Tại Hội nghị lần thứ XIX Đảng Cộng sản Liên Xô (CPSU), tháng 6 năm 1988, Nhà văn Iurii Bondarev đã đăng đàn với bài phát biểu đầy nhiệt huyết kêu gọi bảo vệ hệ thống chính quyền Xô Viết và tuyên bố rằng chế độ dân chủ “đã từng tạo ra những mối nguy hiểm chết người cho những người có khả năng sáng tạo thiên phú kể từ khi các quan tòa trong thành bang Athens dân chủ kết án tử hình Socrates” [1] . Đấy là Bondarev thay mặt cho một nhóm các nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật xuất hiện vào năm 1987 như là trung tâm của phe phản đối các cải cách của Gorbachev. Để biện hộ cho thái độ của mình, những người này nói rằng Liên Xô sau khi cải tổ, cũng như các nền dân chủ phương Tây, không thể tạo điều kiện cho văn học nghệ thuật phát triển như chính quyền Xô viết đã từng làm.
Những người phản đối công khai công cuộc cải cách của Gorbachev đang nắm giữ các vị trí lãnh đạo cao nhất trong bốn “Hội sáng tạo” lúc đó là Hội Nhà văn Liên Xô và Nhà văn Nga, Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô và Hội Nhạc sĩ Liên Xô. Các Hội văn học nghệ thuật Liên Xô (sau đây xin gọi tắt là Hội –ND) được thành lập vào các năm 1932-1934 để quản lí các hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và sau này vào năm 1958 có thêm Hội các nhà văn Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (RSFSR) nữa [2] . Các nhà lãnh đạo các Hội nói trên luôn luôn ca ngợi những đóng góp của các tổ chức này vào sự phát triển của nền văn học, nghệ thuật của Liên Xô và Nga. Điều đặc biệt là không chỉ những người phản đối các cuộc cải cách của Gorbachev mà ngay cả những nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật thuộc thành phần cải cách cũng ủng hộ việc bảo tồn các Hội khi Liên Xô bắt đầu tan rã. Rất ít hội viên các Hội này đồng ý với hai độc giả của tờ Văn hóa Xô viết (Sovetskaia Cultura) khi họ, trong bức thư đề ngày 7 tháng 6 năm 1988, kêu gọi giải tán Hội Nhà văn Liên Xô vì nó phản ánh “tinh thần và lời văn của chủ nghĩa độc tài Stalinist”.
Thái độ phê phán mạnh mẽ của rất nhiều nhà lãnh đạo các Hội đối với công cuộc cải cách dân chủ hóa của Gorbachev và việc bảo vệ các Hội này với tư cách là một thiết chế của rất nhiều hội viên thường, trong đó có cả những nhà cải cách, chứng tỏ rằng việc phân đôi một cách giản đơn thành lực lượng tri thức thụ động chống lại chế độ đàn áp chưa phải là công cụ thỏa đáng để phân tích tương quan giữa nhà nước đảng trị Xô Viết và các văn nghệ sĩ [3] . Trong một thời gian dài, một số nhà nghiên cứu đã thảo luận về việc trong thực tế các nhà hoạt động lỗi lạc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành đời sống văn hoá Xô Viết. Hơn nữa, khi nói về giai đoạn những năm 1930, Sheila Fitzpatrick đã cho rằng ban lãnh đạo tối cao của Đảng và các viên chức nhà nước đã hành động như là các ông chủ của các văn nghệ sĩ và các trí thức văn nghệ sĩ là tầng lớp đặc quyền đặc lợi trong xã hội. Các Hội văn học nghệ thuật chính là cơ sở cho việc phân phối những đặc quyền đặc lợi đó [4] .
Bài báo này nhằm làm rõ nguyên nhân vì sao một bộ phận các nhà lãnh đạo các Hội lại phản đối một cách quyết liệt công cuộc cải cách của Gorbachev, đặc biệt là sự bảo vệ một cách không úp mở hệ thống do Stalin đặt ra, trong khi hệ thống này đã bị các phương tiện thông tin đại chúng có nhiều ảnh hưởng và chính Tổng bí thư Đảng công khai tấn công. Đặc biệt là một số nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật bảo thủ còn nhớ tiếc những năm tháng sau chiến tranh. Trong giai đoạn công khai hóa (glasnost), các phương tiện thông tin đại chúng theo xu hướng tự do đã mô tả những năm đó như là thời của những chiến dịch tư tưởng có tính cách phá hoại trong lĩnh vực văn học nghệ thuật (gọi là Zhdanovshina – theo tên của nhà hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng Zhdanov-ND) và cuộc tấn công vào “các nhà theo chủ nghĩa thế giới (cosmopolitan) mất gốc”. Nhưng các nhà lãnh đạo các Hội có lí do để coi giai đoạn đó là thời kì vàng son của họ. Cuối những năm 1940 đầu những năm 1950 họ đã hoàn thành việc chiếm đoạt được quyền lực rộng lớn chưa từng có, kể cả việc kiểm soát một cách chặt chẽ việc sản xuất và phân phối cũng như trả thù lao cho những tác phẩm văn học và nghệ thuật. Bên cạnh việc tăng cường vai trò kiểm soát của họ đối với nghề nghiệp là sự đảm bảo ngày càng vững chắc hơn vị trí của họ như là một nhóm có nhiều đặc quyền đặc lợi nhất trong xã hội Xô Viết về mặt vật chất. Trong giai đoạn này, “các đầu lĩnh văn hóa” đã giành được những quyền lực chưa từng có cả trong lĩnh vực tài chính lẫn nghề nghiệp so với những hội viên thường cùng lĩnh vực. Chính sự bất công trong việc phân chia quyền lực và quyền lợi vật chất giữa các văn nghệ sĩ chứ không phải việc đàn áp về chính trị và tư tưởng là nguyên nhân chính tạo ra sự bất mãn của một số hội viên Hội nhà văn, Hội nghệ sĩ tạo hình và Hội nhạc sĩ.
Bài này bắt đầu bằng việc phân tích hoạt động của các nhà lãnh đạo các Hội trong quá trình cải tổ (perestroika). Nó sẽ chỉ rõ các nhà lãnh đạo đã giành được quyền lực, cái quyền lực đang bị cuộc cải cách dân chủ hóa của Gorbachev đe dọa, bằng cách nào và vào lúc nào. Sau đó nó sẽ thảo luận một cách chi tiết ảnh hưởng của những thay đổi trong hoạt động của các Hội thời hậu chiến đối với quan điểm của tầng lớp văn nghệ sĩ Liên Xô về chế độ Xô Viết. Cuối cùng bài báo sẽ phân tích những nguyên nhân đằng sau chính sách của ban lãnh đạo chính trị đối với tầng lớp trí thức trong giai đoạn hậu chiến.
Lãnh đạo các Hội chống cải tổ
Cuộc họp vào tháng 3 năm 1987 của Ban Thư kí Ban Chấp hành Hội Nhà văn Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Nga (RSFSR) đã trở thành cuộc biểu dương lực lượng công khai của phe chống perestroika [5] . Những người tổ chức cuộc họp, Chủ tịch Hội Nhà văn Nga – Sergei Mikhalkov và Bondarev, người phó của ông ta, còn là thành viên Ban Thư kí Ban Chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, cơ quan quản lí chủ yếu của Hội từ năm 1946 [6] . (Năm 1990, Mikhalkov được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô, còn Bondarev được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Nga).
Sau đó nhóm nhà văn này cũng như một số nhà lãnh đạo các Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô, Hội Nhạc sĩ Liên Xô, kể cả nhà điêu khắc Viacheslav Klykov, nữ ca sĩ Liudmila Zykina và nhạc sĩ Tikhon Khrennikov đã đăng đàn phát biểu và công bố các bức thư trên các phương tiện truyền thông lên án mạnh mẽ perestroika. Năm 1990, khi tờ báo Literaturnaia gazeta, cơ quan ngôn luận chủ yếu của Hội cắt đứt các mối liên hệ với Hội, Ban Thư kí của Hội lập tức cho thành lập một tờ báo mới có thể phản ánh tốt hơn quan điểm của ban lãnh đạo Hội so với tờ Literaturnaia gazeta trong những năm vừa qua. Đấy là tờ Den (Ngày), những người biên tập tờ báo này đã coi nó là cơ quan “đối lập về mặt tinh thần” với chế độ của Gorbachev-Yeltsin [7] . Những nhà lãnh đạo các Hội văn học nghệ thuật công bố một loạt lời kêu gọi quân đội, KGB, “những người cộng sản chân chính” và những “người yêu nước khác” “bảo vệ” Liên Xô khỏi lực lượng chiếm đóng của chính quyền Gorbachev –Yentsin. Chiếm vị trí nổi bật là lời kêu gọi mang tên “Nói với nhân dân” (A Word to the People) công bố trên tờ Sovetskaia Rossia ngày 23 tháng 7 năm 1991. Lời kêu gọi cảnh báo rằng kẻ thù của nước Nga, những kẻ đang quì gối trước phương Tây, đã nắm được quyền lực ở Moskva, và kêu gọi các lực lượng yêu nước đứng lên bảo vệ tổ quốc. Các tác giả của “Nói với nhân dân” sau đó đã bị kiến trúc sư chính của chính sách công khai hoá (glasnost) là Aleksandr Yakovlev, uỷ viên Bộ Chính trị, kết án là đặt nền móng “tư tưởng cho cuộc bạo loạn (tháng 8 năm 1991) [8] . Sở dĩ họ bị kết án như thế là vì hai người kí tên trong đó đã tham gia vào Uỷ ban Khẩn cấp (Uỷ ban này đã bắt giam Gorbachev tại gia) và tài liệu mang tính cương lĩnh của Uỷ ban Khẩn cấp, gọi là Lời kêu gọi nhân dân Xô viết có nội dung giống hệt Nói với nhân dân. Hơn nữa, ngày 20 tháng 8, Ban Thư kí của Hội Nhà văn Liên Xô, đứng đầu là Mikhalkov, đã ủng hộ, dù chỉ bằng lời nói, Uỷ ban Khẩn cấp ngay tại thời điểm mà cơ may thành công của nó đã không còn [9] . Ngày 23 tháng 8 năm 1991, Mikhalkov, Aleksandr Prokhanov, Yurii Verchenko, Nikolai Gorbachev và những người lãnh đạo lão thành khác, những người đã kiểm soát Hội hàng chục năm liền, bị trục xuất ra khỏi ban thư kí vì đã đứng về phe “phiến loạn” [10] .
Mặc dù có một số người thuộc phe “đối lập về tinh thần” thực sự phản đối những cố gắng của Gorbachev trong việc đưa chế độ dân chủ và đa nguyên vào hệ thống chính trị Xô viết vì lí do tư tưởng, nhưng mối đe doạ đối với quyền lợi phe nhóm có vẻ như mới là động cơ chính. Trong lần biểu dương lực lượng đầu tiên vào tháng 3 năm 1987, Bondarev kêu gọi Ban Thư kí tung ra “trận chiến đấu Stalingrad” mới để chống lại công cuộc cải cách của Gorbachev, kẻ thù mà Bondarev cho là phải bị tiêu diệt là các biên tập viên của những tờ tạp chí văn học do Aleksandr Yakovlev bổ nhiệm, vì những người này không tiếp tục đăng sáng tác của Bondarev, Mikhalkov và những người khác nữa mà dành “đất” cho những nhà văn trước đây từng bị cấm đoán.
Một mối đe doạ khác của perestroika là những cuộc bầu cử có nhiều ứng viên. Từ năm 1934 trở đi, ban chấp hành các Hội được bầu một lượt bằng cách vỗ tay mà không có thảo luận gì cả. Sau đó ban chấp hành bầu chủ tịch đoàn và ban thư kí. Hệ thống đó làm cho những người lãnh đạo các Hội cảm thấy vị trí của mình được an toàn. Những cuộc bầu cử thật sự có thể phá vỡ sự an toàn đó. Tháng 5 năm 1988, Hội Điện ảnh Liên Xô tiến hành bầu Chủ tịch Hội với nhiều ứng cử viên; kết quả là nhà bất đồng chính kiến không chính thức, giám đốc một hãng phim là Elem Klimov đã chiến thắng Sergei Bondartruk, người vốn được Đảng ủng hộ. (Thực ra Hội Điện ảnh có hơi khác Hội Nhà văn, Hội Nghệ sĩ Tạo hình và Hội Nhạc sĩ. Hội này được thành lập trong giai đoạn tự do hoá của Nikita Khrushchev, năm 1965, nó không có hạt nhân theo chủ nghĩa Stalin trong ban lãnh đạo như các Hội kia, vốn là những Hội được thành lập từ những năm 30). Khác với Hội Điện ảnh, lãnh đạo của ba Hội kia đã vượt qua được thách thức của các cuộc bầu cử tự do, cho đến khi Liên Xô tan rã. Như đã nói ở trên, chỉ đến tháng 9 năm 1991 Mikhalkov mới mất chức chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô, và chủ tịch Hội Nhạc sĩ, ông Khrennikov, người đã giữ chức vụ này từ năm 1948 được bầu là đồng chủ tịch Hội vào tháng 3 năm 1991, lúc đó ông ta đã 78 tuổi [11] . Báo chí thời đó đã nói đến chuyện giả mạo kết quả bầu cử có lợi cho Khrennikov [12] . Mặc dù vậy nguy cơ mất địa vị vì các cuộc bầu cử tự do vẫn hiện diện và đấy chính là lí do để Bondarev tuyên bố rằng dân chủ là kẻ thù của những tài năng thực sự như đã được nhắc tới ngay ở đầu bài báo này.
Luật báo chí được ban hành vào năm 1990 lại là một đòn nữa giáng vào quyền lực của ban lãnh đạo các Hội Nhà văn. Luật này buộc tất cả các báo và tạp chí phải tái đăng kí với chính quyền địa phương và phải xác định rõ “sáng lập viên” (uchreditel). Tập thể những người lao động của các tạp chí có thể được đang kí như là “sáng lập viên”. Vấn đề sáng lập viên là rất quan trọng vì theo luật thì người sáng lập có quyền bổ nhiệm và bãi miễn tổng biên tập, có quyền xác định đường lối và kiểm soát lợi tức. Ngay khi luật được Quốc hội phê chuẩn, đa số các tờ báo và tạp chí, kể cả tờ Literaturnaia Gazeta, đã từ bỏ cơ quan chủ quản là Hội Nhà văn và tuyên bố rằng họ là những tổ chức độc lập, tập thể công nhân viên đứng ra đăng kí làm sáng lập viên. Phong trào này ảnh hưởng không chỉ với Hội Nhà văn mà còn tác động đến các tổ chức khác mà cho đến lúc đó vẫn kiểm soát một số tạp chí nữa. Nhưng chỉ có Hội Nhà văn là theo đuổi các vụ kiện đòi lại quyền sáng lập viên một cách quyết liệt mà thôi. (Cuối cùng Hội Nhà văn đã thua). Lãnh đạo Hội giải thích rằng họ làm như thế là vì sợ mất nguồn thu mà các tờ tạp chí này vẫn nộp cho Hội, cũng như không được đăng một cách thoải mái trên các tờ báo đó như từ trước đến nay họ vẫn làm [13] .
Mặc dù đôi khi những nhà lãnh đạo các Hội có công nhận rằng quyền lợi vật chất có ảnh hưởng nhất định đến thái độ đối của họ, nhưng họ thường nói rằng lí do về mặt tư tưởng là nguyên nhân chính dẫn đến sự phản đối các cuộc cải cách của Gorbachev. Trong quá trình chống đối perestroika, các nhà hoạt động văn hoá này còn tạo ra hệ tư tưởng riêng của mình. Thực ra cũng chẳng có gì mới. Bất chấp hình ảnh tiêu cực của Stalin cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, những người này không hề che giấu lòng trung thành của họ với chủ nghĩa Stalin. Tháng 8 năm 1991, mô tả quan điểm của tờ Den, Prokhanov đã nói rằng nó góp phần liên kết những người trung thành với chủ nghĩa Stalin [14] . Đặc biệt đáng chú ý là sự tương đồng của chiến dịch phê phán perestroika đao to búa lớn này với các chiến dịch vận động tư tưởng giai đoạn sau chiến tranh. Trên thực tế, giống như giai đoạn cuối của thời kì Stalin, việc phê bình Gorbachev cũng bắt đầu bằng việc lên án các địch thủ là theo “chủ nghĩa quốc tế (cosmopolitan) mất gốc”, kèm theo chủ nghĩa bài Do Thái và thái độ bài phương Tây một cách cuồng loạn và chủ nghĩa dân tộc Nga cực đoan, kể cả những lời tuyên bố rằng mọi thứ của Nga đều là tuyệt hảo, hơn hẳn của nước ngoài. Cũng như hồi cuối những năm 1940, đầu những năm 1950, từ “người yêu nước” (patriot) được dùng thường xuyên để chỉ “một người Nga chân chính”. Người Nga chân chính tương phản với “anti-patriot” (tạm dịch: không yêu nước) để chỉ người thân phương Tây, bị nghi là không phải Nga [15] .
Sự tương đồng giữa những lời tuyên bố của lãnh đạo các Hội với những chiến dịch chống những người theo chủ nghĩa thế giới do Stalin phát động hồi cuối những năm 1940, đầu những năm 1950 đã được ghi nhận [16] . Điều chưa được ghi nhận là những người lãnh đạo văn học nghệ thuật có lí do để tưởng nhớ ánh hào quang thời kì sau chiến tranh. Đấy chính là giai đoạn mà quyền lực của những người lãnh đạo các Hội được xác định một cách trọn vẹn. Quyền lực này đang bị đe doạ, và để bảo vệ quyền lực của mình những nhà lãnh đạo các Hội hướng về “cội nguồn” của họ là lẽ đương nhiên.
Giai đoạn hậu chiến và hoạt động của các văn nghệ sĩ
Các nhà nghiên cứu có xu hướng nhấn mạnh tầm quan trọng của những năm 1930 khi mà giới trí thức văn nghệ sĩ giành được vị trí đặc quyền đặc lợi. Tháng 4 năm 1932, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết “Về việc cải tổ các tổ chức trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật”, dẫn đến việc thành lập ba Hội là Hội Nhà văn, Hội Nghệ sĩ Tạo hình [17] và Hội Nhạc sĩ, là tổ chức hợp nhất của các nhóm văn nghệ sĩ khác nhau từng tồn tại cho đến bấy giờ. Từ đó trở đi, việc kiểm soát của Đảng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật được thực hiện chủ yếu thông qua các Hội. Mặc dù nghị quyết này nhắc nhở các nhà hoạt động trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ trách nhiệm phục vụ chế độ, nó cũng ngụ ý tôn trọng của lãnh đạo Đảng đối với văn hoá văn nghệ. Sau khi các Hội được thành lập, các văn nghệ sĩ bắt đầu nhận được thù lao cao hơn các thành phần khác trong xã hội. Fitzpatrick giả định rằng vào khoảng giữa những năm 1930, quyền có một đời sống sung túc (zazhitochnaia zhizn) được chính thức công nhận và ngay lập tức khái niệm có văn hoá (kulturnost) được đưa ra. Khái niệm này cho rằng người có học vấn cao sẽ có mức sống khá giả hơn, một mức sống mà trước đây bị kết án là “tư sản” [18] . Sự thay đổi về mặt tư tưởng như thế có ảnh hưởng ngay đến đời sống các văn nghệ sĩ Liên Xô. Trên thực tế, người thời đó ghi nhận sự thay đổi đột ngột mức sống trong nửa cuối những năm 1930. Những văn nghệ sĩ Nga vẫn giữ quan niệm coi thường các quyền lợi vật chất còn để lại cho chúng ta những tác phẩm chế giễu một cách không thương tiếc “tầng lớp trí thức Xô viết mới” và thái độ của họ đối với giá trị vật chất. Nadezhda Mandelshtam ghi trong hồi kí của bà rằng khi bà và chồng, nhà thơ Osip Mandelshatm “lên đường đi đày từ Moskva (1934), các nhà văn chưa phải là tầng lớp đặc quyền đặc lợi, nhưng nay (1937) họ đã bén rễ và tìm được cách giữ đặc quyền đặc lợi rồi”. Nhìn những căn hộ trong khu nhà mới xây dành riêng cho các nhà văn trên phố Lavrushinskii ở trung tâm Moskva, bà nhận xét rằng các nhà văn “đã trở nên phóng túng vì lần đầu tiên trong đời họ có nhiều tiền đến như thế” [19] . Có thể thấy thêm các ghi nhận của một người đương thời trong các tác phẩm của Mikhail Bulgakov như các tiểu thuyết The Master and Margarita và The Theatrical Novel.
