Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các vị khách quý,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa đồng bào cử tri cả nước,
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XII (tháng 3 năm 2011), Chính phủ đã báo cáo bổ sung tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và những giải pháp chủ yếu tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Theo Chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong 6 tháng cuối năm 2011. Báo cáo này đã được Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khoá XI thảo luận, góp ý kiến và đã cập nhật những diễn biến mới nhất tình hình trong nước và quốc tế; đồng thời bổ sung các giải pháp để điều hành, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã được Quốc hội đề ra trong năm 2011.
Thay mặt Chính phủ và đồng chí Thủ tướng Chính phủ, tôi xin báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả nước một số nội dung chính như sau:
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2011
Bước vào năm 2011, tình hình trong nước và quốc tế đã xuất hiện những khó khăn, thách thức mới. Kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp: Tăng trưởng kinh tế chậm lại; giá lương thực, thực phẩm, dầu thô và nguyên vật liệu cơ bản trên thị trường quốc tế tiếp tục tăng cao; thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh; nợ công châu Âu lan rộng; kinh tế Nhật Bản trì trệ sau thảm hoạ kép; lạm phát toàn cầu và các nước trong khu vực tăng cao; bất ổn chính trị ở Trung Đông, châu Phi, tình hình căng thẳng ở Biển Đông tăng lên. Trong nước, nền kinh tế tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn hơn so với dự báo cuối năm 2010. Tăng trưởng kinh tế (GDP) có xu hướng chậm lại; lạm phát tiếp tục tăng cao; mặt bằng lãi suất cao; tỷ giá, giá vàng biến động bất thường; dự trữ ngoại hối giảm mạnh; tổn thất do rét đậm, rét hại kéo dài ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân. Nguy cơ lạm phát cao, bất ổn kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội đã trở thành thách thức lớn đối với nền kinh tế nước ta trong năm 2011.
Trước tình hình đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24 tháng 02 năm 2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, bao gồm 6 nhóm giải pháp: (i) thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; (ii) thực hiện chính sách tài khoá thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước; (iii) thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng; (iv) điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo; (v) tăng cường bảo đảm an sinh xã hội; (vi) đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền.
Chính phủ cũng đã báo cáo Bộ Chính trị cho ý kiến chỉ đạo và ra Kết luận số 02/KL-TW về tình hình kinh tế - xã hội trong năm 2011 và báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XII ban hành Nghị quyết số 59/2011/QH12, trong đó nhấn mạnh chủ trương: Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo.
Thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội và Chính phủ, các ngành, các cấp đã khẩn trương xây dựng chương trình hành động và tổ chức thực hiện quyết liệt các giải pháp đã đề ra. Với sự đồng thuận của toàn xã hội, nỗ lực, cố gắng vượt bậc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội nước ta 6 tháng đầu năm 2011 đã đạt được những kết quả tích cực.
Nhờ kiên quyết kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô được xác định là nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên hàng đầu, nỗ lực thực hiện đồng bộ các giải pháp kiểm soát giá cả, điều tiết cung cầu, bình ổn thị trường, mức tăng giá tiêu dùng đã chậm lại và có xu hướng giảm (tháng 4 là 3,32%, tháng 5 là 2,21%, tháng 6 là 1,09%).
Kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng cao; tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt 42,33 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ năm trước (do lượng là 14,7%; do giá là 15,6%), gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua (10%) . Tỷ lệ nhập siêu trong 6 tháng là 15,72% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn chỉ tiêu đã được Quốc hội thông qua (không quá 18%). Các ngành, các cấp đã triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để kiểm soát nhập siêu cả năm 2011 không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đã thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp tiền tệ và quản lý ngoại hối nên thị trường ngoại hối chuyển biến tích cực. Tỷ giá có xu hướng giảm nhẹ và ổn định; trạng thái ngoại hối của hệ thống ngân hàng, dự trữ ngoại hối Nhà nước được cải thiện rõ rệt . Thị trường vàng được quản lý theo định hướng của Nhà nước; tình trạng đầu cơ, nâng giá vàng gây bất ổn định thị trường đang được kiểm soát.
Chính sách tiền tệ thực hiện chặt chẽ, thận trọng, điều hành chủ động, linh hoạt và hiệu quả hơn. Vốn tín dụng được ưu tiên cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, trước hết là khu vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng của khu vực phi sản xuất giảm dần. Lãi suất cho vay đã có dấu hiệu giảm.
Đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục được duy trì, nhất là đầu tư cho giảm nghèo, nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ước 6 tháng đầu năm 2011, tổng vốn đầu tư phát triển đạt 409,7 nghìn tỷ đồng, bằng 38,3% GDP. Đây là kết quả của sự nỗ lực, cố gắng lớn trong bối cảnh diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô thế giới và trong nước không thuận.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt 5,57%, mặc dù thấp hơn tốc độ tăng 6 tháng đầu năm 2010 và thấp hơn chỉ tiêu cả năm 2011 đã được Quốc hội thông qua nhưng đây là một nỗ lực rất lớn của cả nước trong bối cảnh còn nhiều khó khăn. Các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch tiếp tục đà tăng trưởng ; trong đó sản xuất công nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu kế hoạch năm 2011; tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng khoảng 22,6% so với cùng kỳ năm 2010.
Thu ngân sách tiếp tục tăng khá, bảo đảm nguồn chi ngân sách và góp phần giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011 ước đạt khoảng 327,8 nghìn tỷ đồng, bằng 55,1% dự toán năm. Tổng chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 355,6 nghìn tỷ đồng, bằng 49% dự toán năm. Bội chi ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 27,78 nghìn tỷ đồng, bằng 23% mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2011.
Chủ trương tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên đã được các ngành, các cấp thực hiện nghiêm túc nên đã giảm được chi thường xuyên trong ngân sách nhà nước . Việc rà soát, sắp xếp đầu tư công để tập trung vốn cho các công trình quan trọng, cấp bách, hiệu quả được triển khai thực hiện đồng bộ, nghiêm túc trên phạm vi cả nước; đến cuối tháng 5 năm 2011, tổng số vốn đầu tư các Bộ, ngành, địa phương và các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cắt giảm là 80.550 tỷ đồng.
Các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, khoa học - công nghệ và môi trường được chú trọng, trong đó tập trung chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực, mở rộng mạng lưới giáo dục, đào tạo và dạy nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn, nông dân, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc thiểu số; đã ứng dụng thành công nhiều thành tựu khoa học công nghệ trong nước và quốc tế trong sản xuất nông nghiệp, thủy điện, giao thông, y tế...; đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, tăng cường kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm; nâng cao năng lực khám chữa bệnh cho nhân dân, nhất là các đối tượng hưởng chính sách xã hội.
An sinh xã hội, tạo việc làm tiếp tục được quan tâm, chú trọng. Trong điều kiện ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn và phải phấn đấu giảm bội chi nhưng Chính phủ vẫn đặc biệt quan tâm bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Cùng với việc tập trung ưu tiên nguồn lực để thực hiện các chương trình, dự án và chính sách hiện có, nhiều chính sách mới đã được thực hiện nhằm hỗ trợ người nghèo, người có thu nhập thấp, các đối tượng chính sách giảm bớt khó khăn do ảnh hưởng của lạm phát ; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp tạo việc làm cho người lao động ; tích cực triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và đã thu được kết quả bước đầu; tăng cường chỉ đạo phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ để sớm ổn định sản xuất và đời sống nhân dân vùng bão lũ… Ưu tiên bố trí kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới; thực hiện trợ cấp cho những đối tượng hưởng lương và lương hưu từ ngân sách nhà nước có mức lương thấp, người hưởng trợ cấp ưu đãi, người có công và hộ nghèo đời sống khó khăn, nâng mức tiền ăn cho chiến sỹ lực lượng vũ trang, nâng mức cho học sinh, sinh viên vay để học tập. Thực hiện hỗ trợ hộ nghèo khi điều chỉnh giá điện. Thực hiện điều chỉnh tiền lương, bảo hiểm xã hội theo kế hoạch đối với cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, người về hưu và các đối tượng chính sách; bổ sung phụ cấp nghề cho giáo viên; phụ cấp công vụ cho công chức và cán bộ chuyên trách làm công tác Đảng, Mặt trận, đoàn thể; điều chỉnh tăng lương tối thiểu vùng đối với các doanh nghiệp và sẽ điều chỉnh tiếp trong tháng 10 năm 2011.
Chính phủ đã chỉ đạo các Bộ, cơ quan chức năng chủ động phối hợp với phía nước ngoài kịp thời đưa toàn bộ người lao động Việt Nam ở Li-bi về nước an toàn và có biện pháp hỗ trợ người lao động từng bước ổn định đời sống ngay từ khi bắt đầu xảy ra khủng hoảng chính trị ở Bắc Phi và Trung Đông.
