
Những diễn biến gần đây cho thấy, đã có bước ngoặt lớn trong nhận thức đối với vấn đề tranh chấp Biển Đông, cả trong nước lẫn quốc tế.
Ngày 26/5/2011, 3 tàu hải giám của Trung Quốc đã vào sâu trong thềm lục địa của Việt Nam để uy hiếp và cắt cáp của tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 2 của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN)[1]. Việc này đã ngay lập tức thu hút sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước, và đã chính thức được Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nêu ra tại Diễn đàn an ninh Châu Á lần thứ 10([2]). Vì tính chất nghiêm trọng của nó, nhiều nhà quan sát đã đặt tên là "Sự kiện Bình Minh 2" ([3]).
Sự gây hấn của Trung Quốc không dừng lại ở đó: ngày 9/6/2011, tàu Viking 2 do PVN thuê của hãng CGG Veritas, khi đang khảo sát địa chấn tại lô 163-3D hoàn toàn nằm trong vùng thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không xa mỏ Đại Hùng và cách Vũng Tàu chưa đầy 150 Hải lý, đã bị hai tàu đánh cá và ngư chính của Trung Quốc đến quấy rối và phá thiết bị. Sự kiện này được giới quan sát quốc tế đánh giá là một sự leo thang có chủ ý không thể chối cãi[4].
Với Việt Nam nói riêng và toàn bộ diễn tiến của quá trình tranh chấp Biển Đông nói chung, hai sự kiện Bình Minh 2 và Viking 2 này là những cột mốc quan trọng vì nhiều lý do. Thứ nhất, nó diễn ra rất sâu trong khu vực thềm lục địa trực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách mũi Đại Lãnh thuộc tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam chỉ 120 Hải lý, chứ không thuộc vùng biển có tranh chấp như trong những lần va chạm trước.
Thứ hai, nó nhắm đến hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, một trong những hoạt động kinh tế trên biển quan trọng nhất của Việt Nam.
Thứ ba, nó diễn ra có chủ ý, có hệ thống (3 tàu hỗ trợ nhau) chứ không phải một tai nạn.
Thứ tư, so với những va chạm trước đó, nó là một sự leo thang rõ rệt, nhất là thời điểm xảy ra ngay sau diễn ra ngay sau chuyến thăm các nước Singapore, Indonesia và Philippines (từ 15/5) của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc và ngay trước thềm Diễn đàn an ninh Châu Á, tổ chức tại Singapore ngày 03-05/2011.
Thứ năm, sự kiện này nguy hiểm ở chỗ: toàn bộ cỗ máy truyền thông của Trung Quốc đã lên tiếng khắp nơi vu cáo Việt Nam là bên gây hấn và Trung Quốc đóng vai nạn nhân trước nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân thế giới. Trong khi Việt Nam hầu như chưa kịp có một kế hoạch đối kháng nào về truyền thông.
Trước sự kiện này, Việt Nam như bừng tỉnh. Sự đe dọa về chủ quyền biển đảo và an toàn của các hoạt động kinh tế biển đã tiến đến sát cửa nhà chứ không còn xa xôi như trước. Ngay lập tức, báo chí và truyền thông vào cuộc, đưa tin và cập nhật liên tục về sự kiện. Nhiều phân tích của giới quan sát và học giả cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể đưa "Sự kiện Bình Minh 2" này ra Tòa án quốc tế[5].
Chính phủ Việt Nam cũng phản ứng nhanh và quyết liệt hơn. Chỉ một ngày sau khi xảy ra "sự kiện Bình Minh", đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc để trao công hàm yêu cầu Trung Quốc chấm dứt những hành động vi phạm chủ quyền đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời yêu cầu Trung Quốc phải bồi thường thiệt hại cho tàu Bình Minh 2([6]). Sau đó, như đã đề cập ở trên, sự kiện này lại được Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam chính thức nêu ra tại Diễn đàn an ninh Châu Á lần thứ 10, diễn ra một tuần sau đó.
Cộng hưởng với những động thái trên của Chính phủ và truyền thông, người dân, nhất là giới trẻ, ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tuần hành ôn hòa trước Đại sứ quán và Lãnh sự quán Trung Quốc để bày tỏ sự phản đối vào ngày 5/6/2011([7])và sau đó là ngày 12/6/2011; 19/6/2001 để phản đối sự leo thang của Trung Quốc với sự kiện Viking 2.
Trung Quốc đang ráo riết tìm cách hiện thực hóa điều mà họ tuyên bố trước đó: coi Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" và đòi hỏi độc chiếm 80% diện tích Biển Đông qua yêu sách "đường lưỡi bò" 9 đoạn vô lý của mình.
Nếu những va chạm hoặc gây hấn trước đây thường xảy ra ở khu vực được Trung Quốc cho là nằm trong vùng tranh chấp, thì nay đã chuyển dịch về phía bờ biển Việt Nam, hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc đang tìm cách biến những nơi không tranh chấp thành có tranh chấp để thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông của mình.
Nhân dân Việt Nam bừng tỉnh trước nguy cơ chủ quyền biển đảo bị xâm phạm, lợi ích hợp pháp bị đe dọa, các hoạt động kinh tế biển bị phá hoại. Sự bừng tỉnh này đang lan rộng trong khắp mọi tầng lớp nhân dân. Chưa khi nào, thông tin và sự quan tâm về chủ quyền biển đảo lại được cập nhật nhanh chóng và thảo luận sôi nổi như trong thời gian này.
Về thông tin, người dân và báo chí đã ý thức rõ ràng rằng, dù có chính nghĩa thì trước hết chúng ta cũng vẫn phải lên tiếng để nêu cao chính nghĩa đó và tranh thủ sự ủng hộ của công luận thế giới. Công luận quốc tế sẽ chỉ lên tiếng nếu như công luận trong nước lên tiếng trước.