Vì lí do khan hiếm, một người nằm trong danh sách được ưu đãi vì là thành phần của tầng lớp tri thức Xô viết không có nghĩa là anh ta nghiễm nhiên nhận được vật dụng và dịch vụ cần thiết. Pitzpatrick cho rằng cho đến cuối những năm 1930 đã hình thành hệ thống cấp bậc ưu tiên ưu đãi ngay trong tầng lớp tinh hoa trí thức. Nhưng bà đã không nói rõ cơ chế hình thành và hoạt động của hệ thống cấp bậc này. Một số nhà nghiên cứu khác đã làm rõ vấn đề bằng cách nói rằng trong giới văn nghệ sĩ, có một số người chiếm chỗ trong các cơ quan quản lí như ban chấp hành, chủ tịch đoàn, ban thư kí. Đấy là những người được hưởng bổng lộc chủ yếu trong hệ thống thù lao mới [20] .
Những điều trình bày ở trên tạo cho ta cảm giác rằng tầng lớp văn nghệ sĩ tinh hoa Xô viết đã trở thành đẳng cấp đặc quyền đặc lợi trong giai đoạn cuối những năm 1930 và những người lãnh đạo các Hội đã trở thành một nhóm nhỏ riêng biệt trong chính giai đoạn này. Như sẽ được chỉ ra sau đây, quan niệm như thế không hoàn toàn chính xác. Những năm sau chiến tranh là thời kì mà những nhà lãnh đạo các Hội và một số văn nghệ sĩ nổi tiếng được tham gia vào giới tinh hoa cao cấp nhất của đất nước, chứ không phải giai đoạn những năm 1930. Thời kì hậu chiến cũng là giai đoạn quyết định trong việc hình thành quan hệ một mặt là giữa lãnh đạo Đảng-nhà nước và lãnh đạo các Hội, và mặt khác là giữa lãnh đạo các Hội và các hội viên thường.
Các tài liệu của Hội đồng dân uỷ /Hội đồng bộ trưởng Liên Xô trong Văn khố quốc gia Cộng hoà Liên bang Nga cho thấy rõ sự biến đổi trong quan hệ giữa các quan chức của Đảng/nhà nước và các văn nghệ sĩ trong giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1953. Trước hết, các tài liệu này chứng tỏ rằng so với những năm 1930, sau chiến tranh quan hệ giữa các văn nghệ sĩ với những viên chức cấp cao của nhà Đảng/nhà nước đã có sự khác biệt đáng kể. Thứ hai, các tài liệu này chứng tỏ rằng hệ thống phân chia quyền lực và đặc quyền đặc lợi giữa hội viên các Hội, những đặc quyền đặc lợi hầu như giữ nguyên cho đến cuối những năm 1980, được hình thành vào cuối những năm 1940.
Đa số các tài liệu những năm 1930, nói đến việc “giúp đỡ về mặt vật chất” cho văn nghệ sĩ, chỉ rõ việc thiết lập các điều kiện thuận lợi cho việc sáng tác, nghỉ ngơi như câu lạc bộ, nhà an dưỡng, nhà ăn và trung tâm y tế cho các hội viên của các Hội vừa mới được thành lập [21] . Trong những năm 1930, ngay cả các văn nghệ sĩ đã thành danh ở Moskva có xu hướng gửi những yêu cầu xin giúp đỡ về vật chất cho ban chấp hành các Hội chứ không gửi trực tiếp cho các quan chức Đảng/nhà nước. Do đó, khi người ta xây dựng nhà nghỉ cho các nhà văn ở Peredelkino, ngoại ô Moskva, một số nhà văn như Marieta Shaginian và Vladimir Zazubrin đã xây những ngôi nhà to hơn so với mức của chính phủ cho phép, họ đã vận động lãnh đạo Hội nhà văn thanh toán số tiền chênh lệch. Họ hi vọng rằng lãnh đạo Hội sẽ xin Hội đồng dân uỷ tài trợ thêm để hoàn thành công trình. Nhưng lãnh đạo Hội không chấp nhận lời đề nghị và cho rằng họ phải tự trả số tiền phụ trội [22] . Chỉ hãn hữu mới có văn nghệ sĩ xin trợ giúp về vật chất trực tiếp từ các quan chức Đảng/nhà nước mà không thông qua các Hội. Thường thường những nhà lãnh đạo các thiết chế văn hoá là những người đề đạt các yêu cầu lên các cấp lãnh đạo tối cao, đặc biệt là với Viacheslav Molotov khi ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng dân uỷ, những người như thế được Fitapatrick gọi là “những kẻ môi giới” (broker) quyền lợi cho thuộc cấp [23] . Nói chung, so với quá khứ thì những năm 1930 là giai đoạn diễn ra sự mở rộng đáng kể những dịch vụ và điều kiện làm việc mà về mặt lí thuyết tất cả các hội viên đều có quyền sử dụng. Trong giới văn nghệ sĩ, hệ thống cấp bậc ưu tiên ưu đãi mới bắt đầu xuất hiện.
Cuối những năm 1930, Dân uỷ tài chính Liên Xô cố gắng đặt ra giới hạn chi tiêu của các Hội. Hầu như không bao giờ Dân uỷ đáp ứng hoàn toàn các đòi hỏi của Hội trong việc tài trợ. Năm 1938 cơ quan này đã cố gắng, tuy không thành công, chuyển trách nhiệm tài trợ các hội nhà văn địa phương từ chính quyền địa phương và nước cộng hoà sang cho Quĩ văn học của Hội Nhà văn Liên Xô; cùng năm đó, cơ quan này còn từ chối tài trợ cho Hội Nhà văn nếu Hội đồng dân uỷ không tái khẳng định nghị quyết tháng 9 năm 1934 về việc tài trợ cho Hội từ ngân sách quốc gia [24] . Trong giai đoạn chiến tranh, các Hội ít đòi hỏi và những đòi hỏi thường khiêm tốn, thí dụ phương tiện để khôi phục lại các nhà hát, viện bảo tàng, thư viện bị phá huỷ [25] .
Giai đoạn từ năm 1946 đến khi Stalin chết vào năm 1953 được mô tả trong các tác phẩm nghiên cứu như là giai đoạn “chứng kiến sự đánh mất không gian sáng tạo mà các nhà văn đã giành được trong thời kì chiến tranh” [26] , “giai đoạn can thiệp một cách thô bạo nhất của nhà nước vào lĩnh vực khoa học và nghệ thuật” [27] . Nhưng các tài liệu về lĩnh vực văn hoá của Hội đồng dân uỷ /Hội đồng bộ trưởng Liên Xô trong Văn khố quốc gia Cộng hoà Liên bang Nga cho thấy rằng chiến dịch nhằm thắt chặt sự kiểm soát về mặt tư tưởng đối với trí thức không phải là xu hướng duy nhất trong quan hệ giữa Đảng/nhà nước đối với văn nghệ sĩ lúc đó. Giai đoạn này còn chứng kiến việc các văn nghệ sĩ gia tăng yêu cầu, so với những năm 1930 và những năm chiến tranh, Đảng/nhà nước cung cấp cho họ những ưu tiên, ưu đãi khác nhau. Quan trọng hơn là các nhà lãnh đạo của các Hội tìm cách mở rộng quyền lực của họ trong hoạt động của Hội và nghịch lí là họ còn tìm cách củng cố sự độc lập đối với Đảng/nhà nước.
Còn 1 kì nữa.
Những người phản đối công khai công cuộc cải cách của Gorbachev đang nắm giữ các vị trí lãnh đạo cao nhất trong bốn “Hội sáng tạo” lúc đó là Hội Nhà văn Liên Xô và Nhà văn Nga, Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô và Hội Nhạc sĩ Liên Xô. Các Hội văn học nghệ thuật Liên Xô (sau đây xin gọi tắt là Hội –ND) được thành lập vào các năm 1932-1934 để quản lí các hoạt động trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và sau này vào năm 1958 có thêm Hội các nhà văn Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (RSFSR) nữa [2] . Các nhà lãnh đạo các Hội nói trên luôn luôn ca ngợi những đóng góp của các tổ chức này vào sự phát triển của nền văn học, nghệ thuật của Liên Xô và Nga. Điều đặc biệt là không chỉ những người phản đối các cuộc cải cách của Gorbachev mà ngay cả những nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật thuộc thành phần cải cách cũng ủng hộ việc bảo tồn các Hội khi Liên Xô bắt đầu tan rã. Rất ít hội viên các Hội này đồng ý với hai độc giả của tờ Văn hóa Xô viết (Sovetskaia Cultura) khi họ, trong bức thư đề ngày 7 tháng 6 năm 1988, kêu gọi giải tán Hội Nhà văn Liên Xô vì nó phản ánh “tinh thần và lời văn của chủ nghĩa độc tài Stalinist”.
Thái độ phê phán mạnh mẽ của rất nhiều nhà lãnh đạo các Hội đối với công cuộc cải cách dân chủ hóa của Gorbachev và việc bảo vệ các Hội này với tư cách là một thiết chế của rất nhiều hội viên thường, trong đó có cả những nhà cải cách, chứng tỏ rằng việc phân đôi một cách giản đơn thành lực lượng tri thức thụ động chống lại chế độ đàn áp chưa phải là công cụ thỏa đáng để phân tích tương quan giữa nhà nước đảng trị Xô Viết và các văn nghệ sĩ [3] . Trong một thời gian dài, một số nhà nghiên cứu đã thảo luận về việc trong thực tế các nhà hoạt động lỗi lạc trong lĩnh vực văn học nghệ thuật đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành đời sống văn hoá Xô Viết. Hơn nữa, khi nói về giai đoạn những năm 1930, Sheila Fitzpatrick đã cho rằng ban lãnh đạo tối cao của Đảng và các viên chức nhà nước đã hành động như là các ông chủ của các văn nghệ sĩ và các trí thức văn nghệ sĩ là tầng lớp đặc quyền đặc lợi trong xã hội. Các Hội văn học nghệ thuật chính là cơ sở cho việc phân phối những đặc quyền đặc lợi đó [4] .
Bài báo này nhằm làm rõ nguyên nhân vì sao một bộ phận các nhà lãnh đạo các Hội lại phản đối một cách quyết liệt công cuộc cải cách của Gorbachev, đặc biệt là sự bảo vệ một cách không úp mở hệ thống do Stalin đặt ra, trong khi hệ thống này đã bị các phương tiện thông tin đại chúng có nhiều ảnh hưởng và chính Tổng bí thư Đảng công khai tấn công. Đặc biệt là một số nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật bảo thủ còn nhớ tiếc những năm tháng sau chiến tranh. Trong giai đoạn công khai hóa (glasnost), các phương tiện thông tin đại chúng theo xu hướng tự do đã mô tả những năm đó như là thời của những chiến dịch tư tưởng có tính cách phá hoại trong lĩnh vực văn học nghệ thuật (gọi là Zhdanovshina – theo tên của nhà hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng Zhdanov-ND) và cuộc tấn công vào “các nhà theo chủ nghĩa thế giới (cosmopolitan) mất gốc”. Nhưng các nhà lãnh đạo các Hội có lí do để coi giai đoạn đó là thời kì vàng son của họ. Cuối những năm 1940 đầu những năm 1950 họ đã hoàn thành việc chiếm đoạt được quyền lực rộng lớn chưa từng có, kể cả việc kiểm soát một cách chặt chẽ việc sản xuất và phân phối cũng như trả thù lao cho những tác phẩm văn học và nghệ thuật. Bên cạnh việc tăng cường vai trò kiểm soát của họ đối với nghề nghiệp là sự đảm bảo ngày càng vững chắc hơn vị trí của họ như là một nhóm có nhiều đặc quyền đặc lợi nhất trong xã hội Xô Viết về mặt vật chất. Trong giai đoạn này, “các đầu lĩnh văn hóa” đã giành được những quyền lực chưa từng có cả trong lĩnh vực tài chính lẫn nghề nghiệp so với những hội viên thường cùng lĩnh vực. Chính sự bất công trong việc phân chia quyền lực và quyền lợi vật chất giữa các văn nghệ sĩ chứ không phải việc đàn áp về chính trị và tư tưởng là nguyên nhân chính tạo ra sự bất mãn của một số hội viên Hội nhà văn, Hội nghệ sĩ tạo hình và Hội nhạc sĩ.
Bài này bắt đầu bằng việc phân tích hoạt động của các nhà lãnh đạo các Hội trong quá trình cải tổ (perestroika). Nó sẽ chỉ rõ các nhà lãnh đạo đã giành được quyền lực, cái quyền lực đang bị cuộc cải cách dân chủ hóa của Gorbachev đe dọa, bằng cách nào và vào lúc nào. Sau đó nó sẽ thảo luận một cách chi tiết ảnh hưởng của những thay đổi trong hoạt động của các Hội thời hậu chiến đối với quan điểm của tầng lớp văn nghệ sĩ Liên Xô về chế độ Xô Viết. Cuối cùng bài báo sẽ phân tích những nguyên nhân đằng sau chính sách của ban lãnh đạo chính trị đối với tầng lớp trí thức trong giai đoạn hậu chiến.
Lãnh đạo các Hội chống cải tổ
Cuộc họp vào tháng 3 năm 1987 của Ban Thư kí Ban Chấp hành Hội Nhà văn Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Nga (RSFSR) đã trở thành cuộc biểu dương lực lượng công khai của phe chống perestroika [5] . Những người tổ chức cuộc họp, Chủ tịch Hội Nhà văn Nga – Sergei Mikhalkov và Bondarev, người phó của ông ta, còn là thành viên Ban Thư kí Ban Chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, cơ quan quản lí chủ yếu của Hội từ năm 1946 [6] . (Năm 1990, Mikhalkov được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô, còn Bondarev được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Nga).
Sau đó nhóm nhà văn này cũng như một số nhà lãnh đạo các Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô, Hội Nhạc sĩ Liên Xô, kể cả nhà điêu khắc Viacheslav Klykov, nữ ca sĩ Liudmila Zykina và nhạc sĩ Tikhon Khrennikov đã đăng đàn phát biểu và công bố các bức thư trên các phương tiện truyền thông lên án mạnh mẽ perestroika. Năm 1990, khi tờ báo Literaturnaia gazeta, cơ quan ngôn luận chủ yếu của Hội cắt đứt các mối liên hệ với Hội, Ban Thư kí của Hội lập tức cho thành lập một tờ báo mới có thể phản ánh tốt hơn quan điểm của ban lãnh đạo Hội so với tờ Literaturnaia gazeta trong những năm vừa qua. Đấy là tờ Den (Ngày), những người biên tập tờ báo này đã coi nó là cơ quan “đối lập về mặt tinh thần” với chế độ của Gorbachev-Yeltsin [7] . Những nhà lãnh đạo các Hội văn học nghệ thuật công bố một loạt lời kêu gọi quân đội, KGB, “những người cộng sản chân chính” và những “người yêu nước khác” “bảo vệ” Liên Xô khỏi lực lượng chiếm đóng của chính quyền Gorbachev –Yentsin. Chiếm vị trí nổi bật là lời kêu gọi mang tên “Nói với nhân dân” (A Word to the People) công bố trên tờ Sovetskaia Rossia ngày 23 tháng 7 năm 1991. Lời kêu gọi cảnh báo rằng kẻ thù của nước Nga, những kẻ đang quì gối trước phương Tây, đã nắm được quyền lực ở Moskva, và kêu gọi các lực lượng yêu nước đứng lên bảo vệ tổ quốc. Các tác giả của “Nói với nhân dân” sau đó đã bị kiến trúc sư chính của chính sách công khai hoá (glasnost) là Aleksandr Yakovlev, uỷ viên Bộ Chính trị, kết án là đặt nền móng “tư tưởng cho cuộc bạo loạn (tháng 8 năm 1991) [8] . Sở dĩ họ bị kết án như thế là vì hai người kí tên trong đó đã tham gia vào Uỷ ban Khẩn cấp (Uỷ ban này đã bắt giam Gorbachev tại gia) và tài liệu mang tính cương lĩnh của Uỷ ban Khẩn cấp, gọi là Lời kêu gọi nhân dân Xô viết có nội dung giống hệt Nói với nhân dân. Hơn nữa, ngày 20 tháng 8, Ban Thư kí của Hội Nhà văn Liên Xô, đứng đầu là Mikhalkov, đã ủng hộ, dù chỉ bằng lời nói, Uỷ ban Khẩn cấp ngay tại thời điểm mà cơ may thành công của nó đã không còn [9] . Ngày 23 tháng 8 năm 1991, Mikhalkov, Aleksandr Prokhanov, Yurii Verchenko, Nikolai Gorbachev và những người lãnh đạo lão thành khác, những người đã kiểm soát Hội hàng chục năm liền, bị trục xuất ra khỏi ban thư kí vì đã đứng về phe “phiến loạn” [10] .
Mặc dù có một số người thuộc phe “đối lập về tinh thần” thực sự phản đối những cố gắng của Gorbachev trong việc đưa chế độ dân chủ và đa nguyên vào hệ thống chính trị Xô viết vì lí do tư tưởng, nhưng mối đe doạ đối với quyền lợi phe nhóm có vẻ như mới là động cơ chính. Trong lần biểu dương lực lượng đầu tiên vào tháng 3 năm 1987, Bondarev kêu gọi Ban Thư kí tung ra “trận chiến đấu Stalingrad” mới để chống lại công cuộc cải cách của Gorbachev, kẻ thù mà Bondarev cho là phải bị tiêu diệt là các biên tập viên của những tờ tạp chí văn học do Aleksandr Yakovlev bổ nhiệm, vì những người này không tiếp tục đăng sáng tác của Bondarev, Mikhalkov và những người khác nữa mà dành “đất” cho những nhà văn trước đây từng bị cấm đoán.
Một mối đe doạ khác của perestroika là những cuộc bầu cử có nhiều ứng viên. Từ năm 1934 trở đi, ban chấp hành các Hội được bầu một lượt bằng cách vỗ tay mà không có thảo luận gì cả. Sau đó ban chấp hành bầu chủ tịch đoàn và ban thư kí. Hệ thống đó làm cho những người lãnh đạo các Hội cảm thấy vị trí của mình được an toàn. Những cuộc bầu cử thật sự có thể phá vỡ sự an toàn đó. Tháng 5 năm 1988, Hội Điện ảnh Liên Xô tiến hành bầu Chủ tịch Hội với nhiều ứng cử viên; kết quả là nhà bất đồng chính kiến không chính thức, giám đốc một hãng phim là Elem Klimov đã chiến thắng Sergei Bondartruk, người vốn được Đảng ủng hộ. (Thực ra Hội Điện ảnh có hơi khác Hội Nhà văn, Hội Nghệ sĩ Tạo hình và Hội Nhạc sĩ. Hội này được thành lập trong giai đoạn tự do hoá của Nikita Khrushchev, năm 1965, nó không có hạt nhân theo chủ nghĩa Stalin trong ban lãnh đạo như các Hội kia, vốn là những Hội được thành lập từ những năm 30). Khác với Hội Điện ảnh, lãnh đạo của ba Hội kia đã vượt qua được thách thức của các cuộc bầu cử tự do, cho đến khi Liên Xô tan rã. Như đã nói ở trên, chỉ đến tháng 9 năm 1991 Mikhalkov mới mất chức chủ tịch Hội Nhà văn Liên Xô, và chủ tịch Hội Nhạc sĩ, ông Khrennikov, người đã giữ chức vụ này từ năm 1948 được bầu là đồng chủ tịch Hội vào tháng 3 năm 1991, lúc đó ông ta đã 78 tuổi [11] . Báo chí thời đó đã nói đến chuyện giả mạo kết quả bầu cử có lợi cho Khrennikov [12] . Mặc dù vậy nguy cơ mất địa vị vì các cuộc bầu cử tự do vẫn hiện diện và đấy chính là lí do để Bondarev tuyên bố rằng dân chủ là kẻ thù của những tài năng thực sự như đã được nhắc tới ngay ở đầu bài báo này.
