THD -Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương (TVN 18-7-11) -- Dịch phần đầu (tại sao không đăng luôn một lần cho dễ đọc?) tham luận của TS Trần Trường Thủy tại Hội thảo về Biển Đông ở Washington D.C tháng rồi: Recent Developments in the South China Sea: Implications for Regional Security and Cooperation (CSIS 9-6-11) -- TS Thủy cũng gọi Biển Đông là South China Sea? (Nhưng TVN nói là bài của ông có tựa: "Diễn biến mới trên biển Đông và tác động đối với an ninh khu vực". Thế là thế nào? Viết cho người Việt thì ông gọi là Biển Đông, nhưng khi ra ngọai quốc, có đại diện Trung Quốc và phóng viên quốc tế ngồi đó, thì ông gọi là Biển Nam Trung Hoa?)◄- Những diễn biến mới trên Biển Đông
-Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương (TVN 18-7-11)
Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết có tựa đề Diễn biến mới trên biển Đông và tác động đối với an ninh khu vực của Tiến sĩ Trần Trường Thủy, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên cứu các vấn đề Biển Đông, thuộc Học Viện Ngoại Giao Việt Nam (DAV), trong đó phân tích các nỗ lực của các nước trong khu vực nhằm ổn định tình hình và thúc đẩy hợp tác trên biển Đông; các tác động của những diễn biến gần đây trên biển Đông đối với an ninh và hợp tác trong khu vực, tại sao việc thực thi các tài liệu đã ký, đặc biệt là DOC, chưa được đầy đủ; và cuối cùng đưa ra một số gợi ý định hướng giải pháp nhằm thúc đẩy an ninh và hợp tác khu vực.
Tầm quan trọng của biển Đông đã được thừa nhận rộng rãi đối với ngành hàng hải quốc tế, an toàn biển, khai thác nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, và hiệu lực pháp lý của luật pháp quốc tế. Các tranh chấp trên biển Đông liên quan đến quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa và các vùng nước xung quanh các quần đảo này vẫn là một trong những điểm nóng tiềm ẩn, có thể gây bất ổn khu vực.
Từ những năm 90 của thế kỉ trước, các nước trong khu vực đã nỗ lực ổn định tình hình và tìm kiếm cơ hội hợp tác trong khu vực biển Đông. Một trong các kết quả đạt được là Tuyên bố của ASEAN về biển Đông năm 1992, Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc năm 2002 về Ứng xử của các bên trên biển Đông (DOC), theo đó tất cả các bên tham gia đều cam kết tìm các giải pháp hòa bình cho các tranh chấp và tiến hành hợp tác trên biển nhằm duy trì ổn định khu vực tại biển Đông. Tuy nhiên, sau khi ký DOC, các bên đã không ngừng các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình. Đôi khi nảy sinh căng thẳng và các bên liên quan tiếp tục phản đối các động thái của bên kia trên biển Đông.
Môi trường an ninh biển Đông và các nỗ lực giải quyết tranh chấp
Trước khi ký kết DOC giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002, thì Hiệp ước Thân thiện và đối tác ở Đông Nam Á (TAC) và Hiệp định về khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (được ký lần lượt trong các năm 1976 và 1995) là những văn kiện pháp lý điều chỉnh các hành vi của các bên liên quan trên biển Đông. Các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn các bên tham gia ký kết trong TAC bao gồm giải quyết bất đồng bằng các biện pháp hòa bình, không dùng vũ lực hay sử dụng vũ lực và thúc đẩy hợp tác hiệu quả giữa các bên liên quan.
Trước tiên, các thành viên ASEAN đã thông qua quan điểm chung về tranh chấp trên biển Đông trong Tuyên bố của ASEAN về biển Đông, ký tại Manila năm 1992. Tuyên bố này thể hiện các mối lo ngại của ASEAN về căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc sau khi tập đoàn năng lượng Creston của Mỹ được phép khai thác dầu ở Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) thuộc thềm lục địa của Việt Nam, và việc Trung Quốc thông qua "Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp" ngày 25/2/1992 tuyên bố chủ quyền hoàn toàn của Trung Quốc đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa). Các Ngoại trưởng ASEAN đã thừa nhận rằng "vấn đề biển Đông gồm những câu hỏi nhạy cảm về chủ quyền và quyền tài phán của các bên liên quan trực tiếp" và thực tế là "bất cứ diễn biến thù địch nào trên biển Đông cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hòa bình và ổn định trong khu vực".