Về ngoại giao, việc yêu cầu Trung Quốc không chỉ chấm dứt sự khiêu khích, mà còn phải bồi thường thiệt hại do các hoạt động phá hoại và cản trở này đã thể hiện sự kiên quyết về chủ quyền biển đảo, do đó có tác dụng thu hút và đoàn kết toàn dân. Bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam tại Diễn đàn an ninh Châu Á lần thứ 10 cũng là một sự cộng hưởng đầy ý nghĩa.
Về kinh tế, ý thức ủng hộ hàng Việt, sử dụng hàng Việt và chấn hưng kinh tế cũng bùng lên. Vì người dân đã nhận thức rõ, không thể bảo vệ chủ quyền khi kinh tế của mình yếu.
Giới nghiên cứu cũng tích cực thu thập tài liệu, tìm kiếm các bằng chứng lịch sử và chuẩn bị các hồ sơ pháp lý nhằm bảo vệ chủ quyền theo công pháp quốc tế. Hội Luật gia[8] và Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đã ra "tuyên bố phản đối phản đối Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế"[9]. Một số đoàn thể quan trọng khác cũng đã có những phản ứng tương tự.
Chiến lược giải quyết tranh chấp ở Biển Đông cũng có những đổi mới đáng khích lệ. Thay vì giải quyết bằng đàm phán song phương như Trung Quốc đề nghị, chiến lược đàm phán đa phương trên cơ sở công pháp quốc tế đã được đề cập ngày càng rõ ràng. Ý thức đoàn kết các quốc gia có lợi ích chung ở Biển Đông đã được khởi động bằng những hành động cụ thể: 7 nước ASEAN đã "cùng kệu gọi việc tìm ra giải pháp hòa bình và sử dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông"[10] trong Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS (13-17/6/2011, New York) cũng như tuyên bố chung Việt - Mỹ trong Đối thoại về chính trị - an ninh - quốc phòng Việt-Mỹ lần thứ tư (17/6/2011, Washington) nhấn mạnh "mọi tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông phải được giải quyết thông qua con đường ngoại giao và hợp tác, không gây sức ép hay sử dụng vũ lực"[11].
Nhưng hơn hết là tinh thần đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong vào người nước của người Việt, bước đầu gạt qua những bất đồng tưởng chừng đã hằn sâu trong tâm thức, để cùng cất lên tiếng nói chung bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Nhiều vấn đề được cho là nhạy cảm nay đã bắt đầu được xới lên: tất cả đều hướng đến một mục tiêu duy nhất: bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chẳng hạn, trong bài trả lời phỏng vấn báo VietnamNet ngày 16/6/2011, Giáo sư Hồ Trọng Ngũ, Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh Quốc hội, cho rằng[12]: "Lâu nay, để giữ hòa hiếu với Trung Quốc nên ta đã chấp nhận là một người "đồng chí". Nhưng xin nhắc lại là một Trung Quốc có hai chế độ thì họ không có nhu cầu quan tâm đến chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Mục đích của họ là lợi dụng luận điểm rằng cả Việt Nam và Trung Quốc đều có Đảng cộng sản để dễ bề qua mắt người dân Việt Nam rằng ta là đồng chí của họ. Trong khi đó, họ lại gặm nhấm từng mẩu đất. Đây là luận điệu rất nguy hiểm mà nếu nhân dân không hiểu được hết để giải thích thì bạn bè quốc tế cũng có thể hiểu sai."
Không chỉ dừng lại ở sự chuyển biến nhận thức ở trong nước, quốc tế cũng có bước ngoặt lớn trong nhận thức về tranh chấp Biển Đông.
Trước sự xâm phạm của Trung Quốc, Philippines đã nhiều lần lên án mạnh mẽ và hiện đang chuẩn bị hồ sơ pháp lý để kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế[13].
Nước Mỹ cũng đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về Biển Đông qua việc tuyên bố Mỹ có "quyền lợi quốc gia quan trọng" ở khu vực này của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội tháng 7 năm 2010([14]). Và gần đây nhất, ngày 13/6/2011, hai thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb và James Inhofe, thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, đã đệ trình một nghị quyết lưỡng đảng mang tiêu đề: "Kêu gọi một giải pháp đa phương, hòa bình cho những tranh chấp lãnh hải ở Đông Nam Á", nhằm "yêu cầu Trung Quốc ngưng các hành động quân sự và trở lại bàn đàm phán đa phương để giải quyết các vấn đề chủ quyền. Mục đích của chúng ta trong tương lai ở khu vực là thúc đẩy giao ước đa phương".[15]
Tất cả những điều đó cho thấy, với Việt Nam, sức mạnh tổng hợp từ mọi giới, mọi ngành, mọi nơi, mọi người, mọi nguồn đã bắt đầu được huy động. Sự đồng thuận lớn đang có cơ hội hình thành và phát huy tác dụng.
Nhận thức về cách thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam đã có bước ngoặt lớn và từng bước cộng hưởng với những chuyển biến quan trọng trên trường quốc tế về tranh chấp Biển Đông chống lại sự gây hấn của Trung Quốc.
Sức mạnh dân tộc đã bắt đầu kết hợp cùng sức mạnh thời đại. Giải pháp cho tranh chấp Biển Đông đã bắt đầu bước sang một chương mới. Nhưng chương mới này được viết như thế nào, sự cộng hưởng trong nước và quốc tế có được duy trì và khuếch đại hay tắt dần theo thời gian, trước hết phụ thuộc vào hành động của mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt quan trọng là ở những người đang trực tiếp lãnh đạo đất nước.
