinh tế, quân sự ven biển, tấn công các tuyến đường vận tải bằng tầu ngầm bảo vệ đường vận tải và chống ngầm, tác chiến không-hải bằng lực lượng không quân và không quân Hải quân với sự tham gia của các tầu sân bay. Khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ ra, trên các vùng nước của các cường quốc tham gia chiến tranh, cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt với các chiến dịch săn tìm các đoàn tầu vận tải của đối phương, tấn công bằng tầu ngầm, các hạm đội hải chiến chủ yếu bằng tầu sân bay và không quân hải quân tấn công căn cứ hải quân của đối phương bằng lực lượng đổ bộ hải quân với sự yểm trợ hỏa lực mạnh mẽ của hải quân.

Trận hải chiến mũi Matapan
Một trong những trận đánh làm thay đổi tư duy chiến dịch của hải chiến, bắt đầu thời kỳ của khoa học công nghệ hiện đại là trận đánh ở mũi Matapan ngày 27 – 29 tháng năm năm 1941 giữa Hải quân Hoàng gia Anh và hải quân Ý, sau một thời gian dài tiến hành chiến dịch săn tìm, cuối cùng hạm đội Anh đã phát hiện một hải đoàn của hải quân Ý với kỳ hạm Vittorio Veneto, 6 tầu thiết giáp hạm hạng nặng, 2 tầu tuần dương hạng nhẹ và 13 tầu khu trục. Không quân hải quân tầu sân bay Formideybl của Anh đã đánh thiệt hại nặng kỳ hạm và thiết giáp hạm của Ý. Cuộc chiến đấu tiếp tục diễn ra vào ban đêm, chiến hạm của Anh sử dụng radar đã nhanh chóng phát hiện ra tầu chiến của Ý và nhấn chìm 3 tầu tuần dương hạng nặng, 2 tầu khu trục. Hải đoàn của người Anh không có tổn thất đáng kể.

Tầu ngầm U-boat Đức

Trận hải chiến mũi Matapan

Tầu ngầm U-boat Đức
Là nước có nền công nghiệp phát triển mạnh, Đức đã phát triển một tư duy chiến dịch mới, đi kèm với sự phát triển của công nghệ đóng tầu ngầm U-Boat tải trọng 200 tấn, chiến thuật bầy sói, người Đức đã tung hoành trên Đại Tây dương, tấn công các tuyến đường vận tải, các hạm tầu của các nước Đồng minh, vũ khí tấn công chủ yếu là ngư lôi, thứ yếu là pháo hạm hạng nhẹ, chiến thuật bầy sói đã gây rất nhiều tổn thất cho các đoàn congvoa quân sự và đoàn tầu thương mại trên biển. Sự phát triển mạnh mẽ của tầu ngầm, ngư lôi, thủy lôi và máy bay ném bom chìm, phóng ngư lôi đã xuất hiện một thế hệ các tầu chiến mới, thay thế cho các tuần dương hạm hạng nặng và thiết giáp hạm, đó là những tầu yểm trợ và đánh chặn bảo vệ tiền duyên của các đoàn tầu thương mại và vận tải, tầu khu trục phóng lôi và săn ngầm. Hàng trăm chiếc tầu khu trục của Anh, Mỹ với các thiết bị hiện đại được triển khai trên Đại tây dương và Địa trung hải với mục tiêu săn ngầm, đánh tiêu diệt các tầu ngầm Đức, với chiến dịch truy quét tầu ngầm, tập trung lực lượng từ nhiều hướng bao vây và tiêu diệt, quân đội Đồng Minh đã đánh chim kỳ hạm Bismarck và bắt đầu sự thảm bại của hải quân Đức.


Hoạt động của các lực lượng Hải quân trên biển Đại Tây dương 1942
Sự phát triển mạnh mẽ của các thiết bị radar, sonar, ngư lôi và không quân hải quân đã tạo ưu thế trên mặt nước Địa Trung hải, Hải quân Đức đã tổn thất nặng nề trong chiến dịch sử dụng tầu ngâm thống trị mặt biển, người Đức cố gắng kéo lại ưu thế bằng giải pháp thiết kế tầu ngầm mới loại Elektroboat với khả năng lặn lâu hơn, tấn công ngư lôi từ dưới mặt nước, nhưng thời gian không cho phép, khi quân Đồng minh đổ bộ lên Normandy từ 6 đến tháng 8.1944 đó cũng là trận hải chiến cuối cùng của tầu ngầm Đức.

Vị trí của các tầu ngâm U boat bị đánh chìm
Nhìn toàn cuộc, 1.155 tàu ngầm Đức được tung vào cuộc chiến, trong đó có 725 chiếc bị đánh chìm. Trong 6 năm, hơn 35.000 thủy thủ Đức lao vào cuộc chiến sống còn trên biển và 28.744 người không bao giờ trở về - tỷ lệ thiệt mạng 82% được xem là cao nhất trong lịch sử chiến tranh hiện đại.


Vị trí của các tầu ngâm U boat bị đánh chìm

Hoạt động tác chiến của Hải quân Đại Tây dươngcác nước năm 1944 - 1945
Đặc điểm của các chiến dịch do các lực lượng hải quân tiến hành được thể hiện rõ nét nhất trên Chiến trường Đông Nam Á, và nổi bật là cuộc chiến tranh trên biển Philippines 1941-1945 giữa lực lượng hải quân Nhật bản và lực lượng Đồng Minh. Hải quân Nhật dưới quyền chỉ huy của đô đốc hải quân Isoroku Yamamoto đã nhận định, thời kỳ của những chiếc thiết giáp hạm và pháo hạm đã kết thúc, phương án để đánh bại một hạm đội thiết giáp hạm cần một hạm đội thiết giáp hạm lớn hơn, có vỏ thép dầy hơn và pháo nặng hơn đã không còn thực tế nữa. Đô đốc Yamamoto chọn phương án sử dụng máy bay chiến đấu với các loại ngư lôi tấn công dưới ngấn nước, không quân Hải quân và tầu sân bay là lực lượng tác chiến chủ lực của hải quân Nhật bản, do đó, lực lượng không quân Hải quân và tầu sân bay của Nhật được phát triển mạnh mẽ, khả năng hải hành viễn dương rất cao và có khả năng hợp đồng tác chiến quân binh chủng chặt chẽ. Lực lượng viễn chinh chủ yếu của nhật bản dưa trên sức mạnh của những hạm đội trong đó, lực lượng tầu sân bay cảm tử kamikaze đóng vai trò chủ lực, người Nhật luôn đánh giá cao lý luận thống trị trên đại dương bằng một trận hải chiến vĩ đại, tiêu diệt phần lớn lực lượng hải quân đối phương bằng những đòn tấn công liên tiếp, quyết liệt của không quân, sau đó mở rộng không gian tác chiến bằng những đòn đánh của lực lượng thiết giáp hạm, tuần dương hạm và tầu ngầm với vũ khí chủ đạo là ngư lôi – pháo hạm với sự yểm trợ của máy bay ném bom, kết thúc chiến dịch bằng các cuộc đổ bộ từ biển đánh sâu vào đất liền, chiếm đóng và tiêu diệt, để khẳng định cho lý luận quân sự này, Nhật Bản đã đưa lực lượng Hải quân viễn dương hùng mạnh vào đại chiến thế giới lần thứ II. Mở màn bằng trận tấn công Chân Trâu cảng, Hải quân Nhật đã đánh tiêu diệt hại nặng Hạm đội Thái bình dương của Mỹ do đô đốc Husband Kimmel, tư lệnh hạm đội (từ tháng 2-1941).
Sau cuộc tấn công Chân Trâu cảng, các chiến dịch hải chiến trong khu vực Đông Nam Á đã mở rộng, Hải quân Nhật bản với biên chế đầy đủ Tầu sân bay, Thiết giáp hạm, Tuần dương ham, các tầu khu trục, tầu ngầm và không quân hải quân đã vượt qua Thái bình dướng và tiến sâu vào Ấn độ dương, tiêu diệt hai hạm tầu mạnh nhất của nước Anh Prince of Wales và Repulse đuổi hạm đội của Hoàng gia Anh tháo lui khỏi biển Ấn độ. Quân đội Nhật đã đánh chiếm toàn bộ Đông Nam á.

Cuộc xâm lược của đế quốc Nhật bản

Cuộc xâm lược của đế quốc Nhật bản
Nhưng cũng từ đó, lực lượng hải quân Nhật bản đã bộc lộ những điểm yếu dẫn đến sự thảm bại sau này.
Điểm thứ nhất: Quân đội Nhật đã quá tin tưởng vào sức mạnh hải quân, do đó, sự gắn kết chiến dịch với các lực lượng lục quân Nhật Bản không chặt chẽ.Đặc biệt là với lực lượng lục quân.
Điểm thứ hai. Quân đội Nhật được trang bị vũ khí hiện đại, nhưng hệ thống thông tin trinh sát và quản lý chiến trường rất yếu. Đó là khả năng thông tin liên lạc của các hải đoàn rất kém, người Nhật không được trang bị radar, một thiết bị quân sự hiện đại, song hành cùng với điều đó, nền công nghiệp Nhật bản, đặc biệt là cụm công nghiệp tầu biển và máy bay chiến đấu, đã không đáp ứng được yêu cầu trên chiến trường.
Những hạn chế trên đã trở thành nguyên nhân chính gây ra thất bại của Hải quân Nhật bản, sau chiến dịch tấn công Midway thất bại, lực lượng Hải quân Nhật đã rơi vào tính thế chiến đấu mà không có sự hộ trợ mạnh mẽ của nền công nghiệp quốc phòng, những tổn thất nặng nề trong chiến tranh đã không được bù đắp, và và loạt chiến dịch liên tiếp trên chiến trường Philippin thất bại, Hải quân Nhật bị tổn thất nặng nề bởi các đòn tấn công của máy bay cường kích, tầu ngầm, trận chiến vịnh Leyte đã chấm dứt mọi hoạt động của hạm đội Nhật bản với tư cách là lực lượng hải quân hùng mạnh trên biển Thái Bình dương. Nhật bản bị đánh tiêu diệt trên mặt trận Mãn châu, bị hủy diệt bởi 2 quả bom nguyên tử, và chiến dịch Okinawa đã buộc quân đội Nhật phải đầu hàng.