Tuyên bố kêu gọi các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thể hiện sự kiềm chế và hợp tác trong việc thực thi các nguyên tắc ghi trong TAC, coi đây là căn cứ để xây dựng một bộ quy tắc về ứng xử quốc tế tại biển Đông. Tuyên bố kêu gọi khai thác khả năng hợp tác tại biển Đông. Bên cạnh đó, tất cả các bên liên quan được mời tham gia Tuyên bố Manila. Việt Nam, khi đó chưa phải là thành viên ASEAN, đã ủng hộ tuyên bố này. Tuy nhiên Trung Quốc nhắc lại quan điểm của mình là phản đối việc thảo luận đa phương vấn đề này và khẳng định quan điểm của họ là quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không liên quan đến ASEAN. Mặc dù vậy, Ngoại trưởng Trung Quốc khi đó Tiền Kỳ Tham nói rằng Trung Quốc ủng hộ các "nguyên tắc" của tuyên bố này.
Ảnh minh họa FP |
Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông
Ý tưởng về một Bộ quy tắc ứng xử (COC) cho khu vực đã được đưa ra trong Tuyên bố ASEAN năm 1992 và được thảo luận sâu hơn trong hàng loạt buổi làm việc được Indonesia tổ chức nhằm giải quyết các xung đột tiềm ẩn trên biển Đông từ năm 1991. Ý tưởng COC đã chính thức nhận được sự ủng hộ tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 29 (tại Jakarta, ngày 21-27/7/1996) với hy vọng văn bản này có thể tạo nền tảng cho hợp tác lâu dài trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước liên quan. Các Ngoại trưởng ASEAN đã bày tỏ lo ngại về tình hình biển Đông trong tuyên bố chung và nhấn mạnh rằng các bên liên quan nên áp dụng các nguyên tắc của TAC, coi đây là cơ sở cho một bộ quy tắc ứng xử khu vực tại biển Đông để xây dựng một môi trường khu vực an ninh và ổn định.
Dù một COC có ràng buộc pháp lý được coi là mục đích ban đầu, nhưng sau gần 5 năm thương lượng, ASEAN và Trung Quốc chỉ đạt được một thỏa thuận mang tính chính trị. Ngày 4/10/2002 tại Phnom-Penh, ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố DOC. Đây được coi là một bước hướng tới việc thông qua một COC mang tính ràng buộc hơn, trong đó xác định các quyền và nghĩa vụ của ccs bên liên quan nhằm thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
Việc Trung Quốc tham gia DOC đánh dấu một thay đổi lớn trong cách tiếp cận của nước này đối với tranh chấp biển Đông, từ song phương sang "bán đa phương". Trước kia, Trung Quốc chỉ ủng hộ các cuộc đàm phán song phương nhằm giành lợi thế về vị trí của một cường quốc khu vực và tránh mọi mặt trận ASEAN thống nhất chống lại các lợi ích của mình.
Dù Trung Quốc đã vẫn quả quyết duy trì các yêu sách của mình trong các khu vực tranh chấp, nhưng dường như họ chuẩn bị để gia nhập các cơ chế đa phương và tôn trọng các quy tắc và giá trị của trò chơi. Bằng việc chấp nhận các cuộc đàm phán đa phương với ASEAN về COC và DOC, Trung Quốc tìm cách khai thác sự chia rẽ giữa các nước thành viên ASEAN. Hơn nữa, với DOC, Trung Quốc có thể thắng về chính trị và kinh tế và xoa dịu lo ngại của ASEAN về Trung Quốc. Đáp lại thuyết "mối đe dọa Trung Quốc" Trung Quốc đã ủng hộ học thuyết "sự nổi lên hòa bình" và các chính sách "phát triển hòa bình" như định hướng phát triển quốc gia để làm an lòng các nước láng giềng.
Đông Nam Á là một trọng tâm của chính sách thân thiện của Trung Quốc. việc ký kết DOC một phần giúp Trung Quốc giành được niềm tin và sự tín nhiệm của các thành viên ASEAN, đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế và quan hệ thương mại. Hơn nữa, DOC, một tài liệu mang tính chính trị và không bị ràng buộc pháp lý, không ảnh hưởng chút nào đến các yêu sách của Trung Quốc, và vì vậy sẽ không gây ra phản ứng tiêu cực trong nước.
Tình hình an ninh khu vực sau sự kiện 11/9/2001 cũng góp phần dẫn tới việc ký kết DOC năm 2002. Sau sự kiện trên, Mỹ tuyên bố Đông Nam Á là mặt trận thứ hai của cuộc chiến chống khủng bố, việc này đã đánh thức mối lo ngại của Trung Quốc đối với vị trí địa chính trị của Mỹ trong khu vực. Các quan hệ giữa Mỹ với Philippines, Malaysia và Việt Nam đã được cải thiện và tăng cường. Ba nước này đều là thành viên ASEAN và liên quan trực tiếp đến tranh chấp biển Đông với Trung Quốc. Các thành viên khác trong ASEAN như Thái Lan, Singapore và cả Indonesia, quốc gia Hồi giáo lớn nhất thế giới, đều đã ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ.
