Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc: Mình kém, họ cao tay?

-Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc: Mình kém, họ cao tay? (ĐV 17-11-14) -- P/v TS Nguyễn Văn Nam

- Trung Quốc cố biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa chất lượng trung bình, thậm chí chất lượng kém của họ.

PGS.TS Nguyễn Văn Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công thương) nói như vậy khi trao đổi về vấn đề nhập siêu từ Trung Quốc.
PV: - Bộ Công thương vừa cho biết, tính đến 10 tháng đầu năm nay, Việt Nam đã xuất siêu 1,9 tỷ USD. Tuy nhiên, theo thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong 9 tháng qua, Việt Nam đã nhập siêu từ Trung Quốc 20,17 tỷ USD. Nếu đà nhập siêu này vẫn duy trì ở mức này, hết năm nay, còn số nhập siêu từ Trung Quốc có thể chạm hoặc vượt mốc 27 tỷ USD, tăng gần 3,3 tỷ USD so với mức nhập siêu cả năm 2013.
Thưa ông, trong khi vấn đề xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đã được chỉ rõ là do đối tác làm khó, việc nhập khẩu vẫn tăng mạnh như vậy biểu hiện mối quan hệ của nền kinh tế Việt Nam - Trung Quốc như thế nào? Lựa chọn hiện nay của Việt Nam có phù hợp không và vì sao?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc đã từ lâu và mức độ ngày càng tăng. Các doanh nghiệp nhập siêu từ Trung Quốc chủ yếu là doanh nghiệp trong nước chứ không phải doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các sản phẩm Việt Nam nhập từ Trung Quốc bao gồm hàng tiêu dùng và một lượng lớn phụ tùng, nguyên phụ liệu, đặc biệt là các thiết bị toàn bộ của các dự án nhà máy, công trình Việt Nam mà Trung Quốc đấu thầu được, từ nhiệt điện đến hóa chất, nhà máy đường, thép, xi măng... Thậm chí, Việt Nam còn chủ động đi mua thiết bị toàn bộ, nói là hàng EU nhưng thực ra toàn là hàng Trung Quốc.
Mối quan hệ giữa nền kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, nói theo kiểu thế giới, là mối quan hệ bắc-nam, giữa một nước phát triển và một nước kém phát triển. Xét về kinh tế hiện nay, mặc dù Trung Quốc, Việt Nam đều gọi là những nước đang phát triển nhưng so với Việt Nam, Trung Quốc trình độ phát triển cao hơn rất nhiều. Trong mối quan hệ này Việt Nam ở thế yếu.
Đó là điều người ta vẫn hay nói. Còn một điều mà người ta ít nói đó là chính sách, thủ đoạn ngoại thương của Trung Quốc cao tay hơn Việt Nam nhiều. Trung Quốc cố biến Việt Nam thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa chất lượng trung bình, thậm chí chất lượng kém của họ. Bởi vậy, cả một thời kỳ dài Việt Nam nhập thép, xe máy... Trung Quốc và giờ là nhập đồ điện, điện tử Trung Quốc. Ô tô Trung Quốc trước đây không vào nổi Việt Nam nhưng một hai năm trở lại đây tăng mạnh. Trong 10 tháng qua, lượng ô tô Việt Nam nhập khẩu nguyên chiếc từ Trung Quốc tăng 200% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nếu nhìn bề ngoài chỉ thấy đấy là các doanh nghiệp Trung Quốc rất giỏi kinh doanh nhưng thực chất ở đây có hẳn chủ trương, chính sách của chính quyền Trung Quốc. Dĩ nhiên các cơ quan chức năng Việt Nam không thể nào chứng minh được vì làm việc với Trung Quốc không bao giờ biết được văn bản của họ. Họ luôn bảo đó là do địa phương, cơ sở làm, họ không biết.
Ô tô nguyên chiếc nhập từ Trung Quốc tăng mạnh
Ô tô nguyên chiếc nhập từ Trung Quốc tăng mạnh
Nói đi thì phải nói lại, bản thân doanh nghiệp Việt Nam ăn xổi ở thì, chỉ biết lợi ích trước mắt, không có chiến lược phát triển lâu dài, cho nên cứ thấy mua hàng Trung Quốc vừa rẻ vừa lợi, lại có nhiều khuyến mại, được ưu ái nên cứ rước về.