Trận chiến Midway
Sau những thất bại đầu chiến tranh, lực lượng Đồng Minh đã học tập kinh nghiệm tác chiến chiến dịch của Nhật bản với phương pháp sử dụng không quân Hải quân và tầu ngầm tác chiến độc lập. Mỹ tập trung phát triển máy bay tác chiến trên tầu sân bay, và Anh tăng cường sức chịu đựng của thiết giáp hạm trước sức tấn công của không quân hải quân, trong các chiến dịch Hải chiến, với sức mạnh vượt gấp nhiều lần của nền công nghiệp quốc phòng, với khả năng có thể trang bị cho Hải quân những vũ khí và thiết bị quân sự tối tân nhất, lực lượng Đồng minh đã có ưu thế cả trên không và trên biển. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các lực lượng tham gia tác chiến, lấy không quân Hải quân, với các pháo đài bay B-17 làm chủ đạo, các máy bay cường kích mang ngư lôi và bom đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng tầu ngầm, lực lượng bộ binh cơ giới. Vượt trội hơn Nhật bản về công nghệ sản xuất máy bay chiến đấu, máy bay trinh sát và hệ thống radar, Mỹ đã tăng cường sức mạnh tối đa của không quân Hải quân. Quân đội Đồng minh đã tiến hành các chiến dịch tuy quét lực lượng hải quân Nhật bản, tập trung máy bay tấn công với số lượng lớn nhằm tiêu diệt các tầu sân bay của lực lượng hải quân Nhật bản, đầu năm 1945, hầu hết các hạm đội của Nhật bản đều nằm sâu dưới đáy biến, đồng thời dùng lực lượng bộ binh, không quân đánh quỵ tiềm năng chiến tranh của Nhật. Từ đó triển khai những chiến dịch tấn công đổ bộ lên đảo Okinawa, Nhật hoàng đọc tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện.
Trên mặt trận Liên xô – Đức, các trận hải chiến diễn ra ban đầu với ưu thế là hải quân và không quân Đức với nhiệm vụ tấn công các căn cứ hải quân của Liên bang Xô viết, lực lượng Hải quân của Liên xô phối hợp với không quân và lực lượng phòng không, lục quân tiến hành các chiến dịch bảo vệ các căn cứ và yểm trợ bộ binh bằng hỏa lực pháo binh. Sự phát triển mạnh mẽ trên chiến trường của lục quân và không quân đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hải quân Xô viết, lực lượng hải quân Xô viết triển khai các chiến dịch đánh tiêu diệt các tuyến đường vận tải của Đức bằng tầu ngầm, các hạm đội tham gia tích cực trong các chiến dịch phòng thủ, phản công và đổ bộ đường biển, lực lượng hải quân 2 biên chiến đấu chủ yếu bằng các hoạt động tác chiến của không quân hải quân, pháo hạm và tầu ngầm với các hoạt động tấn công tầu nổi và săn ngầm.

Trận chiến vịnh Leyte đánh quỵ tiềm năng cuối cùng của Hải quân Nhật bản
Chiến dịch giải phóng Mãn Châu, đánh tiêu diệt gần 1 triệu quân Quan Đông Nhật bản là sự phối hợp hoàn hảo giữa lực lượng lục quân, không quân và hải quân, trong đó lực lượng lục quân đóng vai trò quyết định chiến trường, các lực lượng không quân và hạm đội Thái bình dương giữ nhiệm vụ yểm trợ hỏa lực từ trên không, trên biển. Trong chiến dịch giải phóng Mãn châu, với sự tham gia của Hạm đội sông Amur, Hạm đội Thái bình dương, đã tiến hành các cuộc đổ bộ bằng lực lượng hải quân đánh bộ, đánh bao vây và tiêu diệt lực lượng phòng thủ bờ biển của đối phương, giả phóng quần đảo Kuril. Trong các chiến dịch có sử dụng Hải quân, bao vây tiêu diệt lực lượng đối phương đã trở thành phương thức tác chiến cơ bản của quân đội Xô viết, đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ của các phương án tổ chức lực lượng tác chiến chiều sâu và sức cơ động nhanh, đảm bảo của lực lượng công binh và hậu cần kỹ thuật, ngụy trang đánh lừa định bằng nhiều biện pháp tổng hợp, và hoạt động tác chiến sau lưng địch. Những phương án tác chiến phối hợp đa chiều, đa dạng đã được tổng hợp thành sức mạnh đột phá ở hướng chính của chiến trường. Các lực lượng tham gia tác chiến, trong đó có lực lượng hải quân đã chủ động tác chiến độc lập, triển khai những chiến dịch lớn với sự tham gia của các đơn vị binh chủng hợp thành như không quân, không quân hải quân, đổ bộ đường không, đổ bộ đường biển, hỏa lực yểm trợ tầm xa và tầm gần của các chiến hạm. Các lực lượng tác chiến đã thực hiện những đòn tấn công bí mật, bất ngờ, liên kết chặt chẽ, lực lượng đột phá được tăng cường đến mức tối đa, các hoạt động tác chiến diễn ra liên tục với tốc độ tấn công rất cao, các thê đội 2 cũng đã triển khai nhanh chóng, hình thành thế bao vây, tiêu diệt, truy quét các lực lượng của đối phương. Trong các trận đánh của lực lượng Hải quân, nổi bật lên là khả năng đánh phá các căn cứ quân sự ven biển, đổ bộ đường thủy, tấn công và bảo vệ sườn của chiến trường, tạo sức ép cho lực lượng bộ binh dành chiến thắng ở hướng chính diện. Trong đó, việc sử dụng lực lượng không quân Hải quân và đổ bộ đường biển đã chở thành phương thức tác chiến chủ yếu của Hải quân trong giai đoạn mới.

Trận chiến vịnh Leyte đánh quỵ tiềm năng cuối cùng của Hải quân Nhật bản
Cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử loài người kết thúc, đối với lực lượng Hải quân, trong một thời gian gian ngắn, đã đặt dấu chấm hết cho thời kỳ vinh quang của Thiết giáp hạm và pháo hạm, lực lượng không quân và tầu sân bay đóng vai trò đòn đánh chủ lực trong nhiệm vụ đánh tiêu diệt hạm đội đối phương. Phương thức tác chiến chiến dịch cũng đã thay đổi căn bản, đó là phương thức tác chiến làm chủ không gian (Không – Hải) và Đáy hải dương, các chiến dịch tiến công được triển khai liên tiếp, dồn dập. Không gian chiến trường mở rộng đến tận căn cứ của đối phương, các đòn tiến công được sử dụng từ trên không, trên biển và dưới biến. Lực lượng đổ bộ là lực lượng chủ đạo quyết định chiến trường.
Sau đại chiến thế giới lần thứ II, thế giới bước vào sự bất ổn triển miên của cuộc chạy đua vũ trang các cường quốc quân sự, với sự hơn hẳn của nền khoa học công nghệ quốc phòng, nước Mỹ đã dần vươn lên thành cường quốc biển, từ những kinh nghiệm chiến đấu trên biển với quân đội Nhật bản, người Mỹ đã hình thành lý luận Thống trị không gian và áp dụng vào thực tiễn tác chiến trên biển với vũ khí trang bị, khoa học công nghệ hiện đại nhất.
Bắt đầu từ những cuộc chay phát triển lực lượng hải quân chiến lược mà vũ khí chủ lực là tầu ngầm nguyên tử mang đầu đạn tên lửa hạt nhân và đầu đạn thường, tầu sân bay và các tầu tuần dương tên lửa, người Mỹ đã tham gia hầu hết tất cả các cuộc chiến tranh, xung đột khu vực trên toàn thế giới với lực lượng hải quân viễn dương của mình, Hải quân đã trở thành lực lượng tác chiến chiến lược của chính sách thống trị đại dương, toàn cầu hóa của Mỹ
Thực hiện các cuộc chiến tranh như Nam, Bắc Triều tiên, chiến tranh Việt Nam và giải quyết hàng loạt các cuộc xung đột khác, Hải quân Mỹ chủ trường xây dựng những hạm đội hùng mạnh, có khả năng tác chiến lâu dài trên biển quốc tế, sức mạnh chiến đấu tấn công hầu hết dựa vào sức mạnh của không quân hải quân trên các tầu sân bay, tầu ngầm nguyên tử và các loại vũ khí ngoài đường chân trời của Mỹ.

Thực hiện các cuộc chiến tranh như Nam, Bắc Triều tiên, chiến tranh Việt Nam và giải quyết hàng loạt các cuộc xung đột khác, Hải quân Mỹ chủ trường xây dựng những hạm đội hùng mạnh, có khả năng tác chiến lâu dài trên biển quốc tế, sức mạnh chiến đấu tấn công hầu hết dựa vào sức mạnh của không quân hải quân trên các tầu sân bay, tầu ngầm nguyên tử và các loại vũ khí ngoài đường chân trời của Mỹ.

Lực lượng tác chiến Hải quân Mỹ trên chiến trường Triều Tiên
Các chiến dịch tác chiến với uy lực vượt trội về không quân Hải quân, người Mỹ đã thành công trong chiến trường Nam Bắc Triều Tiên với phương thức sử dụng tối đa hỏa lực của không quân hải quân và sự tham chiến của lực lượng lính thủy đánh bộ, nguyên tắc tác chiến được đề xuất là Thống trị bầu trời được áp dụng ở cuộc chiến tranh với hỏa lực tầm xa áp đảo đã cho phép các lực lượng quân đội Mỹ dành được thằng lợi trong cuộc chiến đấu. Từ chiến tranh Triều Tiên, người Mỹ bước vào cuộc chiến tranh dài nhất trong lịch sử nước Mỹ, với sự tham gia tích cực của hải quân Mỹ trên chiến trường ở Việt Nam.


Tầu sân bay mỹ trong chiến dịch phong tỏa Vịnh Bắc bộ
Áp dụng những kinh nghiệm sử dụng hải quân trong đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng Hải quân Mỹ với ưu thế tuyệt đối trên không và trên biển, đã tiến hành hàng loạt những chiến dịch bao vây phong tỏa biển Đông, sử dụng hỏa lực pháo hạm khống chế bờ biển, tấn công các mục tiêu theo yêu cầu của các lực lượng tác chiến trên bộ, máy bay chiến đấu quản lý bầu trời miền Nam Việt nam, tham gia các cuộc tấn công đánh phá Miền Bắc Việt Nam, sử dụng các lực lượng đổ bộ tham chiến cùng với quân đội chính thể Sài Gòn.
Nhưng dù sức mạnh quân sự chênh lệch rất lớn, quân đội Mỹ vẫn không làm chủ được chiến trường miền Nam, Hạm đội của Mỹ từ vai trò tác chiến tiến công đến vai trò yểm trợ hỏa lực, và kết thúc bằng nhiệm vụ cứu hộ cho các lực lượng quân sự Mỹ rút khỏi Việt nam.
Nhưng dù sức mạnh quân sự chênh lệch rất lớn, quân đội Mỹ vẫn không làm chủ được chiến trường miền Nam, Hạm đội của Mỹ từ vai trò tác chiến tiến công đến vai trò yểm trợ hỏa lực, và kết thúc bằng nhiệm vụ cứu hộ cho các lực lượng quân sự Mỹ rút khỏi Việt nam.
Thất bại trong chiến tranh Việt nam, hải quân Mỹ đã rút ra những kinh nghiệm sâu sắc trong tiến trình can thiệp vũ trang và chiến dịch quân sự trong chiến tranh cục bộ. Lực lượng Hải quân đã thay đổi phương thức tiền hành các chiến dịch tác chiến Hải – Không – Bộ, bằng phương thức tiến hành các chiến dịch Không - Hải, có sự tham gia triệt để của hệ thống truyền thông, trinh sát, thông tin liên lạc và quản lý chiến trường, trong đó lấy hỏa lực của tên lửa hành trình phòng từ tầu nổi hoặc tầu ngầm, pháo hạm có sử dụng các đầu đạn tự dẫn chủ động và bán chủ động, không quân hải quân với phương thức sử dụng vũ khí chính xác là vũ khí chủ lực nhằm tiêu diệt các mục tiêu quan trọng của chiến dịch, sử dụng lực lượng lính thủy đánh bộ để giải quyết chiến trường.