Tác giả cảm ơn Phạm Thu Xuân, Lê Vĩnh Trương, Nguyễn Quang A đã đọc và góp ý cho bản thảo.
Ghi chú:
[1] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 27/5/2011.
[2] Phát biểu của Bộ trưởng Phùng Quang Thanh tại Diễn đàn an ninh châu Á 10.
[3] Tuần Việt Nam, ngày 30/5/2011.
[4] Thayer Consultancy, ABN # 65 648 097 123
[5] Báo Tuổi trẻ, ngày 17/6/2011.
[6] VietNamNet, ngày 27/5/2011.
[7] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 5/6/2011.
[8] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 5/6/2011.
[9] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 12/6/2011.
[10] Vnexpress.net, ngày 19/6/2011.
[11] Giaoduc.net.vn, ngày 18/6/2011.
[12] VietNamNet, ngày 16/6/2011.
[13] BBC Vietnamese, ngày 3/6/2011.
[14] Báo Tuổi trẻ,ngày 23/7/1010.
[15]Báo Tuổi Trẻ, ngày 15/6/2011.
Sự gây hấn của Trung Quốc không dừng lại ở đó: ngày 9/6/2011, tàu Viking 2 do PVN thuê của hãng CGG Veritas, khi đang khảo sát địa chấn tại lô 163-3D hoàn toàn nằm trong vùng thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, không xa mỏ Đại Hùng và cách Vũng Tàu chưa đầy 150 Hải lý, đã bị hai tàu đánh cá và ngư chính của Trung Quốc đến quấy rối và phá thiết bị. Sự kiện này được giới quan sát quốc tế đánh giá là một sự leo thang có chủ ý không thể chối cãi[4].
Với Việt Nam nói riêng và toàn bộ diễn tiến của quá trình tranh chấp Biển Đông nói chung, hai sự kiện Bình Minh 2 và Viking 2 này là những cột mốc quan trọng vì nhiều lý do. Thứ nhất, nó diễn ra rất sâu trong khu vực thềm lục địa trực thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, cách mũi Đại Lãnh thuộc tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam chỉ 120 Hải lý, chứ không thuộc vùng biển có tranh chấp như trong những lần va chạm trước.
Thứ hai, nó nhắm đến hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí, một trong những hoạt động kinh tế trên biển quan trọng nhất của Việt Nam.
Thứ ba, nó diễn ra có chủ ý, có hệ thống (3 tàu hỗ trợ nhau) chứ không phải một tai nạn.
Thứ tư, so với những va chạm trước đó, nó là một sự leo thang rõ rệt, nhất là thời điểm xảy ra ngay sau diễn ra ngay sau chuyến thăm các nước Singapore, Indonesia và Philippines (từ 15/5) của Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc và ngay trước thềm Diễn đàn an ninh Châu Á, tổ chức tại Singapore ngày 03-05/2011.
Thứ năm, sự kiện này nguy hiểm ở chỗ: toàn bộ cỗ máy truyền thông của Trung Quốc đã lên tiếng khắp nơi vu cáo Việt Nam là bên gây hấn và Trung Quốc đóng vai nạn nhân trước nhân dân Trung Quốc cũng như nhân dân thế giới. Trong khi Việt Nam hầu như chưa kịp có một kế hoạch đối kháng nào về truyền thông.
Trước sự kiện này, Việt Nam như bừng tỉnh. Sự đe dọa về chủ quyền biển đảo và an toàn của các hoạt động kinh tế biển đã tiến đến sát cửa nhà chứ không còn xa xôi như trước. Ngay lập tức, báo chí và truyền thông vào cuộc, đưa tin và cập nhật liên tục về sự kiện. Nhiều phân tích của giới quan sát và học giả cho rằng, Việt Nam hoàn toàn có thể đưa "Sự kiện Bình Minh 2" này ra Tòa án quốc tế[5].
Chính phủ Việt Nam cũng phản ứng nhanh và quyết liệt hơn. Chỉ một ngày sau khi xảy ra "sự kiện Bình Minh", đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc để trao công hàm yêu cầu Trung Quốc chấm dứt những hành động vi phạm chủ quyền đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đồng thời yêu cầu Trung Quốc phải bồi thường thiệt hại cho tàu Bình Minh 2([6]). Sau đó, như đã đề cập ở trên, sự kiện này lại được Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam chính thức nêu ra tại Diễn đàn an ninh Châu Á lần thứ 10, diễn ra một tuần sau đó.
Cộng hưởng với những động thái trên của Chính phủ và truyền thông, người dân, nhất là giới trẻ, ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đã tuần hành ôn hòa trước Đại sứ quán và Lãnh sự quán Trung Quốc để bày tỏ sự phản đối vào ngày 5/6/2011([7])và sau đó là ngày 12/6/2011; 19/6/2001 để phản đối sự leo thang của Trung Quốc với sự kiện Viking 2.
Đội tàu bảo vệ Bình Minh 02 sau vụ bị tàu hải giám Trung Quốc được tăng cường thêm 5 chiếc nữa lên 8 chiếc. Ảnh VNE |
Nếu những va chạm hoặc gây hấn trước đây thường xảy ra ở khu vực được Trung Quốc cho là nằm trong vùng tranh chấp, thì nay đã chuyển dịch về phía bờ biển Việt Nam, hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc đang tìm cách biến những nơi không tranh chấp thành có tranh chấp để thực hiện ý đồ độc chiếm Biển Đông của mình.