Đằng sau đó, các nhà quản lý Việt Nam gần như vô trách nhiệm, bất lực, các bộ, ngành dù biết nhưng không hề có chủ trương, chính sách gì cụ thể để ngăn chặn, thậm chí còn tiếp tay. Vấn đề nhập thiết bị đồng bộ Trung Quốc để làm các dự án cầu đường, các dự án nhà máy nọ kia không có sự phê duyệt từ bên trên làm sao mà vào được.
Khi dư luận căng thẳng, báo chí nói nhiều thì bao giờ cơ quan quản lý Việt Nam đều có phản ứng bằng một chỉ thị hay một công văn và coi như thế là hết trách nhiệm. Công văn có ý nghĩa gì đâu, có công văn đâu phải đã xong chuyện? Vấn đề là tổ chức thực hiện thế nào, có chương trình, kế hoạch cụ thể để ngăn chặn nhập khẩu những công nghệ lạc hậu.
Nhiều người cho rằng tiềm lực kinh tế Việt Nam còn yếu, không có tiền, công nghệ kém nên buộc phải lựa chọn như thế. Đấy chỉ là cách nói mà thôi, là cách để giải thích sự tham lam, tiêu cực của bộ máy. Đây là quan hệ bắc-nam giữa 1 người giàu và 1 người nghèo. Nhưng người nghèo khi làm cái gì cũng phải tính toán kỹ lưỡng để phát triển lên chứ không phải đi hót rác cho người khác.
PV: - Nhiều chuyên gia đã chỉ rõ, cùng với việc chuyển đầu tư dệt may, giày da từ Trung Quốc sang Việt Nam, đang có một làn sóng nhập công nghệ rác thứ hai từ Trung Quốc. Điều đó liệu có lý giải cho con số nhập siêu nói trên hay không? Ông bình luận như thế nào về thực tế này?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Sự chuyển hướng này không phải do Trung Quốc mà là những nhà đầu tư nước ngoài như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc... Trước đây họ đầu tư vào các lĩnh vực dệt may, giày da ở Trung Quốc nhưng bây giờ lương công nhân Trung Quốc đã tăng cao lên còn Việt Nam vẫn rẻ hơn 1/3, 1/4 lần nên họ chuyển hướng sang đầu tư vào Việt Nam.
Không chỉ vậy, các nhà đầu tư nước ngoài còn có được xuất xứ của Việt Nam. Việt Nam sắp vào TPP, ký hiệp định với Liên minh Hải quan Nga, Belarus, Kazakhstan, ký với EU hiệp định thương mại tự do... Hàng Việt Nam vào các thị trường này sẽ được dỡ bỏ hàng rào thuế quan. Đấy là lý do các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng đầu tư từ Trung Quốc sang Việt Nam và đó là một xu hướng.
Đối với Trung Quốc, họ không đầu tư thực sự vào Việt Nam. Họ biết được lợi thế của xuất xứ thị trường Việt Nam nên lợi dụng làm những đầu tư ảo để dán mác, dán nhãn Việt Nam vào hàng của họ để xuất đi Mỹ, EU... Cái này đã có từ lâu, Mỹ, EU có một thời kỳ phản đối Việt Nam xuất hộ hàng cho Trung Quốc. Như vậy, Trung Quốc biến Việt Nam thành một anh chuyên đi xuất khẩu hộ.
Một "lợi thế" khác của Việt Nam khiến các nhà đầu tư nước ngoài chuyển hướng là môi trường quản lý của Việt Nam rất lỏng lẻo nên họ làm được nhiều trò như trốn thuế, chuyển giá...
Những điều này rất nguy hiểm nhưng các nhà quản lý của Việt Nam hầu như chưa có biện pháp xử lý nào rõ ràng, đúng mực để ngăn chặn ngoài chuyện hô hào, nào là kiểm soát, nào là đừng bỏ trứng vào một giỏ. Doanh nghiệp Việt Nam lại thiếu tầm nhìn, ham lợi ích trước mắt cứ lao vào để mà nhập.
PV: - Xét về lợi ích, Việt Nam đang là đối tác "vàng" của Trung Quốc khi đang có dự định nhập về những sản phẩm Trung Quốc muốn thải đi trong quá trình tiến lên nền sản xuất phát triển hơn của họ. Tuy nhiên, trong mối quan hệ với nền kinh tế này, Việt Nam dường như lại luôn chịu lép vế. Để xảy ra tình trạng đó, lỗi là do phía doanh nghiệp Việt Nam hay từ phía nào, thưa ông? Xin ông phân tích cụ thể về vấn đề này.