Sơ đồ tác chiến của Mỹ trong chiến dịch Tự do cho Iraq

Sơ đồ tác chiến của Mỹ trong chiến dịch Tự do cho Iraq
Các chiến dịch do lực lượng hải quân Mỹ tiến hành như chiến dịch Bão táp sa mạc, Chiến dịch không kích Cosovo, chiến dịch tiến công Iraq (Operation Iraqi Freedom), và chiến dịch gần đây nhất Lybia, đều theo một kịch bản tương đối giống nhau, người Mỹ đã tập trung một số lượng lớn các tầu sân bay, các chiến hạm được trang bị tên lửa hành trình, không quân Hải quân, phối hợp với lực lượng Không quân làm đòn tiến công quyết định tiêu diệt lực lượng phòng thủ của đối phương, đánh quỵ tiềm năng quân sự của đối phương, các lực lượng lính thủy đánh bộ đổ bộ chiếm các mục tiêu quan trọng như các giếng dầu, các nhà máy, cơ sở kinh tế quan trọng, căn cứ đầu cầu làm bàn đạp cho lực lượng lục quân giải quyết chiến trường.
Trận hải chiến cuối cùng đánh dấu sự kết thúc của kịch bản chiến dịch những trận hải chiến của tầu nổi tác chiến đối đầu trên mặt biển, sử dụng các phương tiện, vũ khí tranh bị như máy bay trên boong tầu, pháo hạm và ngư lôi tấn công tiêu diệt các hạm đội đối phương và đánh dấu sự phát triển của Không quân Hải quân là chiến dịch đánh chiếm lại South Georga và Quần đảo Falkland của lực lượng Hải quân Anh.

Trong chiến dịch đánh chiếm lại quần đảo Falkland nước Anh đã cử một hạm đội chiến hạm hiện đại, có sự yểm trợ của tầu sân bay, tầu ngầm nguyên tủ và lực lượng hải quân đánh bộ hùng mạnh, với vũ khí trang bị hiện đại để tấn công chiếm lại quần đảo. Lực lượng đối kháng Argentina với những tầu chiến cũ, lực lượng không quân rất yếu và sở hữu những máy bay thế hệ cũ như McDonnell Douglas A-4 Skyhawks, Israel Aircraft Industries Daggers, English Electric B Mk 62 Canberras và Dassault Mirage III, trong đó, chỉ có Mirage III được trang bị tên lửa không đối không. Lực lượng hải quân của Anh với tầu sân bay, máy bay chiến đấu hải quân Sea Harrier. Sau khi lực lượng Hải quân Anh đánh chìm một tầu chiến và đánh thiệt hại nặng một tầu ngầm của Argentina, không quân và không quân Hải quân của Argentina mở những cuộc tấn công liên tiếp vào hạm đội Anh, để tránh máy bay và hệ thống phòng không trên tầu, các máy bay mang bom chìm và tên lửa Exocet đã thoát khỏi lưới lửa phòng không của Hải quân Anh và đánh thiệt hại nặng nề hạm đội của Anh, phối hợp với lực lượng phòng thủ bờ biển, người Argentina đã đánh chìm 6 chiến hạm loại khu trục và tuần biển, tầu hỗ trợ và tầu hàng, đánh tổn thất nặng nề 12 tầu khác. Cho dù mục tiêu chiến lược không đạt được, nhưng thông qua kinh nghiệm cuộc chiến đấu này, rõ ràng, chiến thuật bay thấp, phóng tên lửa hoặc phóng bom đã gần như vô hiệu hóa lực lượng của tầu chiến, đồng thời đây cũng là điểm yếu của hải quân Anh.

Hoạt động hạm đội Hoàng gia Anh trên biển Argentina
Trong chiến dịch đánh chiếm lại quần đảo Falkland nước Anh đã cử một hạm đội chiến hạm hiện đại, có sự yểm trợ của tầu sân bay, tầu ngầm nguyên tủ và lực lượng hải quân đánh bộ hùng mạnh, với vũ khí trang bị hiện đại để tấn công chiếm lại quần đảo. Lực lượng đối kháng Argentina với những tầu chiến cũ, lực lượng không quân rất yếu và sở hữu những máy bay thế hệ cũ như McDonnell Douglas A-4 Skyhawks, Israel Aircraft Industries Daggers, English Electric B Mk 62 Canberras và Dassault Mirage III, trong đó, chỉ có Mirage III được trang bị tên lửa không đối không. Lực lượng hải quân của Anh với tầu sân bay, máy bay chiến đấu hải quân Sea Harrier. Sau khi lực lượng Hải quân Anh đánh chìm một tầu chiến và đánh thiệt hại nặng một tầu ngầm của Argentina, không quân và không quân Hải quân của Argentina mở những cuộc tấn công liên tiếp vào hạm đội Anh, để tránh máy bay và hệ thống phòng không trên tầu, các máy bay mang bom chìm và tên lửa Exocet đã thoát khỏi lưới lửa phòng không của Hải quân Anh và đánh thiệt hại nặng nề hạm đội của Anh, phối hợp với lực lượng phòng thủ bờ biển, người Argentina đã đánh chìm 6 chiến hạm loại khu trục và tuần biển, tầu hỗ trợ và tầu hàng, đánh tổn thất nặng nề 12 tầu khác. Cho dù mục tiêu chiến lược không đạt được, nhưng thông qua kinh nghiệm cuộc chiến đấu này, rõ ràng, chiến thuật bay thấp, phóng tên lửa hoặc phóng bom đã gần như vô hiệu hóa lực lượng của tầu chiến, đồng thời đây cũng là điểm yếu của hải quân Anh.
Kinh nghiệm triển khai chiến dịch chống tầu của Argentina cho thấy: Mặc dù lực lượng hải quân của Argentina rất yếu, lực lượng không quân và không quân Hải quân của Argentina cũng sử dụng các loại phương tiện chiến đấu cũ và kém hiệu quả, nhưng với phương thức tác chiến hiệu quả. Bay nghi binh thu hút lực lượng phòng không, các máy bay mang tên lửa và mang bom chống tầu, bay với trần bay rất thấp đã thoát khỏi hệ thống trinh sát-phòng không trên tầu đối phương. Và các đòn đánh của không quân Hải quân đã thành công trong việc đánh chìm một số lượng lớn tầu chiến đấu của Anh.

Sơ đồ đổ bộ của lực lượng SAS hải quân

Sơ đồ đổ bộ của lực lượng SAS hải quân
Từ phía người Anh, rõ ràng sự thiếu vắng của hệ thống chỉ huy, cảnh báo sớm đã đặt Hải quân Anh vào trong trạng thái phải chiến đấu với một cuộc chiến tranh du kích trên biển, tầm hoạt động quá xa khiến người Anh không thể duy trì một thế trận thống trị, quản lý bầu trời và tấn công sân bay của Argentina, mặc dù chiến trường đã được giải quyết bằng lực lượng Đắc nhiệm và lính thủy đánh bộ. Nhưng rõ ràng, trước những chiến dịch tấn công của không quân Hải quân trong phương thức tác chiến (Mạng tầu) Lực lượng hải quân Anh đã chịu đựng những tổn thất nặng nề.


Máy bay A-4 Skyhawk tấn công tầu chiến của Anh
Giai đoạn Chiến tranh lạnh kết thúc, Nhiệm vụ phát triển Hải quân viễn dương trở thành mục tiêu mang tính chiến lược của các quốc gia biển, sự phát triển hải quân dựa hoàn toàn vào tiêu chí phát triển các loại tầu ngầm diezen có khả năng bơi dài ngày dưới biển, được tranh bị tên lửa hành trình và ngư lội chống hạm, đổng thời các tầu chiến hạm cũng phát triển theo hướng tàng hình hóa, tốc độ cao, mang theo các loại vũ khí hiện đại như tên lửa phòng không tầm gần, tầm xa, tên lửa hành trình hải đối đất và tên lửa hành trình chống hạm, máy bay hải quân được trang bị các loại vũ khí chống tầu ngầm và tầu nổi. Từ sự phát triển vũ khí trang bị, các cường quốc biển phát triển nghệ thuật tác chiến không gian đa chiều, trọng tâm chú ý vào khả năng chiếm quyền chủ động trên không và dưới đáy đại dương bằng năng lực phòng không tầm xa (trên 180 km với tên lửa mấu S-300) và các lực lượng săn ngầm và chống ngầm, đồng thời phát triển xu hương quản lý không gian, cảnh báo sớm và tác chiến điện tử. Các xu hướng phòng thủ bờ biển tập trung vào tuyến phòng thủ đa tầng, đa lớp, phòng thủ bờ biển tầm xa bằng tên lửa chống tầu tấn công từ trên không, trên biển và tuyến phòng thủ bờ biển, đồng thời cũng phát triển nghệ thuật chiến đấu cấp chiến dịch của lực lượng tầu ngầm, do đó, hình thành nghê thuật tác chiến cấp chiến dịch về tấn công bằng tầu ngầm (bao gồm cả tầu ngầm nguyên tử, tầu ngầm diezen triệt tiêu tiếng ồn) săn lùng tầu ngầm đối phương trong tác chiến săn ngầm dưới đáy biển - đại dương.
Từ kinh nghiệm lịch sử, có thể nhận thấy, các lực lượng hải quân khi triển khai các chiến dịch chiến đấu tiến công hải dương, mô hình tác chiến sẽ có những mục tiêu cụ thể:
- Khống chế và làm chủ không gian Không – Hải bằng những đòn tiến công tiêu diệt các lực lượng tác chiến trên không và trên biển của đối phương, phong tỏa bờ biển và tiêu diệt lực lượng phòng thủ bở biển và vùng nước nông.
- Triển khai các lực lượng chống ngầm, đánh tiêu diệt tầu ngầm đối phương.
- Đổ bộ đường biển.
Khi triển khai các chiến dịch phòng thủ bờ biển, thông thường đối với lực lượng hải quân đối phương có tiềm lực quân sự mạnh hơn:
Khi triển khai các chiến dịch phòng thủ bờ biển, thông thường đối với lực lượng hải quân đối phương có tiềm lực quân sự mạnh hơn:
- Mở rộng không gian chiến trường, phá thể làm chủ không gian Không Hải bằng những đòn tấn công vào căn cứ hậu cần kỹ thuật của địch, các tuyến vận tải hàng hải và bao vây cô lập tầm xa.
- Sử dụng lực lượng không quân Hải quân, và hải quân triển khai các chiến dịch tấn công có tốc độ tác chiến rất cao, tiêu diệt các tầu chiến của đối phương trong những chiến dịch nhanh, liên tiếp, từ nhiều hướng khác nhau.
- Thực hiện các chiến dịch bí mật, bất ngờ độc lập tác chiến của lực lượng tầu ngầm, tiến hành các cuộc đấu tranh dưới đáy biển, đại dương.Xem phần 5
Chiến thuật (Hy lạp . taktiká) — nghệ thuật tổ chức quân đội, thành phần của nghệ thuật quân sự, bao gồm lý luận và thực tế huấn luyện và tiến hành các trận chiến đấu của các đơn vị binh chủng hợp thành, các phân đội (chiến hạm) và các đơn vị của các binh chủng, quân chủng và lực lượng bộ đội đặc nhiệm.
Khái niệm chiến thuật hải quân
Xem phần 6
Khái niệm chiến thuật hải quânChiến thuật bao gồm nghiên cứu, phát triển, huấn luyện và triển khai các hoạt động tác chiến: tiến công, phòng ngự, phản công, đánh chặn và tổ chức biên chế các đơn vị tham gia tác chiến.v..v.
Trong các lực lượng vũ trang Liên bang Nga, chiến thuật đứng ở vị trí quan hệ phụ thuộc đối với nghệ thuật chiến dịch và chiến lược. Nghệ thuật chiến dịch xác định nhiệm vụ và hướng phát triển của chiến thuật, trên cơ sở năng lực tác chiến của các đơn vị hợp thành và các phân đội, tính chất và đặc thù các hoạt động tác chiến của các đơn vị. Căn cứ vào thực tế yêu cầu nhiệm vụ, căn cứ vào sự phát triển của các hoạt động tác chiến cụ thể trên chiến trường, nghệ thuật tác chiến sẽ đề xuất những yêu cầu biên chế các phương tiện, bao gồm phát triển vũ khí hạt nhân, hoàn thiện và phát triển vũ khí trang bị công nghệ hiện đại, liên kết phối hợp giữa các lực lượng. Mối quan hệ giữa nghệ thuật chiến lược, chiến dịch, chiến thuật trở lên đa phương, đa chiều và biến động không ngừng. Nghệ thuật tác chiến bằng vũ khí hạt nhân và vũ khí công nghệ hiện đại cho phép các chỉ huy trưởng đơn vị, mặt trận phát huy tính độc lập, sáng tạo và nhanh chóng hoàn thành được những mục tiêu được giao trong chiến đấu. Những thành công của hoạt động tác chiến chiến thuật trên thực tế là những kết quả đặt ra của yêu cầu chiến dịch. Đồng thời, khi các bộ tư lệnh cấp chiến lược và chiến dịch ra những đòn tấn công quyết định (hạt nhân, vũ khí công nghệ cao) mang tính chiến lược hoặc chiến dịch vào nhưng mục tiêu quan trọng như các trung tâm quân sự, kinh tế hoặc các đòn tấn công vào các cụm tập trung binh lực quan trọng của đối phương nhằm giải quyết các nhiệm vụ mang tính chiến lược sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị binh chủng hợp thành, các phân đội binh chủng thực hiện tốt nhiệm vụ cấp chiến thuật.

