Thứ Tư, 24 tháng 8, 2011

Lãi suất thực dương: Khi Thống đốc cải chính

Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình. (Để Thống đốc phải cải chính thì có bị kết tội tuyên truyền chống NN XHCN kg nhỉ)
-Lãi suất thực dương: Khi Thống đốc cải chính
24/08/2011 09:55 (GMT+7)Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Nghị quyết 11 là kiềm chế lạm phát và hai công cụ để thực hiện mục tiêu này là thắt chặt tiền tệ và thu hẹp quy mô tài khóa -
Tuần trước, Thống đốc Nguyễn Văn Bình phát biểu trên một tờ báo, “định hướng lâu dài lãi suất tiền gửi không thể thực dương”, và “trong điều kiện bình thường, không nhất thiết lãi suất tiền gửi phải cao hơn lạm phát”.

Cho rằng “do diễn đạt chưa chuẩn”, nên nhà báo đã đăng tải sai ý trong vấn đề “lãi suất thực dương”, tại cuộc giao ban báo chí ngày 23/8, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã cải chính lại nội dung trên.



Cải chính hay phân bua thật cần thiết khi bị hiểu nhầm hoặc lỡ lời, nhưng điều nhiều doanh nghiệp cần hơn lúc này là tính khả thi của lời tuyên bố của Thống đốc: lãi suất giảm xuống 17 - 19%/năm vào tháng 9 tới. Và, thị trường đang nín thở chờ đợi.

Tại sao lãi suất phải thực dương?

Chuyên gia tài chính Vũ Đình Ánh (hiện công tác tại Bộ Tài chính) nói: “Khi tôi đọc thấy tuyên bố: không thể có nguyên tắc lãi suất thực dương, tôi rất sốc. Ngân hàng là trung gian tài chính mà ở đó, họ thu hút nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, sau đó cho vay những ai cần; thực hiện chức năng phân phối nguồn vốn từ tiết kiệm đến đầu tư. Không thể lập luận, “người dân gửi tiền vào ngân hàng để ngân hàng giữ hộ thôi, còn muốn tốt hơn thì đi kinh doanh”.

Tại sao lãi suất phải thực dương? Trao đổi với người viết, ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, nói: “Tôi hy vọng đến tháng 9/2011 lãi suất sẽ giảm. Vài tuần qua, lãi vay đã giảm vài phần trăm, nhất là ở các ngân hàng lớn. Cơ sở ở đây là lạm phát tính theo tháng đang có xu hướng giảm dần”. Điều này cho thấy, muốn giảm lãi suất thì phải kéo lạm phát xuống. Khi đó, lãi suất tiền gửi hạ theo, nhờ đó có thể giảm lãi suất tiền vay. Như vậy, giữa lạm phát và lãi suất có mối quan hệ rất chặt chẽ.

Cùng quan điểm với ông Nghĩa, ông  Ánh cho rằng, nếu không đảm bảo lãi suất thực dương hoặc để thực âm quá cao thì người dân sẽ không gửi tiền vào ngân hàng nữa, họ sẽ xoay sang làm việc khác.

Lúc đó, sẽ xảy ra hai câu chuyện: đầu tiên là không chống được lạm phát do tiền nằm ngoài hệ thống ngân hàng và Ngân hàng Nhà nước không thể điều hòa, kiểm soát được dòng tiền để thực thi các mục tiêu của mình. Thứ hai, tổ chức tín dụng sẽ không thực hiện được chức năng đưa dòng tiền từ tiết kiệm đến đầu tư, không thể cấp tín dụng ra nền kinh tế.

Thách thức hạ lãi suất

Cùng với câu chuyện “diễn đạt chưa chuẩn”  trong vấn đề lãi suất thực dương, Thống đốc cũng nêu quyết tâm: bằng cả gói chính sách, từ tháng 9/2011, Ngân hàng Nhà nước sẽ đưa lãi suất tiền vay trở về  17% - 19%/năm.

Trong bối cảnh ròng rã hơn nửa năm thực hiện Nghị quyết 11, nền kinh tế phải chịu đựng chính sách tiền tệ khắc khổ, doanh nghiệp và người dân phải vay sản xuất lãi suất tới 22% - 23,5%/năm, thậm chí hơn; vay tiêu dùng từ 27% - 28%/năm, nên khi nghe tin người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước phát đi thông điệp “lãi vay giảm còn 17% - 19%”, đã khiến doanh nghiệp nô nức đón nhận và đếm từng ngày.

Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây, là liệu lãi suất có thể giảm xuống mức 17% - 19% như mong muốn của Thống đốc?