Luật báo chí được ban hành vào năm 1990 lại là một đòn nữa giáng vào quyền lực của ban lãnh đạo các Hội Nhà văn. Luật này buộc tất cả các báo và tạp chí phải tái đăng kí với chính quyền địa phương và phải xác định rõ “sáng lập viên” (uchreditel). Tập thể những người lao động của các tạp chí có thể được đang kí như là “sáng lập viên”. Vấn đề sáng lập viên là rất quan trọng vì theo luật thì người sáng lập có quyền bổ nhiệm và bãi miễn tổng biên tập, có quyền xác định đường lối và kiểm soát lợi tức. Ngay khi luật được Quốc hội phê chuẩn, đa số các tờ báo và tạp chí, kể cả tờ Literaturnaia Gazeta, đã từ bỏ cơ quan chủ quản là Hội Nhà văn và tuyên bố rằng họ là những tổ chức độc lập, tập thể công nhân viên đứng ra đăng kí làm sáng lập viên. Phong trào này ảnh hưởng không chỉ với Hội Nhà văn mà còn tác động đến các tổ chức khác mà cho đến lúc đó vẫn kiểm soát một số tạp chí nữa. Nhưng chỉ có Hội Nhà văn là theo đuổi các vụ kiện đòi lại quyền sáng lập viên một cách quyết liệt mà thôi. (Cuối cùng Hội Nhà văn đã thua). Lãnh đạo Hội giải thích rằng họ làm như thế là vì sợ mất nguồn thu mà các tờ tạp chí này vẫn nộp cho Hội, cũng như không được đăng một cách thoải mái trên các tờ báo đó như từ trước đến nay họ vẫn làm [13] .
Mặc dù đôi khi những nhà lãnh đạo các Hội có công nhận rằng quyền lợi vật chất có ảnh hưởng nhất định đến thái độ đối của họ, nhưng họ thường nói rằng lí do về mặt tư tưởng là nguyên nhân chính dẫn đến sự phản đối các cuộc cải cách của Gorbachev. Trong quá trình chống đối perestroika, các nhà hoạt động văn hoá này còn tạo ra hệ tư tưởng riêng của mình. Thực ra cũng chẳng có gì mới. Bất chấp hình ảnh tiêu cực của Stalin cuối những năm 1980, đầu những năm 1990, những người này không hề che giấu lòng trung thành của họ với chủ nghĩa Stalin. Tháng 8 năm 1991, mô tả quan điểm của tờ Den, Prokhanov đã nói rằng nó góp phần liên kết những người trung thành với chủ nghĩa Stalin [14] . Đặc biệt đáng chú ý là sự tương đồng của chiến dịch phê phán perestroika đao to búa lớn này với các chiến dịch vận động tư tưởng giai đoạn sau chiến tranh. Trên thực tế, giống như giai đoạn cuối của thời kì Stalin, việc phê bình Gorbachev cũng bắt đầu bằng việc lên án các địch thủ là theo “chủ nghĩa quốc tế (cosmopolitan) mất gốc”, kèm theo chủ nghĩa bài Do Thái và thái độ bài phương Tây một cách cuồng loạn và chủ nghĩa dân tộc Nga cực đoan, kể cả những lời tuyên bố rằng mọi thứ của Nga đều là tuyệt hảo, hơn hẳn của nước ngoài. Cũng như hồi cuối những năm 1940, đầu những năm 1950, từ “người yêu nước” (patriot) được dùng thường xuyên để chỉ “một người Nga chân chính”. Người Nga chân chính tương phản với “anti-patriot” (tạm dịch: không yêu nước) để chỉ người thân phương Tây, bị nghi là không phải Nga [15] .
Sự tương đồng giữa những lời tuyên bố của lãnh đạo các Hội với những chiến dịch chống những người theo chủ nghĩa thế giới do Stalin phát động hồi cuối những năm 1940, đầu những năm 1950 đã được ghi nhận [16] . Điều chưa được ghi nhận là những người lãnh đạo văn học nghệ thuật có lí do để tưởng nhớ ánh hào quang thời kì sau chiến tranh. Đấy chính là giai đoạn mà quyền lực của những người lãnh đạo các Hội được xác định một cách trọn vẹn. Quyền lực này đang bị đe doạ, và để bảo vệ quyền lực của mình những nhà lãnh đạo các Hội hướng về “cội nguồn” của họ là lẽ đương nhiên.
Giai đoạn hậu chiến và hoạt động của các văn nghệ sĩ
Các nhà nghiên cứu có xu hướng nhấn mạnh tầm quan trọng của những năm 1930 khi mà giới trí thức văn nghệ sĩ giành được vị trí đặc quyền đặc lợi. Tháng 4 năm 1932, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết “Về việc cải tổ các tổ chức trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật”, dẫn đến việc thành lập ba Hội là Hội Nhà văn, Hội Nghệ sĩ Tạo hình [17] và Hội Nhạc sĩ, là tổ chức hợp nhất của các nhóm văn nghệ sĩ khác nhau từng tồn tại cho đến bấy giờ. Từ đó trở đi, việc kiểm soát của Đảng trong lĩnh vực văn học nghệ thuật được thực hiện chủ yếu thông qua các Hội. Mặc dù nghị quyết này nhắc nhở các nhà hoạt động trong lĩnh vực văn hoá văn nghệ trách nhiệm phục vụ chế độ, nó cũng ngụ ý tôn trọng của lãnh đạo Đảng đối với văn hoá văn nghệ. Sau khi các Hội được thành lập, các văn nghệ sĩ bắt đầu nhận được thù lao cao hơn các thành phần khác trong xã hội. Fitzpatrick giả định rằng vào khoảng giữa những năm 1930, quyền có một đời sống sung túc (zazhitochnaia zhizn) được chính thức công nhận và ngay lập tức khái niệm có văn hoá (kulturnost) được đưa ra. Khái niệm này cho rằng người có học vấn cao sẽ có mức sống khá giả hơn, một mức sống mà trước đây bị kết án là “tư sản” [18] . Sự thay đổi về mặt tư tưởng như thế có ảnh hưởng ngay đến đời sống các văn nghệ sĩ Liên Xô. Trên thực tế, người thời đó ghi nhận sự thay đổi đột ngột mức sống trong nửa cuối những năm 1930. Những văn nghệ sĩ Nga vẫn giữ quan niệm coi thường các quyền lợi vật chất còn để lại cho chúng ta những tác phẩm chế giễu một cách không thương tiếc “tầng lớp trí thức Xô viết mới” và thái độ của họ đối với giá trị vật chất. Nadezhda Mandelshtam ghi trong hồi kí của bà rằng khi bà và chồng, nhà thơ Osip Mandelshatm “lên đường đi đày từ Moskva (1934), các nhà văn chưa phải là tầng lớp đặc quyền đặc lợi, nhưng nay (1937) họ đã bén rễ và tìm được cách giữ đặc quyền đặc lợi rồi”. Nhìn những căn hộ trong khu nhà mới xây dành riêng cho các nhà văn trên phố Lavrushinskii ở trung tâm Moskva, bà nhận xét rằng các nhà văn “đã trở nên phóng túng vì lần đầu tiên trong đời họ có nhiều tiền đến như thế” [19] . Có thể thấy thêm các ghi nhận của một người đương thời trong các tác phẩm của Mikhail Bulgakov như các tiểu thuyết The Master and Margarita và The Theatrical Novel.
Vì lí do khan hiếm, một người nằm trong danh sách được ưu đãi vì là thành phần của tầng lớp tri thức Xô viết không có nghĩa là anh ta nghiễm nhiên nhận được vật dụng và dịch vụ cần thiết. Pitzpatrick cho rằng cho đến cuối những năm 1930 đã hình thành hệ thống cấp bậc ưu tiên ưu đãi ngay trong tầng lớp tinh hoa trí thức. Nhưng bà đã không nói rõ cơ chế hình thành và hoạt động của hệ thống cấp bậc này. Một số nhà nghiên cứu khác đã làm rõ vấn đề bằng cách nói rằng trong giới văn nghệ sĩ, có một số người chiếm chỗ trong các cơ quan quản lí như ban chấp hành, chủ tịch đoàn, ban thư kí. Đấy là những người được hưởng bổng lộc chủ yếu trong hệ thống thù lao mới [20] .
Những điều trình bày ở trên tạo cho ta cảm giác rằng tầng lớp văn nghệ sĩ tinh hoa Xô viết đã trở thành đẳng cấp đặc quyền đặc lợi trong giai đoạn cuối những năm 1930 và những người lãnh đạo các Hội đã trở thành một nhóm nhỏ riêng biệt trong chính giai đoạn này. Như sẽ được chỉ ra sau đây, quan niệm như thế không hoàn toàn chính xác. Những năm sau chiến tranh là thời kì mà những nhà lãnh đạo các Hội và một số văn nghệ sĩ nổi tiếng được tham gia vào giới tinh hoa cao cấp nhất của đất nước, chứ không phải giai đoạn những năm 1930. Thời kì hậu chiến cũng là giai đoạn quyết định trong việc hình thành quan hệ một mặt là giữa lãnh đạo Đảng-nhà nước và lãnh đạo các Hội, và mặt khác là giữa lãnh đạo các Hội và các hội viên thường.
Các tài liệu của Hội đồng dân uỷ /Hội đồng bộ trưởng Liên Xô trong Văn khố quốc gia Cộng hoà Liên bang Nga cho thấy rõ sự biến đổi trong quan hệ giữa các quan chức của Đảng/nhà nước và các văn nghệ sĩ trong giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1953. Trước hết, các tài liệu này chứng tỏ rằng so với những năm 1930, sau chiến tranh quan hệ giữa các văn nghệ sĩ với những viên chức cấp cao của nhà Đảng/nhà nước đã có sự khác biệt đáng kể. Thứ hai, các tài liệu này chứng tỏ rằng hệ thống phân chia quyền lực và đặc quyền đặc lợi giữa hội viên các Hội, những đặc quyền đặc lợi hầu như giữ nguyên cho đến cuối những năm 1980, được hình thành vào cuối những năm 1940.
Đa số các tài liệu những năm 1930, nói đến việc “giúp đỡ về mặt vật chất” cho văn nghệ sĩ, chỉ rõ việc thiết lập các điều kiện thuận lợi cho việc sáng tác, nghỉ ngơi như câu lạc bộ, nhà an dưỡng, nhà ăn và trung tâm y tế cho các hội viên của các Hội vừa mới được thành lập [21] . Trong những năm 1930, ngay cả các văn nghệ sĩ đã thành danh ở Moskva có xu hướng gửi những yêu cầu xin giúp đỡ về vật chất cho ban chấp hành các Hội chứ không gửi trực tiếp cho các quan chức Đảng/nhà nước. Do đó, khi người ta xây dựng nhà nghỉ cho các nhà văn ở Peredelkino, ngoại ô Moskva, một số nhà văn như Marieta Shaginian và Vladimir Zazubrin đã xây những ngôi nhà to hơn so với mức của chính phủ cho phép, họ đã vận động lãnh đạo Hội nhà văn thanh toán số tiền chênh lệch. Họ hi vọng rằng lãnh đạo Hội sẽ xin Hội đồng dân uỷ tài trợ thêm để hoàn thành công trình. Nhưng lãnh đạo Hội không chấp nhận lời đề nghị và cho rằng họ phải tự trả số tiền phụ trội [22] . Chỉ hãn hữu mới có văn nghệ sĩ xin trợ giúp về vật chất trực tiếp từ các quan chức Đảng/nhà nước mà không thông qua các Hội. Thường thường những nhà lãnh đạo các thiết chế văn hoá là những người đề đạt các yêu cầu lên các cấp lãnh đạo tối cao, đặc biệt là với Viacheslav Molotov khi ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng dân uỷ, những người như thế được Fitapatrick gọi là “những kẻ môi giới” (broker) quyền lợi cho thuộc cấp [23] . Nói chung, so với quá khứ thì những năm 1930 là giai đoạn diễn ra sự mở rộng đáng kể những dịch vụ và điều kiện làm việc mà về mặt lí thuyết tất cả các hội viên đều có quyền sử dụng. Trong giới văn nghệ sĩ, hệ thống cấp bậc ưu tiên ưu đãi mới bắt đầu xuất hiện.
Cuối những năm 1930, Dân uỷ tài chính Liên Xô cố gắng đặt ra giới hạn chi tiêu của các Hội. Hầu như không bao giờ Dân uỷ đáp ứng hoàn toàn các đòi hỏi của Hội trong việc tài trợ. Năm 1938 cơ quan này đã cố gắng, tuy không thành công, chuyển trách nhiệm tài trợ các hội nhà văn địa phương từ chính quyền địa phương và nước cộng hoà sang cho Quĩ văn học của Hội Nhà văn Liên Xô; cùng năm đó, cơ quan này còn từ chối tài trợ cho Hội Nhà văn nếu Hội đồng dân uỷ không tái khẳng định nghị quyết tháng 9 năm 1934 về việc tài trợ cho Hội từ ngân sách quốc gia [24] . Trong giai đoạn chiến tranh, các Hội ít đòi hỏi và những đòi hỏi thường khiêm tốn, thí dụ phương tiện để khôi phục lại các nhà hát, viện bảo tàng, thư viện bị phá huỷ [25] .
Giai đoạn từ năm 1946 đến khi Stalin chết vào năm 1953 được mô tả trong các tác phẩm nghiên cứu như là giai đoạn “chứng kiến sự đánh mất không gian sáng tạo mà các nhà văn đã giành được trong thời kì chiến tranh” [26] , “giai đoạn can thiệp một cách thô bạo nhất của nhà nước vào lĩnh vực khoa học và nghệ thuật” [27] . Nhưng các tài liệu về lĩnh vực văn hoá của Hội đồng dân uỷ /Hội đồng bộ trưởng Liên Xô trong Văn khố quốc gia Cộng hoà Liên bang Nga cho thấy rằng chiến dịch nhằm thắt chặt sự kiểm soát về mặt tư tưởng đối với trí thức không phải là xu hướng duy nhất trong quan hệ giữa Đảng/nhà nước đối với văn nghệ sĩ lúc đó. Giai đoạn này còn chứng kiến việc các văn nghệ sĩ gia tăng yêu cầu, so với những năm 1930 và những năm chiến tranh, Đảng/nhà nước cung cấp cho họ những ưu tiên, ưu đãi khác nhau. Quan trọng hơn là các nhà lãnh đạo của các Hội tìm cách mở rộng quyền lực của họ trong hoạt động của Hội và nghịch lí là họ còn tìm cách củng cố sự độc lập đối với Đảng/nhà nước.
Còn 1 kì nữa.
[1]Literaturnaia Rossiia (Báo Nước Nga văn học), 27 (1988), 5-6.
[2]Phân hội Moskva của Hội Nhà văn Liên Xô thành lập năm 1955, có nhiều nhà văn theo chủ nghĩa tự do, nên năm 1958 người ta thành lập Phân hội Nhà văn Nga thuộc Hội Nhà văn Liên Xô (gồm nhiều thành phần bảo thủ) làm đối trọng với phân hội Moskva.
[3]Điều đó không phủ nhận rằng việc đàn áp và các cuộc vận động về mặt tư tưởng do Đảng chỉ đạo đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành đời sống văn hóa Liên Xô. Xem A. V. Blum, Za Kulisami ‘Ministerstva Pravdy’, Tainaia istoriia sovetskoi tsenzury (Bí ẩn của sự kiểm duyệt Xô viết), 1917-1929 (St. Petersburg: Blitz, 1994); D. L. Babichenko, Pisateli i tsenzura (nhà văn và kiểm duyệt). Sovetskaia literatura 1940kh godov pod politicheskim kontrolem TsK (Moscow: Terra, 1994); idem, Istoria sovetskoi politicheskoi tsenzury (lịch sử kiểm duyệt chính trị Xô viết). Dokumenty i kommentari (Moscow: terra, 1997).
[4]Sheila Fitzpatrick, Everyday Stalinism. Ordinary Life in Extraordinary Times: Soviet Russia in the 1930s (Oxford: Oxfrod University Press, 1999), 89-114; eadem, “Intelligentsia and Power. Client-Patron Relation in Stalin’s Russia”, in M. Hildermenier and E. Muller-Luckner, eds., Stalinimus vor dem Zweiten Weltkrieg. Neue Wege der Forschung (Munich: R. Oldenbuorg Verlag, 1998), 35-53; eadem, The Cultural Front. Power and Culture in Revolutionary Russia (Ithaca: Cornell University Press, 1992), 216-37. See also Serhy Yekelchyk, “Diktat and Dialogue in Stalinist Culture: Staging Patriotic Historical Opera in Soviet Ukraine, 1936-1954”, Slavic Review, 59, 3 (Fall 2000), 597-624; John and Carol Garrard, Inside the Soviet Writers’ Union (London: I.B. Tauris, 1990), xii.
[5]Julia Wishnevski. ‘Nash sovrenenik Provides Focus for “Opposition Party”’, RFE/RL Research Report (20 Jan. 1989). Xem thêm Catherine Theimer Nepomnyashchy, “Perestroika and the Soviet Creative Unions” in John O. Norman, ed., New Perspectives on Russian and Soviet Culture (London: Macmillan, 1994).
[6]Theo Điều lệ Hội, giữa hai kì đại hội, một ban chấp hành có hàng trăm ủy viên được coi là cơ quan lãnh đạo các hoạt động thường nhật của Hội. Trên thực tế, ngay từ những năm 30 và thời kì chiến tranh, một chủ tịch đoàn nhỏ hơn, chỉ gồm khoảng một phần ba thành viên ban chấp hành là cơ quan nắm quyền điều hành và quyết định. Sự tăng cường quyền lực của ban thư kí trong giai đoạn sau chiến tranh chứng tỏ sự tập quyền quyết định trong các Hội.
[7]Julia Wishnevsky, “Cultural Policies in 1991”, RFE/RL Research Report (20.12..1991), 7-11.
[8]ibid., 9.
[9]Literaturnaia gazeta, 3 (1991), 9.
[10]Nezavisimaia gazeta, 7 tháng 9 năm 1991.
[11]Chính Stalin đã chọn Khrennikov làm ứng cử viên chức chủ tịch Hội. (Xem Tikhon Khrennikov “Sud’ba chelovecheskaia”, in T. Tolchalova and M. Loznhikov, eds., I primknuvshii k nim Shepilov (Moscow: Zvonnitsa-MG, 1998), 146.
[12]Komsomol’skaia pravda, 9 tháng 4 năm 1991.
[13]Julia Wishnevsky, “Press Law makes Trouble for Writers’ Union”, RFE/RL. Resaerch Report, 2), Nov. 1990), 19-22.
[14]Nezavisimaia gazeta, 15 Aug. 1991.