Tên lửa chống hạm phóng từ tầu tuần duyên Slam

Tên lửa chống hạm phóng từ tầu tuần duyên Slam
Nhiệm vụ của chiến thuật là nghiên cứu những hoạt động có tính quy luật, tính chất và nội dung của một trận đánh, nghiên cứu phát triển phương pháp huấn luyện tác chiến và tác chiến, nghiên cứu xác định những giải pháp sử dụng vũ khí trang bị tấn công tiêu diệt, phòng ngự và bảo vệ; nghiên cứu những tính chất kỹ chiến thuật của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị binh chủng, các đơn vị có tổ chức biên chế phối hợp quân binh chủng, xác định rõ nhiệm vụ của các đơn vị và tổ chức đội hình tác chiến khi tiến hành các trận đánh và những phương pháp liên kết phối hợp giữa các đơn vị tham gia chiến đấu. Nghiên cứu mục đích, vai trò của hỏa lực, phát triển những tư duy mới về điều hành tác chiếc các binh đoàn, các đơn vị hợp đồng chiến đấu, tính năng và khả năng tác chiến của các đơn vị quân binh chủng liên kết phối hợp, bảo đảm hậu phương chiến trường và bảo đảm hậu cần kỹ thuật; nghiên cứu binh lực và vũ khí trang bị và những phương pháp tiến hành tác chiến của đối phương.

Tên lửa chống tầu phóng từ tầu tuần biển

Tên lửa chống tầu phóng từ tầu tuần biển
Các lực lương (Lục quân) (Không quân) (Hải quân), các đơn vị hợp thành, các binh chủng (hải quân trên tầu, hải quân đánh bộ, không quân hải quân) ; các đơn vị đặc nhiệm (thực hiện nhiệm vụ đặc biệt) những đơn vị hậu cần kỹ thuật (các đơn vị bảo đảm của hậu phương hoặc công binh, kỹ thuật quân binh chủng) giao thông vận tải đường bộ và đường sắt cũng có những chiến thuật riêng biệt, nghệ thuật tác chiến các đơn vị chuyên ngành đi sâu nghiên cứu những tính chất chiến thuật, năng lực chiến đấu của các đơn vị hợp thành, các đơn vị binh chủng và các chiến hạm, các phân đội của các binh chủng ( hải quân đánh bộ, không quân hải quân), các lực lượng đặc nhiệm (đặc công thủy, lính thủy đánh bộ), khả năng sử dụng các lực lượng cụ thể trong tác chiến độc lập và tác chiến hợp đồng quân chủng, binh chủng. Những quy luật chung và những quan điểm huấn luyện tác chiến và tác chiến của các binh đoàn hợp đồng tác chiến quân binh chủng, các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị binh chủng, các phân đội độc lập và các lực lượng đặc nhiệm hình thành những cơ sở lý luận cơ bản của chiến thuật. Nghiên cứu những điều kiện đa dạng, phức tạp của chiến trường, chiến thuật không đưa ra những chiến lệ có sẵn. Chiến thuật chỉ đưa ra những quan điểm và nguyên tắc quan trọng nhất, tuân thủ theo những nguyên tắc và quan điểm chiến thuật đó, người chỉ huy ra những quyết tâm chiến đấu độc lập, năng động và sáng tạo, căn cứ vào những điều kiện thực tế của chiến trường tại thời điểm xác định.

Tầu ngầm nguyên tử phóng tên lửa đạn đạo

Tầu ngầm nguyên tử phóng tên lửa đạn đạo
Những thay đổi trong chiến thuật thông thường liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của công nghiệp quốc phòng, những phát minh mới về vũ khí trang bị và phương tiện chiến tranh, sự phát triển của chung của xã hội và trạng thái tư tưởng chính trị tinh thần và tri thức của lực lượng vũ trang, sự phát triển của tư tưởng chiến lược và nghệ thuật chiến dịch, cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang nói chung và các quân binh chủng nói riêng. Ảnh hưởng trực tiếp lên chiến thuật là con người và vũ khí trang bị. Chiến thuật là thành phần năng động, liên tục thay đổi của nghệ thuật quân sự. Ảnh hưởng trực tiếp lên chiến thuật là tình hình phát triển và huấn luyện chiến đấu của đối phương (dự kiến), năng lực và phương thức tiến hành các hoạt động tác chiến của đối phương, vũ khí trang bị và những yếu tố quan trọng khác…. Những phương án tác chiến mới, được xây dựng trên cơ sở sử dụng vũ khí trang thiết bị hiện đại luôn luôn trong trạng thái đối kháng, mâu thuẫn với các phương thức tác chiến cũ hơn, mặc dù các phương thức tác chiến cũ đã không đáp ứng được yêu câu nhiệm vụ trong giai đoạn mơi, nhưng đã trở thành thói quen hoặc nếp suy nghĩ cũ, in sâu trong lý luận và thực tiễn chiến trường.
Chiến thuật không quân hải quân.
Chiến thuật không quân Hải quân, là một phần của chiến thuật lực lượng không quân, bao gồm lý luận và thực tế huấn luyện tác chiến của các đơn vị binh chủng hợp thành, các đơn vị không quân binh chủng, các phi đoàn, phi đội và máy bay tác chiến độc lập (trực thăng chiến đấu) Chiến thuật không quân hình thành và phát triển vào đầu thế kỷ 20, khi hình thành lực lượng không quân quân sự. Trong đại chiến thế giới lần thứ nhất, không quân thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, tiêm kích, cường kích ném bom, căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của từng binh chủng không quân, nghệ thuật quân sự phát triển nghệ thuật tác chiến không quân.
Nghệ thuật quân sự không quân Xô viết hình thành và phát triển vào thời gian Nội chiến chống Bạch vệ và can thiệp nước ngoài. Những nguyên tắc sử dụng không quân được ghi lại trong Điều lệnh chiến trướng năm 1919 và các văn kiện quân sự khác. Lực lượng máy bay cường kích đánh chặn của Xô viết phát triển năm 1926, lực lượng ném bom chiến lượng hạng nặng 1933. Không quân xô viết đã phát chiến nghệ thuật tác chiến không quân và phương thức sử dụng lực lượng không quân cho tác chiến các không gian chiến trường khác nhau. Đến thời điểm đầu tiên của của cuộc Chiến tranh vệ quốc Vĩ đại đã phát triển các phương án và kỹ thuật tác chiến độc lập và tác chiên không đoàn, tổ chức và triển khai các hoạt động phối hợp tác chiến, yểm trợ hỏa lực với Hải quân và Lục quân, đông thời tác chiến liên kết phối hợp các binh chủng của lực lượng không quân. Những lý luận và nghiên cứu thực tiễn cơ bản được thể hiện cụ thể trong điều lệnh tác chiến của binh chủng không quân tiêm kích (BUBA – 1940)

Sơ đồ tác chiến của phi đoàn máy bay IL2 tấn công đoàn congvoa quân sự của Đức trên vịnh Phần Lan

Sơ đồ tác chiến của phi đoàn máy bay IL2 tấn công đoàn congvoa quân sự của Đức trên vịnh Phần Lan
Trong chiến tranh thế giới thứ II và cuộc chiến tranh Vệ quốc, chiến thuật của không quân đã có sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực. Đã xây dựng hệ thống dẫn đường cho máy bay tiêm kích dến mục tiêu. Để điều hành tác chiến, không quân đã sử dụng rộng rãi các đài ra đa, sân bay dã chiễn và các trạm chỉ huy không quân gần chiến trường.
Nhiệm vụ cơ bản của không quân tiêm kích là các phi đội, phi đoàn tham gia không chiến. Một đơn vị chiến đấu nhỏ nhất cũng bao gồm 2 máy bay tiêm kích, tác chiến trong đội hình chiến đấu chung của phi đội, phi đoàn, tác chiến độc lập của một máy bay tiêm kích rất hiếm sử dụng. Sử dụng radar dẫn đường cho phép giảm thiểu rất nhiều số lượng máy bay tiêm kích bay trực chiến trên bầu trời, thay bằng phương pháp trực sẵn sàng chiến đấu trên sân bay. Tác chiến với các máy bay đơn lẻ hoặc các phi đội nhỏ của đối phương trên địa bàn hoạt động của địch thông thường sử dụng phương pháp " đi săn tự do). Máy bay cường kích ném bom tấn công các mục tiêu trên biển, trên đất liền theo phương pháp bổ nhào với góc phóng là 25 - 30° hoặc theo phuwowg pháp thả rơi tự do. Đội hình tác chiến cơ bản nhất là đội hình 2 máy bay 1 trước, một yểm trợ. Để tăng cường thời gian chế áp đối phương, lực lượng máy bay cường kích thường tấn công nhiều đợt các mục tiêu được giao.

Sơ đồ tấn công của phi đoàn máy bay cường kích đánh chăn tấn công mục tiêu
trong đại chiến thế giới lần thứ 2

Sơ đồ tấn công của phi đoàn máy bay cường kích đánh chăn tấn công mục tiêu
trong đại chiến thế giới lần thứ 2
Trong chiến thuật tấn công bằng bom và ngư lôi của binh chủng không quân hải quân, phương thức tác chiến được áp dụng là sử dụng các đòn tấn công tập trung của các trung đoàn và phi đoàn máy bay ném bom, ngư lôi vào các mục tiêu quan trọng ( các trung tâm chỉ huy, căn cứ quân sự, các chiến hạm lớn như tuần dương hạm, khu trục hạm, trong điều kiện thời tiết rất xấu và ban đêm. Các đòn tấn công theo từng đợt liên tiếp của các phi đội ( 8 – 12 máy bay ném bom), theo dây truyền và từng chiếc máy bay ném bom. Phương án ném bom mới là tấn công bổ nhào với góc rơi là 50 - 60° từ chiều cao 2000 đến 3000m.
Trong chiến thuật, phương pháp trinh sát không ảnh đóng vai trò quan trọng trên chiến trường. không ảnh do máy bay trinh sát các loại thực hiện, từ trinh sát tầm cao đến trinh sát của máy bay không người lái. Không ảnh giúp cho người chỉ huy tác chiến nắm được thực địa vào thời điểm chuẩn bị tiến công, các mục tiêu trong ảnh và các mục tiêu trên bản đồ tác chiến. Đồng thời, máy bay trinh sát được che chắn và bảo vệ bởi máy bay tiêm kích.
Trong chiến thuật, phương pháp trinh sát không ảnh đóng vai trò quan trọng trên chiến trường. không ảnh do máy bay trinh sát các loại thực hiện, từ trinh sát tầm cao đến trinh sát của máy bay không người lái. Không ảnh giúp cho người chỉ huy tác chiến nắm được thực địa vào thời điểm chuẩn bị tiến công, các mục tiêu trong ảnh và các mục tiêu trên bản đồ tác chiến. Đồng thời, máy bay trinh sát được che chắn và bảo vệ bởi máy bay tiêm kích.
Nửa cuối thế kỷ 20, không quân nói chung và không quân Hải quân nói riêng được trang bị các máy bay phản lực, có tốc độ cao (máy bay siêu thanh) tầm bay cao hơn, xuất hiện nhiều loại vũ khí của không quân có sức công phá và hủy diệt lớn hơn nhiều lần. Sự thay đổi phương tiện chiến tranh và vũ khí trang bị đã làm thay đổi hoàn toàn phương thức tác chiến không quân và phương thức tác chiến của binh chủng không quân Hải quân, các đơn vị trực thuộc binh chủng. Máy bay chiến đấu mang các loại tên lửa và bom, ngư lôi có điều khiển khác nhau có khả năng tấn công các mục tiêu trên không, trên biển và trên đất liền từ rất xa, không bay vào khu vực phòng không bảo vệ mục tiêu của đối phương. Trinh sát không quân cũng có những thay đổi to lớn nhờ công nghệ hiện đại, tốc độ bay rất cao và trần bay tới của máy bay cũng rất lớn. Máy bay được trang bị các thiết bị chụp ảnh ngày đêm, thiết bị radar dạng pha tìm kiếm mục tiêu rất mạnh và công suất lớn, sử dụng công nghệ tàng hình ( strealth) máy bay trinh sát có thể đơn độc bay vào khu vực phòng không bảo vệ của mục tiêu.