Theo ông Ánh, muốn giảm lãi suất thì phải giải quyết xong bài toán kiềm chế lạm phát. Ông Lê Xuân Nghĩa cũng nhận định: “Lạm phát tính theo năm vẫn còn cao, ở mức trên 20%”.

Trên thực tế, từ đầu năm đến nay, mặc dù lạm phát có tháng tăng, tháng giảm nhưng nhìn vào biểu đồ, diễn biến CPI vẫn theo xu hướng rất phức tạp. Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, so sánh tháng sau với tháng trước, từ tháng 1 đến tháng 7, CPI tăng lần lượt: 1,74% - 2,09% - 2,17% - 3,32% - 2,21% - 1,09% - 1,17%. Còn so tháng 7 với tháng 12/2010 thì CPI tăng 14,61%; so với cùng kỳ năm trước tăng 22,16%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân bảy tháng năm nay so với bình quân cùng kỳ năm 2010 tăng 16,89%.

Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Nghị quyết 11 là kiềm chế lạm phát và hai công cụ để thực hiện mục tiêu này là thắt chặt tiền tệ và thu hẹp quy mô tài khóa. Theo phân tích của ông Ánh, việc thắt chặt tiền tệ từ đầu năm đến nay nếu nhìn từ tốc độ tăng huy động vốn và cho vay thì đang có vấn đề. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng huy động vốn chưa đến 4% nhưng tốc độ tăng tín dụng lên tới 7,5%.

Như vậy, xét theo số tương đối thì dòng tiền ra đang lớn hơn dòng tiền vào. Điều này rất đáng lưu ý vì để chống lạm phát thì phải đẩy lãi suất cao để hạn chế cung tín dụng và hút tiền về nhưng xem ra, mục tiêu này không đạt.

Trong khi đó, để thu hẹp quy mô kênh tài khóa, các bộ ngành, doanh nghiệp nhà nước đã cắt giảm, giãn đầu tư, không ứng trước vốn ngân sách năm sau vào năm nay ước 80 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, con số này được nhiều chuyên gia cho là “không thấm vào đâu” so với mục tiêu kiềm chế lạm phát.

Thứ  hai, một mâu thuẫn khác mà nếu nhìn qua rất khó  thấy, đó là việc Ngân hàng Nhà nước “phấn đấu” tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt mục tiêu dưới 20% với việc kiềm chế lạm phát.

Tính đến hết tháng 7/2011, tăng trưởng tín dụng toàn ngành đạt 7,5%, dư địa còn ít nhất trên 12%. Vì thế, từ nay đến hết năm, để mức tăng trưởng tín dụng đạt chỉ tiêu dưới 20%, Ngân hàng Nhà nước tiến hành bằng nhiều cách khác nhau như “tăng dự trữ bắt buộc”, “phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước” với lãi suất phù hợp cho tổ chức tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước mua vốn; sau đó dùng nguồn vốn này tái cấp vốn cho các ngân hàng thiếu vốn nhưng thừa dư địa tăng tín dụng. Biện pháp trung hòa này nhằm đảm bảo vốn cho nền kinh tế theo mục tiêu đặt ra; đồng thời góp phần kéo lãi suất tiền vay xuống, bởi lẽ, cung tín dụng càng nhỏ, cầu tín dụng càng lớn thì lãi suất vay càng cao.

Vấn  đề ở đây là: với mức tăng tín dụng 7,5% mà lạm phát vẫn tiếp tục phi mã, vậy nếu mức tăng này tới 20% thì tác động tới lạm phát ở  mức nào? Khi lạm phát vẫn cao thì Ngân hàng Nhà nước có thể hạ được lãi suất không?

