Từ ngày mỏ chì, kẽm Tùng Bá – Na Sơn thuộc xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên, đi vào khai thác thì đất đai canh tác của người dân bị thu hẹp do chất thải là một loại cát quá mịn tràn ngập cánh đồng lúa ven suối, thay cho lớp bùn phù sa của thời chưa khai mỏ. Nên sau mỗi mùa mưa lũ, người dân lại phải vét bỏ lớp “phù sa” công nghiệp hoá mà ai giàu đâu không thấy còn họ phải gánh hậu quả thì mới cấy được. Khi cày bừa xong cũng phải chọt lỗ cấy ngay chứ không đất đông cứng lại rất nhanh. |
Nhóm phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị đã có một hành trình dài xuôi ngược trên nhiều cung đường của các huyện miền núi thuộc tỉnh Hà Giang những ngày cuối tháng 7, đầu tháng 8.2011 trong cái nắng nóng như đổ lửa một cách bất thường của vùng Đông Bắc để ghi nhận về đời sống người dân, thực trạng khai thác khoáng sản tại các mỏ quặng cũng như sự tàn phá môi trường của con người dành cho vùng đất với tuổi đời của một thành phố tỉnh còn trẻ – 120 năm (20.8.1891 – 20.8.2011) và rất giàu tài nguyên khoáng sản này.
Bài 1: Được ít, mất nhiều
SGTT.VN - Cái mà chị Đặng Thị Lầu cảm nhận được khi quê chị có mỏ mangan mà chị chẳng biết để làm gì, là một tai nạn suýt cướp đi sinh mạng của mình và cướp đi sinh mạng của đứa con mình.
Một ngày chủ nhật giữa năm 2010, hai vợ chồng chị Lầu, dân tộc Dao, đang trên đường từ xã Giáp Trung xuống thị trấn Yên Phú, huyện Bắc Mê (Hà Giang) đi chợ phiên, thình lình một tảng đá cỡ năm tấc văng từ bãi khai thác mangan lộ thiên do xí nghiệp xây lắp Hùng Lâm khai thác ngay trên tuyến đường đi vào xã đập vào hông chị. Chiếc xe ngã xuống, đầu chị còn bị đập xuống đường, chảy rất nhiều máu…
Chị Lầu sau đó được chồng và “dưới quặng có hai đứa đi theo”, như chị cho biết, đưa đến bệnh viện siêu âm. Bên công ty lo viện phí và đưa cho chị 1 triệu đồng. Hậu quả là cơn đau đớn kéo dài hai đến ba tuần không làm lụng gì được và ba tháng sau, chị bị sẩy thai.
Con đường đi tới nơi chị Lầu sinh sống, nói như anh Hoàng Văn Tiến, trưởng công an xã Giáp Trung, “ai đi được thì đủ điều kiện để cấp bằng lái xe”. Con đường nhỏ chưa tới 40cm nằm chênh vênh một bên là núi, một bên là vực thẳm. Nó có một độ dốc không theo một quy chuẩn nào…
Kể lại câu chuyện, ánh mắt chị Lầu vẫn chưa hết kinh hoàng. Rồi là niềm thương tiếc đối với đứa con mà chị ngơ ngác không biết kêu ca vào đâu. Chủ tịch xã Giáp Trung Triệu Văn Minh, cho biết “những ca tai nạn như vậy không ít kể từ khi mỏ mangan ở xã được cấp phép khai thác (năm 2006, chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang lúc bấy giờ là ông Nguyễn Trường Tô đã ký quyết định cấp phép khai thác mỏ mangan Nà Viền – Giáp Trung cho xí nghiệp xây lắp Hùng Lâm – PV)”.
Không chỉ vậy, bên cạnh việc người dân nơi đây không có một đồng đền bù về diện tích canh tác bị thu để mở mỏ khai thác, mà còn được “tặng” lại một dòng suối ô nhiễm do xí nghiệp xây lắp Hùng Lâm, đơn vị khai thác mỏ mangan ở thôn Nà Viền, xã Giáp Trung xả thải, dòng suối mà bao năm nay gắn chặt với đời sống của nhiều hộ gia đình người Dao nơi đây. “Nay chúng tôi không dám dùng nước từ con suối này cho gia súc uống chứ đừng nói là người. Gia đình tôi phải dẫn nước từ một dòng suối khác về dùng làm nước sinh hoạt”, ông Hoàng Văn Vành, bức xúc.
Bên cạnh đó, trái với cam kết là khi đến khai thác, sẽ giúp đỡ các hộ dân nghèo của địa phương, bí thư xã Giáp Trung Nông Trọng Huấn cho biết: “Vận động lắm, tết vừa rồi xí nghiệp Hùng Lâm mới giúp cho các hộ dân nghèo được 500.000 đồng”.