Sơ đồ đội hình tấn công của máy bay tàng hình F117
Chiến thuật không quân hải quân bao gồm các nhóm chiến thuật nói chung là:
Tiêm kích hải quân, lực lượng các đơn vị máy bay tiêm kích có căn cứ bên bờ biển, trên hạm đội hoặc tiếm kích hải quân được hỗ trợ bằng lực lượng tiếp dầu trên không.
Cường kích chống hạm, lực lượng không quân đảm nhiệm những nhiệm vụ tấn công các hạm tầu của đối phương, sử dụng ngư lôi chống tầu ngầm và tầu nổi.
Cường kích đánh chặn: Các phi đoàn có nhiệm vụ tấn công các hạm đội, các đoàn congvoa quân sự trên biển, đảm nhiệm cả 2 nhiệm vụ chống tầu và không chiến. Được trang bị tên lửa chống tầu, tên lửa không đối không, bom điều khiển laser.
Cường kích tầm xa: Là những phi đội thực hiện các nhiệm vụ tấn công tầm xa, khí liên bang phát triển hệ thống tầu sân bay, lực lượng cường kích tầm xa có thể phối hợp với máy bay ném bom chiến lược thực hiện các nhiệm vụ ở khu vực chiến trường xa căn cứ.

Trực thăng hải quân KA 28

Trực thăng hải quân KA 28
Máy bay trinh sát đa nhiệm (hệ thống các máy bay trực thăng trên boong tầu) có nhiệm vụ trinh sát quản lý vùng biển, tìm kiếm săn ngầm, thả bom chìm, bố trí bãi thủy lôi, đổ bộ các hải đoàn lính đặc nhiệm, chống khủng bố, biệt kích và tìm kiếm cứu hộ cứu nạn.v..v. Lực lượng trực thăng chiến đấu trên boong tầu tuần duyên, tuần biển thường được bố trí rất nhiều nhiệm vụ đa dạng, phức tạp. Được yểm trợ hỏa lực của chính tầu chở nó.

Sơ đồ tác chiến của máy bay tiêm kích Mig 29

Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng bom 01

Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng bom 02


Sơ đồ tác chiến của máy bay tiêm kích Mig 29

Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng bom 01

Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng bom 02

Sơ đồ phi đội không quân tấn công chiến hạm bằng ngư lôi
Về cơ bản, chiến thuật tác chiến của không quân hải quân cũng tương tự như chiến thuật của không quân tiêm kích và cường kích của lực lượng Không quân Liên bang, nhưng được bổ xùng bằng những yếu tố đặc thù của không gian chiến trường. Nếu so với chiến trường mặt đất, chiến trường mặt biển có đặc thù phức tạp hơn về thời tiết, hướng gió, khí hậu và luồng hải lưu. Không gian chiến trường rộng mở, khó có khả năng ẩn nấp trước hệ thống trinh sát đối phương. Đồng thời, bay trên biển gặp nhiều khó khăn do khi bay thấp tránh sự truy quét của radar và phương tiện quan sát đối phương, phi công gặp tâm lý khi bay sát mặt biển, trong quá trình tiếp cận mục tiêu với tốc độ cao, phi công phải đối phó với nhiều vũ khí phòng không đa dạng, có tốc độ tấn công rất cao, từ tên lửa phòng không tầm xa, tầm gần đến các loại hỏa lực như pháo phòng không đa nòng có tốc độ bắn rất cao, được điều khiển bằng radar và quang ảnh nhiệt. Do đó, kỹ thuật bay biển và kỹ thuật tấn công ngấn tầu là kỹ thuật chiến đấu rất phức tạp, máy bay sẽ bay sát mặt biển với độ cao 50m so với mặt nước biển, tấn công bằng ngư lôi, tên lửa và bay thoát khỏi vùng bảo vệ của mục tiêu. Trong điều kiện công nghệ hiện đại, máy bay trên boong tầu phải là máy bay tàng hình sử dụng công nghệ (stealth) mới có khả năng thực hiện tác chiến ban đêm.
Không quân hải quân tác chiến trong điều kiện chiến trường hiện đại, để chống lại các phương tiện rà quét trinh sát và theo dõi mục tiêu, tránh được các máy bay tiêm kích của đối phương và tránh được hỏa lực phòng không cần đảm bảo làm được: Thứ nhất, đó là khả năng bay đêm; thứ hai, khả năng bay sát mực nước biển, thứ ba: Các đòn tấn công phải có tầm gần để tránh được khả năng cơ động tránh đòn và sử dụng tên lửa tầm gần, tên lửa cá nhân chống máy bay. Xem phần 6
Chiến thuật hải quân, sơ lược lịch sử phát triển và những luận điểm, phương thức cho những trận hải chiến hiện đại
Phương án phòng thủ cao nhất và tấn công, đối với các lực lượng đối phương có công nghệ quốc phòng và tiềm năng quân sự lớn, nguyên tắc sống còn trong tấn công vẫn là cơ động nhanh, bí mật, bất ngờ, sử dụng chiến thuật tập kích bí mật, các đòn tấn công dồn dập từ nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều phương tiện hỏa lực, chú trọng tập trung các phương tiện hỏa lực như không quân hải quân, xuống phóng ngư lôi hoặc tên lửa chống tầu tập trung vào một mục tiêu là phương thức chủ yếu để chống lại các hạm tầu hiện đại. các đòn tấn công có thể diễn ra trực tiếp, với mục tiêu là các chiến hạm hoặc tầu ngầm, nhưng cũng có thể gián tiếp bằng các lực lượng đặc nhiệm hải quân, như tầu ngầm hải quân đánh tiêu diệt các đoàn tầu quân sự vận tải, máy bay cường kích hoặc lực lượng đặc nhiệm hải quân đánh các căn cứ quân sự trên đất liền của đối phương hoặc trên đảo, trên tầu sân bay.

