
Tư lệnh Hạm đội 7 Scott Van Buskirk vừa thăm Hà Nội trong hai ngàyTạp chí XƯA & NAY
Số 384, Tháng 7 năm 2011
Xavier Monthéard
BÀI NÀY ĐĂNG TRỀN TỜ NGUYỆT SAN THẾ GIỚI NGOẠI GIAO (LE MONDE DIPLOMATIQUE) THÁNG 6-2011. ĐÂY LÀ MỘT TỜ BÁO LỚN CỦA PHÁP, ĐƯỢC ĐÁNH GIÁ LÀ CÓ THÔNG TIN ĐẦY ĐỦ NHẤT, VỚI MỘT QUAN ĐIỂM TỰ DO, ÍT PHỤ THUỘC VÀO ĐƯỜNG LỐI CỦA CÁC ĐẢNG CẦM QUYỀN. TUY TRONG BÀI NÀY CÒN CÓN NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHƯA THẬT HOÀN TOÀN KHÁCH QUAN, NHƯNG CẦN THIẾT CHO CHÚNG TA THAM KHẢO ĐỂ BIẾT THÊM PHẢN ỨNG CỦA CHÍNH GIỚI NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ VIỆT NAM. CHÚNG TÔI XIN TRÍCH GIỚI THIỆU VỚI BẠN ĐỌC.
Bán đảo Cam Ranh, phía nam Việt Nam. Gió nổi lên từ biển Nam Trung Hoa, ở đây người ta gọi là “Biển Đông”. Nằm kẹp giữa dây kẽm gai, một con đường hẹp quanh co dẫn đến căn cứ hải không quân được quân đội Mỹ mở mang hồi chiến tranh Việt Nam. Những bót gác quân sự, thường là cũ kỹ, nằm dọc trên dải đất khô. Binh lính và hải quan rỗi rãi nhởn nhơ. Ở bến cảng quân sự, du khách không phải là người được chào đón, vả lại, họ đến đây để làm gì? Từ nhiều năm, vịnh Cam Ranh hoạt đồng cầm chừng.

Cái uể oải đó sắp chấm dứt: tháng 10-2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nơi này từ nay sẽ tiếp nhận tàu của toàn thế giới. Hoa Kỳ là một ứng viên. Từ năm 2003, hàng chục tàu chiến của Mỹ đã cập bến trên bờ biển của kẻ thù cũ. Không vũ khí không hành lý, các chàng trai của Chú Sam đã thực sự quay trở lại đất nước của Bác Hồ – với danh nghĩa là thượng khách. Cứ như những năm tháng chiến tranh, đã được năm vị kế tiếp nhau cầm đầu Nhà Trắng(1) tiến hành một cách ham hố, đã rời bỏ ký ức của người Việt. Hai mươi năm cuồng nộ và hãi hùng đó đã kết thúc tháng 4 – 1975 với việc chiếm lĩnh Sài Gòn hình như đã bị lãng quên, hơn thế nữa người khổng lồ bị làm nhục còn kịch liệt ngăn chặn sự giúp đỡ quốc tế đến với người tí hon đã đánh bại họ, và cuộc cấm vận thương mại được duy trì đến tận năm 1994.
Tàu Khu trục USS John S. McCain ghé cảng Đà Nẵng
Tháng 8-2010, cuộc đối thoại đầu tiên về quốc phòng Mỹ-Việt đã diễn ra ở Hà Nội. Trong tháng đó, ngoài khơi Đà

Nhìn từ Hà Nội, sự nhích lại gần với Mỹ trước hết là tuân theo một lôgich kinh tế. Từ hiệp định song phương về thương mại có hiệu lực từ năm 2001, sự trao đổi tăng lên đều đặn. Đầu tiên là đạt 1 tỉ đôla năm 2000, đã lên đến 18,3 tỉ đô la năm 2010. Chủ tịch phòng thương mại Mỹ ở Việt Nam, bà Jocelyn Trân, ước tính con số 35 tỉ đôla từ nay đến năm 2020(3). Cán cân thương mại xuất siêu nhiều đối với Hà Nội, xuất khẩu sang Mỹ – chủ yếu là đồ dệt và giầy dép – đem lại 14,8 tỉ đôla năm 2010, hơn một phần năm thu nhập xuất khẩu.