Tháng 8/2002, Tuyên bố chung Mỹ - ASEAN về Hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế đã được ký kết. Hợp tác tăng cường giữa Mỹ với các đồng minh ở Đông Nam Á đã gây ảnh hưởng đến các tính toán chiến lược của Trung Quốc. Dù Trung Quốc ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố, nhưng Bắc Kinh cũng lo ngại rằng sự hiện diện quân sự ngày càng lớn của Mỹ tại khu vực có thể dẫn tới cam kết của Mỹ trong vấn đề biển Đông. Kết quả là Trung Quốc lo ngại rằng vấn đề biển Đông sẽ bị đa phương hóa và quốc tế hóa.
Theo Leszek Buszynski, lý do chính khiến Trung Quốc tham gia DOC là nước này nhận ră tầm quan trọng của bộ quy tắc ứng xử khu vực trong việc khuyến khích các nước thành viên ASEAN giảm quan hệ chính trị và quân sự với Mỹ, từ đó tránh sự can thiệp của Mỹ vào tranh chấp biển Đông cũng như tránh tạo lợi thế của Mỹ trong vấn đề Đài Loan.
Tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc được ASEAN xem là một cơ hội cho các nước thành viên của mình. Ngày 5/11/2002, tại Phnom Penh, Thỏa thuận khung Trung Quốc - ASEAN về Hợp tác kinh tế toàn diện đã được ký kết, mở đường cho một Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc - ASEAN năm 2010. Đây là một bước tiến quan trọng trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN. Lợi ích mà buôn bán hai chiều mang lại đã góp phần ký kết DOC. Về điểm này, Amitav Acharya viết "từ một góc độ chính trị, việc hiện thực hóa một thỏa thuận khu vực tự do Trung Quốc - ASEAN cho thấy các gian lận trong lịch sử và xung đột chính trị giữa các thành viên ASEAN và Trung Quốc sẽ không còn là nhân tố lớn nhất ảnh hưởng tới quan hệ Trung Quốc - ASEAN nữa".
Tại Hội nghị cấp cao Trung Quốc - ASEAN ngày 8/10/2003 ở Bali (Indonesia), hai bên đã ký Tuyên bố chung của các nguyên thủ quốc gia về Đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng với mục đích thúc đẩy quan hệ bằng hữu, hợp tác đôi bên cùng có lợi, và quan hệ láng giềng tốt giữa ASEAN và Trung Quốc bằng việc mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ hợp tác Trung Quốc - ASEAN một cách toàn diện trong thế kỷ 21. Cùng ngày, Trung Quốc chính thức trở thành nước ngoài ASEAN tham gia TAC, nhờ vậy khuyến khích Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và tránh đe dọa hoặc sự dụng vũ lực.
Các nước ASEAN đánh giá cao các diễn biến này, góp phần chính cho hòa bình, an ninh và ổn định khu vực. Năm 2005, Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã thăm Indonesia, Brunei, và Philippines nhằm thúc đẩy tình bằng hữu và hợp tác, và xoa dịu những lo ngại về các ý định của Trung Quốc. Tất cả các diễn biến này, cộng với các hoạt động khác trong chính sách "thế công mê hoặc" của Trung Quốc đối với Đông Nam Á, trong đó có đề nghị thiết lập Khu vực Thương mại Tự do Trung Quốc - ASEAN (CAFTA) năm 2001, đã giúp giảm bớt suy nghĩ của khu vực coi Trung Quốc là một mối đe dọa.
Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương
Để đưa các điều khoản của DOC vào các hoạt động hợp tác cụ thể, trong Kế hoạch Hành động thực thi Tuyên bố chung 2003 về Đối tác chiến lược vì hòa bình và thịnh vượng, vốn được đưa ra nhằm phục vụ kế hoạch lớn hơn là mở rộng và làm sâu sắc thêm quan hệ và hợp tác ASEAN-Trung Quốc, hai bên đã tuyên bố theo đuổi các hành động và biện pháp chung để thực thi DOC "một cách hiệu quả". Các hành động và biện pháp đó bao gồm: tổ chức định kỳ Hội nghị cấp cao (SOM) Trung Quốc - ASEAN về việc thực thi DOC; cung cấp các chỉ dẫn và đánh giá việc thực thi DOC; và thành lập một nhóm làm việc để soạn thảo các hướng dẫn của hai bên về thực thi DOC và cung cấp các khuyến cáo cho SOM Trung Quốc - ASEAN về các vấn đề chính sách và thực thi.