Tầu tuần biển sử dụng tên lửa chống tầu
3- Những nghiên cứu và thực hành nghệ thuật quân sự hải quân phải là thực tế tác chiến trên biển, không phải trên hải đồ, mọi tư duy trừu tượng xa rời đều có thể dẫn đến thực tế thảm họa trên hải dương.
Thực hiện những luận điểm nói trên đã được nêu rõ trong lời nói đầu của Học thuyết quân sự hải dương của Liên bang Nga. " Lịch sử nước Nga là lịch sử của một cường quốc biển, điều đó xuất phát từ đặc thù vị trí địa lý, không gian sinh tồn, vị trí và vai trò của nước Nga trong mối quan hệ đối ngoại trên thế giới và các khu vực” Ngoài ra, trong nội dung của Học thuyết quân sự hải dương đã chỉ ra: " Nhiệm vụ làm thất bại mọi nguy cơ gây mất an ninh quốc gia, lợi ích của dân tộc trên Hải dương được thực hiện bằng tiềm lực quân sự của lực lượng hải quân Liên bang Nga”
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, đánh giá tình hình quốc tế, V.V. Putin có nhận xét” chúng ta bắt buộc phải suy nghĩ chắc chắn để phát triển tiềm lực quân sự, bảo vệ an ninh quốc gia và lợi ích của dân tộc” Có nghĩa là, vấn đề nóng bỏng hiện nay là sự phát triển mạnh mẽ của Hải quân liên bang, vì các nước đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, đều là các quốc gia trên biển với lực lượng hải quân hùng mạnh.
Chiến thuật hải quân – một thành phần cấu thành của nghệ thuật, bao gồm lý thuyết và thực tế huấn luyện tác chiến và thực hiện các hoạt động tác chiến trên biển của các đơn vị binh chủng hợp thành, các binh chủng, các phân đội của các binh chủng thuộc quân chủng hải quân. Chiến thuật hải quân được hình thành từ thời cổ đại, khi các chiến hạm còn sử dụng mái chèo và buồm, các trận chiến đấu thông thường diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối tốt, các đòn tấn công chủ yếu là giáp trận, đâm tầu, đổ bộ giáp chiến chiếm thuyền.
Sự phát triển của vũ khí nòng trơn (súng thần công) đã thay đổi hình thái chiến thuật hải quân, súng thần công trở thành vũ khí chủ lực trên chiến hạm, các trận đánh trên biển diễn ra với các tầu thuyền được trang bị pháo hạm, cơ động trên tuyền cơ động chiến đấu, tấn công và giáp chiến bằng hỏa lực pháo binh. Việc xuất hiện các pháo hạm có cỡ nòng lớn hơn ( 338 mm) đồng thời với kỹ thuật lái tầu đã xuất hiện chiến thuật tấn công cơ động hàng dọc, đột phá tuyền chiến đấu của đối phương và cận chiến bằng pháo hạm với các cuộc đổ bộ giáp chiến bằng thủy binh giữa thế kỷ 18.
Sự xuất hiện máy hơi nước đã làm thay đổi các chiến hạm, đến giữa thế kỷ 19. Lực lượng tác chiến chủ lực của hạm đội là các chiến hạm động cơ hơi nước và có bọc giáp chống đạn (Thiết giáp hạm) Chiến thuật hạm đội có thay đổi, có 3 bước tiến hành một trận chiến trên biển, trinh sát hạm đội đối phương bằng các tầu khu trục hạng nhẹ, triển khai đội hình chiến đấu các thiết giáp hạm và các tuần dương hạm bọc thép; tác chiến tấn công hay phòng ngự bằng hỏa lực của pháo hạm; phát triển tiến công tiêu diệt hạm đội đối phương bằng các khu trục hạm hạng nhẹ hoặc khu trục hạm hạng nhẹ thực hiện các đòn đánh chặn bảo vệ cho các thiết giáp hạm chủ lực rút lui trong trường hợp trận chiến không phát triển thuận lợi. Các chiến thuật bao gồm có tiến công bằng hỏa lực mạnh, đột phá đội hình chiến hạm đối phương bằng hỏa lực tập trung, tấn công cạnh sườn, chia cắt và bao vây tiêu diệt. Để xuyên phá đội hình, tấn công kỳ hạm của liên đoàn chiến hạm đối phương, thông thường sử dụng một liên đội các tầu khu trục bọc giáp tốc độ cao. Song song cùng với chiến thuật pháo hạm, cũng xây dựng chiến thuật các khu trục hạm, các chiến thuật xây dựng tuyến phòng thủ thủy lôi và vật cản.
Sự phát triển của chiến thuật hải quân đặc biệt phát triển trong đại chiến thế giới lần thứ I, do có sự thay đổi sâu sắc trong tính chất của các trận đánh trên biển, do sự phát triển của khoa học công nghệ đã đưa vào biên chế hải quân những loại vũ khí trang bị mới, đó là ngư lôi, máy bay và tầu ngầm, số lượng các chiến hạm tăng vọt và từ đó, xuất hiện những khái niệm mới về chiến lược và chiến dịch hải quân.
Trong khói lửa của nội chiến chống bạch vệ và các lực lượng can thiệp nước ngoài đã hình thành chiến thuật Hải quân Xô viết, đồng thời do đặc thù của chiến tranh, chiến thuật hải quân bao trùm thêm nghệ thuật tác chiến của các hạm đội hải quân đường sông và các biển hồ, nghệ thuật tác chiến trên sông lớn như sông Vonga, Amur, Dnhepr .. phối hợp với chiến thuật của lục quân. Hải quân tham gia các hoạt động chiến đấu như đổ bộ đường sông và đường biển, tác chiến vùng nước ven bờ và bảo vệ các căn cứ bờ biển, hải cảng quân, dân sự. Đến những năm 1920x – 1930x đã hoàn thành những lý luận và thực tiễn cơ bản cho nghệ thuật tác chiến của Hải quân Xô viết.
Chiến tranh thế giới lần thứ II làm thay đổi hầu hết những lý luận cơ bản, quan niệm và khái niệm không gian chiến trường, đặc biệt, khái niệm tác chiến chiến thuật được chia ra thành 2 tư duy rõ rệt, tư duy phát triển chiến thuật theo hướng tác chiến Không Hải của các nước phương Tây và tư duy tác chiến theo hướng Bộ- Không- Hải của các nước đang phát triển phù hợp với hệ tư tưởng phòng thủ đất nước. Trong các nước có nền công nghiệp hùng mạnh và có tư duy kinh tế hải dương như Nhật Bản – Mỹ, vai trò quan trọng trong tác chiến hải dương là lực lượng không quân Hải quân có trên tầu sân bay. Hải quân các đế quốc biển đã phát triển hệ thống chiến thuật không hải, trong đó không quân Hải quân đóng vai trò đòn tấn công chủ lực. Không quân Hải quân triển khai các trận đánh hải chiến, khi lực lượng chiến hạm của các hạm đội còn cách xa nhau hàng trăm hải lý, đồng thời lực lượng tầu ngầm luồn sâu đánh vào các chiến hạm quan trọng, hoặc cắt đường vận tải, phá đối hình chiến đấu của đối phương. Các lực lượng khu trục hạm hoặc tầu tuần biển phóng ngư lôi hạng nhẹ, tốc độ cao, dưới sự yểm trợ của không quân đánh phá đội hình địch. Sự có mặt của các tầu tuần dương, tuần dương bọc thép, thông thường đi kèm với tiêu diệt lực lượng hải quân còn lại của đối phương, hoặc đánh phá các căn cứ ven bờ, yểm trợ hỏa lực đổ bộ đường biển. Áp dụng không quân và tầu ngầm phóng lôi cho phép mở không gian chiến trường rộng lớn, các đòn tấn công diễn ra đa chiều, từ trên không, trên biển, và dưới biển. Nội dung quan trọng bậc nhất trong chiến thuật hải chiến của đại chiến thế giới lần thứ 2, đó là tiến hành các chiến dịch tấn công bằng không quân Hải quân, và những cuộc chiến đấu ngầm dưới nước. Hai mặt trận đều có sự liên kết phối hợp các đơn vị trong quân chủng hải quân nhằm đạt mục tiêu tiêu diệt hải lực của đối phương.Nghệ thuật tác chiến hải quân của quân đội Xô viết phát triển theo hướng độc lập tác chiến của các hạm đội có sự yểm trợ tích cực của không quân hải quân có căn cứ trên bộ, đồng thời tác chiến phối hợp chặt chẽ với các lực lượng bộ binh. Mục tiêu quan trọng hàng đầu của các hạm đội, là các tuyến đường vận tải biển của đối phương. Do đó, chiến thuật hải quân Xô viết tập trung vào những trận đánh cắt đường vận tải với những đòn tấn công tập trung của không quân Hải quân, tầu ngầm và các hải đoàn tầu tốc độ cao nhằm tiêu diệt các đoàn congvoa vận tải, chở quân hoặc đổ bộ đường thủy của đối phương.
Đặc biệt, hải quân Xô viết phát triển mạnh chiến thuật sử dụng các hải đội tầu ngầm tập trung tiến công hạm đội hoặc các đoàn vận tải quân sự của đối phương, có sự phối kết hợp chặt chẽ của các lực lượng khác như không quân chiến thuật, không quân chiến lược và máy bay tiêm kích. Trong các trận đánh của đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng lính thủy đánh bộ Xô viết đã phát triển mạnh kỹ thuật đổ bộ đường biển, kết hợp với những đòn tấn công hỏa lực của pháo hạm, đánh vu hồi, tạt sườn, chiếm bàn đạp ven bờ và thọc sâu vào hậu phương đối phương, kết hợp với các binh chủng của lục quân đánh bao vây tiêu diệt địch.
Đặc biệt, hải quân Xô viết phát triển mạnh chiến thuật sử dụng các hải đội tầu ngầm tập trung tiến công hạm đội hoặc các đoàn vận tải quân sự của đối phương, có sự phối kết hợp chặt chẽ của các lực lượng khác như không quân chiến thuật, không quân chiến lược và máy bay tiêm kích. Trong các trận đánh của đại chiến thế giới lần thứ II, lực lượng lính thủy đánh bộ Xô viết đã phát triển mạnh kỹ thuật đổ bộ đường biển, kết hợp với những đòn tấn công hỏa lực của pháo hạm, đánh vu hồi, tạt sườn, chiếm bàn đạp ven bờ và thọc sâu vào hậu phương đối phương, kết hợp với các binh chủng của lục quân đánh bao vây tiêu diệt địch.
Sự phát triển của chiến thuật hải quân

Hỏa lực tác chiến tầu tuần duyên hiện đại
Đại chiến thế giới thứ II kết thúc. Các đế quốc ven biển phát triển mạnh lực lượng Hải quân theo xu hướng viễn dương, sử dụng lực lượng không quân hải quân như những đòn đánh chủ lực để tiêu diệt lực lượng phòng thủ bờ biển của đối phương, tiêu diệt hạm tầu ngay trên quân cảng bằng những đòn đánh chiến lược. Trong cuộc đua trên và dưới biển, lực lượng tầu ngầm phát triển mạnh mẽ với tầm nhiệm vụ tác chiến ngày càng cao, từ những đòn đánh tiêu diệt hạm đội đến những đòn đánh vào sâu trong nội địa đối phương. Sự phát triển của tầu ngầm hạt nhân, vũ khí hủy diệt lớn và công nghệ điện tử - viễn thông, điều khiển học khiến nghệ thuật tác chiến tiếp tục hoàn thiện và phát triển theo xu hướng tôn trọng hỏa lực. Công nghệ phương tiện mang- tên lửa đạn đạo, tên lửa hành trình mang các đầu đạn hủy diệt lớn, đầu đạn thông thường, đầu đạn có lượng nổ mạnh có tầm bằn lên đến hàng trăm, hành nghìn hải lý. Các tầu ngầm, chiến hạm nổi trở thành các căn cứ quân sự và các điểm hỏa lực tầm xa, các đòn tấn công được phát triển từ nhiều hướng vào một mục tiêu, các tầu có thể quản lý nhiều mục tiêu trong một trận đánh.

Sơ đồ bay của tên lửa chống tầu BGM109 Tomahawk
Phương án tác chiến được chia thành 2 không gian chiến trường, chiến trường trên biển và chiến trường dưới đáy biển. Các giai đoạn của hải chiến bao gồm có 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1- Tấn công trên mặt biển và các căn cứ bờ biển bằng những đòn đánh tập trung của không quân, hỏa lực hải quân bao gồm tên lửa hành trình và pháo hạm tầm xa và săn ngầm và chống ngầm dưới đáy biển sâu.
Giai đoạn 2- Hỏa lực không – hải phát triển sâu vào các mục tiêu quan trọng trên đất liền, các khu trục hạm và chiến hạm cao tốc chế áp lực lượng phòng thủ vùng nước và phòng thủ bờ biển. Lực lượng tầu ngầm và các hải đội đánh ngầm phá hủy tuyến phòng thủ ngầm dưới biển ( thủy lôi, lưới chắn tầu, v.v…) tạo cửa mở cho lực lượng đổ bộ đường biển.
Giai đoạn 3- Không quân hải quân thực hiện nhiệm vụ khống chế bầu trời, quản lý các mục tiêu mặt đất, dập tắt các hỏa điểm đột ngột phát sinh, đánh chặn các tuyến vận tải và săn lùng các mục tiêu trên bộ và trên biển. Lực lượng lính thủy đánh bộ, hải quân triển khai đổ bộ đường biển, tấn công phá hủy các mục tiêu bờ biển.

Tác chiến phòng không của hải đội tầu ngầm
Sự phát triển của các loại tên lửa, bom điều khiển, bom thông minh, máy bay chiến đấu không người lái làm tăng sức mạnh của các đòn đánh chiến thuật, từ việc phát triển các tầu mang tên lửa đã phát triển các hình thái chiến thuật; chiến thuật tầu ngầm mang tên lửa, chiến thuật tầu tuần biển, tuần duyên mang tên lửa, chiến thuật của các khu trục hạm tên lửa, chiến thuật của máy bay cường kích chống tầu, trực thăng tấn công chống hạm đi kèm với những chiến thuật truyền thống như tác chiến tiến công của các tầu phóng ngư lôi tàng hình, chiến thuật tấn công tầu ngầm, chiến thuật chống ngầm, chiến thuật quét mìn và mở cửa mở, chiến thuật tấn công chế áp đường không, ven biển với các lực lượng phòng không, lực lượng phòng thủ bờ biển, chiến thuật đổ bộ không – hải kết hợp.

Sơ đồ tấn công mục tiêu bằng tên lửa hành trình
Tầu ngầm nguyên tử mang tên lửa có khả năng cơ động bí mật, dài ngày tại những vùng biển nằm ngoài khả năng chống ngầm của đối phương, tấn công bất ngờ bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hủy diệt lớn, tên lửa hành trình vào các mục tiêu trên biển và trên đất liền với chiều sâu tấn công hàng nghìn km. Không quân hải quân mang tên lửa có thể tấn công từ nhiều hướng, nhiều mục tiêu cùng một lúc với các tên lửa chống hạm trên khoảng cách ngoài tầm phòng thủ của các loại vũ khí phòng không đối phương. Các tầu tuần dương, khu trục hạm mang tên lửa có thể đánh chặn các lực lượng không quân chống tầu và tiêm kích ngay trên đường băng cất cánh của đối phương. Lực lượng tầu ngầm và lực lượng đặc nhiệm hải quân, với những trang bị hiện đại (tầu ngầm mini, robot ngư lôi) có khả năng tiếp cận tuyến phòng thủ ven biển của đối phương và phá hủy các khu vực phòng thủ biển, vô hiệu hóa các trận địa tên lửa bờ biển.