Trong tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp, Đảng và Nhà nước đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo củng cố quốc phòng - an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần bảo đảm thắng lợi bầu cử Quốc hội khoá XIII và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016. Đã thực hiện các giải pháp đồng bộ, kiên quyết để kiểm soát, xử lý kịp thời, bảo đảm trật tự an toàn và ổn định xã hội; thực hiện các giải pháp thích hợp để bảo đảm an ninh trật tự ở huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Thực hiện nhất quán chủ trương đàm phán hoà bình trên cơ sở luật pháp quốc tế để giải quyết tình hình phức tạp trên biển Đông; chủ động, tích cực đấu tranh ngoại giao và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước trong khu vực và trên thế giới, các diễn đàn quốc phòng - an ninh khu vực, tiếp xúc song phương, đa phương; đồng thời, triển khai kiên quyết và đồng bộ các biện pháp để bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ ngư dân đánh bắt hải sản, các hoạt động kinh tế - thương mại, khai thác, thăm dò dầu khí, tài nguyên khoáng sản trên vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội trong và ngoài nước còn nhiều khó khăn, thách thức, đạt được kết quả trên đã thể hiện quyết tâm, nỗ lực rất lớn của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân.
Bên cạnh những kết quả tích cực ban đầu như trên, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đang đứng trước những khó khăn rất lớn như:
Lạm phát tuy có xu hướng giảm nhưng vẫn ở mức cao. Giá tiêu dùng tháng 6/2011 so với tháng 12/2010 tăng 13,29% (bình quân cùng kỳ tăng 16%), vượt chỉ tiêu được Quốc hội thông qua (không quá 7%). Nguyên nhân của lạm phát cao có yếu tố bên ngoài như giá lương thực, xăng dầu quốc tế tăng và tình hình lạm phát cao đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới và yếu tố bên trong do tác động của việc sử dụng gói kích thích kinh tế từ năm 2008 đến năm 2010 và việc tăng giá điện, xăng dầu, tăng lương cán bộ, công chức.
Mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh. Lãi suất huy động bình quân tăng khoảng 2,9% so với cuối năm 2010. Chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay khá lớn. Việc vay vốn tín dụng của một bộ phận doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa còn khó khăn. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng tăng; tiềm lực của hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán tuy đã được tăng cường nhưng quy mô vẫn còn nhỏ, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển.
Nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu đã có cải thiện nhưng mức nhập siêu vẫn còn cao, 6 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 6,65 tỷ USD bằng 15,72% kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu của nước ta chủ yếu từ các nước trong khu vực, cần tiếp tục có các giải pháp phù hợp để cải thiện tình hình, giảm sức ép đối với tỷ giá, thị trường ngoại hối và lãi suất cho vay.
Mô hình phát triển kinh tế của nước ta còn một số bất cập; hiệu quả công tác dự báo chưa cao; công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí chưa thu được nhiều kết quả. Một số cơ quan, địa phương có lúc, có nơi còn chưa thực sự triển khai quyết liệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Do ảnh hưởng của lạm phát, lãi suất cao, khu vực sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn. Sản xuất công nghiệp đang có xu hướng tăng chậm lại; hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận sụt giảm, một số phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm so với cùng kỳ. Thị trường chứng khoán khó khăn, thị trường bất động sản suy giảm. Xu hướng này sẽ ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội trong năm 2011 và các năm sau.
Tóm lại, trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, các ngành, các cấp tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, nhanh chóng đưa kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIII, Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 vào cuộc sống; việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội theo các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã đạt được những kết quả tích cực. Lạm phát đã có xu hướng giảm, xuất khẩu và thị trường hàng hóa trên đà tăng mạnh; thu ngân sách tăng, bội chi ngân sách nhà nước giảm, thị trường ngoại hối từng bước ổn định, dự trữ ngoại tệ tăng; tăng trưởng kinh tế đạt mức hợp lý; an sinh xã hội được chú trọng. Đây là những kết quả bước đầu đáng mừng.