Đất canh tác vốn đã ít còn ít thêm
Phần lớn người dân sống ở xã Giáp Trung, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Giang là người dân tộc Dao. Họ ở trong những ngôi nhà sàn thô sơ nằm lưng chừng dốc núi đá nhiều hơn đất, để tránh lũ về trên những con suối vào mùa mưa và làm nương rẫy bắp và lúa.
Họ chẳng nhận thức được liệu cái gọi là khoáng sản giàu có trên đất họ đem lại thêm cho họ những gì. Họ chỉ biết, từ ngày phát hiện có mỏ mangan ở xã Giáp Trung thì đời sống người dân đã khó lại thêm khó bởi đất canh tác bị thu hẹp. Đặc biệt là nhiều hộ dân có đất nơi phát hiện điểm mỏ bị trưng thu cũng không được đền bù. Thậm chí tiền đền bù cho cái công khai hoang cũng không có. “Chỉ có hộ ông Nguyễn Văn Báo là được đền bù 600.000 đồng”, ông Nông Trọng Huấn cho hay.
Phù sa chất thải
Chị Đặng Thị Lầu đang kể về những phút thập tử nhất sinh của mình do bị đá khai thác mỏ văng trúng. Ảnh: |
Hay tại xã Minh Ngọc, huyện Bắc Mê, nơi không có sự hiện diện của các điểm mỏ nhưng lại là nơi hội tụ của các dòng suối trước khi đổ ra sông Gâm, đón nhận nước thải từ các mỏ khai thác khác trên đầu nguồn.
Người dân ở đây đa phần là đồng bào dân tộc Tày và sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, bắp. Nhưng từ ngày mỏ chì, kẽm Tùng Bá – Na Sơn thuộc xã Tùng Bá, huyện Vị Xuyên, đi vào khai thác thì đất đai của người dân bị thu hẹp do chất thải là một loại cát quá mịn tràn ngập cánh đồng lúa ven suối, thay cho lớp bùn phù sa của thời chưa khai mỏ. Nên sau mỗi mùa mưa lũ, người dân lại phải vét bỏ lớp “phù sa” công nghiệp hoá mà ai giàu đâu không thấy còn họ phải gánh hậu quả thì mới cấy được. Khi cày bừa xong cũng phải chọt lỗ cấy ngay chứ không đất đông cứng lại rất nhanh.
“Sản lượng bị ảnh hưởng khoảng 30%. Xã đã cử đoàn cán bộ qua làm việc với mỏ khai thác này, nhưng rồi đâu lại vào đấy”, ông Nguyễn Thanh Chiển, phó chủ tịch UBND xã Minh Ngọc bức xúc.
Nơi có mỏ khai thác antimon thuộc xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh, cách huyện Bắc Mê khoảng 150km, cũng không khá gì hơn. Đa phần người dân ở đây là đồng bào dân tộc Mông, đời sống của họ cũng gắn liền với cây bắp, lúa nương.
Từ ngày mỏ antimon này được cấp phép khai thác thì phần lớn nương rẫy của đồng bào Mông nơi đây bị trưng thu với giá 11.000 đồng/m2. “Ngoài ra, mỗi hộ dân có đất bị trưng thu được một suất vào làm công nhân trong mỏ, nhưng số này cũng rất ít vì điều kiện họ đưa ra là phải có trình độ lớp 12. Thậm chí để được vào làm việc trong mỏ – đối với những hộ dân không có đất bị trưng thu – còn phải bỏ ra một số tiền khoảng trên 30 triệu đồng!”, ông Sình Quán Pao, một cán bộ thôn của xã Mậu Duệ, huyện Yên Minh cho biết.
Có thể nói, từ khi phát triển công nghiệp mỏ thì cái mà địa phương và người dân “được hưởng lợi” từ tài nguyên khoảng sản trên quê hương họ là cuộc sống bị mất đi đất canh tác, những dòng suối chết, những con đường hư hỏng do xe chở quặng và chất thải quá tải, cũng như sự nguy hiểm rình rập hàng ngày khi đi qua những mỏ khai thác lộ thiên… (còn tiếp)
bài và ảnh: Công Khanh – Đoàn Quý – Việt Đức
Bài 2: Ngàn thước lên cao, ngàn thước lún
SGTT.VN - Những cung đường đi qua Hà Giang mở ra những cảnh quan đẹp nhất, mà đáng lý ra chỉ cần khai thác du lịch đúng mức thì có thể để dành các tài nguyên khoáng sản lại cho đến khi Việt Nam có đủ công nghệ tiên tiến để khai thác.