[15]Để hiểu rõ hơn chiến dịch chống chủ nghĩa quốc tế, xin xem K. Azadovskii and B. Egorov, “Kosmopolity”, Novoe literaturnoe obozrenie, 36, 2 (1999), 83-135.
[16]Xem, thí dụ, Walter Laqueur, Black Hundred. The Rise of the Extreme Right in Russia (New Yok: HarperCollins, 1993), và Vera Tolx, “The Radical Right in Post-Communist Russian Politics”, in Peter H. Merkel and Leonard Weinberg, eds. The Revival of Right-Wing Extremism in the Nineties (London: Frank Cass, 1977), 179-85. Mặc dù vậy, một số nhà nghiên cứu có vẻ như đã bỏ qua mối liên hệ mật thiết giữa chủ nghĩa dân tộc Nga thời Gorbachev và việc tuyên truyền chống chủ nghĩa quốc tế; họ chỉ truy tìm nguồn gốc của các tư tưởng dân tộc cực đoan đến giai đoạn giữa những năm 1960, đầu những năm 1970, khi, sau cái chết của Khrushchev, những tờ tạp chí văn học như Nash sovremenik và Molodaia gvardiia bắt đầu rao giảng chủ nghĩa dân tộc cực đoan Nga (xem, thí dụ, Yitzhak M. Brudny, Reinventing Russia. Russian Nationalism and the Soviet State 1953-1991 (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1998).
[17]Quyết định thành lập Hội nghệ sĩ tạo hình được đưa ra vào năm 1932, nhưng Hội này chỉ thực sự được thành lập tại hội nghị đầu tiên vào vào năm 1957. Trước năm 1957, chỉ có Uỷ ban tổ chức Hội và Hội nghệ sĩ tạo hình Moskva mà thôi.
[18]Fitzpatrick, Everyday Stalinism, 90-3. Xem thêm Catriona Kelly and Vadim Volkov, “Directed Desires: Kul’turnost and Consumption” in Catriona Kelly and Devid Shepherd, eds, Constructing Russian Culture in the Age of Revolution: 1881-1940 (Oxford: Oxford University Press, 1998), 295
[19]Nadezhda Mandelstam, Hope against Hope. A memoir (London: Collins and Harvill Press, 1971), 278.
[20]Garrard, Inside the Soviet Writers’ Union.
[21]Xem, thí dụ, Lưu trữ quốc gia Cộng hoà Liên bang Nga (State Archive of the Russian Federation, sau đây gọi là GARF), Fund 5446, op, 22 delo 1445 “Về việc giúp đỡ về vật chất cho các nhạc sĩ từ 12 tháng 4 đến 20 tháng 9 năm 1938”.
[22]GARF, fund 5446, op 22, delo 1780, II. 5 and 9.
[23]Xem, thí dụ, các bức thư viết năm 1938 của V. Stavsky, thư kí Hội nhà văn Liên Xô, gửi Hội đồng dân uỷ xin tài trợ thêm cho việc chữa bệnh và những khoản khác cho các hội viên của Hội (GARF, fund 5446, op 22, delo 1787, II. 1-5). Xem bức thư do L. Orbeli, Giám đốc viện bảo tàng Hermitage ở Leningrad, viết vào tháng 12 năm 1937 gửi Molotov đề nghị tăng lương cho nhân viên viện bảo tàng để lương của họ ngang bằng với lương của các thiết chế văn hoá lớn khác như Nhà hát lớn Bolshoi ở Moskva chẳng hạn (GARF, fund 5446, op. 22. delo 1419). Xem thêm thư ngày 27 tháng 12 năm 1937 của Giám đốc nhà hát lớn gửi Hội đồng dân uỷ đề nghị phân phối căn hộ cho các diễn viên múa chính (GARF, fund 5446, op. 22, 1415, II. 2-13).
[24]GARF, fund 5446, op.22, delo 1776, I. 3 nói về việc Dân uỷ tài chính từ chối đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu tài trợ của Hội nhà văn; op. 22, delo 1779, II. 2-9 nói về đề nghị Quĩ văn học phải tài trợ cho các Hội địa phương và Hội của các nước cộng hoà; op. 22, delo 1776, I. 4-5 nói về việc Dân uỷ yêu cầu Hội đồng dân uỷ tái khẳng định việc nhà nước tài trợ cho Hội nhà văn.
[25]Xem thí dụ, “Trao đổi về công việc của các Hội nhà văn, Nghệ sĩ và Nhạc sĩ”, trong năm 1944. GARF, fund 5446, op. 46, delo 2432; op. 46, delo 2427, I.1 cùng với thư ngày 16 tháng 12 năm 1943 của Giám đốc nhà hát Opera và Ballet mang tên Kirov ở Leningrad gửi Hội đồng dân uỷ xin tiền mua giày cho nhân viên nhà hát.
[26]Garrard, Trong lòng Hội nhà văn Liên Xô, 63.
[27]Loren R. Graham, Khoa học và triết học ở Liên Xô (New York: Columbia University Press, 1972), 18. Xem thêm Elena Zubkova, Xã hội sau chiến tranh: Chính trị và cuộc sống thường nhật, 1945-1953 (Moscow: Rosspen, 2000) 181-7.
[2]Phân hội Moskva của Hội Nhà văn Liên Xô thành lập năm 1955, có nhiều nhà văn theo chủ nghĩa tự do, nên năm 1958 người ta thành lập Phân hội Nhà văn Nga thuộc Hội Nhà văn Liên Xô (gồm nhiều thành phần bảo thủ) làm đối trọng với phân hội Moskva.
[3]Điều đó không phủ nhận rằng việc đàn áp và các cuộc vận động về mặt tư tưởng do Đảng chỉ đạo đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành đời sống văn hóa Liên Xô. Xem A. V. Blum, Za Kulisami ‘Ministerstva Pravdy’, Tainaia istoriia sovetskoi tsenzury (Bí ẩn của sự kiểm duyệt Xô viết), 1917-1929 (St. Petersburg: Blitz, 1994); D. L. Babichenko, Pisateli i tsenzura (nhà văn và kiểm duyệt). Sovetskaia literatura 1940kh godov pod politicheskim kontrolem TsK (Moscow: Terra, 1994); idem, Istoria sovetskoi politicheskoi tsenzury (lịch sử kiểm duyệt chính trị Xô viết). Dokumenty i kommentari (Moscow: terra, 1997).
[4]Sheila Fitzpatrick, Everyday Stalinism. Ordinary Life in Extraordinary Times: Soviet Russia in the 1930s (Oxford: Oxfrod University Press, 1999), 89-114; eadem, “Intelligentsia and Power. Client-Patron Relation in Stalin’s Russia”, in M. Hildermenier and E. Muller-Luckner, eds., Stalinimus vor dem Zweiten Weltkrieg. Neue Wege der Forschung (Munich: R. Oldenbuorg Verlag, 1998), 35-53; eadem, The Cultural Front. Power and Culture in Revolutionary Russia (Ithaca: Cornell University Press, 1992), 216-37. See also Serhy Yekelchyk, “Diktat and Dialogue in Stalinist Culture: Staging Patriotic Historical Opera in Soviet Ukraine, 1936-1954”, Slavic Review, 59, 3 (Fall 2000), 597-624; John and Carol Garrard, Inside the Soviet Writers’ Union (London: I.B. Tauris, 1990), xii.
[5]Julia Wishnevski. ‘Nash sovrenenik Provides Focus for “Opposition Party”’, RFE/RL Research Report (20 Jan. 1989). Xem thêm Catherine Theimer Nepomnyashchy, “Perestroika and the Soviet Creative Unions” in John O. Norman, ed., New Perspectives on Russian and Soviet Culture (London: Macmillan, 1994).
[6]Theo Điều lệ Hội, giữa hai kì đại hội, một ban chấp hành có hàng trăm ủy viên được coi là cơ quan lãnh đạo các hoạt động thường nhật của Hội. Trên thực tế, ngay từ những năm 30 và thời kì chiến tranh, một chủ tịch đoàn nhỏ hơn, chỉ gồm khoảng một phần ba thành viên ban chấp hành là cơ quan nắm quyền điều hành và quyết định. Sự tăng cường quyền lực của ban thư kí trong giai đoạn sau chiến tranh chứng tỏ sự tập quyền quyết định trong các Hội.
[7]Julia Wishnevsky, “Cultural Policies in 1991”, RFE/RL Research Report (20.12..1991), 7-11.
[8]ibid., 9.
[9]Literaturnaia gazeta, 3 (1991), 9.
[10]Nezavisimaia gazeta, 7 tháng 9 năm 1991.
[11]Chính Stalin đã chọn Khrennikov làm ứng cử viên chức chủ tịch Hội. (Xem Tikhon Khrennikov “Sud’ba chelovecheskaia”, in T. Tolchalova and M. Loznhikov, eds., I primknuvshii k nim Shepilov (Moscow: Zvonnitsa-MG, 1998), 146.
[12]Komsomol’skaia pravda, 9 tháng 4 năm 1991.
[13]Julia Wishnevsky, “Press Law makes Trouble for Writers’ Union”, RFE/RL. Resaerch Report, 2), Nov. 1990), 19-22.
[14]Nezavisimaia gazeta, 15 Aug. 1991.
[15]Để hiểu rõ hơn chiến dịch chống chủ nghĩa quốc tế, xin xem K. Azadovskii and B. Egorov, “Kosmopolity”, Novoe literaturnoe obozrenie, 36, 2 (1999), 83-135.
[16]Xem, thí dụ, Walter Laqueur, Black Hundred. The Rise of the Extreme Right in Russia (New Yok: HarperCollins, 1993), và Vera Tolx, “The Radical Right in Post-Communist Russian Politics”, in Peter H. Merkel and Leonard Weinberg, eds. The Revival of Right-Wing Extremism in the Nineties (London: Frank Cass, 1977), 179-85. Mặc dù vậy, một số nhà nghiên cứu có vẻ như đã bỏ qua mối liên hệ mật thiết giữa chủ nghĩa dân tộc Nga thời Gorbachev và việc tuyên truyền chống chủ nghĩa quốc tế; họ chỉ truy tìm nguồn gốc của các tư tưởng dân tộc cực đoan đến giai đoạn giữa những năm 1960, đầu những năm 1970, khi, sau cái chết của Khrushchev, những tờ tạp chí văn học như Nash sovremenik và Molodaia gvardiia bắt đầu rao giảng chủ nghĩa dân tộc cực đoan Nga (xem, thí dụ, Yitzhak M. Brudny, Reinventing Russia. Russian Nationalism and the Soviet State 1953-1991 (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1998).
[17]Quyết định thành lập Hội nghệ sĩ tạo hình được đưa ra vào năm 1932, nhưng Hội này chỉ thực sự được thành lập tại hội nghị đầu tiên vào vào năm 1957. Trước năm 1957, chỉ có Uỷ ban tổ chức Hội và Hội nghệ sĩ tạo hình Moskva mà thôi.
[18]Fitzpatrick, Everyday Stalinism, 90-3. Xem thêm Catriona Kelly and Vadim Volkov, “Directed Desires: Kul’turnost and Consumption” in Catriona Kelly and Devid Shepherd, eds, Constructing Russian Culture in the Age of Revolution: 1881-1940 (Oxford: Oxford University Press, 1998), 295
[19]Nadezhda Mandelstam, Hope against Hope. A memoir (London: Collins and Harvill Press, 1971), 278.
[20]Garrard, Inside the Soviet Writers’ Union.
[21]Xem, thí dụ, Lưu trữ quốc gia Cộng hoà Liên bang Nga (State Archive of the Russian Federation, sau đây gọi là GARF), Fund 5446, op, 22 delo 1445 “Về việc giúp đỡ về vật chất cho các nhạc sĩ từ 12 tháng 4 đến 20 tháng 9 năm 1938”.
[22]GARF, fund 5446, op 22, delo 1780, II. 5 and 9.
[23]Xem, thí dụ, các bức thư viết năm 1938 của V. Stavsky, thư kí Hội nhà văn Liên Xô, gửi Hội đồng dân uỷ xin tài trợ thêm cho việc chữa bệnh và những khoản khác cho các hội viên của Hội (GARF, fund 5446, op 22, delo 1787, II. 1-5). Xem bức thư do L. Orbeli, Giám đốc viện bảo tàng Hermitage ở Leningrad, viết vào tháng 12 năm 1937 gửi Molotov đề nghị tăng lương cho nhân viên viện bảo tàng để lương của họ ngang bằng với lương của các thiết chế văn hoá lớn khác như Nhà hát lớn Bolshoi ở Moskva chẳng hạn (GARF, fund 5446, op. 22. delo 1419). Xem thêm thư ngày 27 tháng 12 năm 1937 của Giám đốc nhà hát lớn gửi Hội đồng dân uỷ đề nghị phân phối căn hộ cho các diễn viên múa chính (GARF, fund 5446, op. 22, 1415, II. 2-13).
[24]GARF, fund 5446, op.22, delo 1776, I. 3 nói về việc Dân uỷ tài chính từ chối đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu tài trợ của Hội nhà văn; op. 22, delo 1779, II. 2-9 nói về đề nghị Quĩ văn học phải tài trợ cho các Hội địa phương và Hội của các nước cộng hoà; op. 22, delo 1776, I. 4-5 nói về việc Dân uỷ yêu cầu Hội đồng dân uỷ tái khẳng định việc nhà nước tài trợ cho Hội nhà văn.
[25]Xem thí dụ, “Trao đổi về công việc của các Hội nhà văn, Nghệ sĩ và Nhạc sĩ”, trong năm 1944. GARF, fund 5446, op. 46, delo 2432; op. 46, delo 2427, I.1 cùng với thư ngày 16 tháng 12 năm 1943 của Giám đốc nhà hát Opera và Ballet mang tên Kirov ở Leningrad gửi Hội đồng dân uỷ xin tiền mua giày cho nhân viên nhà hát.
[26]Garrard, Trong lòng Hội nhà văn Liên Xô, 63.
[27]Loren R. Graham, Khoa học và triết học ở Liên Xô (New York: Columbia University Press, 1972), 18. Xem thêm Elena Zubkova, Xã hội sau chiến tranh: Chính trị và cuộc sống thường nhật, 1945-1953 (Moscow: Rosspen, 2000) 181-7.
Nguồn: Vera Tolz, “‘Cultural Bosses’ as Patrons and Clients: The Functioning of the Soviet Creative Unions in the Postwar Period”, in Contemporary Europian History, II, 1 (2002), pp 87-105 © 2002 Cambridge University Press. Bản tiếng Việt đăng trên talawas với sự cho phép của tác giả.
Nguồn: Vera Tolz - “Đầu lĩnh văn hóa” - Vừa là chủ vừa là khách hàng ...-
Vera Tolz - “Đầu lĩnh văn hóa” - Vừa là chủ vừa là khách hàng hay hoạt động của các hội văn học nghệ thuật Xô Viết sau chiến tranh (Tiếp theo và hết)
Phạm Nguyên Trường dịch
Trong giai đoạn hậu chiến, có rất ít thư từ do các lãnh đạo các thiết chế văn hoá thay mặt các văn nghệ sĩ gửi đến các lãnh đạo cấp cao của Đảng/nhà nước kiến nghị “trợ giúp về mặt vật chất”. Trong khi đó, chúng tôi tìm thấy rất nhiều yêu cầu của các cá nhân, đủ mọi cấp bậc, có cái dài có cái ngắn nhưng thống thiết, gửi trực tiếp đến Stalin, Chủ tịch hoặc các phó Chủ tịch Hội đồng dân uỷ. Những thí dụ được trình bày dưới đây có thể giúp chúng ta hình dung được hoàn cảnh lúc đó.
Có rất nhiều văn nghệ sĩ yêu cầu lãnh đạo Hội đồng dân uỷ/Hội đồng bộ trưởng cung cấp cho họ xe con vì ngay sau chiến tranh, phương tiện vận tải công cộng hoạt động không được tốt, hoặc vì xe họ nhận hồi những năm 1930 đã được xung công cho mục đích quốc phòng hồi năm 1941. Thí dụ trong thư đề ngày 21 tháng 6 năm 1945 gửi Molotov, phó Chủ tịch Hội đồng dân uỷ, viện sĩ Konstantin Skrobanskii phàn nàn như sau: “Sử dụng phương tiện giao thông công cộng gây cho tôi nhiều phiền toái. Hơn nữa nếu có xe riêng thì tôi sẽ thường xuyên đến được nhà nghỉ (dacha) của tôi ở ngoại ô hơn. Kính đề nghị đồng chí giúp đỡ”. Trong cặp hồ sơ này có yêu cầu tương tự của diễn viên ở Leningrad tên là Iurii Iurev [1] . Tháng 11 năm 1945, nhà văn nổi tiếng Kornei Chukovskii cũng viết một thư gửi Hội đồng dân uỷ để xin xe. Nhằm nhấn mạnh trường hợp của mình, Chkovskii viết: “Những người láng giềng của tôi (Konstantin Smirnov, N. Pogodin, P. Pavlenko, Valentin Kataev và những người khác) đều có xe ở nhà nghỉ”. Tháng 2 năm 1949, một nghệ sĩ ở Kiev tên là Kh. Pumipenko đề nghị Molotov giúp ông ta mua máy nổ và các thiết bị thay thế khác cho chiếc thuyền của ông ta [2] .
Người ta còn yêu cầu giúp đỡ khôi phục lại tài sản bị tàn phá trong thời kì chiến tranh. Ngày 21 tháng 5 năm 1945 Sergei Mikhalkov gửi thư cho Molotov, đề nghị giúp xây dựng lại nhà nghỉ của mình, lấy lí do là chỉ có cấp cao nhất của chính phủ mới giúp ông ta có được số vật tư cần thiết [3] . Một nghệ sĩ nổi tiếng là Vasilii Kachalov và nữ ca sĩ Valeriia Barsova còn gửi kèm cả danh sách các vật tư cần thiết để xây dựng lại nhà nghỉ, gồm cả đinh và bóng đèn [4] . Cuối năm 1945, một nhóm diễn viên khác đã yêu cầu Aleksei Kosygin, phó Chủ tịch Hội đồng dân uỷ, cung cấp cho họ bồn tắm có tráng men và bồn cầu [5] . Một nhóm các diễn viên ballet nổi tiếng, trong đó có Galina Ulanova và Maia Plisetskaia, đã đề nghị chính Stalin giúp đỡ xây dựng khu nhà ở cho họ ở trung tâm Moskva [6] .
Thời hậu chiến, số văn nghệ sĩ gửi thư trực tiếp cho các quan chức Đảng/nhà nước đề nghị giúp đỡ về mặt vật chất nhiều hơn hẳn so với những năm 1930. Có nhiều đề nghị như thế là do giai đoạn này quá nghèo túng. Nhưng điều đó còn cho thấy rằng tầng lớp văn nghệ sĩ ưu tú cảm thấy được quyền có một mức sống nhất định, mức sống đó đã bị chiến tranh tàn phá, và nay họ muốn khôi phục càng nhanh càng tốt. Thường thì tác giả các bức thư ghi rõ chức danh, các giải thưởng đã nhận và những thành tựu khác mà họ đã đạt được để tăng cường hiệu lực cho lời thỉnh cầu của họ.