Thưa Quốc hội,
Tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng cuối năm 2011 và năm 2012 còn diễn biến phức tạp và nhiều khó khăn do tác động, ảnh hưởng của cả những tồn tại, hạn chế nội tại của nền kinh tế và tác động do diễn biến khó lường từ bên ngoài. Lạm phát, mặt bằng lãi suất vẫn ở mức cao; khu vực sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn do phải tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tài khoá, tiền tệ và kiềm chế lạm phát. Tai nạn giao thông, tội phạm, vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn đang là vấn đề bức xúc của xã hội. Đời sống của người lao động nhất là công nhân tại các khu công nghiệp còn nhiều khó khăn. Tình hình trên đòi hỏi cần tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành kiên trì, quyết liệt các giải pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội trong những tháng cuối năm 2011 và một số năm tiếp theo.
Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng trình bày báo cáo của Chính phủ tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội Khóa XIII. Ảnh Chinhphu.vn |
II. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP TRUNG LÃNH ĐẠO, CHỈ ĐẠO ĐIỀU HÀNH TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2011
Từ những thuận lợi và khó khăn trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế cho thấy việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ kinh tế - xã hội của năm 2011 còn là thách thức lớn. Việc lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong 6 tháng cuối năm phải tiếp tục kiên trì bám sát các nội dung Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội, quyết liệt, đồng bộ trong chỉ đạo điều hành triển khai thực hiện các giải pháp; trong đó tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội là mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm. Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước, phát huy sức mạnh, đồng thuận của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội để phấn đấu thực hiện cao nhất các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Đây cũng là nhiệm vụ trọng tâm của một số năm tiếp theo để tạo đà phát triển bền vững cho việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 – 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020.
Trên cơ sở tình hình thực tiễn và dự báo xu hướng biến động kinh tế trong nước và thế giới, định hướng chỉ đạo điều hành một số chỉ tiêu cơ bản của cả năm 2011 như sau:
- Sáu tháng đầu năm, tốc độ tăng trưởng đạt mức 5,57%, thấp hơn chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng năm 2011 đã được Quốc hội thông qua là 7 - 7,5%. Cần tiếp tục nỗ lực phấn đấu để tốc độ tăng trưởng cả năm đạt mức hợp lý khoảng 6%, bảo đảm nguồn lực cần thiết thực hiện các mục tiêu về an sinh xã hội và giải quyết việc làm, đồng thời tạo điều kiện và tiền đề phấn đấu năm 2012 tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 6,5%, các năm tiếp theo ở mức cao hơn.
- Từ thực tế biến động giá 6 tháng đầu năm và xu hướng giá thế giới, cần kiên trì, quyết liệt trong chỉ đạo điều hành và thực hiện các giải pháp kiềm chế, giảm dần lạm phát để CPI năm 2011 tăng ở mức 15 - 17%, phấn đấu để năm 2012 và các năm tiếp theo lạm phát ở mức thấp hơn, trở về mức một con số và thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Kiểm soát tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cả năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15 - 16%; kiểm soát nhập siêu cả năm không quá 15 - 16% kim ngạch xuất khẩu; giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% GDP nhằm từng bước lành mạnh hoá tài chính quốc gia, tạo nền tảng cần thiết cho kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.
Những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành, triển khai thực hiện trong 6 tháng cuối năm 2011 bao gồm:
1. Về chính sách tiền tệ:
Tiếp tục thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng; điều hành tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý theo quý, tháng phù hợp với diễn biến thị trường, đặc biệt là vào các thời điểm mùa vụ sản xuất, kinh doanh khi nhu cầu vốn tăng cao. Tiếp tục sử dụng linh hoạt, hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ để giảm sức ép lạm phát, giảm lãi suất xuống mức phù hợp nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, bảo đảm thanh khoản của hệ thống tín dụng, ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nợ xấu và chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng; kiểm soát để tỷ lệ và mức cho vay tín dụng vào lĩnh vực phi sản xuất, bất động sản, chứng khoán giảm so với hiện nay; tập trung vốn cho vay lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, sản xuất những sản phẩm thiết yếu với đời sống nhân dân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ. Tiếp tục thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn tài chính của các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, công ty tài chính; xác định tiêu chí và thực hiện phân loại các tổ chức tín dụng để có biện pháp giám sát và xử lý kịp thời.
Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt, hợp lý để bình ổn thị trường và tăng dự trữ ngoại hối; tăng cường kiểm tra, giám sát việc tuân thủ quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh doanh vàng. Kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu trung và dài hạn của chính sách tiền tệ, tạo tiền đề cho việc kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định kinh tế vĩ mô.