Những cung đường Đông Bắc được Nhà nước đầu tư giúp phần lớn cho an sinh khu vực. Ảnh: Công Khanh |
“Băm nát” cung đường phố núi
Thay vì chỉ chở những đoàn môtô phượt tìm đến những ngóc ngách hữu tình của vùng cao mà đường sá thì ngoằn ngoèo nhưng lòng người dân thì ngay thẳng, những con đường Đông Bắc – được đầu tư bằng 100% vốn Nhà nước, không chỗ nào có trạm thu phí – phải nai lưng cõng những chiếc xe chở quặng, chất thải từ quặng, quá tải.
Hậu quả là ở những nơi có điểm khai thác quặng, không con đường nào còn nguyên vẹn, chúng bị lún nặng nề bởi vệt bánh xe và sạt lở. Đặc biệt, làm mất hẳn hình thù ở ngay những đoạn cua hình cánh chỏ. Đưa những góc cua này về thời kỳ mới mở núi làm đường vào thôn, bản, xã vùng cao.
Điển hình như đoạn đường từ thành phố Hà Giang đi Tùng Bá dài khoảng 20km, nơi có điểm mỏ khai thác sắt và chì – kẽm Tùng Bá – Na Sơn bị sụt lún rất nặng nề. Hai bên đường là hai vệt sâu hoắm của bánh xe. Tính đến nay, tuyến đường này đã phải gồng mình gánh những đoàn xe quá tải để chuyên chở trên 50.000 tấn quặng đã qua sơ chế để xuất khẩu qua Trung Quốc, chưa kể số lượng quặng thô.
Chủ tịch UBND xã Tùng Bá có trụ sở do công ty khai thác mỏ chì – kẽm xây tặng, ông Phạm Huy Trà, người duy nhất trong các chủ tịch xã ở Hà Giang mà phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị tiếp xúc, đòi phải có giấy giới thiệu của tỉnh mới trả lời và cung cấp số liệu cho báo chí, nói: “Thực ra, nền đường ở miền núi vốn yếu, nếu xe không lưu thông thì cũng hư lở do mưa…” Hiện tượng yếu nền này, có lẽ chỉ duy nhất có ở xã Tùng Bá.
Thông cáo Kết luận giám sát các dự án khoáng sản, thuỷ điện trên địa bàn tỉnh của HĐND tỉnh Hà Giang cũng nêu rõ: “Việc triển khai thực hiện hoạt động khai thác khoáng sản, đầu tư xây dựng thuỷ điện đã làm xuống cấp nghiêm trọng một số tuyến đường giao thông như các tuyến đường vào xã Khau Vai (huyện Mèo Vạc), xã Tùng Bá, xã Ngọc Minh (huyện Vị Xuyên), v.v. Do xe chở quặng, thiết bị, máy móc vật liệu xây dựng thuỷ điện có trọng tải lớn đi lại, vượt quá thiết kế của các tuyến đường”.
Xe của công ty Hùng Lâm đang khai thác đất chứa mangan lộ thiên và cày nát con đường vừa làm xong, còn đang trong hạn bảo hành. Ảnh: Trần Việt Đức |
Khai thác mỏ lấp đường!
Trong khi đó, tuyến đường giao thông huyết mạch vào xã Giáp Trung (từ thị trấn Yên Phú đi vào xã Giáp Trung chừng 9km), đường mới được làm nhưng đang trong tình trạng xuống cấp. Nhiều đoạn đường phủ đầy đất rơi vãi, và đất mỏ quặng do xí nghiệp cơ khí Hùng Lâm khai thác lộ thiên phía trên sườn núi làm rơi xuống. Cống rãnh dẫn nước bằng bêtông hoàn toàn bị vỡ hỏng, thay vào đó là những đoạn cống rãnh khoét đất, dã chiến.
“Nguy hiểm nhất là khi trời mưa, đất đá từ mỏ quặng này đổ xuống đường làm giao thông bị tắc nghẽn nhiều giờ đồng hồ. Xã không đủ thẩm quyền để bắt công ty khai thác xây lại như cũ khi khai thác xong. Mọi báo cáo của xã lên cấp trên đều đã gửi, nhưng chưa thấy có hồi báo về hiệu quả”, ông Nông Trọng Huấn, bí thư xã Giáp Trung, huyện Bắc Mê cho biết.
Ngoài ra, theo ông Triệu Văn Minh, chủ tịch xã Giáp Trung, huyện Bắc Mê, nơi có mỏ mangan lộ thiên: “Đường ở đây mới làm xong năm ngoái, năm nay hỏng hết mặc dầu vẫn còn trong hạn bảo hành”.
Quá nhiều xe Trung Quốc lưu thông vùng biên
Ông Lưu Tùng Giang, phó giám đốc sở Công thương tỉnh, nói: “Chúng tôi đi mới phát hiện ra chỗ nào cũng có xe Trung Quốc. Tôi tự hỏi tại sao xe Trung Quốc lại được vào những khu vực theo tôi nghĩ là không được phép. Ví dụ các vị trí biển treo, biển cấm, khu vực phân chia về an ninh quốc phòng là chắc chắn phải có chứ. Cứ thấy điểm mỏ là thấy xe Trung Quốc, mà không phải xe tải đâu nhé. Xe tải mà chở là thuộc quyền quản lý của doanh nghiệp, nhưng đây là xe của những người tham gia cũng được đi len lỏi trong những điểm khai thác mỏ này mà không ai kiểm soát”.