Tại hội nghị SOM Trung Quốc - ASEAN về thực thi DOC lần đầu tiên ở Kuala Lumpur ngày 7/9/2004, các bên liên quan đã quyết định thành lập một nhóm làm việc chung (JWG) để nghiên cứu và khuyến cáo các hoạt động nhằm xây dựng lòng tin. JWG Trung Quốc - ASEAN có nhiệm vụ hình thành các khuyến cáo về: a) các hướng dẫn và kế hoạch hành động để thực thi DOC; b) các hoạt động hợp tác rõ ràng tại biển Đông; c) một danh sách chuyên gia giỏi có thể cung cấp các dữ liệu kỹ thuật, quan điểm chuyên môn hoặc khuyến cáo chính sách cho JWG Trung Quốc - ASEAN; và d) việc triệu tập các hội thảo khi cần thiết.
Tại hội nghị đầu tiên của JWG Trung Quốc - ASEAN ở Manila ngày 4-5/8/2005, ASEAN đã đề xuất một dự thảo Hướng dẫn thực thi DOC để thảo luận. Tuy nhiên, vấn đề chính là điểm 2 của dự thảo này. ASEAN muốn ứng xử với Trung Quốc trong vai trò một nhóm và "tự tham vấn nội bộ" trước khi gặp Trung Quốc, trong khi Trung Quốc muốn tiến hành các cuộc tham vấn với "các bên liên quan", không phải với cả khối ASEAN. Sau một số cuộc họp của JWG Trung Quốc - ASEAN, vẫn không đạt được đồng thuận về điểm 2 của hướng dẫn này, và 6 dự án hợp tác chung trong các lĩnh vực ít nhạy cảm hơn vì vậy cũng vẫn chỉ nằm trên giấy.
Còn tiếp....
- Châu Giang dịch từ CSIS
DOC đã được ký với mong muốn có thể cung cấp nền tảng cho sự ổn định lâu dài trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các nước liên quan. Biển Đông đã tương đối ổn định trong nửa thập kỷ qua.
>> Thực thi tuyên bố DOC: Trung Quốc trở lại chủ nghĩa song phương
Tuy nhiên, sẽ là ngây thơ nếu tin rằng nhờ DOC, các bên đã ngừng các hoạt động làm phức tạp thêm tình hình. Theo DOC, các bên phải kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc khiến tranh chấp leo thang và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc ngừng mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các đảo, bãi đá, bãi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các địa hình khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng.
Tuy nhiên, Tuyên bố DOC không làm rõ những hoạt động nào có thể được coi là phức tạp và leo thang tranh chấp. Các bên đòi chủ quyền tiếp tục xây dựng nhiều công trình trong những nơi đang tranh chấp trên biển Đông và tuyên bố các quy định tài phán đơn phương nhằm chứng tỏ chủ quyền trong các khu vực tranh chấp.
Cách tiếp cận của Trung Quốc, trong vai trò nước mạnh nhất, trên biển Đông xác định bản chất của tranh chấp. Từ năm 2007-2008, khi Bắc Kinh sửa đổi chính sách đối với vấn đề biển Đông theo hướng quyết đoán hơn, tình hình đã căng thẳng trở lại.
Tháng 12/2007, Trung Quốc đã xây dựng thành phố Tam Sa để quản lý hành chính quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa (và bãi đá chìm dưới biển Macclesfield Bank), gây sự phản đối chính thức và mạnh mẽ của Việt Nam cũng như làm dấy lên các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 1/2010, Trung Quốc đã quyết định thành lập các cơ quan chính quyền địa phương trên quần đảo Hoàng Sa và phát triển ngành công nghiệp du lịch tại đây, và hành động này đã bị Hà Nội lên án là vi phạm chủ quyền của Việt Nam. Sau đó, Trung Quốc thông qua "Đại kế hoạch xây dựng và phát triển đảo du lịch quốc tế Hải Nam 2010-2020", theo đó quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa sẽ được hợp nhất trong một tổ hợp đa chức năng trên biển, các tuyến đường du lịch biển và trên không tới Hoàng Sa sẽ được xúc tiến xây dựng, và khuyến khích người dân đăng ký sinh sống trên quần đảo này.