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Đấy là lỗi của các nhà quản lý Việt Nam và đây mới là yếu tố quan trọng. Doanh nghiệp Việt Nam dẫu có thế nào, nếu quản lý nghiêm thì họ có dám làm không?
PV: Trong khi đó, đứng từ góc độ của Việt Nam, chỉ đi sau tiếp nhận công nghệ Trung Quốc, hiện Việt Nam đang bó tay với những đơn hàng của các doanh nghiệp FDI lớn trên địa bàn, kết quả chỉ tham gia trong chuỗi sản xuất với vai trò gia công (vụ việc Samsung, doanh nghiệp ôtô Nhật, Hàn Quốc... đầu tư ở Thái Lan, Malaysia thay vì Việt Nam).
Điều này chứng tỏ năng lực sản xuất của Việt Nam đang ở mức nào thưa ông? Liệu Việt Nam có thể hội nhập được khi cứ mãi phụ thuộc vào Trung Quốc như vậy?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Việt Nam cứ hô hào công nghiệp hóa-hiện đại hóa nhưng làm lại rất ít hoặc không làm, không có chính sách cụ thể gì. Ngay cả mấy khu công nghiệp hỗ trợ cứ hô thế nhưng đã làm được khu nào ra hồn? Hay việc hô hào khi đầu tư ngoại vào phải đảm bảo tỉ lệ nội địa hóa bao nhiêu phần trăm đến nay cũng bó tay. Như công nghiệp ô tô, lúc đầu yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa 20, 30% nhưng thực chất chỉ làm được 7-8%.
Rõ ràng Việt Nam thiếu những chính sách cụ thể, thiết thực, khả thi để triển khai, có tác dụng rõ ràng. Chính vì vậy mà năng lực công nghiệp của Việt Nam không tăng lên được. Những sản phẩm làm được đều phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài, còn trong nước chỉ là gia công, lắp ráp, từ ô tô đến dệt may, giày da, điện tử...
Do Việt Nam không có một chính sách nuôi dưỡng những công ty lớn chuyên sâu những lĩnh vực ấy, mà công ty Việt Nam hễ có tý tiền là bỏ tiền vào ngân hàng, đầu tư bất động sản tức đầu tư ngoài ngành, gọi là đa dạng hóa nhưng nghề của mình thì không nâng cao được.
Việt Nam cứ nói hội nhập nhưng hội nhập này mang lại lợi ích rất ít là vì tác động lan tỏa của đầu tư nước ngoài đối với công nghiệp Việt Nam rất thấp. Chưa nói công nghệ cao, khó như công nghiệp ô tô, điện thoại di động, những cái đơn giản nhất như dệt may thôi, Việt Nam cũng không tiến được bao nhiêu dù đã bao nhiêu năm đổi mới. Cái kém cỏi ở đây không phải từ doanh nghiệp mà từ chính sách nhà nước, từ quản lý nhà nước.
Bởi vậy, nếu hội nhập Việt Nam cũng chỉ là anh cửu vạn, kẻ bị bóc lột lao động chứ chẳng làm gì hơn được, chất xám ở Việt Nam cứ tiếp tục chảy máu bởi trong nước có dùng gì đến chất xám đâu, chỉ dùng lao động chân tay mà thôi. Việt Nam sẽ ngày càng kém cỏi đi, còn tăng trưởng chỉ tí ti, chủ yếu phụ thuộc vào đầu tư công.
PV: Cũng ý kiến trên cho rằng, Việt Nam dù đặt quyết tâm vẫn khó thoát khỏi việc nhập công nghệ lạc hậu bởi lẽ: về giá bán, Trung Quốc sẵn sàng bán giá siêu rẻ; về yêu cầu kỹ thuật để vận hành, công nghệ Trung Quốc rất dễ tính, phù hợp với trình độ nhân lực thấp như Việt Nam. Nếu đồng tình với quan điểm trên, liệu có thể hiểu, việc "thoát Trung" phải dựa vào nội lực của bản thân nền kinh tế mà điều này đang thiếu ở Việt Nam?
PGS.TS Nguyễn Văn Nam: - Trung Quốc bán rẻ là một chuyện, họ còn sẵn sàng đút lót. Cái "chết" của Việt Nam là biết thua lỗ vẫn cứ ngậm tăm mà làm vì đó là tiền chùa, tiền nhà nước, còn tiền 'hoa hồng' thì đút túi riêng.
Nước nào cũng phải dựa vào nội lực kinh tế để đi lên nhưng phải có chính sách cụ thể, sát sao. Vấn đề của Việt Nam là biết như thế nhưng không có một chính sách cụ thể nào, chỉ hô khẩu hiệu. Nước khác chỉ mất 10 năm là bứt lên được, còn Việt Nam 30 năm vẫn chưa thể bứt lên được.
PV: Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi! 