Hơn nữa, những đơn vị trong diện phải tăng tín dụng cho đủ chỉ tiêu chính là 5 ngân hàng thương mại nhà nước, vốn chiếm tới 55% thị phần. Hiện tại, mức tăng của 5 đơn vị này rất èo uột, có đơn vị  tăng trưởng âm. Vậy Ngân hàng Nhà nước sẽ mua bao nhiêu vốn ở các tổ chức tín dụng dư thừa vốn để “tái cấp vốn” cho 5 ông lớn này? Lãi suất là bao nhiêu để bên bán không cảm thấy hơn thiệt và so bì với lạm phát?
-End the Fed
Có một bạn hỏi ý kiến tôi về phát biểu mới đây của thống đốc Nguyễn Văn Bình về "định hướng lâu dài lãi suất tiền gửi không thể thực dương". Tìm hiểu thêm về đoạn trả lời phỏng vấn này của thống đốc, tôi phát hiện ra rằng lập luận của ông Bình rất giống quan điểm của Ron Paul trong quyển "End the Fed" phát hành năm 2009. Đại loại là thống đốc Bình phân chia chức năng "giữ hộ tiền", theo ngôn ngữ của Ron Paul là "warehouse", với chức năng đầu tư (risky investment) trong hệ thống tài chính. Nếu ngân hàng chỉ làm chức năng warehouse thì người gửi tiền phải trả phí để được ngân hàng giữ hộ tiền cho mình và điều này tương đương với lãi suất (thực) âm. Hi vọng thống đốc Bình không phải là fan của Ron Paul, nếu không ông sẽ là central banker đầu tiên trên thế giới muốn bãi bỏ institution mà mình lãnh đạo theo lời kêu gọi của một lãnh tụ Tea Party bên Mỹ.
Trước khi phân tích thêm về chức năng warehouse và investment của các ngân hàng, xin được nói lại là lãi suất âm, kể cả lãi suất danh nghĩa chứ không chỉ lãi suất thực, không phải là điều không thể xảy ra. Mấy ngày gần đây một số ngân hàng Thụy sĩ bắt đầu trả lãi suất danh nghĩa âm, nghĩa là khách hàng phải trả phí để được gửi tiền vào tài khoản của họ. Đây là hệ quả của việc đồng Swiss franc tăng giá quá mạnh nên số lượng tiền gửi vào các ngân hàng Thụy sĩ tăng lên quá nhanh và các ngân hàng không biết phải làm gì với số tiền này. Tình trạng tương tự cũng xảy ra với một ngân hàng lớn của Mỹ ngay cả khi đồng USD đang bị mất giá trầm trọng. Điều đó có nghĩa là các ngân hàng hiện nay đang dần thiên về chức năng warehouse thay vì chức năng intermediary và lý do của sự chuyển dịch này đơn thuần vì kinh tế thế giới đang có nguy cơ suy thoái trở lại. Ở đây tôi xin nhấn mạnh vào điểm các ngân hàng được quyền tự do quyết định thiên về chức năng warehouse hay intermediary tùy vào tình hình kinh tế và dự báo của họ.
Trong khi đó theo quan điểm của Ron Paul và thống đốc Nguyễn Văn Bình, nhà nước phải tách bạch 2 chức năng này ra 2 nhánh riêng biệt trong hệ thống tài chính để ngăn ngừa rủi ro. Về bản chất đây là ý tưởng chống lại hệ thống fractional reserve banking mà tôi đã có lần đề cập đến trước đây. Ý tưởng yêu cầu ngân hàng phải có 100% reserve, nghĩa là không được cho vay số tiền mà khách hàng gửi vào mà chỉ được cho vay bằng số vốn tự có của mình, đã xuất hiện trong giới kinh tế trước Ron Paul khá lâu (trường phái full reserve banking). Những người ủng hộ gold standard (như Ron Paul) thường không phân biệt rõ fiat money và fractional reserve banking, đánh đồng 2 khái niệm này với nhau và cho rằng đây là "ý chí" của nhà nước mặc dù trên thực tế cả fiat money và fractional reserve banking đều là phát kiến của thị trường để giải quyết nhu cầu medium of exchange ngày càng tăng. Một số conspiracy theorists thậm chí đi xa hơn cho rằng hệ thống fiat money và central banking là kết quả của sự thao túng nhà nước của một/vài gia tộc tài chính lớn như Rothschild hay Morgan. Rồi thậm chí cả IMF/WB cũng là những cánh tay nối dài của các banking dynasty này.
Một điểm thú vị là trong khi Tea Party là một phong trào cực hữu còn những conspiracy theorists thường là cực tả, cả hai cực này có một điểm chung là muốn chấm dứt central banking. Phía cực hữu cho rằng central bank là phương tiện để government ngăn chặn personal liberty và bành trướng (big government), phe cực tả lo ngại central bank chỉ phục vụ cho một thiểu số bankers giầu có thông qua bóc lột đa số dân nghèo ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển (thực ra Ron Paul cũng nhắc đến ý này). Ở đây tôi không bàn về những ý tưởng của phe cực tả, tôi sẽ phân tích thêm về những lập luận của Ron Paul và phong trào Tea Party để thấy những điều thiếu logic trong ý tưởng "End the Fed" của chính trị gia này.
Trong "End the Fed", Ron Paul dành hẳn một chương nói về quá trình hình thành tư tưởng "chống Fed" của mình. Nếu Nguyễn Ái Quốc tìm được chân lý sau khi đọc "Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lenin thì Ron Paul đã được "khai sáng" sau khi đọc "The road to serfdom" của Hayek. Có lẽ ý tưởng "End the Fed" đã được hình thành trong giai đoạn 1960s khi Ron Paul bắt đầu đọc sách vở của các tác giả trường phái Áo như Mises, Hayek, Rothbard. Đây là giai đoạn các tác giả trường phái này dịch chuyển từ ủng hộ gold stardard sang free banking, nghĩa là một hệ thống không có central bank và national currency mà các ngân hàng tự phát hành tiền của mình và cạnh tranh với nhau. Mặc dù có đọc Ayn Rand, nhưng không như nhiều libertarian khác Ron Paul viết trong End the Fed rằng tác giả này không phải là nguồn gốc lý tưởng libertarian của mình. Theo wikipedia, Ron Paul thậm chí còn không đăng ký vào quĩ hưu trí của QH Mỹ vì cho rằng đây là một hình thức big government. Có thể thấy "End the Fed" chỉ là phương tiện còn mục tiêu cuối cùng của chính trị gia này là "end the (big) government".
Một trong những mục tiêu của phe libertarian/rightist là giảm thiểu hoặc thậm chí xoa bỏ government regulation. Những ví dụ điển hình là kêu gọi legalize ma túy hay chống lại việc cấm sở hữu súng. Trào lưu deregulation từ thời Thatcher/Reagan cũng có nguồn gốc từ libertarianism/conservatism với lập luận rằng phải giảm thiểu những qui định và quản lý lên giới doanh nghiệp nói chung và giới ngân hàng nói riêng để thị trường tự tìm ra equilibrium. Đỉnh điểm của trào lưu deregulation này trong giới banking là việc xóa bỏ một phần luật Glass-Steagall từ năm 1933 buộc commercial banking phải tách khỏi investment bank. Với quan điểm phải bắt giới ngân hàng tách hoạt động warehouse khỏi investment, Ron Paul (và Nguyễn Văn Bình) dường như muốn quay lại quản lý các ngân hàng thương mại chặt hơn, ngược hoàn toàn với tư tưởng tự do và deregulation mà giới libertarian vẫn cổ vũ.