Nhân dân Việt Nam bừng tỉnh trước nguy cơ chủ quyền biển đảo bị xâm phạm, lợi ích hợp pháp bị đe dọa, các hoạt động kinh tế biển bị phá hoại. Sự bừng tỉnh này đang lan rộng trong khắp mọi tầng lớp nhân dân. Chưa khi nào, thông tin và sự quan tâm về chủ quyền biển đảo lại được cập nhật nhanh chóng và thảo luận sôi nổi như trong thời gian này.
Về thông tin, người dân và báo chí đã ý thức rõ ràng rằng, dù có chính nghĩa thì trước hết chúng ta cũng vẫn phải lên tiếng để nêu cao chính nghĩa đó và tranh thủ sự ủng hộ của công luận thế giới. Công luận quốc tế sẽ chỉ lên tiếng nếu như công luận trong nước lên tiếng trước.
Về ngoại giao, việc yêu cầu Trung Quốc không chỉ chấm dứt sự khiêu khích, mà còn phải bồi thường thiệt hại do các hoạt động phá hoại và cản trở này đã thể hiện sự kiên quyết về chủ quyền biển đảo, do đó có tác dụng thu hút và đoàn kết toàn dân. Bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam tại Diễn đàn an ninh Châu Á lần thứ 10 cũng là một sự cộng hưởng đầy ý nghĩa.
Về kinh tế, ý thức ủng hộ hàng Việt, sử dụng hàng Việt và chấn hưng kinh tế cũng bùng lên. Vì người dân đã nhận thức rõ, không thể bảo vệ chủ quyền khi kinh tế của mình yếu.
Giới nghiên cứu cũng tích cực thu thập tài liệu, tìm kiếm các bằng chứng lịch sử và chuẩn bị các hồ sơ pháp lý nhằm bảo vệ chủ quyền theo công pháp quốc tế. Hội Luật gia[8] và Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đã ra "tuyên bố phản đối phản đối Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế"[9]. Một số đoàn thể quan trọng khác cũng đã có những phản ứng tương tự.
Chiến lược giải quyết tranh chấp ở Biển Đông cũng có những đổi mới đáng khích lệ. Thay vì giải quyết bằng đàm phán song phương như Trung Quốc đề nghị, chiến lược đàm phán đa phương trên cơ sở công pháp quốc tế đã được đề cập ngày càng rõ ràng. Ý thức đoàn kết các quốc gia có lợi ích chung ở Biển Đông đã được khởi động bằng những hành động cụ thể: 7 nước ASEAN đã "cùng kệu gọi việc tìm ra giải pháp hòa bình và sử dụng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 để giải quyết tranh chấp tại Biển Đông"[10] trong Hội nghị các quốc gia thành viên UNCLOS (13-17/6/2011, New York) cũng như tuyên bố chung Việt - Mỹ trong Đối thoại về chính trị - an ninh - quốc phòng Việt-Mỹ lần thứ tư (17/6/2011, Washington) nhấn mạnh "mọi tranh chấp về lãnh thổ ở Biển Đông phải được giải quyết thông qua con đường ngoại giao và hợp tác, không gây sức ép hay sử dụng vũ lực"[11].
Nhưng hơn hết là tinh thần đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong vào người nước của người Việt, bước đầu gạt qua những bất đồng tưởng chừng đã hằn sâu trong tâm thức, để cùng cất lên tiếng nói chung bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Nhiều vấn đề được cho là nhạy cảm nay đã bắt đầu được xới lên: tất cả đều hướng đến một mục tiêu duy nhất: bảo vệ chủ quyền biển đảo. Chẳng hạn, trong bài trả lời phỏng vấn báo VietnamNet ngày 16/6/2011, Giáo sư Hồ Trọng Ngũ, Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng An ninh Quốc hội, cho rằng[12]: "Lâu nay, để giữ hòa hiếu với Trung Quốc nên ta đã chấp nhận là một người "đồng chí". Nhưng xin nhắc lại là một Trung Quốc có hai chế độ thì họ không có nhu cầu quan tâm đến chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Mục đích của họ là lợi dụng luận điểm rằng cả Việt Nam và Trung Quốc đều có Đảng cộng sản để dễ bề qua mắt người dân Việt Nam rằng ta là đồng chí của họ. Trong khi đó, họ lại gặm nhấm từng mẩu đất. Đây là luận điệu rất nguy hiểm mà nếu nhân dân không hiểu được hết để giải thích thì bạn bè quốc tế cũng có thể hiểu sai."
Không chỉ dừng lại ở sự chuyển biến nhận thức ở trong nước, quốc tế cũng có bước ngoặt lớn trong nhận thức về tranh chấp Biển Đông.
Trước sự xâm phạm của Trung Quốc, Philippines đã nhiều lần lên án mạnh mẽ và hiện đang chuẩn bị hồ sơ pháp lý để kiện Trung Quốc ra Tòa án quốc tế[13].
Nước Mỹ cũng đã có những thay đổi quan trọng trong nhận thức về Biển Đông qua việc tuyên bố Mỹ có "quyền lợi quốc gia quan trọng" ở khu vực này của Ngoại trưởng Hillary Clinton tại Diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội tháng 7 năm 2010([14]). Và gần đây nhất, ngày 13/6/2011, hai thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb và James Inhofe, thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, đã đệ trình một nghị quyết lưỡng đảng mang tiêu đề: "Kêu gọi một giải pháp đa phương, hòa bình cho những tranh chấp lãnh hải ở Đông Nam Á", nhằm "yêu cầu Trung Quốc ngưng các hành động quân sự và trở lại bàn đàm phán đa phương để giải quyết các vấn đề chủ quyền. Mục đích của chúng ta trong tương lai ở khu vực là thúc đẩy giao ước đa phương".[15]
Tất cả những điều đó cho thấy, với Việt Nam, sức mạnh tổng hợp từ mọi giới, mọi ngành, mọi nơi, mọi người, mọi nguồn đã bắt đầu được huy động. Sự đồng thuận lớn đang có cơ hội hình thành và phát huy tác dụng.