Tác chiến không đối hảiPhương thức chiến thuật " Thống trị bầu trời” kết hợp với vũ khí trang bị hiện đại là đang trở thành mối nguy hiểm của các nước ven biển đang phát triển và có nền công nghiệp quốc phòng hạn chế. Các cuộc chiến trang vùng Vịnh đã minh chứng cho khả năng tác chiến của các cường quốc biển và sự nguy hiểm của công nghệ chiến tranh hiện đại. Nhưng nếu "những gì công nghệ không làm được, thì chiến thuật làm được; những gì mà công nghệ làm được, thì chiến thuật không cần"; Trong mọi điều kiện chiến trường, công nghệ luôn song hành cùng chiến thuật để hoàn thành nhiệm vụ.

Sơ đồ hoạt động tàu khu trục Maddox ở Việt Nam
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, với một đất nước không có nền công nghiệp quốc phòng, lực lượng hải quân còn rất mỏng, Quân đội Mỹ đã điều động một lực lượng hải quân hùng mạnh, bao gồm cả tầu sân bay, tuần dương, khu trục, phong tỏa toàn bộ khu vực bờ biền Việt Nam và không phận Việt nam, hỏa lực pháo binh của Hải quân Mỹ tấn công toàn bộ khu vực bờ biển, hỏa lực không quân có mặt 24/24 khống chế bầu trời Việt Nam. Nhưng Hải quân Mỹ cũng phải chịu những đòn đánh của một lực lượng hải quân nhỏ bé và cũng phải chịu những tổn thất bất ngờ.
Thực hiện ý đồ tấn công Miền Bắc để giải tỏa áp lực Ngoài khơi vịnh Bắc bộ, tàu khu trục Maddox tiếp tục tiến về phía bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc.

Hỏa lực tác chiến tầu tuần duyên hiện đại

Sơ đồ bay của tên lửa chống tầu BGM109 Tomahawk
Phương án tác chiến được chia thành 2 không gian chiến trường, chiến trường trên biển và chiến trường dưới đáy biển. Các giai đoạn của hải chiến bao gồm có 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1- Tấn công trên mặt biển và các căn cứ bờ biển bằng những đòn đánh tập trung của không quân, hỏa lực hải quân bao gồm tên lửa hành trình và pháo hạm tầm xa và săn ngầm và chống ngầm dưới đáy biển sâu.
Giai đoạn 2- Hỏa lực không – hải phát triển sâu vào các mục tiêu quan trọng trên đất liền, các khu trục hạm và chiến hạm cao tốc chế áp lực lượng phòng thủ vùng nước và phòng thủ bờ biển. Lực lượng tầu ngầm và các hải đội đánh ngầm phá hủy tuyến phòng thủ ngầm dưới biển ( thủy lôi, lưới chắn tầu, v.v…) tạo cửa mở cho lực lượng đổ bộ đường biển.
Giai đoạn 3- Không quân hải quân thực hiện nhiệm vụ khống chế bầu trời, quản lý các mục tiêu mặt đất, dập tắt các hỏa điểm đột ngột phát sinh, đánh chặn các tuyến vận tải và săn lùng các mục tiêu trên bộ và trên biển. Lực lượng lính thủy đánh bộ, hải quân triển khai đổ bộ đường biển, tấn công phá hủy các mục tiêu bờ biển.

Tác chiến phòng không của hải đội tầu ngầm

Sơ đồ tấn công mục tiêu bằng tên lửa hành trình
Tầu ngầm nguyên tử mang tên lửa có khả năng cơ động bí mật, dài ngày tại những vùng biển nằm ngoài khả năng chống ngầm của đối phương, tấn công bất ngờ bằng tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hủy diệt lớn, tên lửa hành trình vào các mục tiêu trên biển và trên đất liền với chiều sâu tấn công hàng nghìn km. Không quân hải quân mang tên lửa có thể tấn công từ nhiều hướng, nhiều mục tiêu cùng một lúc với các tên lửa chống hạm trên khoảng cách ngoài tầm phòng thủ của các loại vũ khí phòng không đối phương. Các tầu tuần dương, khu trục hạm mang tên lửa có thể đánh chặn các lực lượng không quân chống tầu và tiêm kích ngay trên đường băng cất cánh của đối phương. Lực lượng tầu ngầm và lực lượng đặc nhiệm hải quân, với những trang bị hiện đại (tầu ngầm mini, robot ngư lôi) có khả năng tiếp cận tuyến phòng thủ ven biển của đối phương và phá hủy các khu vực phòng thủ biển, vô hiệu hóa các trận địa tên lửa bờ biển.

Tác chiến không đối hải

Sơ đồ hoạt động tàu khu trục Maddox ở Việt Nam
Thực hiện ý đồ tấn công Miền Bắc để giải tỏa áp lực Ngoài khơi vịnh Bắc bộ, tàu khu trục Maddox tiếp tục tiến về phía bắc, xâm phạm hải phận của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và gây ra một số vụ khiêu khích đối với thuyền đánh cá của ngư dân miền Bắc.
Đặc biệt đêm 31-7 rạng sáng 1-8, tàu khu trục Maddox đã xâm phạm vùng biển Quảng Bình, sau đó tiến lên phía bắc, điều tra các mạng lưới phòng thủ của Việt Nam ở khu vực đèo Ngang, Hòn Mát, Hòn Mê, Lạch Trường. Phân đội 3 gồm ba xuồng phóng lôi 333, 336, 339 nhận nhiệm vụ đánh chặn. Ngày 2 tháng 8 năm 1964 3 xuồng phóng lôi của Hải quân Việt Nam tiếp cận và tấn công. Tầu khu trục Maddox sử dụng hỏa lực mạnh đánh chặn, tầu 333 nghi binh cho xuồng 336 và 339 tấn công. Mỹ sử dụng 5 máy bay hải quân tham chiến, hỏa lực của tầu khu trục làm 2 xuồng 336 và 339 bị tổn thương. Xuồng phóng lôi 333 quay trở lại, dù bị trúng đạn pháo nhưng vẫn tận dụng tốc độ cao và áp sát khu trục hạm Maddox, bị trúng 1 quả ngư lôi của xuống 333. tầu Maddox rút khỏi vịnh Bắc bộ.

Sơ đồ hải chiến với tầu Maddox

Sơ đồ hải chiến với tầu Maddox
Trận hải chiến thứ 2 diễn ra ven bờ biển Đồng Hới, ngày 19/4/1972 giữa không quân và hải quân Việt Nam và hạm đội 7 Mỹ.
Lực lượng tham chiến bao gồm:
HQNDVN:
3 tàu phóng lôi
2 Mig-17F Fresco-C
Hạm đội 7:
1 Tuần dương hạm(tuần dương tên lửa USS Oklahoma City-CLG5)
2 khu trục hạm (khu trục USS Lloyd Thomas, USS Higbee)
1 hộ tống hạm(hộ tống hạm tên lửa USS Sterett-DGL-31)

Sơ đồ hải chiến đánh liên đội tầu hạm đội 7 Mỹ
Hai phi công Việt nam là Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy, được sự yểm trợ của các xuống phóng lôi nghi binh, xuất kích từ sân bay dã chiến, đã sử dụng phương thức tấn công bay thấp tránh hệ thống radar cảnh báo, hệ thống tên lửa và pháo phòng không của các chiến hạm được trang bị vô cùng hiện đại. Máy bay MIG 17 của không quân Việt Nam bay cách mặt nước biển 10 m, phóng bom. Bom đã đánh trúng boong tầu của hai chiến hạm, hai máy bay MIG 17 quay về sân bay an toàn.

MIG 17 hải chiến
Lực lượng tham chiến bao gồm:
HQNDVN:
3 tàu phóng lôi
2 Mig-17F Fresco-C
Hạm đội 7:
1 Tuần dương hạm(tuần dương tên lửa USS Oklahoma City-CLG5)
2 khu trục hạm (khu trục USS Lloyd Thomas, USS Higbee)
1 hộ tống hạm(hộ tống hạm tên lửa USS Sterett-DGL-31)

Sơ đồ hải chiến đánh liên đội tầu hạm đội 7 Mỹ
MIG 17 hải chiến
Từ hai trận của không quân, hải quân Việt Nam, rõ ràng với nghệ thuật tác chiến bất ngờ, kỹ thuật sử dụng trang bị thành thạo, cùng với phương thức tiếp cận đối phương nằm ngoài dự kiến đã làm cho một lực lượng hải quân hùng mạnh bị rơi vào tình trạng bất ngờ, lúng túng đối phó và rất dễ bị tiêu diệt hay đánh thiệt hại nặng.
Điển hình của chiến thuật sử dụng tên lửa chống tầu được thể hiện trong trận hải chiến giữa các liên đội tầu chiến mang tên lửa và ngư lôi của Israel với Syria và các nước Arập. Trước cuộc chiến tranh 6 ngày Hải quân Israel được trang bị các tầu phóng tên lửa cao tốc lớp "Reshef" trang bị tên lửa chống tầu Gabriel. Hải quân Syria và các nước Arập được biên chế các tầu phóng tên lửa Kamar và Osa sử dụng tên lửa Termite-U có tầm bắn 35 – 40 km điều khiển bằng radar. Tên lửa Gabriel có độ chính xác rất cao, nhưng tầm bắn ngắn hơn đến 2,5 lần. Do đó, để có thể tấn công, tầu phòng tên lửa của Israel phải đi vào tầm bắn của tầu tên lửa Kamar và Osa từ 20 đến 25 km. Sau khi bị tổn thất một số tầu, Hải quânIsrael đã thay đổi chiến thuật tác chiến, họ quyết định giải quyết vấn đề bằng giải pháp gây nhiễu đầu dẫn tên lửa chống tầu bằng các đầu tạo xung gây nhiễu, đồng thời sơn phủ tầu bằng lớp vật liệu hấp thụ sóng radio, chuyển thành nhiệt lượng tỏa ra ngoài không khí. Trận hải chiến ngày 6/7 tháng 10 năm 1963. Hải quân Israel sử dụng năm tầu phóng tên lửa đi vòng qua bờ biển Lybia, vào lúc 2228 ngày 6/10/1973 đã phát hiện liên đội tầu phóng lôi Syria đỗ bên bờ biển Lattakia. Hải đội tầu Israel sử dụng pháo hạm đánh chìm 5 tầu phóng lôi Syria. Sau đó quay về hướng đông ra biển, sử dụng tên lửa tiêu diệt 1 tầu quét mìn của Syria. Lúc đó 3 tầu tên lửa của Syria đã phát hiện ra đội tầu của Israel trên khoảng cách 40 km, cả hai bên đều sử dụng tốc độ di chuyển để chiếm vị trí tấn công, ở khoảng cách 37,5km hải đội Syria sử dụng ưu thế của tên lửa đã phóng loạt đầu tiên, hải quân Israel lập tức khởi động hệ thống gây nhiễu, tên lửa chống tầu của Syria lạc hướng và lao xuống biển, hải đội tầu phóng tên lửa của Israel dùng tốc độ cao tiếp cận tầu của Syria, bắn hạ 2 tầu phóng tên lửa của Syria, tầu thứ 3 bỏ chạy và bị mắc cạn, bị pháo hạm của Israel tiêu diệt.