Không chỉ ngăn cản tự do của giới ngân hàng được quyền chọn chức năng warehouse hay investment, việc bắt buộc tách 2 chức năng này còn vi phạm tự do của người dân khi họ muốn có một hình thức đầu tư đơn giản và tương đối an toàn. Thống đốc Nguyễn Văn Bình nói nếu bạn muốn có lợi nhuận thì phải đem tiền đầu tư vào thị trường chứng khoán, còn nếu gửi ở ngân hàng thì phải trả phí cho dịch vụ "giữ hộ" tiền đó. Như vậy nếu bạn không có hiểu biết gì về đầu tư và/hoặc không muốn mạo hiểm với thị trường chứng khoán thì chỉ còn một cách là giấu tiền dưới gậm giường của mình để khỏi phải mất tiền cho ngân hàng giữ hộ. Tôi ngờ rằng quan điểm ban đầu của Ron Paul không phải là chống lại fractional reserve banking mà chỉ đơn giản là muốn hủy bỏ fiat money để quay về gold standard. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu này (bỏ fiat money) thì phải xóa bỏ central bank là cơ quan phát hành và quản lý fiat money, và để bỏ được central bank thì phải bỏ fractional reserve banking. Có điều đòi loại bỏ fractional reserve banking thì trái ngược với lập luận cổ súy free banking của trường phái Áo là gốc rễ tư tưởng của Ron Paul.
Ron Paul cũng dành hẳn một chương để cố liên hệ giữa central bank/fiat money với chiến tranh. Lập luận cơ bản là nếu không có fiat money thì nhà nước không thể tự tiện khai chiến vì không có nguồn lực. Không bàn về tính đúng đắn của lập luận này (lịch sử chiến tranh đã có hàng ngàn năm trước khi fiat money/central bank ra đời), logic của lập luận này là nhà nước có thể huy động được nguồn lực thông qua phát hành fiat money. Điều này trái ngược với hầu hết các lập luận khác của Ron Paul và giới conservative là central bank và fiat money không tạo ra được của cải mà chỉ làm đồng tiền mất giá. Lập luận này đúng với những central bank như ở Zimbabwe cách đây 3 năm hay VN cách đây 30 năm, những central banks này không thể huy động được thêm nguồn lực và sẽ làm suy yếu nền kinh tế vì in tiền vô tội vạ. Nhưng những quốc gia như vậy không thể huy động nguồn lực để phát động chiến tranh từ việc in tiền. Ngược lại ví dụ của Ron Paul về những quốc gia tham gia Thế chiến thứ Nhất đều là những nước có bản vị vàng, họ huy động nguồn lực không phải từ in tiền mà từ khả năng vay nợ quốc gia. Và ở thời điểm đó tham chiến (với hi vọng sẽ chiến thắng) là một biện pháp để trả nợ. Giải tán Fed và quay về bản vị vàng để hạn chế chiến tranh có lẽ là ý tưởng "lãng mạn' nhất của ông nghị này.
Như tôi đã chỉ ra bên trên, thực ra "end the Fed" chỉ là phương tiện cho mục tiêu "end the (big) government". Nhưng đằng sau mục tiêu này là gì? Ron Paul chỉ ra một lý do duy nhất là vấn đề đạo đức (nhưng lại viết trong một chương về philosophy). Đối với libertarian/conservative, việc redistribution of wealth là một điều "vô đạo đức" và Ron Paul cho răng với fiat money wealth redistribution sẽ diễn ra thông qua inflation. Hầu hết các tiếng nói phản đối big government đều vì vấn đề redistribution này, những lập luận kiểu như "big government = big corruption" hay "big governments = communism" thực ra chỉ là noise. Điểm quan trọng nhất với phe chính trị này là chống lại redistribution, nghĩa là không ai được tước đoạt những gì do tôi làm ra hay là property của tôi. Không bàn về phạm trù đạo đức, riêng về mối liên hệ giữa fiat money/central bank/inflation với redistribution mà Ron Paul đã có vấn đề. Nếu bỏ qua những lập luận của giới conspiracy theory về khả năng central bank phục vụ cho một vài dynasty, việc TARP (gói giải cứu các banks trong giai đoạn khủng hoảng năm 2008) cuối cùng có lời cho thấy thực chất giới ngân hàng đã transfer wealth ngược lại cho tax payers của Mỹ hoặc ít nhất đây là win-win solution cho nền kinh tế Mỹ.
Còn nếu coi inflation là một dạng wealth redistribution thì phải tính đến nominal income growth mới công bằng. Trong khi Ron Paul và những người ủng hộ gold standard chỉ ra rằng đồng USD đã mất giá hơn 90% kể từ đầu thế kỷ 20 đến nay, không ai nói một lời nào về purchasing power nếu tính theo norminal income đã tăng lênh nhanh hơn rất nhiều (NGDP của Mỹ tăng khoảng 130 lần trong thời gian đó). Nếu có redistribution effect vì inflation thì chắc chắn hiệu ứng này nhỏ hơn nhiều so với tăng trưởng kinh tế, hay nói cách khác cái bánh mà xã hội chia nhau đã lớn hơn rất nhiều khả năng inflation có thể chuyển một phần bánh từ người này sang người khác. Tôi không muốn đi sâu hơn về tác động của banking and finance vào tăng trưởng kinh tế, có một mảng nghiên cứu rất lớn trong kinh tế học về vấn đề này với những tên tuổi như Stiglitz, Krueger, Romer, Sachs, de Soto... Một trong những kết luật quan trọng của giới development economics là repressed financial system kìm hãm tăng trưởng và làm tăng khoảng cách giầu nghèo. Bởi vậy nếu đã nhắc đến phạm trù đạo đức thì cần phải nói thêm liệu xóa bỏ redistribution (cứ giả sử như vậy là đạo đức) thì có giúp gì cho tăng trưởng kinh tế hay không?
Nhìn chung "End the Fed" là một quyển sách không tệ cho general public, nhưng xét về mặt học thuật thì còn nhiều điểm phải bàn. Ron Paul chắc chắn có trí tuệ hơn nhiều Tea Party leader khác và xứng đáng hơn Perry/Bachmann/Palin đại diện cho phong trào này trong cuộc chạy đua nomination của đảng Cộng hòa sắp tới. Tuy nhiên đảng Cộng hòa sẽ phải cân nhắc rất kỹ khi đưa một ứng viên quá thiên hữu ra tranh cử. Xét cho cùng viết một quyển sách kêu gọi "end the Fed" cùng lắm chỉ gây ra tranh cãi, một ứng cử viên với cương lĩnh tranh cử radical như vậy sẽ dễ mất phiếu và mất cả contribution money từ giới finance.