***********


-Dự án điện do Trung Quốc làm tổng thầu: Vì sao tỷ lệ nội địa rất thấp?
Đài Tiếng Nói Việt Nam
VOV.VN -Bộ trưởng Công thương: Lý do là tất cả nhà máy nhiệt điện công suất lớn đã và đang xây dựng phần lớn đều sử dụng hình thức nhà thầu EPC.
Tiếp tục phần chất vấn Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng, Đại biểu Nguyễn Văn Tuyết (đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu) phản ánh: Hiện nay, tổng số 24 nhà máy xi măng có 23 nhà máy do nước ngoài làm tổng thầu, trong đó, các nhà máy do Trung Quốc làm tổng thầu phần lớn tỷ lệ nội địa hóa bằng 0 hoặc không lớn hơn 3%. Trong khi đó, các nhà máy do nhà thầu cung cấp từ các nước G7 thì tỷ lệ nội địa hóa đạt xấp xỉ 25%.


Theo đại biểu Nguyễn Văn Tuyết, điều đáng quan tâm là về mặt kỹ thuật, Việt Nam hoàn toàn có thể thiết kế, chế tạo được 40% giá trị thiết bị các nhà máy này. “Vừa qua, Bộ trưởng cũng ghi nhận về mặt kỹ thuật chúng ta có thể làm được điều đó. Trong 20 dự án nhiệt điện đã đầu tư thì tỷ lệ nội địa hóa gần như bằng 0 tại 15 dự án do nhà thầu Trung Quốc làm tổng thầu. Trong khi đó, những dự án do Việt Nam làm tổng thầu tỷ lệ nội địa hóa đạt 25%. Xin Bộ trưởng cho biết, tại sao như vậy, có phải do sự chỉ đạo thiếu quyết liệt của Bộ hay không và giải pháp khắc phục là gì?” – đại biểu chất vấn.
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng 
Trả lời chất vấn này, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nói: “Lĩnh vực xi măng chúng tôi không phụ trách. Các đồng chí ở Bộ Xây dựng sẽ thông tin thêm”.
Còn với các nhà máy nhiệt điện, theo phản ánh của đại biểu tỷ lệ nội địa hóa nhỏ. Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng thừa nhận thực tế này và giải thích: Trước hết, tất cả nhà máy nhiệt điện công suất lớn đã và đang xây dựng phần lớn đều sử dụng hình thức nhà thầu EPC (thiết kế, cung cấp thiết bị và thi công rồi sau đó bàn giao cho chúng ta vận hành). Chính vì vậy, trong tổng thầu EPC, phần lớn công việc liên quan đến máy móc, thiết bị do nhà tổng thầu đảm nhận.
Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng thừa nhận một thực tế, trong số các máy móc, thiết bị này, kể cả các kết cấu kim loại DN trong nước có điều kiện làm được nhưng trên thực tế, sự tham gia của DN Việt Nam rất ít.
Nhận thức rõ sự cần thiết trong việc vừa tạo điều kiện cho DN trong nước tham gia được vào các công trình công nghiệp, tạo điều kiện giải quyết thu nhập, việc làm cho công nhân và quan trọng để từng bước góp phần cho DN trong nước nâng cao năng lực sản xuất, chế tạo của mình, trong không ít văn bản Chính phủ chỉ đạo các chủ đầu tư khi lập hồ sơ mời thầu những dự án này cần phải tách bạch những gói thầu mà DN trong nước có thể làm được khỏi các gói thầu do nhà đầu tư nước ngoài đảm nhận. Trong yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng, trong khá nhiều văn bản đều nêu rõ chủ trương này.