Thái độ của các quan chức của Đảng/nhà nước tất nhiên là khác nhau với mỗi trường hợp. Ngay trong những năm 1930 đã không có đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu mà giới trí thức Xô viết được quyền hưởng. Thời kì hậu chiến, sự thiếu hụt còn gay gắt hơn, trong khi đòi hỏi của các văn nghệ sĩ lại tăng lên. Sự ganh đua trong việc đòi đặc quyền đặc lợi càng quyết liệt hơn. Hai tiêu chí xác định xem yêu cầu có được đáp ứng hay không: sự nổi tiếng và hộ khẩu nằm ở trung tâm (Moskva hay Leningrad). Trong nhiều trường hợp, cả hai tiêu chí kết hợp. Yêu cầu của những người nổi tiếng được giải quyết nhanh đến không ngờ. Thí dụ ngày 5 tháng 5 năm 1952, nhà văn Fedor Gladkov viết thư cho Hội đồng bộ trưởng xin cho con ông ta căn hộ hai phòng ở Moskva. Ngày 9 tháng 5 Hội đồng bộ trưởng đồng ý và Xô viết thành phố Moskva phân căn hộ đặc biệt vào ngày 28 tháng 6 [7] . Nhưng không phải ai cũng gặp may như thế. Trong khi những người nổi tiếng ở Moskva và Leningrad đều nhận được ô tô, đèn và bồn tắm như họ đề nghị, thì người diễn viên ở Ukraine đã nói đến trên kia lại không được phân phối bộ phận thay thế cho con thuyền của ông ta.
Trên thực tế, trong giai đoạn hậu chiến, các văn nghệ sĩ ở các tỉnh thường phàn nàn với lãnh đạo Đảng/chính phủ rằng các nguồn lực chủ yếu đều tập trung ở Moskva và Leningrad, còn họ thì bị coi là hạ đẳng [8] . Vì thế năm 1951, Giám đốc nghệ thuật nhà hát giao hưởng khu Drogobushskii ở Ukraine đã trực tiếp viết cho Stalin: “Phải công nhận một cách công khai rằng Uỷ ban các Nghệ sĩ ưu tú toàn Liên bang chỉ chú ý đến công tác quản lí nghệ thuật ở Moskva và Leningrad và chẳng hiểu gì về các sự kiện đang diễn ra ở Simpheropol và Astrakhan cả”. Tác giả của bức thư còn cho rằng Uỷ ban chỉ quan tâm đến vấn đề tài chính và vật chất mà không quan tâm đến lĩnh vực tư tưởng. Ông ta nói rằng “đặc biệt ở miến tây Ukraine và Bạch Nga đã tồn tại các vấn đề tư tưởng nghiêm trọng trên mặt trận văn hoá văn nghệ”, nhưng Uỷ ban hoàn toàn phớt lờ khu vực này [9] .
Bên cạnh sự kiện là trong giai đoạn hậu chiến các văn nghệ sĩ mất nhiều thời gian vận động (lobby) các nhà lãnh đạo chính trị giúp họ khôi phục hoặc cải thiện điều kiện sống mà họ đã có trước đây nhưng đã bị chiến tranh tàn phá thì một diễn biến khác chứng minh rằng đây là giai đoạn quan trọng trong quan hệ giữa Đảng và văn nghệ sĩ và giữa các văn nghệ sĩ với nhau. Đấy là giai đoạn hoàn tất sự kiểm soát của những người lãnh đạo các Hội đối với hoạt động nghề nghiệp và khả năng tự đảm bảo và nắm giữ các đặc quyền đặc lợi của họ mà không cần thường xuyên yêu cầu các quan chức tối cao của Đảng/nhà nước giúp đỡ nữa.
Từ cuối những năm 1940 trở đi, uỷ viên ban thư kí các Hội bắt đầu vận động chính phủ trả cho họ mức thù lao vật chất dưới hình thức tiền lương cực kì cao. Quyền lợi mới này được gắn với một chức vụ nhất định, người giữ chức vụ đó có thể thay đổi theo thời gian, chứ không phải được xác định bởi thành tích cá nhân và/hoặc bởi mức độ thân thiện của cá nhân đó với các viên chức của Đảng/nhà nước. Một đòi hỏi nữa là đưa ra sự chênh lệch đáng kể về tiền công trả cho những sản phẩm văn hoá khác nhau. Đồng thời, thành viên các ban thư kí và ban chấp hành cố gắng đảm bảo rằng họ được độc quyền trong việc tạo ra các sản phẩm nằm trong tiêu chuẩn trả thù lao cao nhất.
Vì thế năm 1948, các nhà lãnh đạo Hội Nhà văn và Hội Nhạc sĩ Liên Xô đã vận động chính phủ thông qua mức lương đặc biệt đối với họ. Mức lương này cao hơn mức lương trước đây rất nhiều. Tháng 4 năm 1948, Hội đồng Bộ trưởng đồng ý cho 15 người thuộc Hội Nhạc sĩ Liên Xô được nhận mức lương đó và đến tháng 11 thì tăng lên thành 25 người [10] . Tháng 5 năm 1948, rất nhiều người trong ban lãnh đạo Hội Nhà văn cũng được ưu đãi như thế. Các yêu cầu này được thông qua một cách dễ dàng.
Một đòi hỏi khác lại gây nhiều tranh cãi. Năm 1947, lãnh đạo Hội Nhạc sĩ gửi thỉnh nguyện thư cho Hội đồng Bộ trưởng, phàn nàn rằng hệ thống được xác định vào năm 1934, theo đó Uỷ ban nghệ sĩ ưu tú thuộc Hội đồng dân uỷ/Hội đồng bộ trưởng đặt ra mức thù lao đồng hạng “không tính đến giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm” là sai và cần phải được thay đổi. Hệ thống mới sẽ kích thích sự sáng tạo các vở opera, các vở ballet và kịch nói hoành tráng. Theo quan điểm của các tác giả thỉnh nguyện thư thì các thể loại này nghiễm nhiên được coi là có giá trị nghệ thuật và tư tưởng cao nhất. Các thể loại khác sẽ được đánh giá về mặt nghệ thuật và tư tưởng và được phân theo ba hạng là xuất sắc, tốt và chấp nhận được. Tác giả sẽ được nhận thù lao tương ứng với vị trí xếp hạng của tác phẩm. Quyền đánh giá tác phẩm là của lãnh đạo Hội [11] . Tài liệu chứng tỏ rằng ban đầu Bộ Tài chính Liên Xô phản đối sự phân biệt về thù lao như thế và đặc biệt chống lại việc tăng đột ngột tiền thù lao cho các nhạc phẩm hoành tráng. Bộ còn viện dẫn nghị quyết ngày 16 tháng 9 năm 1946 của Hội đồng Bộ trưởng về việc cấm tăng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tiền lương và tiền công. Mặc dù vậy, cuối cùng lãnh đạo Hội đã giành được sự ủng hộ của Hội đồng bộ trưởng. Tháng 5 năm 1950, Hội đồng Bộ trưởng đã kí nghị định áp dụng các mức thù lao khác nhau.
Năm 1949, Ban tổ chức (orgkomitet) của Hội Nghệ sĩ tạo hình Liên Xô cũng trình lên lãnh đạo một yêu cầu tương tự. Họ đề nghị các “tác phẩm tạo hình xuất sắc”, đặc biệt là chân dung và tượng của các nhà lãnh đạo Đảng phải được “trả thù lao ở mức cao hơn”. Một lần nữa, sau một thời gian do dự và tranh luận xem hệ thống trả thù lao từ năm 1934 có phải là hệ thống hợp lí hơn hay không, ngày 22 tháng 4 năm 1949, Hội đồng Bộ trưởng kí nghị định ủng hộ bản đề nghị và chia tác phẩm tạo hình thành ba hạng như đã nói ở trên [12] . Việc áp dụng các mức thù lao khác nhau cho tác phẩm văn chương được thảo luận trong cuộc gặp giữa Stalin, Molotov và Andrei Zhdanov và một nhóm các nhà lãnh đạo Hội Nhà văn vào tháng 5 năm 1947. Điều đặc biệt là Stalin ủng hộ hệ thống trả thù lao mới mặc dù Bộ Tài chính phản đối [13] .
Chân dung và tượng các nhà lãnh đạo Đảng được thực hiện theo đơn đặt hàng của chính phủ. Các thành viên Ban tổ chức của Hội Nghệ sĩ Tạo hình làm mọi cách để đảm bảo được trả công cao nhất bằng cách giữ độc quyền thực hiện các đơn đặt hàng của nhà nước. Tháng 11 năm 1950, hai nhà điêu khắc nổi tiếng là Evghenii Vychetich và S. S. Valerius đã trình Hội đồng Bộ trưởng dự thảo về việc “thiết lập một xưởng điêu khắc quốc gia dưới sự bảo trợ của Uỷ ban các nghệ sĩ ưu tú” để thực hiện các đơn đặt hàng quan trọng của nhà nước trong việc tạc tượng các nhà lãnh đạo Đảng. Không cần phải nói rằng hai nhà điêu khắc này cho rằng mình sẽ trở thành những người quản lí xưởng điêu khắc đó. Hội đồng Bộ trưởng cho rằng ý tưởng là tốt, nhưng lại nói rằng nếu họ đồng ý thì sẽ phải thành lập nhiều xưởng chứ không phải một. Theo Hội đồng, đề nghị đó chứng tỏ “Vichetich muốn nắm độc quyền, không có cạnh tranh” [14] . Đúng là như thế. Nhưng việc thành lập một số xưởng cũng không tạo ra nhiều cạnh tranh. Tất cả đều do các thành viên Uỷ ban tổ chức của Hội kiểm soát và theo các nghệ sĩ bình thường thì các xưởng này chỉ làm cho các nhà lãnh đạo Hội có thêm quyền lực để bóc lột họ mà thôi [15] . Trong lĩnh vực văn học, tình hình cũng diễn ra tương tự như thế. Cuối những năm 1940, thành viên ban thư kí Hội Nhà văn Liên Xô đã kiểm soát toàn bộ các ban biên tập của các tạp chí và hội đồng biên tập các nhà xuất bản văn học [16] .
Tóm lại, đối với những văn nghệ sĩ đã trở thành những nhà quản lí cao cấp trong các Hội thì giai đoạn từ năm 1946 đến đầu những năm 1950 không phải là “giai đoạn đen tối nhất của sự can thiệp của nhà nước” trong hoạt động của họ. Thay vào đó, đấy là giai đoạn mà họ đã giành được quyền kiểm soát toàn diện các sản phẩm văn hoá, cũng như quyền phân phối lợi ích vật chất và đặc quyền đặc lợi so với những người đồng nghiệp. Những văn nghệ sĩ này đã củng cố được địa vị của mình như là tầng lớp ưu tú nhất của xã hội. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số văn nghệ sĩ kém may mắn hơn, như ông giám đốc nghệ thuật nhà hát giao hưởng khu Drogobuzhskii đã nói ở trên, cho rằng đối với lãnh đạo Đảng/nhà nước thì việc đáp ứng đặc quyền đặc lợi của các văn nghệ sĩ giữ địa vị lãnh đạo quan trọng hơn là công tác tư tưởng.
Phản ứng của các hội viên
Từ cuối những năm 1940, các tổ chức văn học nghệ thuật đã định hình, theo đó sự thành công hay thất bại trong nghề nghiệp cũng như thu nhập của đa số hội viên không phụ thuộc quá nhiều vào sự độc đoán của Đảng nữa mà phụ thuộc chủ yếu vào sự độc đoán của ban thư kí của các Hội. Để có thể thăng tiến trong nghề nghiệp và đôi khi chỉ đơn giản là để sống còn, hội viên bình thường phải tìm kiếm sự bảo trợ của các nhà lãnh đạo Hội. Tình hình đó làm cho nhiều hội viên rất bất mãn và họ đã tìm cách kêu gọi Đảng/nhà nước can thiệp (thường là thất bại) để giảm bớt quyền lực của các nhà lãnh đạo Hội.
Sự chỉ trích quyền lực của các nhà lãnh đạo Hội xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1938. Năm đó Bộ Chính trị đã ra nghị quyết nội bộ về tệ đặc quyền đặc lợi, chỉ rõ rằng Đảng lo lắng về sự thoái hoá của tầng lớp trí thức Liên Xô [17] . Trong suốt lịch sử của mình, công dân Liên Xô thường sử dụng các chiến dịch chính thức để phá hoại ngầm quyền lực của những người mà họ ghen ghét hay cạnh tranh bằng cách báo động cho các nhà lãnh đạo chính trị rằng đối thủ của họ đã phạm những tội lỗi mà Đảng đang tìm cách chống lại. Văn nghệ sĩ không phải là ngoại lệ. Năm 1938 báo chí Liên Xô đã phản ánh sự chống đối của một số nhà văn về việc các thành viên chủ tịch đoàn Hội Nhà văn Liên Xô tập trung quá nhiều quyền lực trong tay và lợi dụng quyền lực đó để thu vén thêm nhiều đặc lợi [18] . Tuy vậy, những lời kêu ca đầu tiên đó thường chỉ nhằm chống lại những văn nghệ sĩ cụ thể chứ không phải nhằm chống lại toàn bộ hệ thống hoạt động của các Hội. Tương tự như thế, chiến dịch chống lại những người theo chủ nghĩa quốc tế đã được một số thành viên các Hội sử dụng để tấn công các cấp lãnh đạo Hội bằng cách kết án họ là có nguồn gốc Do Thái và có ý định phá hoại ngầm đời sống văn hoá Xô Viết bằng cách phân chia tiền bạc và các thù lao vật chất khác một cách không công bằng [19] .
Sự bất bình về địa vị của những người lãnh đạo các Hội còn nổi lên mạnh mẽ sau Hội nghị XIX vào tháng 10 năm 1952 và sau khi Stalin qua đời. Tại Hội nghị, Malenkov, Uỷ viên Bộ Chính trị, bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, được Stalin chỉ định đọc báo cáo chính, nói rằng trong lĩnh vực kinh tế, thói che giấu khuyết điểm cần phải được chấm dứt, tinh thần phê và tự phê cần phải được tăng cường nhắm đấu tranh chống lại những khuyết tật trong quản lí [20] . Bài phát biểu của Malenkov đánh dấu sự khởi đầu của một chiến dịch mới nhằm chống lại việc quản lí thiếu hiệu năng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, kể cả lĩnh vực văn học nghệ thuật. Hội nghị của các ban thư kí/ban tổ chức của các Hội được tổ chức sau Hội nghị Đảng đã chứng kiến lãnh đạo các Hội bị phê bình về tệ lạm dụng chức quyền. Trong những tháng đầu năm 1953, báo chí đã phát động chiến dịch chống lại “những kẻ quan liêu” trong các Hội văn học nghệ thuật. Họ bị lên án là đã lợi dụng vị trí của mình để bảo vệ lợi ích riêng và thiết lập quyền kiểm soát sự phân phối và trả thù lao cho các sản phẩm văn hoá [21] . Các bản tường thuật trên báo chí tạo ra cảm tưởng rằng chiến dịch đã được điều khiển và kiểm soát từ bên trên, chỉ với mục đích là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các Hội. Nhưng các tài liệu lưu trữ lại cung cấp cho ta một bức tranh hơi khác. Có vẻ như các bài tường thuật trên báo chí đã phản ánh đúng tâm trạng thất vọng của các Hội viên bình thường, những người đã lợi dụng cơ hội do bài phát biểu của Malenkov đem lại để thảo luận những vấn đề mà lúc đó họ cho là rất đáng lo. Trên thực tế, như sẽ được chứng minh sau đây, lãnh đạo Đảng và chính phủ đã không có bất cứ biện pháp đáng kể nào nhằm đối phó với những chỉ trích “từ dưới lên” được kích hoạt bởi chiến dịch phê phán việc quản lí thiếu hiệu năng do Đảng khởi xướng.
Mặc dù vẫn sử dụng những qui kết chính trị như người ta thường làm lúc đó, những lời phê phán của các hội viên giai đoạn đó cung cấp cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về vị trí siêu đặc quyền đặc lợi của các nhà lãnh đạo các Hội, chứ không phải là việc kết án từng cá nhân như những kẻ phá hoại đời sống văn hoá Liên Xô như đã từng diễn ra trong quá khứ. Họ đã cố gắng đưa ra đánh giá có phê phán hệ thống phân chia quyền lực và đặc quyền đặc lợi trong giới văn nghệ sĩ. Tháng 6 năm 1953, một họa sĩ ở Moskva, ông Vladimir Gaposhkin, đã viết thư cho các nhà lãnh đạo Đảng là Malenkov và Klement Voroshilov cũng như Bộ trưởng Bộ Văn hoá là P. K. Ponomarenko, phàn nàn về quyền lực quá lớn của Vychetich, Dmitri Nalbandian, Aleksandr Gerashimov, M. G. Minizer, Nikolai Tomskii, Georgii Motovilov và một số nghệ sĩ khác. Gaposhkin nhấn mạnh rằng tất cả những người đó đều là ủy viên ban tổ chức Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô. Họ là những người hưởng lợi chính sau khi hệ thống trả thù lao với những mức chênh lệch quá lớn được đem ra áp dụng, vì chính họ là những người tích cực nhất trong việc đúc tượng và vẽ chân dung các nhà lãnh đạo Đảng. Họ cũng là những người hưởng lợi chính trong việc tạo dựng các xưởng điêu khắc của Uỷ ban các nghệ sĩ ưu tú đã nói đến ở trên. Gaposhkin phàn nàn rằng các nghệ sĩ này đã “giành tất cả các đơn hàng chủ yếu của chính phủ”, bóc lột các nghệ sĩ trẻ, ép các nữ nghệ sĩ vào những quan hệ tình dục mà họ không muốn, và trên thực tế “đã biến các xưởng điêu khắc của họ thành các xí nghiệp tư nhân lớn”. Họ đã thiết lập được “các bộ máy quản lí riêng khá lớn, bao gồm các nhà quản lí, luật sư, một số hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, cán bộ kĩ thuật, v.v…” Một số nhà lãnh đạo Hội hoàn toàn không làm bất cứ thứ gì, họ chỉ việc gắn tên vào tác phẩm do những người khác thực hiện với mức lương tối thiểu do họ tự quyết định [22] . Gaposhkin khẳng định rằng tình hình của Hội giống chủ nghĩa tư bản hơn là chủ nghĩa xã hội vì các nhà lãnh đạo Hội thường được gọi là “đầu lĩnh”, trong khi các nghệ sĩ làm thuê thì được gọi là “mọi”. Để có thể tồn tại trong những điều kiện như thế, nhiều nghệ sĩ, nhất là các nghệ sĩ trẻ “buộc phải phát triển không phải tài năng nghệ thuật” mà là tài năng để được những người có ảnh hưởng đỡ đầu, đầu óc con buôn và thói ranh ma [23] .