06:51 19/08/2011
Trả lời báo chí, tân Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình có một phát biểu gây “sốc” khi khẳng định sẽ “định hướng lâu dài lãi suất tiền gửi không thể thực dương” bởi ông cho rằng đó là điều “vô lý”.
Theo lý lẽ của người đứng đầu cơ quan quản lý tiền tệ thì “ở các nước người dân mở tài khoản, ngân hàng giữ hộ tiền, (chứ) ngân hàng không phải là kênh đầu tư… Nếu người dân muốn kinh doanh vốn, phải đầu tư ở thị trường chứng khoán”.
Hàng chục vạn người có tiền gửi ngân hàng đã xôn xao về phát biểu này. Bởi lẽ suốt mấy tháng nay người dân cố gắng chịu đựng mức lãi suất tiền gửi bị NHNN khống chế 14%, trong khi chỉ số lạm phát so với cùng kỳ đã trên 20%, so với cuối năm 2010 là trên 17%. Cố chịu vì họ hy vọng lạm phát sẽ được kéo giảm, đồng nội tệ họ đang nắm giữ sẽ lên giá và sinh lời tí chút nhờ lãi suất tiền gửi. Tuyệt đại đa số không ai có nhu cầu nhờ “ngân hàng giữ hộ tiền” như thống đốc nói cả!