Tháng 6/2010, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam (MOFA) đã lên án kế hoạch của Trung Quốc vi phạm chủ quyền của Việt Nam và đi ngược lại tinh thần của DOC. Bà nhắc lại điều khoản 5 của DOC: "Các bên cần kiềm chế các hoạt động có thể làm phức tạp thêm tình hình hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định, trong đó có việc ngừng mọi hành động đưa người đến sinh sống tại các quần đảo, bãi đá, bãi cát ngầm, đảo thấp nhỏ và các hình thái địa chất khác vốn không có người sinh sống, và giải quyết các bất đồng một cách mang tính xây dựng".
Ảnh minh họa: Chinanews |
Trong năm 2009, các lực lượng của Trung Quốc liên tiếp bắt giữ tàu cá Việt Nam gần quần đảo Hoàng Sa và đòi khoản tiền chuộc 10.000 USD đổi lại việc thả các ngư dân này. Đầu tháng 4/2010, Bắc Kinh thậm chí thông báo cử hai tàu tuần tra lớn đến quần đảo Trường Sa để bảo về các tàu cá Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên việc này được tiến hành ngoài thời gian nước này đơn phương ban bố lệnh cấm đánh bắt trên biển.
Thỉnh thoảng Trung Quốc cũng tiến hành tập trận tại các khu vực đang tranh chấp nhằm gửi đi những dấu hiệu răn đe các nước đòi chủ quyền khác trên biển Đông. Mức độ thường xuyên và sự kết hợp các cuộc tập trận của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể những năm gần đây.
Đối với việc phát triển năng lượng, Trung Quốc và các nước ASEAN đã tích cực thu hút các công ty quốc tế đến khai thác các nguồn năng lượng tại các vùng biển mình đòi chủ quyền nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong nước. Thỉnh thoảng, khi các công ty năng lượng quốc tế tiến hành khai thác tại các khu vực của nước này nhưng bị nước khác coi là chủ quyền, đặc biệt trong khu vực đường chữ U của Trung Quốc, thì hoạt động này bị đình trệ vì các phản đối ngoại giao và thậm chí cả sự can thiệp của các tàu quân sự hoặc bán quân sự.
Đầu mùa hè năm 2007, Trung Quốc đã đề nghị một số công ty dầu và khí đốt nước ngoài ngừng khai thác với các đối tác Việt Nam trên biển Đông, bằng không sẽ phải chịu hậu quả trong công việc kinh doanh với Trung Quốc. Tháng 4/2007, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối việc Việt Nam nhượng quyền và hợp tác với tập đoàn Dầu lửa Anh xây dựng một đường ống dẫn khí đốt gần bờ biển phía Nam Việt Nam, mà Trung Quốc coi là "khu vực biển gần kề" với quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc sẵn sàng trở lại đòi hỏi lịch sử rất mập mờ về mặt pháp lý của mình để đòi chủ quyền với hầu hết diện tích biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương nói: "mọi hành động đơn phương của bất cứ bên nào tại các vùng biển này đều bị coi là sự xâm phạm chủ quyền, quyền lãnh hải và quyền tài phán của Trung Quốc". Việt Nam khẳng định rằng khu vực nằm trong dự án với BP thuộc vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam. Mọi hoạt động kiểm soát, quản lý đều phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, đặc biệt là UNCLOS và tinh thần của DOC.
Mùa xuân năm 2007, dưới sức ép của Trung Quốc, BP đã ngừng các hoạt động khai thác tại các mỏ khí đốt Mộc Tinh và Hải Thạch thuộc thềm lục địa của Việt Nam. Năm 2008, báo chí đưa tin tập đoàn năng lượng Mỹ Exxon Mobil cũng bị Trung Quốc đe dọa.
Từ năm 2007-2010, Trung Quốc thường xuyên phản đối các hoạt động khai thác của các công ty năng lượng nước ngoài, trong đó có BP ở khu 117; PGS (của Na Uy) ở khu 122; Chevron (của Mỹ) ở khu 122; Pogo (của Mỹ) ở khu 124; ONGC (của Ấn Độ) ở khu 127; Indemisu (của Nhật Bản) ở khu 04-3; CoconoPhilips (Mỹ) ở khu 133; Pearl Energy (Mỹ) ở khu 06-1; Knoc (Hàn Quốc) ở khu 11-4; và Gazprom (Nga) ở các khu 111 và 113.
Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định trong trường hợp của Exxon Mobile, "các khu này hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam và phù hợp với Công ước của LHQ về luật biển" và "Việt Nam sẽ đảm bảo mọi lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài khi hoạt động tại Việt Nam". Việt Nam "hoan nghênh và sẽ tạo điều kiện hợp tác với các đối tác nước ngoài, trong đó có cả các nhà đầu tư Trung Quốc đang hoạt động tại Việt Nam, trên cơ sở tôn trọng đầy đủ chủ quyền của chúng tôi".