Hải chiến của tầu tên lửa Israel và Syria

Hải chiến của tầu tên lửa Israel và Syria
Chiều ngày 7 tháng 10 năm 1973. hạm tầu Israel xuất kích đánh chặn liên đoàn tầu của Arập, gồm 4 tầu phóng tên lửa lớp Osa trang bị tên lửa Termit U. 2300 cùng ngày, liên đoàn tầu Arập phát hiện hạm tầu Israel ở khoảng cách 38km, lợi dụng ưu thế của tên lửa đã phóng 12 đầu đạn về phía tầu Israel, hạm tầu của israel sử dụng chiến thuật cũ, bất toàn bộ hệ thống gây nhiễu và tăng tốc tiến về liên đội tầu Arap cận chiến, 12 tên lửa chống tầu Termite-U bị nhiễu loạt lạc hướng rơi xuống biển, sau 12 phút truy đuổi, hạm đội Israel bắt kịp liên đội tầu Arập và khai hỏa tên lửa Gabriel, đánh chìm 3 tầu phóng tên lửa, tầu thứ 4 bị tổn thương nặng nề và phải thả trôi về cảng.

Hải chiến của tầu tên lửa Israel và các nước Arap

Hải chiến của tầu tên lửa Israel và các nước Arap
Trong trân chiến quần đảo Falklands thuộc vùng biển Argentina, với những máy bay cũ kỹ Skyhawk, tên lửa chống hạm Excocet, nhưng bằng chiến thuật đánh cận chiến, bay sát mặt nước biển tránh radar và tên lửa phòng không, không quân Argentina đã đánh thiệt hại nặng hạm đội hùng mạnh của Anh, đánh chìm 6 chiếc chiến hạm hiện đại. Mặc dù thất bại trong việc dành lại quần đảo Falklands, nhưng chiến thuật bay sát mặt nước biển, phóng tên lửa chống tầu vào sườn tầu, trở thành kỹ thuật tác chiến cơ bản của không quân Hải quân các nước nghèo.
Từ những lý luận và quan điểm của chiến tranh công nghệ cao, đối với các lực lượng phòng thủ, để chống lại một cuộc tập kích không – biển hiện đại, cần có sự tổ chức phòng thủ chu đáo, tỷ mỉ và tính đến mọi tình huống. Huấn luyện chiến thuật và thực hành nghệ thuật tác chiến thường xuyên, liên tục, với cường độ ngày càng cao và mức độ ngày càng tăng cường.
Hệ thống phòng thủ biển và bờ biển được xây dựng gồm có:
Hệ thống quản lý không trung trên biển, quản lý mặt biển, quản lý chiều sâu dưới biển.
Lực lượng hải quân (không quân, hạm đội, các lực lượng phòng thủ bờ biện huấn luyện tác chiến và sẵn sàng tác chiến trên một tuyến phòng thủ có chiều rộng, đa tầng, bao gồm các các bãi thủy lôi thông minh, các bãi vật cản cơ động, các tuyến chiến đầu của các hạm đội tầu ngầm, khu vực phòng thủ hỏa lực của các hạm đội hoặc liên đoàn tầu tuần biển, tuần duyên, trực thăng đa năng, các lực lượng đặc nhiệm hải quân và các lực lượng phòng thủ bờ biển (Pháo tầm xa, tên lửa đối hạm, hệ thống phòng không tên lửa và pháo phòng không)


Hệ thống tên lửa bờ biển Bastition sử dụng tên lửa YAxon
Trong chiến tranh hiện đại, việc sử dụng các radar tầm xa, các sonar công suất lớn, các máy bay robot, máy bay trinh sát và vệ tinh trinh sát tạo thành một hệ thống quan sát tinh vi, bao trùm cả không gian 3 chiều của chiến trường, nhiệm vụ tổ chức một hệ thống ngụy trang, che khuất tầm nhìn trên một hoặc nhiều vùng rộng để hải thuyền, tầu ngầm có thể xuất kích bí mật, bất ngờ là yếu tố quan trọng trong bảo vệ lực lượng.
Hệ thống thông tin liên lạc, trinh sát và và kiểm soát an toàn thông tin là các mạch máu trong một hệ thống phòng thủ mạnh trước các đòn tấn công chế áp thông tin. Thành công trong bảo vệ mạng truyền thồng là cơ sở để triển khai hải chiến phòng thủ thành công. Khi xây dựng, bố trí và huấn luyện tác chiến, cần chú trọng các tình huống bị tấn công thông tin bằng các phương tiện vũ khí hiện đại.
Tác chiến tầu ngầm là nghệ thuật tác chiến quan trọng nhất của chiến đấu phòng thủ, nó bao gồm có tìm kiếm mục tiêu theo yêu cầu nhiệm vụ được giao, tấn công mục tiêu, phục kích dài ngày ở các khu vực có khả năng tấn công các hạm đội đối phương, quét mìn, triển khai lực lượng đặc nhiệm hải quân, đấu tranh chống lại các phương tiện săn ngầm như máy bay, các lớp tầu săn ngầm, chiến đấu với tầu ngầm đối phương. Lực lượng tầu ngầm có thể tác chiến độc lập hoặc tác chiến liên kết phối hợp với các binh chủng của hải quân. Một tầu ngầm có thể quản lý nhiều mục tiêu, đồng thời các mục tiêu theo yêu cầu tác chiến cũng được quản lý bởi nhiều phương tiện chiến tranh như chiến hạm, không quân hải quân. Đặc thù của tác chiến tầu ngầm là bí mật triển khai lực lượng trên biển, tham gia các hoạt động tác chiến dưới biển ( phục kích, tập kích, yểm trợ hỏa lực, săn ngầm và chống săn ngầm, cơ động từ quân cảng ra biển, và từ biển vào căn cứ đều phải bí mật tối đa. Các đòn tấn công thường được thực hiện bằng tên lửa hành trình, đạn đạo, hoặc ngư lôi chống tầu.


Máy bay Su 27 tấn công
Hệ thống phòng không phòng thủ bờ biển là yếu tố tiên quyết đảm bảo thắng lợi cho hệ thống phòng thủ. Khi tấn công, đối phương sẽ sử dụng những đòn tấn công từ tầu ngầm, tầu nổi, máy bay cường kích tên lửa. Hệ thống phòng không có nhiệm vụ quan trọng là đánh chặn các đòn tấn công bằng tên lửa hành trình, tên lửa đạn đạo, máy bay tàng hình tầm thấp, bom thông minh. Do tính chất đặc thù của vũ khí hiện đại, hệ thồng phòng không sẽ phải trải rộng, từ các hải thuyền, máy bay tiêm kích không hải đến các cụm pháo, tên lửa phòng không cố định hoặc cơ động, đa tầm và đa hướng. Hệ thống phòng không cần chú trọng phát triển các cỡ nòng khác nhau, từ cỡ nòng tầm rất thấp 12,7mm đến 14,5 mm, 23 mm, 30 mm. và các loại tên lửa tầm thấp như Igla đến tầm trung Vonga, tầm xa như tổ hợp S-300 – S-500. đơn vị phòng không phải được kết nối trong một hệ thống phòng không chiến thuật dạng mạng Net, tạo ra các cụm hỏa lực dầy đặc cơ động, trên biển, ven biển và cơ động bờ biển. Áp dụng triệt để hệ thống điều hành bằng công nghệ truyền thông dạng mạng đa điểm, đa trung tâm. Đa tầng chỉ huy, quản lý và kết nối chặt chẽ với các hệ thống chỉ huy, kiểm soát, truyền thông và liên kết phối hợp. Trong giai đoạn phát triển công nghệ hiện đại ngày nay, với mức chi phí không lớn, chúng ta có thể tạo ra được các khu vực nhiễu loạn điện từ, quang điện hoặc radio, vùng mù điều khiển đó rất nguy hiểm cho các loại vũ khí điều khiển như tên lửa hành trình, bom hoặc đầu đạn có điều khiển laser hoặc tự dẫn hồng ngoại. Khi các loại vũ khí hiện đại bay vào vùng nhiễu điện từ, quang học sẽ mất điều khiển và tự hủy. Việc nghiên cứu chế tạo phải được thực hiện ngay hôm nay, vì đó là khả năng phòng thủ mạnh mẽ của tương lai.


Máy bay SU 27 sử dụng tên lửa chống tầu bảo vệ vùng biển
Phương án phòng thủ cao nhất và tấn công, đối với các lực lượng đối phương có công nghệ quốc phòng và tiềm năng quân sự lớn, nguyên tắc sống còn trong tấn công vẫn là cơ động nhanh, bí mật, bất ngờ, sử dụng chiến thuật tập kích bí mật, các đòn tấn công dồn dập từ nhiều hướng, nhiều chiều, nhiều phương tiện hỏa lực, chú trọng tập trung các phương tiện hỏa lực như không quân hải quân, xuống phóng ngư lôi hoặc tên lửa chống tầu tập trung vào một mục tiêu là phương thức chủ yếu để chống lại các hạm tầu hiện đại. các đòn tấn công có thể diễn ra trực tiếp, với mục tiêu là các chiến hạm hoặc tầu ngầm, nhưng cũng có thể gián tiếp bằng các lực lượng đặc nhiệm hải quân, như tầu ngầm hải quân đánh tiêu diệt các đoàn tầu quân sự vận tải, máy bay cường kích hoặc lực lượng đặc nhiệm hải quân đánh các căn cứ quân sự trên đất liền của đối phương hoặc trên đảo, trên tầu sân bay.

Tầu tuần biển sử dụng tên lửa chống tầu
Những việc cần làm ngay
Trong gian đoạn phát triển tính đến năm 2020 theo Học thuyết quân sự hải dương, được phê chuẩn bởi tổng thống Liên bang Nga ngày 27 tháng 7 năm 2001.
1 – Chính phủ và các cơ quan chức năng có trách nhiệm băt buộc phải thi hành chặt chẽ, chính xác và bền bỉ tất cả những luận điểm được đặt ra trong Học thuyết quân sự hải hưởng. Các luật điểm đó phải được thực hiện trong thực tế, chứ không phải là những lời tuyên bố.
2 – Cần phải xây dựng lại chi tiết trong một hệ thống chỉnh hợp nội dung của nghệ thuật quân sự hải quân hiện đại của Liên bang Nga. Nội dung của nghệ thuật quân sự Hải dướng cấp chiến lược đến chiến thuật phải được các sỹ quân hải quân hiểu rõ, nắm chắc và thực hiện thành thạo theo vị trí phân công, kỹ chiến thuật hải quân (hải chiến) phải được nghiên cứu và thực hành đến từng hạ sỹ quan, chiến sỹ.3- Những nghiên cứu và thực hành nghệ thuật quân sự hải quân phải là thực tế tác chiến trên biển, không phải trên hải đồ, mọi tư duy trừu tượng xa rời đều có thể dẫn đến thực tế thảm họa trên hải dương.
Thực hiện những luận điểm nói trên đã được nêu rõ trong lời nói đầu của Học thuyết quân sự hải dương của Liên bang Nga. " Lịch sử nước Nga là lịch sử của một cường quốc biển, điều đó xuất phát từ đặc thù vị trí địa lý, không gian sinh tồn, vị trí và vai trò của nước Nga trong mối quan hệ đối ngoại trên thế giới và các khu vực” Ngoài ra, trong nội dung của Học thuyết quân sự hải dương đã chỉ ra: " Nhiệm vụ làm thất bại mọi nguy cơ gây mất an ninh quốc gia, lợi ích của dân tộc trên Hải dương được thực hiện bằng tiềm lực quân sự của lực lượng hải quân Liên bang Nga”
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, đánh giá tình hình quốc tế, V.V. Putin có nhận xét” chúng ta bắt buộc phải suy nghĩ chắc chắn để phát triển tiềm lực quân sự, bảo vệ an ninh quốc gia và lợi ích của dân tộc” Có nghĩa là, vấn đề nóng bỏng hiện nay là sự phát triển mạnh mẽ của Hải quân liên bang, vì các nước đang phát triển mạnh mẽ hiện nay, đều là các quốc gia trên biển với lực lượng hải quân hùng mạnh.
Biên dịch: Trịnh Thái Bằng
www.flot.com.ru