Nhận thức về cách thức bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam đã có bước ngoặt lớn và từng bước cộng hưởng với những chuyển biến quan trọng trên trường quốc tế về tranh chấp Biển Đông chống lại sự gây hấn của Trung Quốc.
Sức mạnh dân tộc đã bắt đầu kết hợp cùng sức mạnh thời đại. Giải pháp cho tranh chấp Biển Đông đã bắt đầu bước sang một chương mới. Nhưng chương mới này được viết như thế nào, sự cộng hưởng trong nước và quốc tế có được duy trì và khuếch đại hay tắt dần theo thời gian, trước hết phụ thuộc vào hành động của mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt quan trọng là ở những người đang trực tiếp lãnh đạo đất nước.
Tác giả cảm ơn Phạm Thu Xuân, Lê Vĩnh Trương, Nguyễn Quang A đã đọc và góp ý cho bản thảo.
Ghi chú:
[1] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 27/5/2011.
[2] Phát biểu của Bộ trưởng Phùng Quang Thanh tại Diễn đàn an ninh châu Á 10.
[3] Tuần Việt Nam, ngày 30/5/2011.
[4] Thayer Consultancy, ABN # 65 648 097 123
[5] Báo Tuổi trẻ, ngày 17/6/2011.
[6] VietNamNet, ngày 27/5/2011.
[7] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 5/6/2011.
[8] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 5/6/2011.
[9] Thông tấn xã Việt Nam, ngày 12/6/2011.
[10] Vnexpress.net, ngày 19/6/2011.
[11] Giaoduc.net.vn, ngày 18/6/2011.
[12] VietNamNet, ngày 16/6/2011.
[13] BBC Vietnamese, ngày 3/6/2011.
[14] Báo Tuổi trẻ,ngày 23/7/1010.
[15]Báo Tuổi Trẻ, ngày 15/6/2011.
-Thách thức Biển Đông và "chiếc nỏ thần" Việt Nam (TVN 14-6-11) -- Bài hay của TS Vũ Minh Khương ◄
Dân tộc Việt Nam có một vũ khí chiến lược vô song chỉ được dùng đến khi không còn phương cách nào khác. Vũ khí đó có khả năng làm kinh ngạc đối phương và thế giới bằng những nỗ lực phi thường mà trước đó không ai có thể hình dung được.
>> Sự cố Viking2 và mưu đồ của Bắc Kinh
>> Biển Đông: Vùng biển dữ hay trái táo bất hòa?
>>Biển Đông: Khi sức mạnh không đến từ vũ lực
Những biến động dồn dập gần đây ở Biển Đông với hành động phi đạo lý của Trung Quốc trong xâm phạm chủ quyền của Việt Nam chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm khổng lồ chứa đựng không chỉ tham vọng vô đáy của Trung Quốc trong vùng biển xung yếu này mà cả sự đánh giá rất thấp (nếu không nói là coi thường) khả năng ứng xử chiến lược của nhà nước và sức trỗi dậy của dân tộc Việt Nam.
Đây là một nước cờ sâu và táo bạo. Có lẽ những người đi nước cờ này đã trù tính kỹ tới ba phản ứng sau đây của Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam sẽ không tiếc tiền, vội vã mua sắm vũ khí, tăng cường phòng thủ. Điều này sẽ làm ngân sách quốc gia kiệt quệ, kinh tế vĩ mô chao đảo, kinh tế suy yếu.
Thứ hai, người dân Việt Nam sẽ rất bức xúc trong khi nhà nước bối rối lo ngại nên tăng cường kiểm soát và kìm chế. Kết quả là, người Việt Nam sẽ mất đi tính sáng suốt của sự đồng lòng; và do đó không còn tâm trí nào cho một nỗ lực cải cách sâu rộng.
Thứ ba, giới doanh nhân Việt Nam sẽ mất đi quyết tâm và nhuệ khí trong thâm nhập thị trường Trung Quốc, một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển. Vì thế, Việt Nam sẽ tiếp tục là nước thua thiệt và yếu kém nhất trong các nước châu Á trong quan hệ thương mại với thị trường khổng lồ và tăng trưởng nhanh chóng này.
Thế nhưng, những người chơi nước cờ sâu và táo bạo nói trên có thể không lường hết sức trỗi dậy của dân tộc Việt Nam. Dân tộc này có một vũ khí chiến lược vô song chỉ được dùng đến khi không còn phương cách nào khác. Vũ khí đó có khả năng làm kinh ngạc đối phương và thế giới bằng những nỗ lực phi thường mà trước đó không ai có thể hình dung được. Thách thức Biển Đông có lẽ là một vận hội vô giá, nó buộc người Việt Nam chúng ta phải dùng đến chiếc "nỏ thần" kỳ diệu này.
Chúng ta cần hiểu Trung Quốc hơn
Để vượt qua thách thức nghiệt ngã hiện nay, Việt Nam cần hiểu rõ hơn Trung Quốc. Đây là một dân tộc có nền văn hóa lớn, lâu đời, với nhiều thành quả huy hoàng trong quá khứ nhưng đã bị kìm nén nặng nề trong hàng trăm năm qua do chính sách đóng cửa và não trạng mê muội. Từ khi có cải cách do ông Đặng Tiểu Bình khởi xướng họ đã đi được những bước khổng lồ, làm thế giới thán phục, với động lực chủ đạo là ý chí và tham vọng rất lớn, trọng dụng nhân tài, tầm nhìn rộng, và mưu kế sâu sắc. Xu thế này hiện còn rất mạnh mẽ và có thể còn kéo dài.