Sở Công thương đang kiến nghị với tỉnh Hà Giang vấn đề này, đặc biệt đây lại là tỉnh biên giới. Ông Giang giải thích thêm: “Chúng ta nên biết là quyền kiểm soát của chúng ta đối với xe Trung Quốc đến đâu, xem lại quy định là các xe đó có được phép vào hay không, hoặc xe tải thì phải chở theo lộ trình, đường, tuyến nào, hoặc là chở trong nội bộ mỏ thôi”. Ông lại nêu nan đề: “Điểm mỏ nào cũng có xe Trung Quốc vào được là một điều khó hiểu!”
Bảo vệ đường giao thông do vận chuyển sản phẩm, nhất là để hạ giá thành, những chuyến vận chuyển phần lớn là quá tải đối với đường đèo, đối với các khúc cua cánh chỏ, cầu cống, đáng lý phải nằm trong đánh giá tác động môi trường, nhất là các tuyến đường do “cha chung” đầu tư. Nhưng rõ ràng, việc đó đã không được đưa vào mà chỉ mới nằm trong kiến nghị của HĐND trong thông cáo Kết luận giám sát các dự án khoáng sản, thuỷ điện trên địa bàn tỉnh của HĐND tỉnh Hà Giang vào tháng 5 vừa qua. (còn tiếp)
Công Khanh – Văn Quý
Bài cuối: Không có chọn lựa nào khác!
SGTT.VN - Hà Giang đặt ra mục tiêu công nghiệp hoá của mình là khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú của tỉnh. Ở vùng biên giới nghèo vốn và nghèo công nghệ này, việc hợp tác với Trung Quốc để thủ đắc công nghệ khai khoáng là một chọn lựa tốt nhất và có vẻ như duy nhất vì họ bao tiêu khoáng sản đã qua sơ chế.
Nhà máy sơ chế mangan ở Giáp Trung, Bắc Mê, Hà Giang giống như lưỡi gươm Damocles trên đầu cư dân thị trấn Yên Phú và xã Giáp Trung vì chất thải đổ xuống các dòng suối chảy ra sông Gâm. Ảnh: Trần Việt Đức |
Có nhà máy, không có quặng
Một buổi trưa nắng cháy trên cao nguyên huyện Mèo Vạc, ở ngay lối vào xã Khau Vai, nơi từng có những phiên chợ diễm tình nhất, bảng chỉ báo dẫn vào nhà máy tuyển luyện antimon bằng hai thứ tiếng – Việt và Hoa – hiện ra. Cách đó chừng năm trăm thước là cổng vào nhà máy. Bên trong mọi thứ đều im ắng.
Ở ngay điểm mỏ, trên con đường liên xã đang được mở, theo một cán bộ phòng tài nguyên và môi trường Mèo Vạc, đó là tuyến đường đang được mở để đi Cao Bằng, những chiếc máy cạp của công ty Hoa Cương nằm gục đầu dưới cái nắng cuối tháng 7 và bụi bốc lên mỗi khi có xe đi qua.
Theo sở Công thương tỉnh Hà Giang, ở đây, Trung Quốc đã thăm dò, đánh giá trữ lượng và quyết định xây dựng nhà máy mất khoảng 30 tỉ đồng, đúng tiến độ là tháng 9 năm ngoái đưa vào khai thác sử dụng, nhưng đến bây giờ vẫn đang thất nghiệp.
Phía Trung Quốc thông báo cho sở Công thương tỉnh là nhà máy xây dựng xong thì tuyển quặng không đạt tiêu chuẩn sản phẩm là 99,99% mà chỉ đạt 99,97% là cao nhất và nhất là chỉ tìm thấy quặng ở độ sâu hàng mấy chục mét. Ông Lưu Tùng Giang, phó giám đốc sở Công thương Hà Giang cũng không lý giải được chuyện lạ lùng của việc thăm dò đánh giá và đầu tư này.
Công nhân Trung Quốc chuyên trị khai thác độ sâu
Những khi khai thác ở độ sâu theo kỹ thuật khai thác đường hầm thì các công ty chỉ sử dụng công nhân Trung Quốc. Nguyên nhân là công nhân Việt Nam không đủ sức để làm. Cụ thể, ba công nhân Trung Quốc một ngày có thể đào được 5m đường hầm, còn ba công nhân Việt Nam một ngày chỉ đào được 1m vì hay cãi nhau.