Hơn thế, tâm lý xã hội cũng cho rằng gửi tiền tiết kiệm là một cách thức đầu tư (đơn giản nhất) khi họ chưa đủ điều kiện mở cơ sở sản xuất, kinh doanh. Vì thế trên trang chủ của hàng chục tờ báo điện tử có treo mục “Thăm dò ý kiến” về các kênh đầu tư vốn hiện nay thì mục “Gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng” hiện đang được đông người tham gia biểu quyết chọn lựa nhất bởi các kênh bất động sản, chứng khoán, ngoại tệ, vàng… quá rủi ro!
Ai cũng biết ba, bốn năm trước thị trường chứng khoán “rực rỡ” thế nào và sau đó đã “đổ nhào” ra sao. Cơn “lũ quét” đó đã không buông tha bất kỳ ai, mà đáng thương hơn cả là những người dân thiếu kinh nghiệm, chậm chân, tham gia thị trường vào lúc đám đầu cơ đã rút hết. Đến nay nắm trong tay đám cổ phiếu còn “rẻ hơn rau muống” ấy nhiều người nửa khóc nửa cười và việc phục hồi niềm tin cho họ vào kênh đầu tư này không phải là chuyện dễ dàng. Ngay cả người có trách nhiệm ngành tài chính từng hơn một lần nói: “Có tiền sẽ đầu tư chứng khoán” còn “việt vị” thì đòi hỏi ai đó rút vốn đầu tư vào chứng khoán lúc này còn khó hơn việc dời sơn, lấp bể.
Thực thi Nghị quyết 11, Chính phủ tiến hành nhiều biện pháp nâng cao niềm tin vào giá trị đồng nội tệ, dùng nhiều biện pháp hành chính để giảm sức nóng của các kênh ngoại tệ, vàng và bất động sản nhằm thu hút vốn vào ngân hàng… Không dưới một lần, Thủ tướng nói phải bảo đảm lãi suất thực dương cho người gửi tiền.
Nay nghe tuyên bố như thế người dân hỏi nhau: Vậy gửi tiết kiệm để làm gì?
Theo Vinacorp



