Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

CÁC ANH NẰM, HIU QUẠNH CẠNH ĐƯỜNG BIÊN

Mai Thanh Hải Blog - Chưa bao giờ, mình thấy 1 nghĩa trang hiu quạnh như vậy, như chiều qua (22/9/2011) vào Nghĩa trang Liệt sĩ (NTLS) Phường Duyên Hải, TP Lào Cai (tỉnh Lào Cai), nằm ngay trên sườn đồi, cạnh đường biên sông Hồng và phía sau NT, bên kia sông là thị trấn Hà Khẩu, Trung Quốc. 

Theo danh sách ghi trên bia đá trong NTLS Duyên Hải, cả NT có 93 ngôi mộ, trong đó có 46 mộ LS vô danh, hy sinh năm 1953; thêm 4 phần mộ khác vô danh hoàn toàn. Thế nhưng khi đọc bia trên các phần mộ, mình thấy phần lớn bia đều ghi "Liệt sĩ Bảo vệ Tổ quốc". Đồng nghiệp mình ở Lào Cai, lắc đầu và chỉ bảo cặn kẽ: "Đó là phần mộ các LS hy sinh trong chiến tranh biên giới, chống quân Trung Quốc xâm lược từ 1979 đến 1989".


Mình lẩn mẩn đếm, đọc danh sách và 43 phần chữ ghi trên bia mộ "có danh tính" còn lại,  để rồi rưng rưng khóe mắt: Chỉ có 7 LS đầy đủ họ tên, năm sinh, quê quán, đơn vị, ngày hy sinh... Những người còn lại, đều thiếu thông tin, đủ bề (1 LS có cấp bậc; 10 LS có đơn vị; 3 LS chỉ có tên mà không có họ; 18 LS có quê quán và 32 LS xác định được ngày hy sinh)...

Trong số những LS có danh tính, 2 LS hy sinh ngay trong ngày 17/2/1979 - khi quân Trung Quốc bất ngờ nổ súng tấn công, đánh chiếm thị xã Lào Cai, đó là: LS Đỗ Mạnh Cường, sinh năm 1958, quê quán Tự Cường, Tiên Lãng, TP. Hải Phòng, khi hy sinh là chiến sĩ thuộc C3, D7, E124 và mới tròn 21 tuổi; LS Nguyễn Xuân Hải, sinh năm 1960, quê quán Xuân Khê, Sông Thao, Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ), ngã xuống khi 19 tuổi, với dòng chữ ghi đơn vị chỉ vẻn vẹn "Biên phòng Lào Cai".

Trước ngày 17/2/1979, cũng có 1 chiến sĩ của E192 ngã xuống và phần mộ đang nằm tại NTLS Duyên Hải, đó là LS Nguyễn Văn Khoái, sinh năm 1958, quê Phú Xuyên, Hà Tây (nay là Hà Nội), hy sinh ngày 9/1/1979.

Sau sự kiện tháng 2/1979, vẫn có những người nằm xuống, vì chủ quyền biên giới. Đó là LS Nông Trung, công tác tại Sở Văn hóa tỉnh Hoàng Liên Sơn (cũ), hy sinh ngày 27/6/1980; Hạ sĩ Lê Huy Cảnh, ở Cốc Lếu, TP. Lào Cai, trinh sát thuộc D8, E149, F356, Quân khu II, hy sinh 28/9/1984; LS Lương Thị Bé, sinh năm 1966 ở Kiến Xương, Thái Bình, Công nhân đường bộ Lào Cai, hy sinh 6/4/1986; LS Phạm Đình Quý, quê quán Nghi Lộc, Nghệ An hy sinh đúng ngày 30/4/1993 khi đang là Công nhân Cty Cầu Lào Cai...

Trẻ nhất và hy sinh gần đây nhất là chiến sĩ Biên phòng Đồn 257 - Bát Xát Hoàng Minh Vượng, sinh ngày 5/7/1984, quê ở Xuân Lũng, Lâm Thao, Phú Thọ, ngã xuống ngày 27/5/2004, tròn 21 tuổi.