Năm 2009, Trung Quốc cũng phản đối việc Philippines khoan dầu ở khu vực Bãi Cỏ rong (Reed Bank), cách Palawan 60 hải lý về phía Tây, nơi có thể chứa 96 triệu mét khối khí và 450 triệu thùng dầu. Malaysia và Brunei cũng tranh chấp về khai thác một mỏ khí đốt tại một khu vực mà các đòi hỏi của hai bên chồng lấn nhau. Nhiều công ty khác nhau được giao cho những khu như nhau: Malaysia trao quyền khai thác cho Murphy Oil, trong khi Brunei trao quyền tương tự cho Royal Dutch Shell và Total.
Về phía Trung Quốc, nước này rất cần nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là năng lượng, để phục vụ nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh chóng của mình. Trung Quốc từ năm 1993 đã là nhà nhập khẩu dầu. Theo ông Zhu Jianjun, thuộc Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (CNPC), nếu như năm 2010, 50% nhu cầu về dầu của nước này phụ thuộc vào nhập khẩu, thì đến năm 2020 con số này sẽ là 60%. Vì vậy, việc đảm bảo một nguồn cung bền vững và đảm bảo an toàn các tuyến đường vận chuyển đóng một vai trò quyết định trong việc duy trì sự phát triển kinh tế bền vững của Trung Quốc.
Biển Đông được một số chuyên gia phân tích của Trung Quốc mô tả là vựa dầu, khí và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Họ ước tính trữ lượng dầu vào khoảng 23-30 triệu tấn, tương đương 1/3 tổng nguồn tài nguyên dầu khí của Trung Quốc.
Ông Zhang Dawei, thuộc Bộ Tài nguyên Đất, cho rằng biển Đông sẽ trở thành một trong 10 địa điểm khai thác dầu khí chính của Trung Quốc: trữ lượng dầu ước đạt 23-30 triệu tấn hoặc 168-220 triệu thùng. Cũng như với dầu mỏ, ước tính trữ lượng khí tự nhiên ở biển Đông cũng rất lớn. Một ước tính của Trung Quốc cho thấy toàn bộ khu vực này có trữ lượng hơn 50 nghìn tỷ mét khối khí. Một báo cáo khác của Trung Quốc ước tính 225 triệu thùng dầu riêng ở quần đảo Trường Sa.
Tháng 4/2006, Husky Energy cùng với Tập đoàn Dầu khí hải ngoại của Trung Quốc thông báo phát hiện một túi khí tự nhiên gần quần đảo Trường Sa, có trữ lượng khoảng 186 triệu mét khối. Năm 2007, Bắc Kinh đã mời thầu 22 khu mỏ dầu ở biển Đông nằm trong các khu vực cách đảo Hải Nam hơn 1.000 hải lý. Các hoạt động mới đây diễn ra tháng 5/2010, khi Trung Quốc cử tàu thăm dò địa chất M/V Western Spirit đến nghiên cứu địa chất ở vùng biển quanh đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, trong khu vực chồng lấn với các khu đang khai thác dầu khí 141, 142 và 143 của Việt Nam. Đồng thời, Trung Quốc tiến hành các hoạt động san nền trên đảo Tri Tôn để chuẩn bị cho xây dựng. Ngày 5/8, Chính phủ Việt Nam đã chính thức phản đối và đề nghị lập tức ngừng các hoạt động này.
Trung Quốc xúc tiến các ý tưởng khai thác chung nguồn năng lượng trên biển Đông nhưng lại phản đối các hoạt động khai thác năng lượng của các nước khác trong khu vực hình chữ U (hay còn gọi là đường lưỡi bò) mà Trung Quốc đòi chủ quyền. Về nguyên tắc, các nước đòi chủ quyền khác không phản đối đề xuất khai thác chung của Trung Quốc, song việc xác định các khu vực mà các bên chấp nhận là thực sự đang có tranh chấp vẫn là khó khăn lớn nhất để đưa những ý tưởng này thành hiện thực. Các nước này không chấp nhận đề xuất của Trung Quốc tiến hành khai thác chung tại các khu vực nằm trong yêu sách đường lưỡi bò bao trùm cả những địa điểm cách đảo Hải Nam đến 700 hải lý và nằm trong vùng EEZ rộng 200 hải lý của các nước đòi chủ quyền khác.
Trong trường hợp Thỏa thuận Thăm dò địa chất chung trên biển Đông năm 2005 ký giữa các tập đoàn dầu lửa quốc gia của Trung Quốc, Philippines và Việt Nam, Philippines đã không gia hạn thêm văn bản này vì vấp phải sự phản đối trong nước, lên án chính phủ cho phép khu vực khai thác chung ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này.