- Áp dụng biện pháp hành chính càng lâu, bất cập càng lớn - (TBKTSG) - Giảm lãi suất là vấn đề được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh trong phần hai cuộc phỏng vấn với TBKTSG (xem phần 1: Giá vàng, tỷ giá đi về đâu? trên TBKTSG số ra ngày 11-8-2011). Ông khẳng định sẽ dần tháo gỡ các biện pháp hành chính kể cả trần lãi suất và sửa đổi hàng loạt quy định bất cập, không còn phù hợp thực tế. Ông cho biết:
- Thông điệp của NHNN là từ cuối tháng 9 trở đi lãi suất cho vay đối với hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ ở mức 17-19%/năm. Nói như vậy không phải hô khẩu hiệu, mà nói là làm. Cái gì làm được thì phải khẳng định làm được. Cái gì chưa làm được thì tìm biện pháp giải quyết, chứ không thể nói mà không làm.
Phân tích dữ liệu và thực trạng trong toàn hệ thống ngân hàng, đến nay chúng ta không thiếu vốn. Đầu năm ngân hàng không những thiếu vốn, mà thiếu cả thanh khoản.
TBKTSG: Điều gì cho thấy ngân hàng không thiếu vốn?
- Căn cứ trước tiên là lãi suất tiền đồng thị trường liên ngân hàng đã ổn định ba tháng nay. Hiện nó dao động từ 12-15%/năm tùy kỳ hạn. Lãi suất qua đêm gần đây thậm chí có thời điểm dưới 10%/năm. Dưới góc độ quản lý, tôi cho rằng mức lãi suất liên ngân hàng như thế là hơi thấp.
TBKTSG: Theo ông lãi suất liên ngân hàng cần phải cao hơn?
- Nếu theo đúng ý đồ quản lý của NHNN, tất cả các mức lãi suất đó phải cộng thêm khoảng 1%/năm mới hợp lý.
Vừa qua chúng ta mua vào một lượng ngoại tệ khá lớn và đẩy vào lưu thông một lượng tiền đồng cũng tương đối lớn. Để cân bằng NHNN đã hút về một lượng tương ứng qua thị trường mở. So sánh giữa lượng tiền hút vào - bơm ra, phần bơm ra vẫn nhiều hơn. Nhờ đó thanh khoản ngân hàng được cải thiện. Phải thấy lượng tiền mà NHNN tung ra mua ngoại tệ là tiền không kỳ hạn, nó khác tái cấp vốn, vì tái cấp vốn còn có thời hạn thu về.
Từ đây vốn cho nền kinh tế đã tăng lên đáng kể.
TBKTSG: Thưa ông có mâu thuẫn gì không khi nói vốn cho nền kinh tế đã tăng lên nhưng tăng trưởng tín dụng bảy tháng đầu năm lại rất thấp, phải nói là thấp nhất so với cùng kỳ những năm trước?
- Tăng trưởng tín dụng bảy tháng qua hơn 7,5% so với cuối năm ngoái. Số liệu thống kê này không phải hoàn toàn chính xác. Vừa qua có hiện tượng luồn lách để chạy các quy định của NHNN, trong hạch toán kế toán của các ngân hàng thương mại có nhiều con số biến tướng, nên số liệu tổng hợp không còn chính xác như trước đây. Mức tăng trưởng tín dụng trên, vì thế, chỉ có tính tham khảo.
Nhìn vào số tham khảo, so với chỉ tiêu tăng trưởng của năm nay, hoạt động tín dụng còn dư địa rất lớn. Trung bình tăng trưởng tín dụng những tháng còn lại phải trên 2%/tháng.
TBKTSG: Dư địa đó có ý nghĩa như thế nào khi thực trạng tăng trưởng tín dụng giữa các ngân hàng khác nhau? Một số ngân hàng đã hết hạn mức tăng, số khác lại còn nhiều?
- Đúng thế. Có tổ chức tín dụng đang thừa vốn, nhưng đã sử dụng hết hạn mức. Có ngân hàng còn room cho vay, lại thiếu vốn. Có ngân hàng còn vốn, còn hạn mức nhưng không muốn cho vay thêm vì thấy rủi ro quá. Những ngân hàng còn hạn mức, thiếu vốn, muốn tăng trưởng tín dụng cũng không dễ vì huy động từ dân cư phải trả lãi suất cao để cạnh tranh, vay liên ngân hàng thì bị vướng các quy định của NHNN. Với những quy định hiện nay, vốn đang nơi thừa nơi thiếu và không điều hòa được. Tới đây nhiệm vụ của chúng tôi là đưa ra các biện pháp điều hòa lượng tiền này.
TBKTSG: Thưa ông sự điều hòa vốn liệu có đồng nghĩa với giảm lãi suất?
- Mức tăng trưởng tín dụng 20% đã được đưa vào nghị quyết của Chính phủ và không ngân hàng nào, dù lớn hay nhỏ, được vượt mức đó. Do đó không nhất thiết là các tổ chức tín dụng phải huy động quá nhiều vốn trong giai đoạn hiện nay, và không cần thiết phải đẩy lãi suất tiết kiệm lên. Sẽ có những biện pháp điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng trong những năm tiếp theo cũng sẽ là vấn đề được đặt ra.