Thế nhưng đường hầm đó họ đào tới đâu, không ai quản lý, ông Lưu Tùng Giang phân tích. Phía Việt Nam đã yêu cầu đối tác phải vẽ sơ đồ, hệ thống tuyến đường hầm vào thân quặng. Trong bảy doanh nghiệp liên doanh loại này thì ba doanh nghiệp đã đi vào khai thác và đều sử dụng công nhân Trung Quốc đào hầm.
Ông Lưu Tùng Giang đặt vấn đề: “Các doanh nghiệp gọi đây là công nghệ khai thác hầm lò, nhưng quá trình khai thác hầm lò không có kiểm soát. Nếu tuyến hầm lò này chạy vào các điểm quan trọng về an ninh quốc phòng thì sao?”
Liên doanh thua trên sân nhà
Nói về liên doanh, ông Lưu Tùng Giang càng bức xúc hơn: khoáng sản do mình quản lý, địa bàn, đất đai, pháp lý ở đất Hà Giang là của Việt Nam, nhưng chỉ vì không có tiền để đầu tư nhà máy, nhưng lại phải tuân thủ chuyện làm ăn theo luật quốc tế, do đã lỡ ký kết những khoản rất ư sơ hở mà không nhìn thấy ngay từ đầu, nên phải chịu thua trên sân nhà.
Từ đầu tháng 3 vừa qua, sau một đợt kiểm tra, có một số doanh nghiệp liên doanh Trung Quốc chưa thành lập văn phòng đại diện, cho nên nghĩa vụ và trách nhiệm của họ ở Việt Nam không có gì ràng buộc, trong khi đó thì doanh nghiệp đối tác trong nước lại bao thầu mọi thủ tục.
Ông Lưu Tùng Giang nói: “Chúng tôi đang kiến nghị UBND tỉnh là các doanh nghiệp ở nước ngoài đầu tư tại Hà Giang phải thành lập văn phòng đại diện như công ty hữu hạn khoáng nghiệp Tân Nguyên (Vân Nam, Trung Quốc), công ty hữu hạn công mậu hàng thuỵ An Ninh (Trung Quốc), công ty hữu hạn phát triển khoáng sản luyện kim Tuấn Đạt (Quảng Đông, Trung Quốc), công ty TNHH đầu tư Lucky Star (Hong Kong, Trung Quốc).
Một cái bẫy mà doanh nghiệp Việt Nam thường rơi vào vì tưởng mình lợi hơn: khi ký hợp đồng tỷ lệ góp vốn bên Việt Nam ghi là 30%, còn Trung Quốc 70% và việc hưởng lợi là chia đều 50/50. Điều này theo luật là sai, vì góp như thế nào thì được hưởng lợi như thế đó.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp chỉ nói là góp bằng nhà máy, không biết giá trị nhà máy là bao nhiêu và không có cơ sở khấu hao, do đó sau mười năm thi công thì nhà máy đó vẫn là nhà máy không có khấu hao thì đương nhiên doanh nghiệp nước ngoài đầu tư được hưởng nguyên cái giá trị của nhà máy này.
Trong trường hợp có mâu thuẫn lợi ích phát sinh dẫn đến ra toà, những hợp đồng mơ hồ kiểu này coi như đối tác Việt Nam thua chắc, nhưng dường như doanh nghiệp Việt Nam chưa thấy hết được vấn đề này.
Những đứa trẻ đi mót quặng ở Mậu Duệ, Yên Minh, Hà Giang, trên đường về nhà sau khi bán số quặng mót được. Ảnh: Trần Việt Đức |
Công nghệ lạc hậu
Để khai thác triệt để nguồn tài nguyên và kiểm soát tốt nguồn thu thuế, nên quy trình đòi hỏi trước khi khai thác phải kiểm tra trữ lượng, hàm lượng, và lượng chất thải ra.
Rõ ràng công nghệ cũ thì lượng phần trăm kim loại dư ra rất nhiều, thường thì chỉ cho phép lượng kim loại dư ra là 3%, nhưng nếu công nghệ cũ thì tỷ lệ này cao hơn. Việc đánh giá này để buộc các doanh nghiệp phải sử dụng công nghệ hiện đại, vì chất thải đổ ra thì chắc chắn sẽ có phần trăm lưu huỳnh, carbon và các chất thải khác.
Nhưng qua những đánh giá tác động môi trường như báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) trong việc khai thác mangan của hai công ty khác nhau ở huyện Bắc Mê (Hà Giang) thì tuy hội đồng đánh giá toàn là những giáo sư, chuyên gia nặng cân và những bản báo cáo dày hàng trăm trang của các đơn vị tư vấn và làm báo cáo ĐTM này gần như sao chép lẫn nhau.