2. Về chính sách tài khoá:
Tiếp tục thực hiện nhất quán chính sách tài khóa thắt chặt, phối hợp hài hoà với việc thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng nhằm giảm tổng cầu, giảm sức ép lạm phát năm 2011 và năm 2012. Tiếp tục tập trung thực hiện các giải pháp tăng thu, phấn đấu vượt 7 - 8% dự toán thu năm 2011; tiết kiệm chi để giảm bội chi ngân sách thấp hơn mức Quốc hội quyết định; tiếp tục rà soát, cắt giảm vốn đầu tư của Nhà nước vào những công trình, dự án không hiệu quả, chưa thật sự cần thiết, tiến độ chậm, kéo dài, tập trung vốn cho các công trình sắp hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2011, công trình an sinh xã hội, giảm nghèo, phòng tránh thiên tai; kiểm soát chặt chẽ đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.
Quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn dự phòng ngân sách, nguồn tăng thu năm 2011 và nguồn tiết kiệm chi thường xuyên năm 2011; ưu tiên dùng các nguồn này cho phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, thực hiện chính sách an sinh xã hội. Các Bộ, ngành và địa phương chủ động sắp xếp, bố trí trong phạm vi dự toán được giao để xử lý các nhiệm vụ đột xuất phát sinh trong năm. Tăng cường quản lý, giám sát nợ nước ngoài của khu vực doanh nghiệp; tăng cường kiểm soát nợ Chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài quốc gia, bảo đảm trong giới hạn phù hợp, an toàn.
3. Về chính sách thương mại, giá cả, thị trường:
Tiếp tục kiểm soát chặt chẽ thị trường, giá cả, bảo đảm ổn định cung - cầu hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. Tập trung chỉ đạo quản lý thị trường, giá cả, chủ động phương án ứng phó trước những biến động của tình hình thị trường hàng hóa thế giới và trong nước, không để xảy ra đột biến giá các mặt hàng thiết yếu; ổn định nguồn cung trong nước, bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa, nhất là các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho sản xuất và đời sống. Thực hiện điều hành giá điện, xăng dầu, than theo cơ chế thị trường phù hợp với tình hình và mục tiêu kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội; thực hiện công khai, minh bạch trong điều hành giá cả theo cơ chế thị trường để các doanh nghiệp và người dân hiểu rõ, có sự chuẩn bị về tâm lý và biện pháp ứng xử.
Các ngành, các cấp tiếp tục chỉ đạo thực hiện các biện pháp bình ổn giá cả, thị trường, tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật về giá, nhất là đăng ký, kê khai, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, ngăn chặn đầu cơ, găm hàng, thao túng thị trường, tăng giá bất hợp lý, buôn lậu qua biên giới; chống đầu cơ tăng giá, cạnh tranh không lành mạnh; xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về giá cả, thị trường. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Tăng cường vai trò và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong quản lý, kiểm tra, giám sát giá cả, bình ổn thị trường. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành hàng; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành với các Hiệp hội ngành hàng để tạo sự thống nhất trong chỉ đạo điều hành, phối hợp tổ chức mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả.
4. Về thúc đẩy sản xuất kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử dụng tiết kiệm năng lượng:
Thực hiện các biện pháp tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh, trong tiếp cận vốn đối với dự án hiệu quả, có đầu ra của sản phẩm; khuyến khích tiết giảm chi phí, đẩy mạnh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Tập trung nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn để bảo đảm an ninh lương thực và tăng xuất khẩu nông sản, bảo đảm đời sống nông dân; có giải pháp cụ thể giúp nông dân qua hỗ trợ về kỹ thuật, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu... và thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục đầu tư phát triển ngành công nghiệp mũi nhọn, có lợi thế so sánh, sản phẩm đầu ra có chất lượng, giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp hỗ trợ để tạo đà phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển mạnh, ổn định các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, logistics và các dịch vụ có giá trị gia tăng cao; phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng cao. Có biện pháp phù hợp để khuyến khích, tăng cường vai trò của khu vực kinh tế ngoài nhà nước trong định hướng phát triển các ngành kinh tế và các lĩnh vực dịch vụ. Bảo đảm đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân đi đôi với tiết kiệm điện.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng cơ chế ưu đãi về thuế, vốn, đất đai, nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; chú trọng công tác quy hoạch, tăng cường công tác quản lý, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đất đai, tài nguyên và nhân lực. Khuyến khích và tạo điều kiện để doanh nghiệp sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, tài nguyên, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiếp tục triển khai thực hiện từng bước, có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường tính minh bạch, nâng cao hiệu quả của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản để tạo kênh huy động hiệu quả, bền vững các nguồn lực tài chính, đất đai phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng kế hoạch, chương trình hành động cụ thể thúc đẩy xuất khẩu, sử dụng hàng sản xuất trong nước và kiểm soát nhập khẩu đối với từng loại mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu có kim ngạch lớn. Thực hiện nghiêm chủ trương sử dụng hàng hóa, vật tư, thiết bị sản xuất trong nước; xây dựng quy trình, nguyên tắc kiểm soát nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị của các dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn do Chính phủ bảo lãnh, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước . Kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu hàng tiêu dùng, đặc biệt là hàng ảnh hưởng đến sức khoẻ, môi trường, hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu, hàng không khuyến khích nhập khẩu; hạn chế xuất khẩu tài nguyên, nguyên liệu thô.