Việt Nam cũng như nhiều nước khác cần thấu hiểu cục diện này và chuẩn bị thật tốt để có thể sống bên một người láng giềng khổng lồ, hùng mạnh, tham vọng, mưu sâu, và có thể có những hành vi nhẫn tâm trong khẳng định quyền thế nhờ sự trỗi dậy của mình.
Đồng thời, Việt Nam cũng cần biết rõ những điểm yếu rất dễ tổn thương của Trung Quốc. Thứ nhất, đó là nội tình phức tạp với nhiều yếu tố bất ổn từ trong cốt lõi. Mức độ ổn định chính trị và kiểm soát tham nhũng của Trung Quốc rất thấp so với hầu hết các nước (theo khảo sát thường niên của Ngân hàng Thế giới). Trung quốc sẽ không thể rảnh tay làm mưa gió trên thế giới nếu người dân Trung Quốc thấy chính phủ mình thua kém Việt Nam và các nước láng giềng trong nỗ lực cải cách-phát triển. Khi đó Trung Quốc sẽ phải quay về giải quyết vấn đề nội bộ.
Thứ hai, hình ảnh nhân văn của Trung Quốc trên trường quốc tế còn rất thấp. Từ thực tế châu Phi đến Biển Đông, họ chưa chứng tỏ được mình là một quốc gia có trách nhiệm cao trong kiến tạo hòa bình và phồn vinh cho thế giới.
Thứ ba, Trung Quốc để lại nhiều ấn tượng chưa đẹp về tính trung thực và sự nhất quán giữa hành động và lời nói, từ chất lượng sản phẩm đến đường lối kinh tế và chính sách ngoại giao.
Một mặt khác, Trung Quốc là một quốc gia có lãnh đạo giỏi, tầm nhìn xa. Trên thực tế, họ rất ngại và kiêng nể các quốc gia có hội đủ ba yếu tố: thượng tôn các qui luật của tạo hóa, trọng dụng nhân tài, và dốc sức khai phát sức mạnh dân tộc. Bởi họ biết dân tộc này sẽ là một quốc gia hùng cường. Hàn Quốc là một trường hợp điển hình. Trong khi đó, họ có thể hành xử rất ngạo mạn với những quốc gia mê muội, giáo điều, hắt hủi hiền tài, phân liệt nhân tâm. Bởi họ biết đất nước này đang ở vào thế suy vi.
Trung Quốc đã qua giai đoạn trỗi dậy hòa bình và bước vào giai đoạn khẳng định uy lực của mình. Họ sẽ không ngại đối đầu trên những điểm mạnh của họ, đặc biệt là về thực lực kinh tế và quân sự. Tuy nhiên họ sẽ phải chùn lại nếu sự đụng độ khoét sâu các điểm yếu nêu trên: ổn định chính trị thấp, hình ảnh nhân văn hạn chế, ấn tượng về hành xử thiếu văn minh và trách nhiệm.
Việt Nam: Chiếc "nỏ thần" và phương cách sử dụng
Từ bài học từ cha ông
Binh pháp cổ có tổng kết rằng, muốn làm nên một chiến thắng hiển hách, cần có khả năng làm kinh ngạc đối phương. Đây là chiếc "nỏ thần" kỳ diệu mà người Việt Nam qua bao thế hệ đã dùng đến mỗi khi đất nước bị lâm nguy hoặc ngoại xâm giày xéo. Ông cha ta đã để lại những bài học quí giá khi dùng đến vũ khí chiến lược này.
Bài học của Đức Trần Hưng Đạo chỉ ra rằng cách bảo vệ tổ quốc tốt nhất là chủ động tiến công vào những yếu kém của chính mình. Theo tư tưởng này, ngài thảo ra hịch tướng sĩ, khích lệ tướng sĩ thấy nỗi nhục quốc gia mà bỏ thói hư tật xấu, quyết chí một lòng, xả thân vì nước.
Ngài chỉ rõ, nếu để mất nước thì: "chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến ngàn năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận."
Và nếu giữ được nước thì: "trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền."
Nguyễn Trãi nêu ra những nguyên lý cao cả để dân tộc vượt lên mọi sự bạo ngược:
Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ trăn trở tìm kiếm người hiền tài ra giúp nước: "Trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, thức ngủ mong mỏi mà có người tài cao học rộng chưa từng thấy đến... Ngẫm cho kỹ: cái nhà to lớn - sức một cây không dễ gì chống đỡ, sự nghiệp thái bình - sức một người không thể đảm đương." (Chiếu cầu hiền)
Đến nỗ lực hôm nay
Sẽ cần những nghiên cứu sâu sắc và thảo luận rộng khắp trong nhân dân để tìm ra đủ phương cách để Việt Nam có thể vượt lên bằng những nỗ lực làm kinh ngạc thế giới, buộc đối phương phải rút về thế phòng thủ - hòa hoãn. Ba hướng đi lớn cho các nỗ lực có thể là:
1- Xác lập ý chí cải cách của lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
2- Cả nước trên dưới một lòng toàn tâm toàn ý khai phát sức mạnh tiềm tàng của dân tộc; và
3- Toàn xã hội thành tâm coi giá trị nhân văn và lòng nhân bản làm nền tảng phát triển và hướng đích cho dân tộc đi đến phồn vinh.
Theo hướng đi này chúng ta có quyền đòi hỏi và kỳ vọng một số hành động sau đây.
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước lắng nghe bàn luận để thấy hết nguy cơ, thậm chí thảm họa mà đất nước nhân dân sẽ phải gánh chịu trong tương lai không xa nếu đất nước tiếp tục tụt hậu, dân tộc phân tâm.