Ví dụ như báo cáo ĐTM của công ty TNHH Kiên Cường (mỏ mangan Bản Sáp, xã Yên Phú, huyện Bắc Mê và báo cáo ĐTM của xí nghiệp xây lắp Hùng Lâm (mỏ mangan xã Yên Phú, huyện Bắc Mê) thì đều cam kết bảo vệ môi trường như việc xả thải đúng quy định, kết thúc khai thác sẽ phục hồi môi trường…
Công Khanh – Văn Quý
Lao động Trung Quốc đang làm việc tại các điểm mỏ - Dự án hợp tác kinh doanh giữa công ty TNHH Đức Sơn (Việt Nam) và công ty hữu hạn khoáng nghiệp Tân Nguyên (Trung Quốc): có 136 lao động, trong đó có 20 lao động người Trung Quốc (mới làm thủ tục cấp phép lao động cho 14 người, còn sáu người chưa được cấp phép lao động). - Dự án hợp tác kinh doanh giữa công ty TNHH Minh Tiến (Việt Nam) và công ty hữu hạn công mậu hàng thuỵ An Ninh (Trung Quốc): có 15 lao động, trong đó có sáu lao động người Trung Quốc đều chưa làm thủ tục xin cấp phép lao động. - Dự án hợp tác kinh doanh giữa công ty cổ phần tập đoàn Hoàng Bách (Việt Nam) và công ty hữu hạn phát triển khoáng sản luyện kim Tuấn Đạt (Trung Quốc): có 240 lao động, trong đó có 50 lao động người Trung Quốc. - Dự án hợp tác giữa công ty TNHH Đường Hồng (Việt Nam) và công ty TNHH đầu tư Lucky Star (Trung Quốc): năm 2010 có sử dụng chín lao động, trong đó có ba lao động người Trung Quốc đã báo cáo cơ quan chức năng. - Dự án hợp tác giữa công ty cổ phần phát triển khoáng sản quốc tế VCC Hà Giang (Việt Nam) và công ty xuất nhập khẩu Hoa Long (Trung Quốc): đến tháng 6.2010 có 60 lao động, trong đó có bốn lao động người Trung Quốc chưa được cấp phép lao động theo quy định của Việt Nam. - Dự án hợp tác giữa công ty TNHH Vận Thiên (Việt Nam) và công ty xuất nhập khẩu Hoa Long (Trung Quốc): ký hợp đồng lao động với 32 người Việt Nam, còn 20 lao động người Trung Quốc đang được sử dụng tại mỏ chì kẽm Bản Lý chưa báo cáo và làm thủ tục cấp phép theo quy định của Việt Nam. |
Mẫu số chung của các công ty liên doanh Trung Quốc: - Chưa/không thành lập văn phòng đại diện; - Chưa thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn lao động; - Chưa thực hiện đầy đủ các quy định về pháp luật lao động, thủ tục đăng ký lao động nước ngoài; - Chưa thực hiện các quy định bảo hộ và bảo hiểm cho người lao động; - Chưa đóng đủ thuế và phí đối với sản lượng đã khai thác thực tế; - Chưa có kế hoạch lập đầy đủ đánh giá tác động môi trường; - Gây hư hại đường sá nghiêm trọng. Nguồn: văn bản số 89/BC-SCT (17.6.2011) báo cáo kết quả kiểm tra các hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản có liên doanh, liên kết với nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hà Giang |
-Hà Giang: Trung Quốc khai khoáng hay làm gì khác nữa?
SGTT.VN - Hà Giang đặt ra mục tiêu công nghiệp hoá của mình là khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú của tỉnh. Ở vùng biên giới nghèo vốn và nghèo công nghệ này, việc hợp tác với Trung Quốc để thủ đắc công nghệ khai khoáng là một chọn lựa tốt nhất và có vẻ như duy nhất vì họ bao tiêu khoáng sản đã qua sơ chế.
Nhà máy sơ chế mangan ở Giáp Trung, Bắc Mê, Hà Giang giống như lưỡi gươm Damocles trên đầu cư dân thị trấn Yên Phú và xã Giáp Trung vì chất thải đổ xuống các dòng suối chảy ra sông Gâm. Ảnh: Trần Việt Đức |
Có nhà máy, không có quặng
Một buổi trưa nắng cháy trên cao nguyên huyện Mèo Vạc, ở ngay lối vào xã Khau Vai, nơi từng có những phiên chợ diễm tình nhất, bảng chỉ báo dẫn vào nhà máy tuyển luyện antimon bằng hai thứ tiếng – Việt và Hoa – hiện ra. Cách đó chừng năm trăm thước là cổng vào nhà máy. Bên trong mọi thứ đều im ắng.
Ở ngay điểm mỏ, trên con đường liên xã đang được mở, theo một cán bộ phòng tài nguyên và môi trường Mèo Vạc, đó là tuyến đường đang được mở để đi Cao Bằng, những chiếc máy cạp của công ty Hoa Cương nằm gục đầu dưới cái nắng cuối tháng 7 và bụi bốc lên mỗi khi có xe đi qua.