Cũng khoảng thời gian đó, thi sĩ Ilia Selvinskii cũng gửi một bức thư tương tự cho Malenkov, phàn nàn về tình hình của Hội Nhà văn Liên Xô. Trong những năm 1930, Selvinskii đã nổi tiếng là một thi sĩ sáng tác rất nhanh, ông trở thành thành viên của một nhóm ưu tú, đặc quyền đặc lợi vừa mới nổi, cùng với một số văn nghệ sĩ khác được nhận căn hộ sang trọng trên phố Lavrushinskii. Nhưng cùng với sự phân hoá mạnh mẽ trong việc phân chia đặc quyền đặc lợi trong những năm 1940, lại không nằm trong thành phần ban thư kí hoặc trong bất kì cơ quan lãnh đạo nào khác của Hội Nhà văn, Selvinskii cảm thấy bị thua thiệt và rất phẫn nộ. Selvinskii mô tả hoạt động của Hội Nhà văn như sau: “Bầu không khí thật khác xa với không khí thi đua sáng tạo của những nghệ sĩ lớn của nền văn hoá Xô Viết; trên thực tế, đây là không khí cạnh tranh tư sản công khai burzhuaznziz konkurentsiia)”. Ông phàn nàn tiếp rằng các uỷ viên ban thư kí Hội Nhà văn, những người mà ông gọi là “đầu lĩnh văn chương” “kiểm soát và quản lí tất cả mọi việc (zpravlaiut)” trong Hội Nhà văn. Họ ngồi trong các ban biên tập các tạp chí và nhà xuất bản, và cả trong các hội đồng giải thưởng mang tên Stalin nữa. “Trừ một vài ngoại lệ, các nhân vật nòng cốt của ban thư kí Hội Nhà văn Liên Xô hành động như một công ty muốn bóp nghẹt mọi đối thủ cạnh tranh không nằm trong tổ chức của họ”. Công bố các bài phê bình những tác phẩm của họ là việc bất khả thi. Thay vào đó, các tác phẩm của họ và chỉ có của họ là thường xuyên được quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng Liên Xô. Theo Selvinskii, vì có nhiều nhà thơ viết về đề tài nông thôn có mặt trong ban thư kí nên chỉ có các nhà thơ hội viên khai thác cùng đề tài là có điều kiện phát triển mà thôi. “Tất cả các xu hướng khác trong lĩnh vực thi ca đều bị bóp nghẹt”. Hội Nhà văn Liên Xô, dưới hình thức như hiện nay, đã trở thành chướng ngại vật cho quá trình phát triển của nền văn học Xô viết, Selvinskii kết luận như thế. Ông không sợ nêu đích danh thủ phạm của tình trạng đó: Đấy là Phòng cổ động và tuyên truyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; từ những năm 1940 trở đi, Phòng này bắt đầu “lựa chọn khoảng một tá các nhà văn cánh hẩu và biến họ thành những đầu lĩnh văn hoá bằng cách giao cho họ quản lí tất cả các mặt của đời sống văn chương” [24] . Sử dụng các ngôn từ chính trị thông dụng hồi đó, Selvinskii kêu gọi lãnh đạo Đảng/nhà nước phát động cuộc đấu tranh chống lại “tệ sùng bái cá nhân” mà các nhà lãnh đạo Hội nhà văn đã tạo ra xung quanh mình.
Mặc dù những lời phê phán đó là một phần của chiến dịch do lãnh đạo Đảng giật dây, việc hạn chế quyền lực của các “đầu lĩnh văn hoá” đã chẳng làm được bao nhiêu. Các cuộc điều tra thường được tiến hành và đưa ra các báo cáo trình bày tình hình của các Hội. Các báo cáo cho rằng một số lời kết án là có giá trị và thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng về việc một số nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật có khả năng tạo ra các nhóm đầy quyền lực, bè cánh và phe phái, nói tóm lại, họ đã kiểm soát chặt chẽ hoạt động của văn nghệ sĩ mà không cần dựa vào sự lãnh đạo của Đảng nữa [25] . Nhưng người ta đã chẳng làm được bao nhiêu, nếu quả thật họ có làm, nhằm thay đổi tình hình. Ngoài một vài vụ bắt bớ hoặc sa thải một số cá nhân, trong đa số trường hợp, lãnh đạo Đảng không muốn thực hiện các biện pháp nhằm chống lại những nhà hoạt động văn hoá có vai vế, họ cũng không đưa ra cơ chế nào nhằm giải quyết những vấn đề của Hội do cấp dưới đưa ra. Ngay cả khi những lời phàn nàn được công nhận là có giá trị thì việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp cần thiết lại thường được giao cho lãnh đạo các Hội tự thực hiện, nghĩa là giao cho chính đối tượng bị phê bình. Thí dụ bản báo cáo do Bộ thanh tra nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Nga trình lên Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô liên quan đến đơn của Gaposhkin đã nhắc lại từ ngữ trong đơn và kết án “các đầu lĩnh” trong lĩnh vực văn hoá rằng họ đã “sử dụng lao động làm thuê”. Bảo báo cáo cũng nói rằng “do có nhiều quyền lực trong các Hội, họ (“các đầu lĩnh văn hoá”) đã phá hoại nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức việc làm cho rất nhiều hoạ sĩ và các nhà điêu khắc, nhằm làm giàu quá đáng cho các cá nhân [26] . Sau khi Hội đồng Bộ trưởng công nhận rằng đơn của Gasposhkin đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng thì Bộ thanh tra liền gửi công văn cho chính Chủ tịch Ban Chấp hành Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô [27] . Ông ta thật khó có thể là người không thiên vị trong việc thực hiện cuộc điều tra này.
Đặc quyền đặc lợi của các thành viên các cơ quan lãnh đạo các Hội, như Gaposhkin và Selvinskii mô tả, tiếp tục tạo ra sự chỉ trích của các hội viên [28] và trở thành đề tài thảo luận quan trọng nhất của giới văn nghệ sĩ giai đoạn perestroika. Năm 1986, tờ Moskovskii Literator, cơ quan ngôn luận của Hội nhà văm Moskva, chi nhánh của Hội nhà văn Liên Xô, đăng bài “Nhà văn có hài lòng không? (Dovolnny li pisateli)” [29] . Mặc dù công nhận phần lớn hội viên của Hội có những đặc quyền đặc lợi mà người dân bình thường không thể nào có được, bài báo cũng khẳng định rằng nhiều hội viên rất bất mãn. Điều đó trước hết là do một số nhà văn, mà cụ thể là những người nắm giữ các vị trí quản lí chủ chốt có quyền lợi cao hơn hẳn các hội viên thường, và trên thực tế đã nắm độc quyền kiểm soát các nhà xuất bản văn học Liên Xô. Cái làm cho hầu hết các nhà văn bất mãn nhất không phải là việc những người lãnh đạo Hội thay mặt Đảng cấm xuất bản các tác phẩm của những nhà văn chống đối, mà là việc tác phẩm của chính họ đã thống lĩnh nền công nghiệp xuất bản và các tạp chí văn học định kì bất chấp giá trị nghệ thuật của các tác phẩm đó, và việc họ kiểm soát việc phân phối thù lao bằng tiền và bằng các quyền lợi vật chất khác cho giới trí thức Liên Xô. Những hội viên có tư tưởng tự do ủng hộ công cuộc cải cách của Gorbachev không muốn giải thể các Hội được bao cấp một cách rất hào phóng mà chỉ muốn giành lấy quyền lãnh đạo vào tay mình và làm cho các cơ quan lãnh đạo của Hội có trách nhiệm hơn đối với các hội viên mà thôi. Đấy chính là trường hợp của Uỷ ban “những nhà văn ủng hộ perestroika” (thường được gọi là Uỷ ban tháng Tư) được một nhóm nhà văn thành lập ở Moskva vào năm 1989. Uỷ ban này đã giành được sự ủng hộ rộng rãi của các hội viên (chỉ trong bốn ngày đầu đã có 322 người tham gia) là vì Chủ tịch của nó, ông Anatolii Pristavkin, một người thành danh vì tác phẩm chống chủ nghĩa Stalin có tên A Small Golden Cloud Spent the Night, tuyên bố rằng ông ta không có ý định giải tán Hội Nhà văn. Ngược lại, tổ chức của ông ta chỉ muốn huỷ bỏ độc quyền của “các đầu lĩnh văn hoá” và làm cho Hội Nhà văn trở thành tổ chức đáp ứng các nhu cầu của các hội viên bình thường mà thôi [30] .
Kết luận
Tại sao giới lãnh đạo chính trị Liên Xô lại giành cho một nhóm nhỏ các nhà hoạt động văn hoá văn nghệ đặc quyền đặc lợi rộng rãi như vậy? Như bức thư của Selvinskii đã chỉ rõ, một số hội viên trong giới văn nghệ sĩ tin rằng điều đó phản ánh bước đi có tính toán của một số nhà lãnh đạo Đảng. Có thể Selvinskii nói đúng. Ngay trước khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã nói trong cuộc gặp với ông V. Komarov, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, rằng “những người trí thức Liên Xô, thông qua công tác đầy sáng kiến của họ, đã góp phần vào chiến thắng chống quân thù” [31] . Vì vậy người ta có quyền hi vọng vào sự tưởng thưởng cho những đóng góp mà vị lãnh tụ đã công nhận. Thực vậy, có bằng chứng chứng tỏ rằng năm 1947 Stalin đã chống lại Bộ Tài chính và đứng về phía giới thượng lưu văn hoá văn nghệ khi những người này đòi hỏi đặc quyền đặc lợi [32] . Những người đại diện có chọn lọc của tất cả các nhóm thuộc giới trí thức Liên Xô đều được lợi. Thời hậu chiến chứng kiến sự tăng cường đáng kể quyền lực và đặc quyền đặc lợi của các thành viên chủ tịch đoàn Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô cũng như giám đốc các Viện trực thuộc Viện Hàn lâm. Đặc quyền đặc lợi mới này cũng y hệt như của những người lãnh đạo các Hội văn học nghệ thuật [33] . Theo Nikolai Klementsov, đến năm 1948, quyền lực của giám đốc các Viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học đã lớn đến mức họ có thể sử dụng các buổi hội nghị bàn về tư tưởng được tổ chức trong tất cả các tổ chức của Viện Hàn lâm sau kì họp của VASKHNIL vào tháng 8 năm 1948 để tái khẳng định quyền kiểm soát đối với các học viện và hoàn thành “việc bành trướng về tổ chức và kỉ luật” [34] . Chính vì vậy mà trong giai đoạn perestroika, nhiều uỷ viên đoàn chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học đã hành động tương tự như uỷ viên Ban thư kí các Hội văn học nghệ thuật. Trong tháng 8 năm 1991, “Lãnh đạo Viện hàn lâm… cùng với những người bảo thủ đứng đầu Hội Nhà văn nằm trong một số ít các nhà trí thức của đất nước Xô Viết đang hấp hối ủng hộ cái trật tự đã lỗi thời” [35] .
Có vẻ như những gì diễn ra trong hàng ngũ lãnh đạo của giới trí thức khoa học và văn nghệ sĩ trong giai đoạn hậu chiến là một phần của cái mà Vera Dunham gọi là “Một canh bạc vĩ đại” giữa lãnh đạo Đảng/nhà nước và một vài thành phần của xã hội Xô Viết [36] . Bà nhận thấy rằng trong giai đoạn hậu chiến, việc đàn áp khốc liệt về chính trị và tư tưởng không phải là chính sách duy nhất do nhà nước thực hiện. Việc đàn áp luôn đi kèm với những cố gắng nhằm ve vãn những nhóm xã hội mà chế độ coi là những đối tác quan trọng trong quá trình tái thiết quốc gia. Dunham nhận dạng một nhóm đặc biệt mà bà gọi là “giai cấp trung lưu” có tay nghề, đặc biệt là các kĩ sư, bác sĩ, các viên chức bậc trung. Bà mô tả những người này là “nằm bên dưới các quan chức cấp cao và tầng lớp thượng lưu trí thức, nhưng lại ở trên những viên chức bình thường và các công nhân nhà máy, các công nhân nông trường và những mậu dịch viên bình thường khác” [37] . Mặc dù vậy, có vẻ như trên thực tế giới thượng lưu trí thức, những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức có liên quan cũng tham gia vào vụ làm ăn nói trên. Vụ làm ăn chứng tỏ đã thành công: Lãnh đạo cao nhất của các văn nghệ sĩ đã trở thành những người ủng hộ tích cực nhất của chế độ và chính sách của Stalin ngay cả khi những chính sách này đã bị ban lãnh đạo mới của Đảng cộng sản tấn công. Trên thực tế, trong tâm trí của các uỷ viên ban lãnh đạo các Hội, thời hậu chiến không chỉ là giai đoạn đàn áp khốc liệt về tư tưởng mà còn là thời kì vàng son, đấy là thời kì họ có nhiều đặc quyền đặc lợi và được độc lập một cách tương đối đối với Đảng. Nhưng từ quan điểm ổn định của chế độ thì chính sách cho phép một số thành phần được lựa chọn trong giới văn nghệ sĩ gia nhập vào hàng ngũ thượng lưu của chế độ lại là một thất bại nghiêm trọng. Đặc quyền đặc lợi của “các đầu lĩnh văn hoá” tạo ra mâu thuẫn đối kháng với các trí thức bình thường và kích hoạt, bên cạnh những nguyên nhân khác, sự chống đối của họ đối với hệ thống Xô Viết.
Lời cuối: Tôi xin cám ơn Oleg Khlevniuk, người đã giúp tôi chuẩn bị tài liệu, và Yoram Gorlizki, Stephen Lovell, Susan E. Reid và những người đã tham gia cuộc Hội thảo về lịch sử kinh tế và xã hội được tổ chức tại Trung tâm nghiên cứu Nga và Đông Âu, thuộc trường đại học Birmingham, về những đề nghị và nhận xét của họ.
Có rất nhiều văn nghệ sĩ yêu cầu lãnh đạo Hội đồng dân uỷ/Hội đồng bộ trưởng cung cấp cho họ xe con vì ngay sau chiến tranh, phương tiện vận tải công cộng hoạt động không được tốt, hoặc vì xe họ nhận hồi những năm 1930 đã được xung công cho mục đích quốc phòng hồi năm 1941. Thí dụ trong thư đề ngày 21 tháng 6 năm 1945 gửi Molotov, phó Chủ tịch Hội đồng dân uỷ, viện sĩ Konstantin Skrobanskii phàn nàn như sau: “Sử dụng phương tiện giao thông công cộng gây cho tôi nhiều phiền toái. Hơn nữa nếu có xe riêng thì tôi sẽ thường xuyên đến được nhà nghỉ (dacha) của tôi ở ngoại ô hơn. Kính đề nghị đồng chí giúp đỡ”. Trong cặp hồ sơ này có yêu cầu tương tự của diễn viên ở Leningrad tên là Iurii Iurev [1] . Tháng 11 năm 1945, nhà văn nổi tiếng Kornei Chukovskii cũng viết một thư gửi Hội đồng dân uỷ để xin xe. Nhằm nhấn mạnh trường hợp của mình, Chkovskii viết: “Những người láng giềng của tôi (Konstantin Smirnov, N. Pogodin, P. Pavlenko, Valentin Kataev và những người khác) đều có xe ở nhà nghỉ”. Tháng 2 năm 1949, một nghệ sĩ ở Kiev tên là Kh. Pumipenko đề nghị Molotov giúp ông ta mua máy nổ và các thiết bị thay thế khác cho chiếc thuyền của ông ta [2] .
Người ta còn yêu cầu giúp đỡ khôi phục lại tài sản bị tàn phá trong thời kì chiến tranh. Ngày 21 tháng 5 năm 1945 Sergei Mikhalkov gửi thư cho Molotov, đề nghị giúp xây dựng lại nhà nghỉ của mình, lấy lí do là chỉ có cấp cao nhất của chính phủ mới giúp ông ta có được số vật tư cần thiết [3] . Một nghệ sĩ nổi tiếng là Vasilii Kachalov và nữ ca sĩ Valeriia Barsova còn gửi kèm cả danh sách các vật tư cần thiết để xây dựng lại nhà nghỉ, gồm cả đinh và bóng đèn [4] . Cuối năm 1945, một nhóm diễn viên khác đã yêu cầu Aleksei Kosygin, phó Chủ tịch Hội đồng dân uỷ, cung cấp cho họ bồn tắm có tráng men và bồn cầu [5] . Một nhóm các diễn viên ballet nổi tiếng, trong đó có Galina Ulanova và Maia Plisetskaia, đã đề nghị chính Stalin giúp đỡ xây dựng khu nhà ở cho họ ở trung tâm Moskva [6] .
Thời hậu chiến, số văn nghệ sĩ gửi thư trực tiếp cho các quan chức Đảng/nhà nước đề nghị giúp đỡ về mặt vật chất nhiều hơn hẳn so với những năm 1930. Có nhiều đề nghị như thế là do giai đoạn này quá nghèo túng. Nhưng điều đó còn cho thấy rằng tầng lớp văn nghệ sĩ ưu tú cảm thấy được quyền có một mức sống nhất định, mức sống đó đã bị chiến tranh tàn phá, và nay họ muốn khôi phục càng nhanh càng tốt. Thường thì tác giả các bức thư ghi rõ chức danh, các giải thưởng đã nhận và những thành tựu khác mà họ đã đạt được để tăng cường hiệu lực cho lời thỉnh cầu của họ.
Thái độ của các quan chức của Đảng/nhà nước tất nhiên là khác nhau với mỗi trường hợp. Ngay trong những năm 1930 đã không có đủ hàng hoá để đáp ứng nhu cầu mà giới trí thức Xô viết được quyền hưởng. Thời kì hậu chiến, sự thiếu hụt còn gay gắt hơn, trong khi đòi hỏi của các văn nghệ sĩ lại tăng lên. Sự ganh đua trong việc đòi đặc quyền đặc lợi càng quyết liệt hơn. Hai tiêu chí xác định xem yêu cầu có được đáp ứng hay không: sự nổi tiếng và hộ khẩu nằm ở trung tâm (Moskva hay Leningrad). Trong nhiều trường hợp, cả hai tiêu chí kết hợp. Yêu cầu của những người nổi tiếng được giải quyết nhanh đến không ngờ. Thí dụ ngày 5 tháng 5 năm 1952, nhà văn Fedor Gladkov viết thư cho Hội đồng bộ trưởng xin cho con ông ta căn hộ hai phòng ở Moskva. Ngày 9 tháng 5 Hội đồng bộ trưởng đồng ý và Xô viết thành phố Moskva phân căn hộ đặc biệt vào ngày 28 tháng 6 [7] . Nhưng không phải ai cũng gặp may như thế. Trong khi những người nổi tiếng ở Moskva và Leningrad đều nhận được ô tô, đèn và bồn tắm như họ đề nghị, thì người diễn viên ở Ukraine đã nói đến trên kia lại không được phân phối bộ phận thay thế cho con thuyền của ông ta.
Trên thực tế, trong giai đoạn hậu chiến, các văn nghệ sĩ ở các tỉnh thường phàn nàn với lãnh đạo Đảng/chính phủ rằng các nguồn lực chủ yếu đều tập trung ở Moskva và Leningrad, còn họ thì bị coi là hạ đẳng [8] . Vì thế năm 1951, Giám đốc nghệ thuật nhà hát giao hưởng khu Drogobushskii ở Ukraine đã trực tiếp viết cho Stalin: “Phải công nhận một cách công khai rằng Uỷ ban các Nghệ sĩ ưu tú toàn Liên bang chỉ chú ý đến công tác quản lí nghệ thuật ở Moskva và Leningrad và chẳng hiểu gì về các sự kiện đang diễn ra ở Simpheropol và Astrakhan cả”. Tác giả của bức thư còn cho rằng Uỷ ban chỉ quan tâm đến vấn đề tài chính và vật chất mà không quan tâm đến lĩnh vực tư tưởng. Ông ta nói rằng “đặc biệt ở miến tây Ukraine và Bạch Nga đã tồn tại các vấn đề tư tưởng nghiêm trọng trên mặt trận văn hoá văn nghệ”, nhưng Uỷ ban hoàn toàn phớt lờ khu vực này [9] .
Bên cạnh sự kiện là trong giai đoạn hậu chiến các văn nghệ sĩ mất nhiều thời gian vận động (lobby) các nhà lãnh đạo chính trị giúp họ khôi phục hoặc cải thiện điều kiện sống mà họ đã có trước đây nhưng đã bị chiến tranh tàn phá thì một diễn biến khác chứng minh rằng đây là giai đoạn quan trọng trong quan hệ giữa Đảng và văn nghệ sĩ và giữa các văn nghệ sĩ với nhau. Đấy là giai đoạn hoàn tất sự kiểm soát của những người lãnh đạo các Hội đối với hoạt động nghề nghiệp và khả năng tự đảm bảo và nắm giữ các đặc quyền đặc lợi của họ mà không cần thường xuyên yêu cầu các quan chức tối cao của Đảng/nhà nước giúp đỡ nữa.