Khi không cần nâng lãi suất đầu vào để huy động vốn bằng mọi giá, cớ gì ngân hàng cho vay lãi suất cao? Mối quan tâm của tổ chức tín dụng không phải mặt bằng lãi suất cao thấp, mà là chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra. Theo tính toán của NHNN trong nhiều năm qua, chênh lệch lãi suất huy động - cho vay ở mức 2,5-3%/năm là thích hợp. Huy động 14%/năm, cho vay 17-19%/năm hoàn toàn nằm trong khả năng của tổ chức tín dụng. Đây là lãi suất cho vay sản xuất kinh doanh, còn cho vay các loại hình dịch vụ khác thuộc phạm vi thỏa thuận giữa người vay và bên cho vay, nó có thể cao hơn.
Nếu cứ để lãi suất cao, các ngân hàng cũng không thể cho vay ra được.
TBKTSG: Tăng dự trữ bắt buộc có phải là một trong những biện pháp sẽ được NHNN áp dụng để điều hòa vốn?
- Đó là một trong những biện pháp.
TBKTSG: Lâu nay dư luận thường đề cập đến các biện pháp hành chính trong điều hành tiền tệ, trong đó có trần lãi suất. Thưa ông trần lãi suất huy động sẽ áp dụng đến bao giờ?
- Giảm lãi suất là đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế và nó phù hợp, xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp, của tổ chức tín dụng, của người dân.
Cuộc sống đôi khi cũng cần phải có biện pháp hành chính. Áp dụng biện pháp hành chính vì chúng ta chưa tìm ra được các công cụ mang tính kinh tế mà việc sử dụng cho phép đạt được mục tiêu trong thời gian ngắn nhất. Sử dụng biện pháp hành chính là cực chẳng đã và chỉ trong thời hạn ngắn. Trần lãi suất huy động là một giải pháp hành chính, sức sống của nó không thể dài được. Khi thị trường ổn định, nhất định sẽ bỏ trần lãi suất.
TBKTSG: Ông nói lãi suất liên ngân hàng đã giảm và ổn định nhưng lãi suất huy động từ dân cư vẫn còn cao. Vì sao thưa ông?
- Chức năng của thị trường liên ngân hàng là điều hòa vốn cho các tổ chức tín dụng. Vừa qua chức năng này bị triệt tiêu vì có những quy định bất cập. Hàng loạt quy định ban hành trong thời gian qua phải được xem xét lại để dòng vốn được luân chuyển theo quy luật nước chảy chỗ trũng và trong tầm kiểm soát của cơ quan quản lý.
TBKTSG: Một phần của các quy định bất cập trên nằm ở thông tư 13 và 19. Vậy chúng ta có điều chỉnh hai thông tư này?
- Nhiều năm trước chúng ta thiếu gạo vì ngăn sông cấm chợ, nhưng khi ta tạo ra được một thị trường liên thông, giá gạo trở nên bình ổn. Thị trường vốn cũng vậy. Chúng ta đã sử dụng một số biện pháp hành chính, nếu ta không kịp thời điều chỉnh nó, hoặc tháo gỡ nó thì bất cập ngày càng lan rộng. Thông tư 13 và 19 nhất định sẽ phải sửa đổi.
Các biện pháp nào có thể được NHNN sử dụng để điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu?
Để điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, NHNN có thể áp dụng những biện pháp khác nhau. Trước hết chúng tôi sẽ rà soát lại những quy định trong thời gian qua giữa thị trường một (huy động vốn từ dân cư, doanh nghiệp) và thị trường hai (liên ngân hàng) có còn phù hợp.
Nếu các quy định này cản trở sự luân chuyển vốn thì sẽ được gỡ bỏ hay tạm thời không áp dụng nữa. Trước đây nhằm kiềm chế tăng trưởng tín dụng quá nóng, NHHN có quy định một số tỷ lệ về vốn và sử dụng vốn trên cả hai thị trường, nhưng lại thiếu kiểm soát cụ thể. Thực tế này gây áp lực buộc các tổ chức tín dụng phải đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư bằng mọi giá, dẫn đến cạnh tranh thiếu lành mạnh và lãi suất tiết kiệm cao.
Hiện nay nhiều tổ chức tín dụng thừa vốn, song không thể điều hòa cho các tổ chức tín dụng khác vì vướng các tỷ lệ quy định như trên. Họ cũng không dám hạ lãi suất tiền gửi vì e ngại bị rút vốn, giảm thị phần.
Ngoài ra NHNN cũng có thể tăng dự trữ bắt buộc đi liền với trả lãi suất cho khoản dự trữ bắt buộc ở mức hợp lý. Khi đó NHNN sẽ rút một lượng tiền lớn từ các tổ chức tín dụng, đồng thời sử dụng nguồn vốn này để tái cấp vốn cho những ngân hàng đang thiếu vốn và còn dư địa để tăng trưởng tín dụng. Biện pháp này sẽ không gây áp lực lên lãi suất đầu vào của các tổ chức tín dụng. Nói cách khác, NHNN có thể điều hòa vốn mà không cần phải tăng thêm tiền trong lưu thông, không làm tăng lãi suất.
Bên cạnh đó, tùy theo diễn biến của tình hình, chúng tôi có thể phát hành tín phiếu NHNN với lãi suất thích hợp để mua lại lượng vốn thừa của một số ngân hàng, dùng nó tái cấp vốn cho các ngân hàng thiếu vốn. Các giải pháp nói chung sẽ rất linh hoạt.


-Áp dụng biện pháp hành chính càng lâu, bất cập càng lớn -
- Thời báo Kinh tế Sài gòn -

Tổng số lượt xem trang