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước quây quần cùng đại diện mọi tầng lớp nhân dân, ngày đêm họp bàn tìm phương kế cải cách, đưa nhanh đất nước đến hùng cường.
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có chính sách sử dụng hiền tài, đưa đất nước vượt lên trên mọi lĩnh vực, từ phát triển kinh tế đến củng cố quốc phòng, từ dân chủ hóa đất nước đến xây dựng thiết chế nền tảng cho phát triển bền vững, từ cải cách giáo dục đến nâng cấp tiềm lực khoa học công nghệ, từ hợp tác quốc tế đến gia cường vị thế và hình ảnh Việt Nam.
+ Có những bước đi đột phá táo bạo; đặc biệt là xây dựng một số đặc khu kinh tế nhằm huy động sức mạnh tổng lực của dân tộc, là hình mẫu của Việt Nam năm 2045, với sức đuổi vượt mạnh mẽ làm thế giới khâm phục và kính nể.
+ Mỗi người dân Việt Nam, dù ở đâu hãy tự giác góp phần tạo nên hình ảnh một dân tộc có phẩm chất cao quí: thành tâm trong hợp tác, cầu thị trong học hỏi, ý thức trách nhiệm cao với cộng đồng. Việt Nam cần trở thành một điểm sáng, có sức tương phản và thu hút mạnh mẽ trong hun đúc những phẩm chất cao quí này.
>> Biển Đông: Vùng biển dữ hay trái táo bất hòa?
>>Biển Đông: Khi sức mạnh không đến từ vũ lực
Những biến động dồn dập gần đây ở Biển Đông với hành động phi đạo lý của Trung Quốc trong xâm phạm chủ quyền của Việt Nam chỉ là phần nổi của một tảng băng chìm khổng lồ chứa đựng không chỉ tham vọng vô đáy của Trung Quốc trong vùng biển xung yếu này mà cả sự đánh giá rất thấp (nếu không nói là coi thường) khả năng ứng xử chiến lược của nhà nước và sức trỗi dậy của dân tộc Việt Nam.
Đây là một nước cờ sâu và táo bạo. Có lẽ những người đi nước cờ này đã trù tính kỹ tới ba phản ứng sau đây của Việt Nam. Thứ nhất, Việt Nam sẽ không tiếc tiền, vội vã mua sắm vũ khí, tăng cường phòng thủ. Điều này sẽ làm ngân sách quốc gia kiệt quệ, kinh tế vĩ mô chao đảo, kinh tế suy yếu.
Thứ hai, người dân Việt Nam sẽ rất bức xúc trong khi nhà nước bối rối lo ngại nên tăng cường kiểm soát và kìm chế. Kết quả là, người Việt Nam sẽ mất đi tính sáng suốt của sự đồng lòng; và do đó không còn tâm trí nào cho một nỗ lực cải cách sâu rộng.
Thứ ba, giới doanh nhân Việt Nam sẽ mất đi quyết tâm và nhuệ khí trong thâm nhập thị trường Trung Quốc, một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược phát triển. Vì thế, Việt Nam sẽ tiếp tục là nước thua thiệt và yếu kém nhất trong các nước châu Á trong quan hệ thương mại với thị trường khổng lồ và tăng trưởng nhanh chóng này.
Thế nhưng, những người chơi nước cờ sâu và táo bạo nói trên có thể không lường hết sức trỗi dậy của dân tộc Việt Nam. Dân tộc này có một vũ khí chiến lược vô song chỉ được dùng đến khi không còn phương cách nào khác. Vũ khí đó có khả năng làm kinh ngạc đối phương và thế giới bằng những nỗ lực phi thường mà trước đó không ai có thể hình dung được. Thách thức Biển Đông có lẽ là một vận hội vô giá, nó buộc người Việt Nam chúng ta phải dùng đến chiếc "nỏ thần" kỳ diệu này.
Chúng ta cần hiểu Trung Quốc hơn
Để vượt qua thách thức nghiệt ngã hiện nay, Việt Nam cần hiểu rõ hơn Trung Quốc. Đây là một dân tộc có nền văn hóa lớn, lâu đời, với nhiều thành quả huy hoàng trong quá khứ nhưng đã bị kìm nén nặng nề trong hàng trăm năm qua do chính sách đóng cửa và não trạng mê muội. Từ khi có cải cách do ông Đặng Tiểu Bình khởi xướng họ đã đi được những bước khổng lồ, làm thế giới thán phục, với động lực chủ đạo là ý chí và tham vọng rất lớn, trọng dụng nhân tài, tầm nhìn rộng, và mưu kế sâu sắc. Xu thế này hiện còn rất mạnh mẽ và có thể còn kéo dài.
Đảo Đá Đông thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ảnh Chu Thanh Vân. |
Đồng thời, Việt Nam cũng cần biết rõ những điểm yếu rất dễ tổn thương của Trung Quốc. Thứ nhất, đó là nội tình phức tạp với nhiều yếu tố bất ổn từ trong cốt lõi. Mức độ ổn định chính trị và kiểm soát tham nhũng của Trung Quốc rất thấp so với hầu hết các nước (theo khảo sát thường niên của Ngân hàng Thế giới). Trung quốc sẽ không thể rảnh tay làm mưa gió trên thế giới nếu người dân Trung Quốc thấy chính phủ mình thua kém Việt Nam và các nước láng giềng trong nỗ lực cải cách-phát triển. Khi đó Trung Quốc sẽ phải quay về giải quyết vấn đề nội bộ.
Thứ hai, hình ảnh nhân văn của Trung Quốc trên trường quốc tế còn rất thấp. Từ thực tế châu Phi đến Biển Đông, họ chưa chứng tỏ được mình là một quốc gia có trách nhiệm cao trong kiến tạo hòa bình và phồn vinh cho thế giới.