Hồ sơ đệ trình đăng ký thềm lục địa mở rộng
Căng thẳng về thềm lục địa biển Đông cũng không phải là không có liên quan đến các diễn biến tại biển Đông trong 2-3 năm qua, xung quanh thời hạn 13/5/2009. Một thỏa thuận của các nước ký kết UNCLOS đã ra hạn chót là ngày 13/5/2009 để các nước đăng ký thềm lục địa mở rộng, nằm ngoài giới hạn 200 hải lý theo quy định của Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) của Liên hợp quốc.
Ngày 6/5/2009, Malaysia và Việt Nam đã trình một hồ sơ chung lên CLCS đối với một khu vực đáy biển ở biển Đông nằm ngoài giới hạn 200 hải lý EEZ của mỗi nước. Ngày sau đó, Việt Nam đã trình một hồ sơ khác liên quan đến phần phía Bắc biển Đông. Trung Quốc lập tức gửi công hàm phản đối cả hai bản trình, coi đó là vi phạm chủ quyền của mình và đề nghị Ủy ban của LHQ bác bỏ các hồ sơ này. Sau gần 3 tháng, ngày 4/8/2009, Philippines cũng gửi công hàm phản đối các bản đệ trình lên CLCS của Việt Nam và Malaysia. Hai nước này cũng lập tức phản đối các công hàm của Trung Quốc và Philippines.
Trung Quốc cũng trình lên CLCS một tài liệu sơ bộ liên quan đến biển Hoa Đông, trong đó tuyên bố rằng Trung Quốc bảo lưu quyền đăng ký thềm lục địa ngoài giới hạn 200 hải lý tại "các khu vực biển khác", có thể ý muốn nói đến các khu vực biển Đông.
Philippines cũng đã trình một hồ sơ chưa đầy đủ về các khu vực thềm lục địa nằm ngoài giới hạn 200 hải lý của EEZ ở khu vực Rãnh Benham trên biển Philippines. Tuy nhiên, nước này đã bảo lưu quyền đăng ký thêm đối với "các khu vực khác chưa xác định" trong tương lai. Các diễn biến xung quanh các hồ sơ đệ trình của các nước liên quan đã có một số tác động đến tình hình biển Đông nói chung, và đối với các hoạt động hợp tác nói riêng.
Các hồ sơ trình CLCS của Malaysia và Việt Nam đã làm rõ các ranh giới yêu sách về thềm lục địa của mình tính từ đường cơ sở. Hơn nữa, dường như Việt Nam và Malaysia không coi bất cứ hình thái địa chất nào trong quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa trong trường hợp hồ sơ trình của Việt Nam) là được mang quy chế đảo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Nếu bất cứ đảo nào ở biển Đông đều có thể đi kèm với các quyền thềm lục địa và EEZ, thì không có khu vực thềm lục địa mở rộng để đệ trình lên CLCS. Việc Việt Nam không bình luận gì về thỏa thuận giữa Chính phủ Philippines và Energy Forum trong lưu vực Bãi Cỏ rong đã khẳng định lại cách nghĩ trên của Việt Nam.
Nếu sự rõ ràng trong yêu sách của Việt Nam và Malaysia liên quan đến các đảo tranh chấp nói trên được các bên ở biển Đông thông qua, nó sẽ đơn giản hóa đáng kể toàn bộ tranh chấp bằng cách thu hẹp căn bản các yêu sách biển gắn với các đảo đang tranh chấp. Sẽ có thể có hẳn một khu vực ở trung tâm biển Đông được coi là "chiếc bánh thềm lục địa" nằm ngoài giới hạn của thềm lục địa tính từ đảo gần nhất hoặc từ đất liền của các nước xung quanh biển Đông, mở cánh cửa hợp tác khai thác tài nguyên biển.
Cách hiểu đơn giản hóa và hướng tới giải pháp cho tranh chấp của Việt Nam và Malaysia về "quy chế của các hình thái địa chất" thuộc quần đảo Trường Sa như trên được các nước xung quanh biển Đông đồng tình, trừ Trung Quốc. Trong tài liệu phản đối hồ sơ đệ trình của Việt Nam và Malaysia, Trung Quốc khẳng định "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với các đảo ở biển Đông và các vùng nước tiếp giáp, và quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với các vùng nước liên quan cũng như thềm lục địa và tầng đất cái của nó".
Đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc là một bản đồ mô tả yêu sách đường lưỡi bò gồm 9 đoạn, bao trùm gần hết diện tích biển Đông. Điều này có nghĩa là Trung Quốc sử dụng một yêu sách thay thế, bên cạnh yêu sách lịch sử của họ, dựa trên một thềm lục địa và EEZ từ các đảo nhỏ của quần đảo Trường Sa mà họ cũng đòi là của mình. Gần đây nhất, trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên hợp quốc đáp lại công hàm của Philippines phản đối đường lưỡi bò, Trung Quốc đã lần đầu tiên tuyên bố công khai và chính thức rằng "quần đảo Nam Sa của Trung Quốc có đầy đủ lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa".
Cần phải nói rõ rằng quan điểm của Chính phủ Trung Quốc về "quy chế quần đảo" trên biển Đông đi ngược lại với quan điểm của chính nước này đối với quy chế đảo Oki-no-Tori Shima của Nhật Bản, coi đây là một vỉa đá ngầm nhỏ và biệt lập có nhiều đặc điểm chung với các hình thái địa chất của quần đảo Trường Sa và nằm gần trung tâm khu vực biển Philippines ở Tây Thái Bình Dương. Trong công hàm của Trung Quốc gửi Tổng thư ký LHQ phản đối hồ sơ đệ trình của Nhật Bản về thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở là đảo Oki-ni-Tori Shima và thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý, Trung Quốc nói rằng "cái được gọi là đảo Oki-ni-Tori Shima trên thực tế là một bãi đá theo quy định trong điều 121(3) của Công ước".
Về quan điểm của Philippines, trong quá trình chuẩn bị hồ sơ về thềm lục địa mở rộng, Philippines đã thông qua luật Đường cơ sở Quần đảo vào ngày 10/3/2009, trong đó sửa đổi đường cơ sở thẳng hiện hành cho phù hợp với các quy định đường cơ sở quần đảo ghi trong UNCLOS. Theo luật mới, nhóm quần đảo Kalayan và Scarborough Shoal vẫn là một phần của lãnh thổ Philippines nhưng có "quy chế quần đảo".
Tháng 8/2009, trong các công hàm ngoại giao phản đối hồ sơ của Việt Nam và hồ sơ chung của Việt Nam và Malaysia gửi CLCS, Philippines không nhắc đến bất kỳ thềm lục địa nào phát sinh từ quần đảo Kalayan đang tranh chấp, nhưng nói rằng "hồ sơ về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam nằm trong các khu vực đang tranh chấp vì nó chồng lấn với các khu vực của Philippines" (thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý tính từ đường cơ sở quần đảo) và "hồ sơ chung về thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và Malaysia nằm trong các khu vực đang tranh chấp không chỉ vì nó chồng lấn lên thềm lục địa mở rộng của Philippines, mà còn vì tranh chấp liên quan đến các đòi hỏi chủ quyền của một số quần đảo trong khu vực, trong đó có Bắc Borneo".
Có thể hiểu rằng điều đó có nghĩa là Philippines không coi bất kỳ hình thái địa chất nào trên quần đảo Trường Sa là đảo theo quy định trong điều 121 của UNCLOS. Như vậy các hình thái địa chất này không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Liên quan đến quan điểm của Indonesia, trong một văn bản lưu hành tại LHQ ngày 8/7/2010, nhằm phản đối bản đồ yêu sách 9 đoạn đính kèm với hồ sơ của Trung Quốc nói trên, Indonesia cho rằng "những hình thái địa chất rất nhỏ và xa xôi này trên biển Đông không xứng đáng hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa riêng ", và "cái gọi là bản đồ 9 đoạn đứt... thực sự thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và như thể nhằm đảo lộn UNCLOS 1982".
Brunei cũng dường như chia sẻ quan điểm của các nước liên quan trong ASEAN. Trong tài liệu sơ bộ về thềm lục địa mở rộng trình CLCS ngày 12/5/2009, Brunei cho biết đã đạt tiến bộ đáng kể hướng tới việc chuẩn bị một hồ sơ đầy đủ, nhưng chỉ có thể cung cấp hồ sơ này sau ngày 13/5/2009. "Hồ sơ đầy đủ của Brunei gửi ủy ban sẽ chứng tỏ rằng mép ngoài của thềm lục địa, nằm ở vùng chuyển giao giữa Dangerous Grounds và lòng biển sâu ở biển Đông, thuộc khu vực 200 hải lý tính từ đường cơ sở được dùng để tính lãnh hải của Brunei. Điều này có thể được hiểu là Brunei sẽ xác định thềm lục địa mở rộng bên ngoài 200 hải lý mà không tính đến các đảo mà họ đang đòi chủ quyền thuộc quần đảo Trường Sa.
Còn tiếp...
- Châu Giang dịch từ CSIS