Từ cuối những năm 1940 trở đi, uỷ viên ban thư kí các Hội bắt đầu vận động chính phủ trả cho họ mức thù lao vật chất dưới hình thức tiền lương cực kì cao. Quyền lợi mới này được gắn với một chức vụ nhất định, người giữ chức vụ đó có thể thay đổi theo thời gian, chứ không phải được xác định bởi thành tích cá nhân và/hoặc bởi mức độ thân thiện của cá nhân đó với các viên chức của Đảng/nhà nước. Một đòi hỏi nữa là đưa ra sự chênh lệch đáng kể về tiền công trả cho những sản phẩm văn hoá khác nhau. Đồng thời, thành viên các ban thư kí và ban chấp hành cố gắng đảm bảo rằng họ được độc quyền trong việc tạo ra các sản phẩm nằm trong tiêu chuẩn trả thù lao cao nhất.
Vì thế năm 1948, các nhà lãnh đạo Hội Nhà văn và Hội Nhạc sĩ Liên Xô đã vận động chính phủ thông qua mức lương đặc biệt đối với họ. Mức lương này cao hơn mức lương trước đây rất nhiều. Tháng 4 năm 1948, Hội đồng Bộ trưởng đồng ý cho 15 người thuộc Hội Nhạc sĩ Liên Xô được nhận mức lương đó và đến tháng 11 thì tăng lên thành 25 người [10] . Tháng 5 năm 1948, rất nhiều người trong ban lãnh đạo Hội Nhà văn cũng được ưu đãi như thế. Các yêu cầu này được thông qua một cách dễ dàng.
Một đòi hỏi khác lại gây nhiều tranh cãi. Năm 1947, lãnh đạo Hội Nhạc sĩ gửi thỉnh nguyện thư cho Hội đồng Bộ trưởng, phàn nàn rằng hệ thống được xác định vào năm 1934, theo đó Uỷ ban nghệ sĩ ưu tú thuộc Hội đồng dân uỷ/Hội đồng bộ trưởng đặt ra mức thù lao đồng hạng “không tính đến giá trị nghệ thuật và tư tưởng của tác phẩm” là sai và cần phải được thay đổi. Hệ thống mới sẽ kích thích sự sáng tạo các vở opera, các vở ballet và kịch nói hoành tráng. Theo quan điểm của các tác giả thỉnh nguyện thư thì các thể loại này nghiễm nhiên được coi là có giá trị nghệ thuật và tư tưởng cao nhất. Các thể loại khác sẽ được đánh giá về mặt nghệ thuật và tư tưởng và được phân theo ba hạng là xuất sắc, tốt và chấp nhận được. Tác giả sẽ được nhận thù lao tương ứng với vị trí xếp hạng của tác phẩm. Quyền đánh giá tác phẩm là của lãnh đạo Hội [11] . Tài liệu chứng tỏ rằng ban đầu Bộ Tài chính Liên Xô phản đối sự phân biệt về thù lao như thế và đặc biệt chống lại việc tăng đột ngột tiền thù lao cho các nhạc phẩm hoành tráng. Bộ còn viện dẫn nghị quyết ngày 16 tháng 9 năm 1946 của Hội đồng Bộ trưởng về việc cấm tăng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tiền lương và tiền công. Mặc dù vậy, cuối cùng lãnh đạo Hội đã giành được sự ủng hộ của Hội đồng bộ trưởng. Tháng 5 năm 1950, Hội đồng Bộ trưởng đã kí nghị định áp dụng các mức thù lao khác nhau.
Năm 1949, Ban tổ chức (orgkomitet) của Hội Nghệ sĩ tạo hình Liên Xô cũng trình lên lãnh đạo một yêu cầu tương tự. Họ đề nghị các “tác phẩm tạo hình xuất sắc”, đặc biệt là chân dung và tượng của các nhà lãnh đạo Đảng phải được “trả thù lao ở mức cao hơn”. Một lần nữa, sau một thời gian do dự và tranh luận xem hệ thống trả thù lao từ năm 1934 có phải là hệ thống hợp lí hơn hay không, ngày 22 tháng 4 năm 1949, Hội đồng Bộ trưởng kí nghị định ủng hộ bản đề nghị và chia tác phẩm tạo hình thành ba hạng như đã nói ở trên [12] . Việc áp dụng các mức thù lao khác nhau cho tác phẩm văn chương được thảo luận trong cuộc gặp giữa Stalin, Molotov và Andrei Zhdanov và một nhóm các nhà lãnh đạo Hội Nhà văn vào tháng 5 năm 1947. Điều đặc biệt là Stalin ủng hộ hệ thống trả thù lao mới mặc dù Bộ Tài chính phản đối [13] .
Chân dung và tượng các nhà lãnh đạo Đảng được thực hiện theo đơn đặt hàng của chính phủ. Các thành viên Ban tổ chức của Hội Nghệ sĩ Tạo hình làm mọi cách để đảm bảo được trả công cao nhất bằng cách giữ độc quyền thực hiện các đơn đặt hàng của nhà nước. Tháng 11 năm 1950, hai nhà điêu khắc nổi tiếng là Evghenii Vychetich và S. S. Valerius đã trình Hội đồng Bộ trưởng dự thảo về việc “thiết lập một xưởng điêu khắc quốc gia dưới sự bảo trợ của Uỷ ban các nghệ sĩ ưu tú” để thực hiện các đơn đặt hàng quan trọng của nhà nước trong việc tạc tượng các nhà lãnh đạo Đảng. Không cần phải nói rằng hai nhà điêu khắc này cho rằng mình sẽ trở thành những người quản lí xưởng điêu khắc đó. Hội đồng Bộ trưởng cho rằng ý tưởng là tốt, nhưng lại nói rằng nếu họ đồng ý thì sẽ phải thành lập nhiều xưởng chứ không phải một. Theo Hội đồng, đề nghị đó chứng tỏ “Vichetich muốn nắm độc quyền, không có cạnh tranh” [14] . Đúng là như thế. Nhưng việc thành lập một số xưởng cũng không tạo ra nhiều cạnh tranh. Tất cả đều do các thành viên Uỷ ban tổ chức của Hội kiểm soát và theo các nghệ sĩ bình thường thì các xưởng này chỉ làm cho các nhà lãnh đạo Hội có thêm quyền lực để bóc lột họ mà thôi [15] . Trong lĩnh vực văn học, tình hình cũng diễn ra tương tự như thế. Cuối những năm 1940, thành viên ban thư kí Hội Nhà văn Liên Xô đã kiểm soát toàn bộ các ban biên tập của các tạp chí và hội đồng biên tập các nhà xuất bản văn học [16] .
Tóm lại, đối với những văn nghệ sĩ đã trở thành những nhà quản lí cao cấp trong các Hội thì giai đoạn từ năm 1946 đến đầu những năm 1950 không phải là “giai đoạn đen tối nhất của sự can thiệp của nhà nước” trong hoạt động của họ. Thay vào đó, đấy là giai đoạn mà họ đã giành được quyền kiểm soát toàn diện các sản phẩm văn hoá, cũng như quyền phân phối lợi ích vật chất và đặc quyền đặc lợi so với những người đồng nghiệp. Những văn nghệ sĩ này đã củng cố được địa vị của mình như là tầng lớp ưu tú nhất của xã hội. Không có gì đáng ngạc nhiên khi một số văn nghệ sĩ kém may mắn hơn, như ông giám đốc nghệ thuật nhà hát giao hưởng khu Drogobuzhskii đã nói ở trên, cho rằng đối với lãnh đạo Đảng/nhà nước thì việc đáp ứng đặc quyền đặc lợi của các văn nghệ sĩ giữ địa vị lãnh đạo quan trọng hơn là công tác tư tưởng.
Phản ứng của các hội viên
Từ cuối những năm 1940, các tổ chức văn học nghệ thuật đã định hình, theo đó sự thành công hay thất bại trong nghề nghiệp cũng như thu nhập của đa số hội viên không phụ thuộc quá nhiều vào sự độc đoán của Đảng nữa mà phụ thuộc chủ yếu vào sự độc đoán của ban thư kí của các Hội. Để có thể thăng tiến trong nghề nghiệp và đôi khi chỉ đơn giản là để sống còn, hội viên bình thường phải tìm kiếm sự bảo trợ của các nhà lãnh đạo Hội. Tình hình đó làm cho nhiều hội viên rất bất mãn và họ đã tìm cách kêu gọi Đảng/nhà nước can thiệp (thường là thất bại) để giảm bớt quyền lực của các nhà lãnh đạo Hội.
Sự chỉ trích quyền lực của các nhà lãnh đạo Hội xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1938. Năm đó Bộ Chính trị đã ra nghị quyết nội bộ về tệ đặc quyền đặc lợi, chỉ rõ rằng Đảng lo lắng về sự thoái hoá của tầng lớp trí thức Liên Xô [17] . Trong suốt lịch sử của mình, công dân Liên Xô thường sử dụng các chiến dịch chính thức để phá hoại ngầm quyền lực của những người mà họ ghen ghét hay cạnh tranh bằng cách báo động cho các nhà lãnh đạo chính trị rằng đối thủ của họ đã phạm những tội lỗi mà Đảng đang tìm cách chống lại. Văn nghệ sĩ không phải là ngoại lệ. Năm 1938 báo chí Liên Xô đã phản ánh sự chống đối của một số nhà văn về việc các thành viên chủ tịch đoàn Hội Nhà văn Liên Xô tập trung quá nhiều quyền lực trong tay và lợi dụng quyền lực đó để thu vén thêm nhiều đặc lợi [18] . Tuy vậy, những lời kêu ca đầu tiên đó thường chỉ nhằm chống lại những văn nghệ sĩ cụ thể chứ không phải nhằm chống lại toàn bộ hệ thống hoạt động của các Hội. Tương tự như thế, chiến dịch chống lại những người theo chủ nghĩa quốc tế đã được một số thành viên các Hội sử dụng để tấn công các cấp lãnh đạo Hội bằng cách kết án họ là có nguồn gốc Do Thái và có ý định phá hoại ngầm đời sống văn hoá Xô Viết bằng cách phân chia tiền bạc và các thù lao vật chất khác một cách không công bằng [19] .
Sự bất bình về địa vị của những người lãnh đạo các Hội còn nổi lên mạnh mẽ sau Hội nghị XIX vào tháng 10 năm 1952 và sau khi Stalin qua đời. Tại Hội nghị, Malenkov, Uỷ viên Bộ Chính trị, bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, được Stalin chỉ định đọc báo cáo chính, nói rằng trong lĩnh vực kinh tế, thói che giấu khuyết điểm cần phải được chấm dứt, tinh thần phê và tự phê cần phải được tăng cường nhắm đấu tranh chống lại những khuyết tật trong quản lí [20] . Bài phát biểu của Malenkov đánh dấu sự khởi đầu của một chiến dịch mới nhằm chống lại việc quản lí thiếu hiệu năng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, kể cả lĩnh vực văn học nghệ thuật. Hội nghị của các ban thư kí/ban tổ chức của các Hội được tổ chức sau Hội nghị Đảng đã chứng kiến lãnh đạo các Hội bị phê bình về tệ lạm dụng chức quyền. Trong những tháng đầu năm 1953, báo chí đã phát động chiến dịch chống lại “những kẻ quan liêu” trong các Hội văn học nghệ thuật. Họ bị lên án là đã lợi dụng vị trí của mình để bảo vệ lợi ích riêng và thiết lập quyền kiểm soát sự phân phối và trả thù lao cho các sản phẩm văn hoá [21] . Các bản tường thuật trên báo chí tạo ra cảm tưởng rằng chiến dịch đã được điều khiển và kiểm soát từ bên trên, chỉ với mục đích là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của các Hội. Nhưng các tài liệu lưu trữ lại cung cấp cho ta một bức tranh hơi khác. Có vẻ như các bài tường thuật trên báo chí đã phản ánh đúng tâm trạng thất vọng của các Hội viên bình thường, những người đã lợi dụng cơ hội do bài phát biểu của Malenkov đem lại để thảo luận những vấn đề mà lúc đó họ cho là rất đáng lo. Trên thực tế, như sẽ được chứng minh sau đây, lãnh đạo Đảng và chính phủ đã không có bất cứ biện pháp đáng kể nào nhằm đối phó với những chỉ trích “từ dưới lên” được kích hoạt bởi chiến dịch phê phán việc quản lí thiếu hiệu năng do Đảng khởi xướng.
Mặc dù vẫn sử dụng những qui kết chính trị như người ta thường làm lúc đó, những lời phê phán của các hội viên giai đoạn đó cung cấp cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về vị trí siêu đặc quyền đặc lợi của các nhà lãnh đạo các Hội, chứ không phải là việc kết án từng cá nhân như những kẻ phá hoại đời sống văn hoá Liên Xô như đã từng diễn ra trong quá khứ. Họ đã cố gắng đưa ra đánh giá có phê phán hệ thống phân chia quyền lực và đặc quyền đặc lợi trong giới văn nghệ sĩ. Tháng 6 năm 1953, một họa sĩ ở Moskva, ông Vladimir Gaposhkin, đã viết thư cho các nhà lãnh đạo Đảng là Malenkov và Klement Voroshilov cũng như Bộ trưởng Bộ Văn hoá là P. K. Ponomarenko, phàn nàn về quyền lực quá lớn của Vychetich, Dmitri Nalbandian, Aleksandr Gerashimov, M. G. Minizer, Nikolai Tomskii, Georgii Motovilov và một số nghệ sĩ khác. Gaposhkin nhấn mạnh rằng tất cả những người đó đều là ủy viên ban tổ chức Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô. Họ là những người hưởng lợi chính sau khi hệ thống trả thù lao với những mức chênh lệch quá lớn được đem ra áp dụng, vì chính họ là những người tích cực nhất trong việc đúc tượng và vẽ chân dung các nhà lãnh đạo Đảng. Họ cũng là những người hưởng lợi chính trong việc tạo dựng các xưởng điêu khắc của Uỷ ban các nghệ sĩ ưu tú đã nói đến ở trên. Gaposhkin phàn nàn rằng các nghệ sĩ này đã “giành tất cả các đơn hàng chủ yếu của chính phủ”, bóc lột các nghệ sĩ trẻ, ép các nữ nghệ sĩ vào những quan hệ tình dục mà họ không muốn, và trên thực tế “đã biến các xưởng điêu khắc của họ thành các xí nghiệp tư nhân lớn”. Họ đã thiết lập được “các bộ máy quản lí riêng khá lớn, bao gồm các nhà quản lí, luật sư, một số hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, cán bộ kĩ thuật, v.v…” Một số nhà lãnh đạo Hội hoàn toàn không làm bất cứ thứ gì, họ chỉ việc gắn tên vào tác phẩm do những người khác thực hiện với mức lương tối thiểu do họ tự quyết định [22] . Gaposhkin khẳng định rằng tình hình của Hội giống chủ nghĩa tư bản hơn là chủ nghĩa xã hội vì các nhà lãnh đạo Hội thường được gọi là “đầu lĩnh”, trong khi các nghệ sĩ làm thuê thì được gọi là “mọi”. Để có thể tồn tại trong những điều kiện như thế, nhiều nghệ sĩ, nhất là các nghệ sĩ trẻ “buộc phải phát triển không phải tài năng nghệ thuật” mà là tài năng để được những người có ảnh hưởng đỡ đầu, đầu óc con buôn và thói ranh ma [23] .
Cũng khoảng thời gian đó, thi sĩ Ilia Selvinskii cũng gửi một bức thư tương tự cho Malenkov, phàn nàn về tình hình của Hội Nhà văn Liên Xô. Trong những năm 1930, Selvinskii đã nổi tiếng là một thi sĩ sáng tác rất nhanh, ông trở thành thành viên của một nhóm ưu tú, đặc quyền đặc lợi vừa mới nổi, cùng với một số văn nghệ sĩ khác được nhận căn hộ sang trọng trên phố Lavrushinskii. Nhưng cùng với sự phân hoá mạnh mẽ trong việc phân chia đặc quyền đặc lợi trong những năm 1940, lại không nằm trong thành phần ban thư kí hoặc trong bất kì cơ quan lãnh đạo nào khác của Hội Nhà văn, Selvinskii cảm thấy bị thua thiệt và rất phẫn nộ. Selvinskii mô tả hoạt động của Hội Nhà văn như sau: “Bầu không khí thật khác xa với không khí thi đua sáng tạo của những nghệ sĩ lớn của nền văn hoá Xô Viết; trên thực tế, đây là không khí cạnh tranh tư sản công khai burzhuaznziz konkurentsiia)”. Ông phàn nàn tiếp rằng các uỷ viên ban thư kí Hội Nhà văn, những người mà ông gọi là “đầu lĩnh văn chương” “kiểm soát và quản lí tất cả mọi việc (zpravlaiut)” trong Hội Nhà văn. Họ ngồi trong các ban biên tập các tạp chí và nhà xuất bản, và cả trong các hội đồng giải thưởng mang tên Stalin nữa. “Trừ một vài ngoại lệ, các nhân vật nòng cốt của ban thư kí Hội Nhà văn Liên Xô hành động như một công ty muốn bóp nghẹt mọi đối thủ cạnh tranh không nằm trong tổ chức của họ”. Công bố các bài phê bình những tác phẩm của họ là việc bất khả thi. Thay vào đó, các tác phẩm của họ và chỉ có của họ là thường xuyên được quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng Liên Xô. Theo Selvinskii, vì có nhiều nhà thơ viết về đề tài nông thôn có mặt trong ban thư kí nên chỉ có các nhà thơ hội viên khai thác cùng đề tài là có điều kiện phát triển mà thôi. “Tất cả các xu hướng khác trong lĩnh vực thi ca đều bị bóp nghẹt”. Hội Nhà văn Liên Xô, dưới hình thức như hiện nay, đã trở thành chướng ngại vật cho quá trình phát triển của nền văn học Xô viết, Selvinskii kết luận như thế. Ông không sợ nêu đích danh thủ phạm của tình trạng đó: Đấy là Phòng cổ động và tuyên truyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; từ những năm 1940 trở đi, Phòng này bắt đầu “lựa chọn khoảng một tá các nhà văn cánh hẩu và biến họ thành những đầu lĩnh văn hoá bằng cách giao cho họ quản lí tất cả các mặt của đời sống văn chương” [24] . Sử dụng các ngôn từ chính trị thông dụng hồi đó, Selvinskii kêu gọi lãnh đạo Đảng/nhà nước phát động cuộc đấu tranh chống lại “tệ sùng bái cá nhân” mà các nhà lãnh đạo Hội nhà văn đã tạo ra xung quanh mình.
Mặc dù những lời phê phán đó là một phần của chiến dịch do lãnh đạo Đảng giật dây, việc hạn chế quyền lực của các “đầu lĩnh văn hoá” đã chẳng làm được bao nhiêu. Các cuộc điều tra thường được tiến hành và đưa ra các báo cáo trình bày tình hình của các Hội. Các báo cáo cho rằng một số lời kết án là có giá trị và thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng về việc một số nhà hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật có khả năng tạo ra các nhóm đầy quyền lực, bè cánh và phe phái, nói tóm lại, họ đã kiểm soát chặt chẽ hoạt động của văn nghệ sĩ mà không cần dựa vào sự lãnh đạo của Đảng nữa [25] . Nhưng người ta đã chẳng làm được bao nhiêu, nếu quả thật họ có làm, nhằm thay đổi tình hình. Ngoài một vài vụ bắt bớ hoặc sa thải một số cá nhân, trong đa số trường hợp, lãnh đạo Đảng không muốn thực hiện các biện pháp nhằm chống lại những nhà hoạt động văn hoá có vai vế, họ cũng không đưa ra cơ chế nào nhằm giải quyết những vấn đề của Hội do cấp dưới đưa ra. Ngay cả khi những lời phàn nàn được công nhận là có giá trị thì việc nghiên cứu và thực hiện các biện pháp cần thiết lại thường được giao cho lãnh đạo các Hội tự thực hiện, nghĩa là giao cho chính đối tượng bị phê bình. Thí dụ bản báo cáo do Bộ thanh tra nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Nga trình lên Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô liên quan đến đơn của Gaposhkin đã nhắc lại từ ngữ trong đơn và kết án “các đầu lĩnh” trong lĩnh vực văn hoá rằng họ đã “sử dụng lao động làm thuê”. Bảo báo cáo cũng nói rằng “do có nhiều quyền lực trong các Hội, họ (“các đầu lĩnh văn hoá”) đã phá hoại nguyên tắc xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức việc làm cho rất nhiều hoạ sĩ và các nhà điêu khắc, nhằm làm giàu quá đáng cho các cá nhân [26] . Sau khi Hội đồng Bộ trưởng công nhận rằng đơn của Gasposhkin đặt ra nhiều vấn đề nghiêm trọng thì Bộ thanh tra liền gửi công văn cho chính Chủ tịch Ban Chấp hành Hội Nghệ sĩ Tạo hình Liên Xô [27] . Ông ta thật khó có thể là người không thiên vị trong việc thực hiện cuộc điều tra này.