“Rất tiếc, có chủ trương rất rõ ràng, nhưng trong khá nhiều trường hợp, do nhiều lý do, các chủ đầu tư của chúng ta không thực hiện được việc tách các gói thầu này ra. Cho nên, trên thực tế vẫn nằm trong gói thầu của tổng thầu EPC do nhà đầu tư nước ngoài triển khai” – Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nói.
Về các giải pháp, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng cho biết, Chính phủ cũng giao Bộ Công thương  phối hợp với Bộ KH-CN và một số bộ, ngành liên quan thường xuyên xây dựng, ban hành danh mục máy móc, thiết bị chúng ta có thể sản xuất để khuyến cáo các chủ đầu tư sử dụng những máy móc, nguyên liệu này. Định kỳ, chúng tôi công bố danh mục và phổ biến rộng rãi đến các địa phương, các DN. Chúng tôi còn đề nghị Chủ tịch UBND các địa phương trao đổi, khuyến nghị các chủ đầu tư ngoài quốc doanh, khi đầu tư các công trình lưu ý việc này. Về mặt quản lý Nhà nước đã làm như vậy nhưng thực tế hiệu quả chưa cao.
Đồng thời, Chính phủ cũng có những giải pháp cụ thể như dự án điện, hiện đang giao ngành điện, cơ khí trong nước… tập trung thử nghiệm chế tạo máy phát công suất 600 MW, sẽ áp dụng ở nhà máy nhiệt điện Quỳnh Lưu và Quảng Trạch (Quảng Bình). Hiện các DN, tổ hợp trong nước đang triển khai dự án thử nghiệm này. Nếu làm được sẽ mở ra con đường nội địa hóa ngày càng cao phần đầu tư các nhà máy nhiệt điện.
Tiếp tục chất vấn của đại biểu Nguyễn Văn Tuyết về việc người dân tự nghiên cứu, chế tạo một số máy móc, công cụ, đại biểu đề nghị Bộ trưởng cho biết, có chính sách hỗ trợ gì để khuyến khích, động viên sự sáng tạo của người dân?
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng hoan nghênh những sáng tạo này. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng, phần lớn các máy móc này là cải tiến, lắp ráp, tổng thành trên cơ sở các linh kiện đã có. Mức độ sản xuất đơn chiếc, chưa có điều kiện sản xuất hàng loạt. “Nhưng dù sao đây là những cá nhân rất đáng được động viên, khuyến khích. Tôi không biết Bộ KHCN có cơ chế khuyến khích các đối tượng này như thế nào, còn chúng tôi hết sức hoan nghênh và sẽ có kiến nghị Bộ KHCN kịp thời khen thưởng, động viên những người nông dân, bằng trí tuệ, tâm huyết đã làm ra sản phẩm này./...
Dự án điện do Trung Quốc làm tổng thầu: Tỷ lệ nội địa hóa gần như ...
Quản lý thị trường dùng miệng kiểm định chất lượng… phân bón
Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng: 'Doanh nghiệp trong nước vẫn kiểm soát ...
 - ---



-Gói thầu số 3 được ký cho dự án nhà máy nhiệt điện Duyên hải 3 (theo hình thức EPC)
(Tamnhin.net) - Chiều 5/8, tại Hà Nội, đã diễn ra lễ ký hợp đồng gói thầu số 3-nhà máy chính dự án Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3 theo hình thức EPC (thiết kế-cung cấp-lắp đặt), bao gồm cả bảo hiểm xây lắp công trình, giữa Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Liên danh Nhà thầu CHENGDA-DEC-SWEPDI-ZEPC (Trung Quốc). Hợp đồng có giá trị hơn 1,3 tỷ USD; trong đó 85% vay từ các ngân hàng do Ngân hàng Trung Quốc làm đầu mối, còn lại 15% là vốn đối ứng của EVN.