Các anh các chị nằm trong khu vực vành đai biên giới, phía sau là sông Hồng ngầu đỏ cuộn chảy ngày đêm, phía trước là con đường trải nhựa, chạy từ Trung tâm TP Lào Cai, ra cửa khẩu Kim Thành mới mở với ầm ào máy móc, đang hối hả xây dựng nhà xưởng, Khu Công nghiệp - Thương mại, khách sạn nhiều sao... NTLS nơi các anh chị nằm, chẳng phải heo hút trong rừng, trên núi, ở những địa bàn vùng sâu - vùng xa, thế nhưng hiu quạnh và ngổn ngang đến không thể ngờ nổi và mình, đã phát khóc.

Không thể không khóc, khi NTLS được khóa cứng bằng ổ khóa hoen rỉ, gọi vào số điện thoại của người Quản trang, ghi trên tường rào, chỉ thấy "ò e í" và mình phải trèo tường, vào thăm các chị các anh...

Không thể không khóc, khi đường bê tông vào tượng đài, đến các hàng mộ chí, đều xanh rì rêu phủ - Hình như, rất lâu rồi, chẳng ai ghé vào thăm...

Không thể không khóc, khi lá khô rụng dày trên mộ, mặt đường và mọi nơi trong NT, từ lâu lắm rồi...

Không thể không khóc, khi chứng kiến cảnh hương tàn khói lạnh, những chân hương mốc thếch, trắng bợt màu dãi dầu mưa gió, cây dại mọc cao hơn mộ chí, dây leo quấn chặt bát hương - chân hương...

Không thể không khóc, khi trên bia mộ chí và bia đá danh, chỉ vẻn vẹn những thông tin ít ỏi về các anh (nhưng chắc chắn sẽ có đầy đủ trong hồ sơ chính sách - quân lực), với đủ loại kích thước mộ bia, nét chữ mà có thể người thân, gia đình các anh tự làm, tùy điều kiện... kinh tế khá giả hay eo hẹp. 

Không khóc sao được, khi so sánh với các NTLS khác, mộ bia đều tăm tắp, chung ngôi sao trên chóp, như thể đội ngũ chào cờ, quân phục sáng ngời. NTLS các anh chị nằm bây giờ, cũng thành đội hình, nhưng như thể hồi bao cấp thiếu thốn, bộ đội mình, mỗi người mặc 1 loại quân phục cũ kỹ khác nhau: Áo bay, áo chít, K82...

Lâu nay, người ta nói rất nhiều về công tác tu tạo, chăm sóc phần mộ, NT nơi an nghỉ của các Anh hùng LS. Không chỉ Nhà nước trích Ngân sách để đầu tư tu bổ NTLS, mà nhiều địa phương còn vận động các nguồn đóng góp trong nhân dân để làm bia, quét dọn các mộ LS... Đặc biệt, các địa phương đã quá quen với việc phát động các phong trào, hoạt động thiết thực (như: Tổ chức cho các em học sinh, Đoàn viên thanh niên tổ chức quét dọn vệ sinh khu NT, các bia, mộ liệt sĩ, dâng hương NTLS, thắp nến tri ân...), góp phần tạo cảnh quan sạch đẹp cho nơi yên nghỉ của các Anh hùng LS... Tại sao ở 1 Phường giàu mạnh của TP. Lào Cai mạnh giàu, người ta lại để NTLS hiu quạnh, ngổn ngang như vậy?..

Trong từng giai đoạn, người ta có thể phải giả bộ quên một số sự kiện, quãng thời gian, để giữ hòa khí, đảm bảo lợi ích quốc giá. Thế nhưng có 1 điều chắc chắn, người ta không thể chôn vùi được lịch sử - nhất là sự kiện, thời gian lịch sử đó phải đổi bằng máu của hàng vạn người đã ngã xuống, vì độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

Người Việt vốn trọng tình nghĩa, nhớ ơn nguồn cội và trong mỗi người, đều thấm đẫm đời sống tâm linh. Người ta có thể nhịn ăn, nhịn mặc để xây mồ mả cho người đã khuất, sao cho đàng hoàng, to đẹp, khói hương giỗ chạp mồng một, ngày rằm... cũng vì tâm niệm "trần sao, âm vậy".

Mình cứ tẩn mẩn: Liệu những Liệt sĩ, đã ngã xuống qua 3 cuộc chiến tranh, trong cả thời bình, đang nằm trong khuôn viên thực tại mà mình đã thấy, ghi lại trong NTLS Duyên Hải, Lào Cai ngày hôm qua, có được "nhớ ơn", "ghi công" như dòng chữ vàng trên Đài Liệt sĩ xanh rêu?..