Những quan hệ chặt chẽ với Washington cho phép hoà nhập vào hệ thống quốc tế. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Từ đó, con số 1.000 đôla GDP trên đầu người đã được vượt qua, tương ứng với sự xếp hạng của Ngân hàng thế giới vào nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình.
Đối lập với bước đầu phồn vinh đó, phải lật lại trang sử về 3 triệu người chết trong chiến tranh, đất đai bị tàn phá, các gia đình bị phá huỷ. Do đó, một công việc đáng suy nghĩ để viết lại ký ức được đặt ra. “Sau năm 1990, các nhà nghiên cứu Việt Nam bắt đầu hạ thấp sự đánh giá giai đoạn 1954-1975, trong quan hệ với Hoa Kỳ để đề cao giai đonạ 1941-1945, nhà sử học Wynn W. Gadkar-Wilcox trình bày như vậy. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ đã hợp tác với Việt Minh, và nhiều nhân viên của OSS [tieenf thân của CIA] đã có liên hệ với cá nhân Hồ Chí Minh. (…) Các nhà sử học cũng mở rộng phạm vi nghiên cứu (…). Dựa trên sự tập hợp tư liệu của Robert Hopkins Miller và dưới nhan đề Hợp chủng quốc Hoa Kỳ với Việt Nam, 1787-1941, Phạm Xanh đã nhấn mạnh mối quan tâm của Tổng thống Mỹ Thomas Jefferson [1801-1809] với thu hoạch lúa ở miền Nam Việt Nam, cùng với nhiều cuộc du khảo do Hoa Kỳ tiến hành ở Việt Nam đầu thế kỷ XIX”(4).
Một nửa dân số dưới 26 tuổi. Chiến tranh có vẻ đã lùi xa, và Hoa Kỳ kích thích sự hâm mộ. Nhờ vào tờ giấy xanh cũng như vào “giấc mơ Hoa Kỳ”: có thể đạt đến phồn vinh nhờ quyết tâm trong công việc. Mười ba nghìn sinh viên đã theo học trường đại học bên kia Thái Bình Dương – một kỷlục của Đông Nam Á. [...]
“Vị thế mong manh như trứng để đầu đẳng”
Đối với Washington, việc thắt chặt quan hệ quân sự và hợp tác hạt nhân đều nhằm vào

Cánh cửa đã sập xuống cuộc xung đột 1979 với Bắc Kinh
Người ta có thể thấy một ngày nào đó Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam chống lại Trung Quốc không? Ở đây sẽ có nhiều điều trớ trêu, nếu ta nhớ lại sau khi tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945, nước Trung Hoa của Mao Trạch Đông là nước đầu tiên công nhận nước Cộng hoà dân chủ trẻ tuổi tháng Giêng năm 1950, 12 ngày trước Liên Xô… Giữ thăng bằng trước hai nước cộng sản bảo trợ, sau đấy trở thành hai kẻ xung đột công khai, là bài toán đã được Hồ Chí Minh và những người kế nhiệm thực hiện thành công trong 25 năm. Viện trợ Liên Xô đã tiêu tan khi kết thúc Chiến tranh lạnh. Xung đột công khai mở ra giữa Việt Nam và Trung Quốc cuối những năm 1970, trở thành vấn đề tối kị nhất trong chính sách đối ngoại. Hơn 30 năm sau khi nổ ra, vẫn không thể nhắc lại cuộc chiến ngắn ngủi tháng Hai – Ba năm 1979, khiến hàng chục nghìn người chết. Báo chí không nói cũng như sách giáo khoa không đề cập. Chính thức thì mọi việc đều suôn sẻ với Bắc Kinh.