Đặc quyền đặc lợi của các thành viên các cơ quan lãnh đạo các Hội, như Gaposhkin và Selvinskii mô tả, tiếp tục tạo ra sự chỉ trích của các hội viên [28] và trở thành đề tài thảo luận quan trọng nhất của giới văn nghệ sĩ giai đoạn perestroika. Năm 1986, tờ Moskovskii Literator, cơ quan ngôn luận của Hội nhà văm Moskva, chi nhánh của Hội nhà văn Liên Xô, đăng bài “Nhà văn có hài lòng không? (Dovolnny li pisateli)” [29] . Mặc dù công nhận phần lớn hội viên của Hội có những đặc quyền đặc lợi mà người dân bình thường không thể nào có được, bài báo cũng khẳng định rằng nhiều hội viên rất bất mãn. Điều đó trước hết là do một số nhà văn, mà cụ thể là những người nắm giữ các vị trí quản lí chủ chốt có quyền lợi cao hơn hẳn các hội viên thường, và trên thực tế đã nắm độc quyền kiểm soát các nhà xuất bản văn học Liên Xô. Cái làm cho hầu hết các nhà văn bất mãn nhất không phải là việc những người lãnh đạo Hội thay mặt Đảng cấm xuất bản các tác phẩm của những nhà văn chống đối, mà là việc tác phẩm của chính họ đã thống lĩnh nền công nghiệp xuất bản và các tạp chí văn học định kì bất chấp giá trị nghệ thuật của các tác phẩm đó, và việc họ kiểm soát việc phân phối thù lao bằng tiền và bằng các quyền lợi vật chất khác cho giới trí thức Liên Xô. Những hội viên có tư tưởng tự do ủng hộ công cuộc cải cách của Gorbachev không muốn giải thể các Hội được bao cấp một cách rất hào phóng mà chỉ muốn giành lấy quyền lãnh đạo vào tay mình và làm cho các cơ quan lãnh đạo của Hội có trách nhiệm hơn đối với các hội viên mà thôi. Đấy chính là trường hợp của Uỷ ban “những nhà văn ủng hộ perestroika” (thường được gọi là Uỷ ban tháng Tư) được một nhóm nhà văn thành lập ở Moskva vào năm 1989. Uỷ ban này đã giành được sự ủng hộ rộng rãi của các hội viên (chỉ trong bốn ngày đầu đã có 322 người tham gia) là vì Chủ tịch của nó, ông Anatolii Pristavkin, một người thành danh vì tác phẩm chống chủ nghĩa Stalin có tên A Small Golden Cloud Spent the Night, tuyên bố rằng ông ta không có ý định giải tán Hội Nhà văn. Ngược lại, tổ chức của ông ta chỉ muốn huỷ bỏ độc quyền của “các đầu lĩnh văn hoá” và làm cho Hội Nhà văn trở thành tổ chức đáp ứng các nhu cầu của các hội viên bình thường mà thôi [30] .
Kết luận
Tại sao giới lãnh đạo chính trị Liên Xô lại giành cho một nhóm nhỏ các nhà hoạt động văn hoá văn nghệ đặc quyền đặc lợi rộng rãi như vậy? Như bức thư của Selvinskii đã chỉ rõ, một số hội viên trong giới văn nghệ sĩ tin rằng điều đó phản ánh bước đi có tính toán của một số nhà lãnh đạo Đảng. Có thể Selvinskii nói đúng. Ngay trước khi chiến tranh kết thúc, Stalin đã nói trong cuộc gặp với ông V. Komarov, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, rằng “những người trí thức Liên Xô, thông qua công tác đầy sáng kiến của họ, đã góp phần vào chiến thắng chống quân thù” [31] . Vì vậy người ta có quyền hi vọng vào sự tưởng thưởng cho những đóng góp mà vị lãnh tụ đã công nhận. Thực vậy, có bằng chứng chứng tỏ rằng năm 1947 Stalin đã chống lại Bộ Tài chính và đứng về phía giới thượng lưu văn hoá văn nghệ khi những người này đòi hỏi đặc quyền đặc lợi [32] . Những người đại diện có chọn lọc của tất cả các nhóm thuộc giới trí thức Liên Xô đều được lợi. Thời hậu chiến chứng kiến sự tăng cường đáng kể quyền lực và đặc quyền đặc lợi của các thành viên chủ tịch đoàn Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô cũng như giám đốc các Viện trực thuộc Viện Hàn lâm. Đặc quyền đặc lợi mới này cũng y hệt như của những người lãnh đạo các Hội văn học nghệ thuật [33] . Theo Nikolai Klementsov, đến năm 1948, quyền lực của giám đốc các Viện thuộc Viện Hàn lâm Khoa học đã lớn đến mức họ có thể sử dụng các buổi hội nghị bàn về tư tưởng được tổ chức trong tất cả các tổ chức của Viện Hàn lâm sau kì họp của VASKHNIL vào tháng 8 năm 1948 để tái khẳng định quyền kiểm soát đối với các học viện và hoàn thành “việc bành trướng về tổ chức và kỉ luật” [34] . Chính vì vậy mà trong giai đoạn perestroika, nhiều uỷ viên đoàn chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học đã hành động tương tự như uỷ viên Ban thư kí các Hội văn học nghệ thuật. Trong tháng 8 năm 1991, “Lãnh đạo Viện hàn lâm… cùng với những người bảo thủ đứng đầu Hội Nhà văn nằm trong một số ít các nhà trí thức của đất nước Xô Viết đang hấp hối ủng hộ cái trật tự đã lỗi thời” [35] .
Có vẻ như những gì diễn ra trong hàng ngũ lãnh đạo của giới trí thức khoa học và văn nghệ sĩ trong giai đoạn hậu chiến là một phần của cái mà Vera Dunham gọi là “Một canh bạc vĩ đại” giữa lãnh đạo Đảng/nhà nước và một vài thành phần của xã hội Xô Viết [36] . Bà nhận thấy rằng trong giai đoạn hậu chiến, việc đàn áp khốc liệt về chính trị và tư tưởng không phải là chính sách duy nhất do nhà nước thực hiện. Việc đàn áp luôn đi kèm với những cố gắng nhằm ve vãn những nhóm xã hội mà chế độ coi là những đối tác quan trọng trong quá trình tái thiết quốc gia. Dunham nhận dạng một nhóm đặc biệt mà bà gọi là “giai cấp trung lưu” có tay nghề, đặc biệt là các kĩ sư, bác sĩ, các viên chức bậc trung. Bà mô tả những người này là “nằm bên dưới các quan chức cấp cao và tầng lớp thượng lưu trí thức, nhưng lại ở trên những viên chức bình thường và các công nhân nhà máy, các công nhân nông trường và những mậu dịch viên bình thường khác” [37] . Mặc dù vậy, có vẻ như trên thực tế giới thượng lưu trí thức, những người nắm giữ các chức vụ lãnh đạo trong các tổ chức có liên quan cũng tham gia vào vụ làm ăn nói trên. Vụ làm ăn chứng tỏ đã thành công: Lãnh đạo cao nhất của các văn nghệ sĩ đã trở thành những người ủng hộ tích cực nhất của chế độ và chính sách của Stalin ngay cả khi những chính sách này đã bị ban lãnh đạo mới của Đảng cộng sản tấn công. Trên thực tế, trong tâm trí của các uỷ viên ban lãnh đạo các Hội, thời hậu chiến không chỉ là giai đoạn đàn áp khốc liệt về tư tưởng mà còn là thời kì vàng son, đấy là thời kì họ có nhiều đặc quyền đặc lợi và được độc lập một cách tương đối đối với Đảng. Nhưng từ quan điểm ổn định của chế độ thì chính sách cho phép một số thành phần được lựa chọn trong giới văn nghệ sĩ gia nhập vào hàng ngũ thượng lưu của chế độ lại là một thất bại nghiêm trọng. Đặc quyền đặc lợi của “các đầu lĩnh văn hoá” tạo ra mâu thuẫn đối kháng với các trí thức bình thường và kích hoạt, bên cạnh những nguyên nhân khác, sự chống đối của họ đối với hệ thống Xô Viết.
Lời cuối: Tôi xin cám ơn Oleg Khlevniuk, người đã giúp tôi chuẩn bị tài liệu, và Yoram Gorlizki, Stephen Lovell, Susan E. Reid và những người đã tham gia cuộc Hội thảo về lịch sử kinh tế và xã hội được tổ chức tại Trung tâm nghiên cứu Nga và Đông Âu, thuộc trường đại học Birmingham, về những đề nghị và nhận xét của họ.
[1]GARF, fund 5446, op. 47, delo 2735 II. 1-2.
[2]GARF, fund 5446, op. 51, delo 2982 I. 98.
[3]GARF, fund 5446, op. 47, delo 2168 II. 55-7.
[4]GARF, fund 5446, op. 47, delo 2166 I. 29.
[5]Ibid, I. 32.
[6]GARF, fund 5446, op. 86, delo 2440 I. 32.
[7]GARF, fund 5446, op. 86, delo 2439, I. 95-99. Ngược lại, trong những năm 1930, yêu cầu của các thiết chế văn hoá được giải quyết chậm hơn nhiều. Thí dụ, yêu cầu của Nhà hát Lớn về việc phân nhà ở cho các diễn viên hàng đầu được đưa ra vào tháng 12 năm 1937, nhưng mãi đến tháng 4 năm 1938 mớI được giải quyết (GARF, fund 5446, op.22, delo 1425 II. 3-12).
[8]Hồ sơ lưu trữ cho thấy rằng trong những năm 1930, các văn nghệ sĩ ở Moskva và Leningrad có nhiều ưu tiên ưu đãi hơn, hoàn cảnh của các đồng nghiệp của họ ở các tỉnh thật vô cùng tồi tệ. Xem thí dụ, tài liệu năm 1938 về hoàn cảnh sống của các diễn viên ở Karaganda (GARF, fund 5446, op.22, delo 1413 II. 1-3) và ở Izhevsk (GARF, fund 5446, op.22, delo 1407 II. 41-3). Trong cả hai trường hợp, Hội đồng dân uỷ đều đưa ra những lời hứa mơ hồ là sẽ xem xét trong năm tài khoá tiếp theo.
[9]GARF, fund 5446, op.81, delo 2634 II. 186-96.
[10]GARF, fund 5446, op.50, delo 4266 II. 73-80,116, 121.
[11]GARF, fund 5446, op.81, delo 2639 I. 145-6 và op. 50, delo 4266, II, 31-54.
[12]GARF, fund 5446, op.80, delo 2621 II. 27-32, 62.
[13]K. Simonov. Nhìn bằng đôi mắt của thế hệ tôi. Nghĩ về I. V. Stalin (tiếng Nga). (Moskva: Kniga, 1990), 108.
[14]GARF, fund 5446, op.81, delo 2634 II. 71-81.
[15]GARF, fund 5446, op.87, delo 1548, 27.
[16]GARF, fund 5456, op.87, delo 1306, I. 83.
[17]Fitzpatrick, Everyday Stalinism, 106.
[18]Jack F. Matlock Jr.,‘The “Governing Organs” of the Union of Soviet Writer’, American Slavonic and East European Review, 15 (oct. 1956), 393.
[19]Xem bài của Kiril Tomoff trong số báo này.
[20]Các nhà nghiên cứu cho rằng Hội nghị XIX cho thấy có áp lực cải cách ngay trong những cấp cao nhất của đảng. Trên thực tế, quá trình giải Stalin hoá đã bắt đầu trước khi Stalin chết. Xem Yoram Gorlizki, “Party Revivalism and the Death of Stalin”, Slavic Review, 54, I (Spring 1995), 1-22.
[21]Chi tiết cuộc thảo luận của chiến dịch chống lại các nhà lãnh đạo của Ban tổ chức Hội nghệ sĩ tạo hình Liên Xô xin xem Susan Emily Reid, “Destalinisation and the Remodernisation of Soviet Art: The Search for a Contemporary Realism”, P. D. Dissertation, University of Pennsylvania, 1996, 114-22.
[22]GARF, fund 5456, op.87, delo 1306, I. 21.
[23]Ibid.
[24]Ibid.
[25]GARF, fund 5456, op.87, delo 1306, II 20-6.
[26]Ibid., I. 21.
[27]Ibid., II. 24-6
[28]Muốn tìm hiểu cuộc tấn công vào đặc quyền đặc lợi từ diễn đàn Hội nghị lần thứ hai của các nhà văn Liên Xô, xem Matlock, “Governing Organ”, 394.
[29]Moskovskii literator, 28 tháng 11 năm 1986.
[30]Garrard, Inside the Soviet Writers’ Union, 230-2.
[31]Trích lại từ Stalinist Science của Nikolai Krementsov (Princeton: Prinseton University Press, 1997), 99.
[32]Xem Simonov, Glazami cheloveka moego pokoleniia, 108-109.
[33]Ibid., 99-100.
[34]Ibid., 225-6, 280-5.
[35]Loren G. Graham. “How Willing Are Scientists to Reform Their Own Institution?” in Michael David-Fox and Gyorgy Peteri, eds., Academia in Upheaval. Origins, Transfers, and Transformations of the Communist Academic Regime in Russia and East Central Europe (Westport: Bergin and Garvey, 2001), 255-274, 267.
[36]Vera S. Dunham, In Stalin's Time. Middle-class Values in Soviet Fiction (Cambridge: Cambridge University Press, 1979), 3-23.
[37]Ibid., 5.
[2]GARF, fund 5446, op. 51, delo 2982 I. 98.
[3]GARF, fund 5446, op. 47, delo 2168 II. 55-7.
[4]GARF, fund 5446, op. 47, delo 2166 I. 29.
[5]Ibid, I. 32.
[6]GARF, fund 5446, op. 86, delo 2440 I. 32.
[7]GARF, fund 5446, op. 86, delo 2439, I. 95-99. Ngược lại, trong những năm 1930, yêu cầu của các thiết chế văn hoá được giải quyết chậm hơn nhiều. Thí dụ, yêu cầu của Nhà hát Lớn về việc phân nhà ở cho các diễn viên hàng đầu được đưa ra vào tháng 12 năm 1937, nhưng mãi đến tháng 4 năm 1938 mớI được giải quyết (GARF, fund 5446, op.22, delo 1425 II. 3-12).
[8]Hồ sơ lưu trữ cho thấy rằng trong những năm 1930, các văn nghệ sĩ ở Moskva và Leningrad có nhiều ưu tiên ưu đãi hơn, hoàn cảnh của các đồng nghiệp của họ ở các tỉnh thật vô cùng tồi tệ. Xem thí dụ, tài liệu năm 1938 về hoàn cảnh sống của các diễn viên ở Karaganda (GARF, fund 5446, op.22, delo 1413 II. 1-3) và ở Izhevsk (GARF, fund 5446, op.22, delo 1407 II. 41-3). Trong cả hai trường hợp, Hội đồng dân uỷ đều đưa ra những lời hứa mơ hồ là sẽ xem xét trong năm tài khoá tiếp theo.
[9]GARF, fund 5446, op.81, delo 2634 II. 186-96.
[10]GARF, fund 5446, op.50, delo 4266 II. 73-80,116, 121.
[11]GARF, fund 5446, op.81, delo 2639 I. 145-6 và op. 50, delo 4266, II, 31-54.
[12]GARF, fund 5446, op.80, delo 2621 II. 27-32, 62.
[13]K. Simonov. Nhìn bằng đôi mắt của thế hệ tôi. Nghĩ về I. V. Stalin (tiếng Nga). (Moskva: Kniga, 1990), 108.
[14]GARF, fund 5446, op.81, delo 2634 II. 71-81.
[15]GARF, fund 5446, op.87, delo 1548, 27.
[16]GARF, fund 5456, op.87, delo 1306, I. 83.
[17]Fitzpatrick, Everyday Stalinism, 106.
[18]Jack F. Matlock Jr.,‘The “Governing Organs” of the Union of Soviet Writer’, American Slavonic and East European Review, 15 (oct. 1956), 393.
[19]Xem bài của Kiril Tomoff trong số báo này.
[20]Các nhà nghiên cứu cho rằng Hội nghị XIX cho thấy có áp lực cải cách ngay trong những cấp cao nhất của đảng. Trên thực tế, quá trình giải Stalin hoá đã bắt đầu trước khi Stalin chết. Xem Yoram Gorlizki, “Party Revivalism and the Death of Stalin”, Slavic Review, 54, I (Spring 1995), 1-22.
[21]Chi tiết cuộc thảo luận của chiến dịch chống lại các nhà lãnh đạo của Ban tổ chức Hội nghệ sĩ tạo hình Liên Xô xin xem Susan Emily Reid, “Destalinisation and the Remodernisation of Soviet Art: The Search for a Contemporary Realism”, P. D. Dissertation, University of Pennsylvania, 1996, 114-22.
[22]GARF, fund 5456, op.87, delo 1306, I. 21.
[23]Ibid.
[24]Ibid.
[25]GARF, fund 5456, op.87, delo 1306, II 20-6.
[26]Ibid., I. 21.
[27]Ibid., II. 24-6
[28]Muốn tìm hiểu cuộc tấn công vào đặc quyền đặc lợi từ diễn đàn Hội nghị lần thứ hai của các nhà văn Liên Xô, xem Matlock, “Governing Organ”, 394.
[29]Moskovskii literator, 28 tháng 11 năm 1986.
[30]Garrard, Inside the Soviet Writers’ Union, 230-2.
[31]Trích lại từ Stalinist Science của Nikolai Krementsov (Princeton: Prinseton University Press, 1997), 99.
[32]Xem Simonov, Glazami cheloveka moego pokoleniia, 108-109.
[33]Ibid., 99-100.
[34]Ibid., 225-6, 280-5.
[35]Loren G. Graham. “How Willing Are Scientists to Reform Their Own Institution?” in Michael David-Fox and Gyorgy Peteri, eds., Academia in Upheaval. Origins, Transfers, and Transformations of the Communist Academic Regime in Russia and East Central Europe (Westport: Bergin and Garvey, 2001), 255-274, 267.
[36]Vera S. Dunham, In Stalin's Time. Middle-class Values in Soviet Fiction (Cambridge: Cambridge University Press, 1979), 3-23.
[37]Ibid., 5.
Nguồn: Vera Tolz, “‘Cultural Bosses’ as Patrons and Clients: The Functioning of the Soviet Creative Unions in the Postwar Period”, in Contemporary Europian History, II, 1 (2002), pp 87-105 © 2002 Cambridge University Press. Bản tiếng Việt đăng trên talawas với sự cho phép của tác giả.
-Nguồn:Vera Tolz - “Đầu lĩnh văn hóa” - Vừa là chủ vừa là khách hàng hay hoạt động của các hội văn học nghệ thuật Xô Viết sau chiến tranh (Tiếp theo và hết)