Theo sở Công thương tỉnh Hà Giang, ở đây, Trung Quốc đã thăm dò, đánh giá trữ lượng và quyết định xây dựng nhà máy mất khoảng 30 tỉ đồng, đúng tiến độ là tháng 9 năm ngoái đưa vào khai thác sử dụng, nhưng đến bây giờ vẫn đang thất nghiệp.
Phía Trung Quốc thông báo cho sở Công thương tỉnh là nhà máy xây dựng xong thì tuyển quặng không đạt tiêu chuẩn sản phẩm là 99,99% mà chỉ đạt 99,97% là cao nhất và nhất là chỉ tìm thấy quặng ở độ sâu hàng mấy chục mét. Ông Lưu Tùng Giang, phó giám đốc sở Công thương Hà Giang cũng không lý giải được chuyện lạ lùng của việc thăm dò đánh giá và đầu tư này.
Công nhân Trung Quốc chuyên trị khai thác độ sâu
Những khi khai thác ở độ sâu theo kỹ thuật khai thác đường hầm thì các công ty chỉ sử dụng công nhân Trung Quốc. Nguyên nhân là công nhân Việt Nam không đủ sức để làm. Cụ thể, ba công nhân Trung Quốc một ngày có thể đào được 5m đường hầm, còn ba công nhân Việt Nam một ngày chỉ đào được 1m vì hay cãi nhau.
Thế nhưng đường hầm đó họ đào tới đâu, không ai quản lý, ông Lưu Tùng Giang phân tích. Phía Việt Nam đã yêu cầu đối tác phải vẽ sơ đồ, hệ thống tuyến đường hầm vào thân quặng. Trong bảy doanh nghiệp liên doanh loại này thì ba doanh nghiệp đã đi vào khai thác và đều sử dụng công nhân Trung Quốc đào hầm.
Ông Lưu Tùng Giang đặt vấn đề: “Các doanh nghiệp gọi đây là công nghệ khai thác hầm lò, nhưng quá trình khai thác hầm lò không có kiểm soát. Nếu tuyến hầm lò này chạy vào các điểm quan trọng về an ninh quốc phòng thì sao?”
Liên doanh thua trên sân nhà
Nói về liên doanh, ông Lưu Tùng Giang càng bức xúc hơn: khoáng sản do mình quản lý, địa bàn, đất đai, pháp lý ở đất Hà Giang là của Việt Nam, nhưng chỉ vì không có tiền để đầu tư nhà máy, nhưng lại phải tuân thủ chuyện làm ăn theo luật quốc tế, do đã lỡ ký kết những khoản rất ư sơ hở mà không nhìn thấy ngay từ đầu, nên phải chịu thua trên sân nhà.
Từ đầu tháng 3 vừa qua, sau một đợt kiểm tra, có một số doanh nghiệp liên doanh Trung Quốc chưa thành lập văn phòng đại diện, cho nên nghĩa vụ và trách nhiệm của họ ở Việt Nam không có gì ràng buộc, trong khi đó thì doanh nghiệp đối tác trong nước lại bao thầu mọi thủ tục.
Ông Lưu Tùng Giang nói: “Chúng tôi đang kiến nghị UBND tỉnh là các doanh nghiệp ở nước ngoài đầu tư tại Hà Giang phải thành lập văn phòng đại diện như công ty hữu hạn khoáng nghiệp Tân Nguyên (Vân Nam, Trung Quốc), công ty hữu hạn công mậu hàng thuỵ An Ninh (Trung Quốc), công ty hữu hạn phát triển khoáng sản luyện kim Tuấn Đạt (Quảng Đông, Trung Quốc), công ty TNHH đầu tư Lucky Star (Hong Kong, Trung Quốc).
Một cái bẫy mà doanh nghiệp Việt Nam thường rơi vào vì tưởng mình lợi hơn: khi ký hợp đồng tỷ lệ góp vốn bên Việt Nam ghi là 30%, còn Trung Quốc 70% và việc hưởng lợi là chia đều 50/50. Điều này theo luật là sai, vì góp như thế nào thì được hưởng lợi như thế đó.
Ngoài ra, một số doanh nghiệp chỉ nói là góp bằng nhà máy, không biết giá trị nhà máy là bao nhiêu và không có cơ sở khấu hao, do đó sau mười năm thi công thì nhà máy đó vẫn là nhà máy không có khấu hao thì đương nhiên doanh nghiệp nước ngoài đầu tư được hưởng nguyên cái giá trị của nhà máy này.
Trong trường hợp có mâu thuẫn lợi ích phát sinh dẫn đến ra toà, những hợp đồng mơ hồ kiểu này coi như đối tác Việt Nam thua chắc, nhưng dường như doanh nghiệp Việt Nam chưa thấy hết được vấn đề này.