Lịch sử đã cho thấy những hiểm nguy đối với Việt Nam, bị kẹt giữa những toan tính địa – chính trị của các cường quốc láng giềng. Ai sẽ quên Hà Nội? Nhà ngoại giao Hoàng Anh Tuấn mới đây đã nhắc lại rằng Việt Nam “có thể là nước duy nhất trên thế giới đã tiến hành thương thuyết gay go và lâu dài với Hoa Kỳ. (…) Dù rằng sự tin tưởng và hiểu biết có tếin bộ đáng kể, không có gì đảm bảo những hiểu nhầm về chiến lược sẽ nảy sinh lại. (…) Như vậy, mối quan hệ song phương không thể xây dựng bền vững trên thế bình đẳng nếu nó được nhằm phục vụ cho lợi ích quốc gia của Việt Nam cũng như của Hoa Kỳ chứ không phải cho lợi ích địa – chính trị của một bên nào đó”(11). Vào lúc này, điềm báo có vẻ thuận lợi. Nhưng “sự câu thúc của địa lý”(12) có lẽ vẫn không ngừng định hướng cho vận mệnh của quốc gia Việt Nam.
Đào Hùng dịch
Nguồn:-Tái ngộ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam--------
Tin liên quan:
Tư lệnh Hạm đội 7 Hoa Kỳ thăm Việt Nam

Tư lệnh Hạm đội 7 Scott Van Buskirk vừa thăm Hà Nội trong hai ngày
Phó Đô đốc, Tư lệnh Hạm đội 7 thuộc hải quân Hoa Kỳ, ông Scott Van Buskirk, vừa có chuyến thăm hai ngày tới Hà Nội.
Hôm thứ Sáu, 5/8/2011, ông đã làm việc tại trụ sở Bộ Quốc Phòng và hội kiến Trung tướng Trần Quang Khuê, Phó Tổng tham mưu trưởng quân đội Việt Nam.Tùy viên quân sự Mỹ tại Việt Nam cho BBC biết chuyến thăm của Phó Đô đốc Van Buskirk chỉ kéo dài hai ngày và không cho biết thêm chi tiết.
Báo Việt Nam cũng chỉ nói chung chung rằng mục đích chuyến đi là để tăng cường quan hệ giữa hai hải quân và hai quân đội.
Tuy nhiên, gần đây Hạm đội 7 đã có nhiều hoạt động hợp tác với hải quân Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng Biển Đông gia tăng.
Tháng 8/2010, Hạm đội 7 đã có tuần hoạt động chung với hải quân Việt Nam trong chương trình "kỷ niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao" giữa hai bên.
Truyền thông Việt Nam tỏ ra e dè khi nói tới các hoạt động chung ngày càng sôi nổi giữa quân đội hai nước, có lẽ một phần lý do là không muốn gây ảnh hưởng tới quan hệ với các nước thứ ba.
Thế nhưng một điều rõ ràng là các chương trình trao đổi ngày càng nhiều và đi vào chiều sâu.
Gần đây nhất, vào tháng Bảy, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có chương trình 'tập luyện hải quân' kéo dài một tuần tại thành phố Đà Nẵng, miền trung Việt Nam.
Hồi đầu tháng này đại diện Việt Nam và Hoa Kỳ cũng ký kết biên bản thỏa thuận Hợp tác Quân y trong khuôn khổ cộng tác giữa quân đội hai nước.
Hạm đội 7 là hạm đội chủ lực của Hải quân Hoa Kỳ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Ông Van Buskirk nhậm chức chỉ huy trưởng Hạm đội 7 từ tháng 9/2010.
Trước Việt Nam lần này, ông đã thăm Campuchia trong hai ngày 3/8-4/8