Thứ ba, Trung Quốc để lại nhiều ấn tượng chưa đẹp về tính trung thực và sự nhất quán giữa hành động và lời nói, từ chất lượng sản phẩm đến đường lối kinh tế và chính sách ngoại giao.
Một mặt khác, Trung Quốc là một quốc gia có lãnh đạo giỏi, tầm nhìn xa. Trên thực tế, họ rất ngại và kiêng nể các quốc gia có hội đủ ba yếu tố: thượng tôn các qui luật của tạo hóa, trọng dụng nhân tài, và dốc sức khai phát sức mạnh dân tộc. Bởi họ biết dân tộc này sẽ là một quốc gia hùng cường. Hàn Quốc là một trường hợp điển hình. Trong khi đó, họ có thể hành xử rất ngạo mạn với những quốc gia mê muội, giáo điều, hắt hủi hiền tài, phân liệt nhân tâm. Bởi họ biết đất nước này đang ở vào thế suy vi.
Trung Quốc đã qua giai đoạn trỗi dậy hòa bình và bước vào giai đoạn khẳng định uy lực của mình. Họ sẽ không ngại đối đầu trên những điểm mạnh của họ, đặc biệt là về thực lực kinh tế và quân sự. Tuy nhiên họ sẽ phải chùn lại nếu sự đụng độ khoét sâu các điểm yếu nêu trên: ổn định chính trị thấp, hình ảnh nhân văn hạn chế, ấn tượng về hành xử thiếu văn minh và trách nhiệm.
Việt Nam: Chiếc "nỏ thần" và phương cách sử dụng
Từ bài học từ cha ông
Binh pháp cổ có tổng kết rằng, muốn làm nên một chiến thắng hiển hách, cần có khả năng làm kinh ngạc đối phương. Đây là chiếc "nỏ thần" kỳ diệu mà người Việt Nam qua bao thế hệ đã dùng đến mỗi khi đất nước bị lâm nguy hoặc ngoại xâm giày xéo. Ông cha ta đã để lại những bài học quí giá khi dùng đến vũ khí chiến lược này.
Bài học của Đức Trần Hưng Đạo chỉ ra rằng cách bảo vệ tổ quốc tốt nhất là chủ động tiến công vào những yếu kém của chính mình. Theo tư tưởng này, ngài thảo ra hịch tướng sĩ, khích lệ tướng sĩ thấy nỗi nhục quốc gia mà bỏ thói hư tật xấu, quyết chí một lòng, xả thân vì nước.
Ngài chỉ rõ, nếu để mất nước thì: "chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục đến ngàn năm sau tiếng nhơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận."
Và nếu giữ được nước thì: "trăm đời sau còn để tiếng thơm; chẳng những thụy hiệu ta không hề mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu truyền."
Nguyễn Trãi nêu ra những nguyên lý cao cả để dân tộc vượt lên mọi sự bạo ngược:
"Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
(Bình Ngô Đại cáo)![]() |
Đến nỗ lực hôm nay
Sẽ cần những nghiên cứu sâu sắc và thảo luận rộng khắp trong nhân dân để tìm ra đủ phương cách để Việt Nam có thể vượt lên bằng những nỗ lực làm kinh ngạc thế giới, buộc đối phương phải rút về thế phòng thủ - hòa hoãn. Ba hướng đi lớn cho các nỗ lực có thể là:
1- Xác lập ý chí cải cách của lãnh đạo Đảng và Nhà nước;
2- Cả nước trên dưới một lòng toàn tâm toàn ý khai phát sức mạnh tiềm tàng của dân tộc; và
3- Toàn xã hội thành tâm coi giá trị nhân văn và lòng nhân bản làm nền tảng phát triển và hướng đích cho dân tộc đi đến phồn vinh.
Theo hướng đi này chúng ta có quyền đòi hỏi và kỳ vọng một số hành động sau đây.
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước lắng nghe bàn luận để thấy hết nguy cơ, thậm chí thảm họa mà đất nước nhân dân sẽ phải gánh chịu trong tương lai không xa nếu đất nước tiếp tục tụt hậu, dân tộc phân tâm.
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước quây quần cùng đại diện mọi tầng lớp nhân dân, ngày đêm họp bàn tìm phương kế cải cách, đưa nhanh đất nước đến hùng cường.
+ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước có chính sách sử dụng hiền tài, đưa đất nước vượt lên trên mọi lĩnh vực, từ phát triển kinh tế đến củng cố quốc phòng, từ dân chủ hóa đất nước đến xây dựng thiết chế nền tảng cho phát triển bền vững, từ cải cách giáo dục đến nâng cấp tiềm lực khoa học công nghệ, từ hợp tác quốc tế đến gia cường vị thế và hình ảnh Việt Nam.
+ Có những bước đi đột phá táo bạo; đặc biệt là xây dựng một số đặc khu kinh tế nhằm huy động sức mạnh tổng lực của dân tộc, là hình mẫu của Việt Nam năm 2045, với sức đuổi vượt mạnh mẽ làm thế giới khâm phục và kính nể.
+ Mỗi người dân Việt Nam, dù ở đâu hãy tự giác góp phần tạo nên hình ảnh một dân tộc có phẩm chất cao quí: thành tâm trong hợp tác, cầu thị trong học hỏi, ý thức trách nhiệm cao với cộng đồng. Việt Nam cần trở thành một điểm sáng, có sức tương phản và thu hút mạnh mẽ trong hun đúc những phẩm chất cao quí này.
Biển Đông và lòng yêu nước của người Việt (VTC 10-6-11) -- P/v Dương Trung Quốc