Theo kế hoạch, sau khi hợp đồng EPC có hiệu lực, nhà máy sẽ được hoàn thành và đưa vào vận hành thương mại trong vòng 50 tháng (dự kiến quý III/2015). Nhà máy phát điện lên lưới điện quốc gia thông qua sân phân phối 500KV của Trung tâm Điện lực Duyên Hải. Khi đi vào hoạt động, nhà máy sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu điện phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của khu vực miền Nam và toàn quốc giai đoạn sau 2015.

Dự án Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3 do EVN làm chủ đầu tư, Ban Quản lý dự án Nhiệt điện 3-EVN chịu trách nhiệm quản lý dự án. Đây là 1 trong 3 nhà máy của Trung tâm Điện lực Duyên Hải (tổng công suất 4.200 MW), thuộc Quy hoạch Phát triển Điện lực quốc gia giai đoạn 2006-2015, có xét đến năm 2025 (Quy hoạch VI) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Phát biểu tại lễ ký, ông Phạm Lê Thanh, Tổng Giám đốc EVN cho biết, Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải 3 bao gồm 2 tổ máy, có công suất lắp đặt 1.245 MW, sản lượng điện phát từ 7,5-8 tỷ kWh/năm được xây dựng trên diện tích 62,28ha tại ấp Mù U, xã Dân Thành, huyện Duyên Hải, Trà Vinh, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 45km về hướng Đông Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 250km. Nhà máy sử dụng nhiên liệu than, công nghệ nhiệt điện ngưng hơi truyền thống, công nghệ đốt hiện đại phù hợp với than antraxit Việt Nam. Đây là công nghệ hiện đại, công suất, hiệu suất cao, chi phí hợp lý và đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo các tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế. Nhiên liệu sử dụng cho nhà máy là than nội địa của Việt Nam và dự kiến là than cám 6a lấy từ Hòn Gai-Cẩm Phả theo tiêu chuẩn Việt Nam. Than sẽ được vận chuyển đến Nhà máy bằng phương tiện vận tải thủy có tải trọng đến 30.000 DWT.

Mai Phương

 EVN ký hợp đồng làm dự án điện trị giá 1,3 tỷ USD (Sgtt)-
SGTT.VN - Theo tin từ tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), hôm nay 5.8, tập đoàn này đã tổ chức ký kết hợp đồng gói thầu số 3 - nhà máy chính của Dự án Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 3 theo hình thức EPC (Thiết kế - cung cấp - lắp đặt) với liên danh Nhà thầu CHENGDA - DEC - SWEPDI - ZEPC với giá trị Hợp đồng EPC khoảng 1,3 tỷ USD.
Dự án nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 3 do EVN làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án nhiệt điện 3 - EVN sẽ chịu trách nhiệm quản lý dự án. Đây là một trong 3 nhà máy của trung tâm điện lực Duyên Hải, thuộc quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2006-2015 có xét đến năm 2025.
Được biết, nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 3 có tổng công suất lắp đặt 1.245MW (2x622,5MW), sản lượng điện phát từ 7,5 đến 8 tỷ kWh/năm, có diện tích khoảng 62,28 ha, dự kiến được xây dựng tại ấp Mù U, xã Dân Thành, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 45km về hướng Đông Nam và cách thành phố Hồ Chí Minh 250km.
Nhà máy sử dụng nhiên liệu than, công nghệ nhiệt điện ngưng hơi truyền thống, thông số hơi cận tới hạn, công nghệ đốt hiện đại phù hợp với than Antracite Việt Nam. Đây là công nghệ hiện đại, công suất, hiệu suất cao, chi phí hợp lý và đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường theo các tiêu chuẩn của Việt Nam và quốc tế. Nhiên liệu sử dụng cho nhà máy là than nội địa của Việt Nam và dự kiến là than cám 6a (Hòn Gai - Cẩm Phả) theo Tiêu chuẩn Việt Nam. Than sẽ được vận chuyển đến Nhà máy bằng phương tiện vận tải thủy có tải trọng đến 30.000DWT. Nhu cầu tiêu thụ than cho nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 3 khoảng 3,5 triệu tấn/năm.
Ngọc Lâm

Tổng số lượt xem trang