Chỉ đạo điều hành xuất khẩu gắn với yêu cầu bình ổn giá cả, thị trường trong nước. Điều chỉnh, bổ sung chính sách thuế theo hướng tạo động lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng trong nước có khả năng thay thế nhập khẩu và hạn chế nhập khẩu, nhất là đối với các mặt hàng xa xỉ, hàng không thiết yếu. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao, thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước. Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách cơ cấu và quản trị doanh nghiệp, làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Triển khai thực hiện nghiêm túc và có kết quả việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hoá, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Khẩn trương hoàn thiện khung pháp lý về cơ chế cảnh báo sớm đối với doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi về nguồn nhân lực, đất đai, vốn, hỗ trợ pháp lý để khuyến khích phát triển các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế ngoài nhà nước.
Thực hiện biện pháp giãn (chậm nộp) thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2011 cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động sản xuất trong các ngành chế biến nông lâm thủy hải sản, dệt may, da giày, linh kiện điện tử, xây dựng công trình hạ tầng kinh tế - xã hội và một số ngành nghề sản xuất kinh doanh quan trọng . Đồng thời tại kỳ họp này, Chính phủ trình Quốc hội quyết định việc miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp gặp khó khăn, bảo đảm thực hiện chính sách an sinh xã hội trong năm 2011 và 2012 (Chính phủ có Tờ trình riêng về nội dung này).
5. Về bảo đảm an sinh xã hội:
Tập trung làm tốt hơn nữa để thực hiện được các mục tiêu, nhiệm vụ về an sinh xã hội đã đề ra cho cả năm 2011, trong đó tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động; giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% theo chuẩn nghèo mới, riêng 62 huyện nghèo giảm 4%. Ưu tiên nguồn lực thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia hướng đến vùng nghèo, địa bàn huyện, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, người nghèo, người có công, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khó khăn trong xã hội; tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các chương trình: xây dựng nông thôn mới; phát triển nhanh và bền vững các huyện nghèo; bảo vệ và phát triển rừng nhằm tăng độ che phủ rừng và giải quyết việc làm cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng nhà ở cho công nhân lao động tại các khu công nghiệp thuê; xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp tại khu vực đô thị; hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà vùng ngập lũ đồng bằng sông Cửu Long (giai đoạn 2); xây dựng ký túc xá sinh viên...
Thực hiện điều chỉnh sớm hơn lộ trình tăng lương tối thiểu theo vùng của khu vực doanh nghiệp . Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh đối với người lao động trong các doanh nghiệp.
Tập trung nguồn lực cho phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, khôi phục nhanh sản xuất và ổn định đời sống cho nhân dân vùng bị thiên tai, bão lũ. Tiếp tục rà soát, sửa đổi bổ sung, ban hành mới các chương trình, chính sách nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách về an sinh xã hội để thực hiện cho giai đoạn 2011 - 2015.
Các địa phương tiếp tục phát huy sự chủ động, linh hoạt và kịp thời trong việc thực hiện các biện pháp cụ thể, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của từng địa phương để thực hiện tốt mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội cho người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
6. Về lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội:
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của các bậc học trên cơ sở thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Tích cực triển khai thực hiện đổi mới cơ chế tài chính giáo dục và đào tạo giai đoạn 2010 - 2015; đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010 - 2012. Tích cực chuẩn bị để sớm đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của phát triển.