Những đứa trẻ đi mót quặng ở Mậu Duệ, Yên Minh, Hà Giang, trên đường về nhà sau khi bán số quặng mót được. Ảnh: Trần Việt Đức |
Công nghệ lạc hậu
Để khai thác triệt để nguồn tài nguyên và kiểm soát tốt nguồn thu thuế, nên quy trình đòi hỏi trước khi khai thác phải kiểm tra trữ lượng, hàm lượng, và lượng chất thải ra.
Rõ ràng công nghệ cũ thì lượng phần trăm kim loại dư ra rất nhiều, thường thì chỉ cho phép lượng kim loại dư ra là 3%, nhưng nếu công nghệ cũ thì tỷ lệ này cao hơn. Việc đánh giá này để buộc các doanh nghiệp phải sử dụng công nghệ hiện đại, vì chất thải đổ ra thì chắc chắn sẽ có phần trăm lưu huỳnh, carbon và các chất thải khác.
Nhưng qua những đánh giá tác động môi trường như báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) trong việc khai thác mangan của hai công ty khác nhau ở huyện Bắc Mê (Hà Giang) thì tuy hội đồng đánh giá toàn là những giáo sư, chuyên gia nặng cân và những bản báo cáo dày hàng trăm trang của các đơn vị tư vấn và làm báo cáo ĐTM này gần như sao chép lẫn nhau.
Ví dụ như báo cáo ĐTM của công ty TNHH Kiên Cường (mỏ mangan Bản Sáp, xã Yên Phú, huyện Bắc Mê và báo cáo ĐTM của xí nghiệp xây lắp Hùng Lâm (mỏ mangan xã Yên Phú, huyện Bắc Mê) thì đều cam kết bảo vệ môi trường như việc xả thải đúng quy định, kết thúc khai thác sẽ phục hồi môi trường…
Công Khanh – Văn Quý
Lao động Trung Quốc đang làm việc tại các điểm mỏ - Dự án hợp tác kinh doanh giữa công ty TNHH Đức Sơn (Việt Nam) và công ty hữu hạn khoáng nghiệp Tân Nguyên (Trung Quốc): có 136 lao động, trong đó có 20 lao động người Trung Quốc (mới làm thủ tục cấp phép lao động cho 14 người, còn sáu người chưa được cấp phép lao động). - Dự án hợp tác kinh doanh giữa công ty TNHH Minh Tiến (Việt Nam) và công ty hữu hạn công mậu hàng thuỵ An Ninh (Trung Quốc): có 15 lao động, trong đó có sáu lao động người Trung Quốc đều chưa làm thủ tục xin cấp phép lao động. - Dự án hợp tác kinh doanh giữa công ty cổ phần tập đoàn Hoàng Bách (Việt Nam) và công ty hữu hạn phát triển khoáng sản luyện kim Tuấn Đạt (Trung Quốc): có 240 lao động, trong đó có 50 lao động người Trung Quốc. - Dự án hợp tác giữa công ty TNHH Đường Hồng (Việt Nam) và công ty TNHH đầu tư Lucky Star (Trung Quốc): năm 2010 có sử dụng chín lao động, trong đó có ba lao động người Trung Quốc đã báo cáo cơ quan chức năng. - Dự án hợp tác giữa công ty cổ phần phát triển khoáng sản quốc tế VCC Hà Giang (Việt Nam) và công ty xuất nhập khẩu Hoa Long (Trung Quốc): đến tháng 6.2010 có 60 lao động, trong đó có bốn lao động người Trung Quốc chưa được cấp phép lao động theo quy định của Việt Nam. - Dự án hợp tác giữa công ty TNHH Vận Thiên (Việt Nam) và công ty xuất nhập khẩu Hoa Long (Trung Quốc): ký hợp đồng lao động với 32 người Việt Nam, còn 20 lao động người Trung Quốc đang được sử dụng tại mỏ chì kẽm Bản Lý chưa báo cáo và làm thủ tục cấp phép theo quy định của Việt Nam. |
Mẫu số chung của các công ty liên doanh Trung Quốc: - Chưa/không thành lập văn phòng đại diện; - Chưa thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn lao động; - Chưa thực hiện đầy đủ các quy định về pháp luật lao động, thủ tục đăng ký lao động nước ngoài; - Chưa thực hiện các quy định bảo hộ và bảo hiểm cho người lao động; - Chưa đóng đủ thuế và phí đối với sản lượng đã khai thác thực tế; - Chưa có kế hoạch lập đầy đủ đánh giá tác động môi trường; - Gây hư hại đường sá nghiêm trọng. Nguồn: văn bản số 89/BC-SCT (17.6.2011) báo cáo kết quả kiểm tra các hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản có liên doanh, liên kết với nước ngoài trên địa bàn tỉnh Hà Giang |