Tổ chức có hiệu quả hơn các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, mở rộng bảo hiểm y tế theo lộ trình. Đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, khuyến khích mở các cơ sở khám chữa bệnh ngoài công lập, tư nhân và cơ sở đầu tư bằng vốn nước ngoài với cơ chế, chính sách hợp lý. Mở rộng việc áp dụng chế độ luân phiên cán bộ y tế giúp tuyến dưới nâng cao chất lượng khám chữa bệnh. Tăng cường quản lý về sản xuất, nhập khẩu, cung ứng thuốc chữa bệnh, giá thuốc chữa bệnh, chất lượng hoạt động khám chữa bệnh, nhất là khu vực tư nhân.
Xây dựng kế hoạch, chương trình phát triển văn hóa gắn với phát triển du lịch và các hoạt động kinh tế. Nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản.
Chủ động ứng phó có hiệu quả với thiên tai, dịch bệnh. Tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai.
Kiểm tra, thanh tra, phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Tập trung giải quyết các vấn đề bảo vệ môi trường ở các làng nghề, khu công nghiệp, khu đô thị. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn xã hội về bảo vệ môi trường.
7. Về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại và bảo đảm trật tự an toàn xã hội:
Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, Nghị quyết của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; đặc biệt trước tình hình và diễn biến phức tạp, chúng ta cần hành động kiên quyết, kịp thời, phù hợp với pháp luật quốc tế, đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước, huy động sức mạnh của toàn dân để bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia. Thực hiện phát triển kinh tế kết hợp với quốc phòng vùng biên giới, hải đảo; tăng cường sự chủ động của các địa phương trong việc xây dựng tiềm lực kinh tế kết hợp với quốc phòng.
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành chức năng, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, thực hiện đồng bộ các giải pháp để chủ động ngăn chặn, làm thất bại các âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, các băng nhóm tội phạm; quan tâm giải quyết tốt các vấn đề dân tộc, tôn giáo, xử lý các tệ nạn xã hội, bảo đảm vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của hội nhập quốc tế. Chủ động tích cực tham gia vận động và tạo khuôn khổ, môi trường quốc tế thuận lợi phục vụ phát triển kinh tế. Hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và tranh thủ phát triển thị trường tiềm năng.
Để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ cấp bách là đẩy lùi, kiềm chế tai nạn giao thông và giảm ùn tắc giao thông, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm trật tự an toàn giao thông, trong đó tập trung nâng cao công tác quản lý nhà nước, kiện toàn Ủy ban An toàn giao thông quốc gia theo hướng nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Ủy ban. Thực hiện kiên quyết, mạnh mẽ hơn nữa các giải pháp để giảm thiểu tai nạn giao thông. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao ý thức người dân về an toàn giao thông, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về phương tiện giao thông và người điều khiển phương tiện giao thông, đặc biệt là hành vi chống người thi hành công vụ… Các cấp ủy Đảng, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các địa phương và toàn dân tích cực tham gia công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông, thực hiện có hiệu quả các giải pháp về bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, giảm thiểu tai nạn.
8. Về công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền:
Tiếp tục chỉ đạo các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quán triệt sâu sắc tình hình, chủ trương, giải pháp của Đảng và Nhà nước; làm tốt công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền tạo sự thống nhất và đồng thuận xã hội cả trong nhận thức và tổ chức thực hiện tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao niềm tin trong các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp để tham gia tích cực vào việc thực hiện, phấn đấu hoàn thành cao nhất mục tiêu và nhiệm vụ đề ra.
Chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời tăng cường đối thoại chính sách; tăng cường trách nhiệm của báo chí, các cơ quan truyền thông trong việc thu thập, kiểm soát thông tin, bảo đảm kịp thời tuyên truyền về những chính sách, giải pháp của Đảng và Nhà nước, nỗ lực của các ngành, các cấp cũng như những việc làm tốt của cán bộ và nhân dân, hạn chế việc đưa tin quá mức những mặt hạn chế, khó khăn, vụ việc xấu, bạo lực trong xã hội...; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
Thưa Quốc hội,
Trong điều kiện có nhiều khó khăn, thách thức, với quyết tâm cao, đoàn kết, đồng thuận về tư tưởng, nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất định chúng ta sẽ tranh thủ được thuận lợi, vượt qua được thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thành công mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức, đoàn thể và đồng chí, đồng bào trong cả nước tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác trong mọi lĩnh vực để phấn đấu thực hiện cao nhất Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011, năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng, tạo tiền đề thuận lợi để thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020.
Xin trân trọng cảm ơn Quốc hội./.
(Theo Chính phủ)