Và mình lại ước: Chỉ còn vài ngày nữa (ngày 1/10/2011), Lào Cai sẽ tưng bừng cờ hoa, trống chiêng chào mừng Kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh. Trong ngày chung vui với "nước bạn" đó, giá NTLS Duyên Hải được các cháu thiếu nhi quàng khăn đỏ, các Đoàn viên mặc áo xanh tình nguyện, các cán bộ công chức quần áo công sở là cháy ly... đến thắp hương, quét dọn, nhổ cỏ, chặt cây dại... thì các LS đang nằm dưới đất, cũng được an ủi lắm lắm: Ít nhất, họ không bị lãng quên (dù chỉ vài ngày), đỡ nằm quạnh hiu, ngay trên đường biên giới (mà họ đã phải đổ máu, quên mạng sống để giữ gìn) và được an ủi: Sự hy sinh của mình, của bao đồng đội xung quanh mình, trên dải đất biên cương là không vô ích...Nặng trong lòng, chỉ dám ước vậy thôi!..
-------------------------------------------------------------------------------------------------

Tấm bia ghi danh LS tại NTLS Duyên Hải

Phần mộ LS chỉ có duy nhất cái tên

Dây leo dại trên bát hương LS Nguyễn Văn Lương (Mậu Dịch, Lào Cai)

Khu mộ các LS vô danh hy sinh trong chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc

Phần mộ LS Nguyễn Xuân Hải, BĐBP Lào Cai, hy sinh 17/2/1979

Bát hương trên mộ LS Vô danh, hy sinh 1953 bị vỡ

LS Đỗ Mạnh Cường, hy sinh 17/2/1979

Chiến sĩ trinh sát Lê Huy Cảnh, hy sinh tháng 9/1984

Chiến sĩ Biên phòng Hoàng Minh Vượng, hy sinh năm 2004

Bia ghi danh bên trái

Binh nhất Lò Văn Phong, hy sinh 1993

Cây dại


Lá rụng

Rêu phong

Hiu quạnh

Địa chỉ của quản trang

Ổ khóa

Cỏ cũng mọc trên cả nóc nghĩa trang

(Nghìn lần, vạn lần xin các anh chị nằm trong NTLS Duyên Hải tha thứ. Cũng vì xung quanh NT, không có hàng quán, toàn là công trường xây dựng nhà máy, đô thị, khách sạn... nên tôi không tìm mua được hương thơm, đành phải thắp lên mộ các anh những điếu thuốc lá cuối cùng, trong ba lô rong ruổi, dọc con đường thiên lý).
-CÁC ANH NẰM, HIU QUẠNH CẠNH ĐƯỜNG BIÊN
------------

-

Việc treo đèn lồng không được lòng dư luận.
TP Lào Cai: Cưỡng bức dân treo cao đèn lồng đỏ?.gd
--Lào Cai: Dừng ngay việc treo đèn lồng trên các tuyến phố
-TP Lào Cai: Một số tuyến phố khởi động việc thắp đèn lồng  

-Phố người Hoa, Rừng người Hoa, Sòng bạc người Hoa…?
---

Đọc lại bài của vitinfo:
-Biển Đông – Bài toán khó nhưng đã hóa giải được một phần
-   Một bài viết không thể không đọc, bài viết từ tâm can của người nằm trong chăn. Thỉnh thoảng VIT có những bài thật giá trị, nhưng đọc xong rùi lại lo cho VIT. Đã một lần sóng gió những vẫn còn gan góc.    Qua bài nè đã thấy được cái vạch mặt chỉ tên kẻ nội xâm, rước rắn cắn gà nhà.
-Biển Đông – Bài toán khó nhưng đã hóa giải được một phần.(11-06-2011)
-VIT – Với những hành động cắt cáp thăm dò dầu khí của tầu Bình Minh 2 khi tầu đang hoạt động trong vùng biển 200 hải lý thuộc hải phận Việt Nam, và rồi trắng trợn đổi trắng thay đen ra điều lên án Việt Nam gây hấn, Trung Quốc đã tự lộ nguyên hình là một kẻ sở khanh lòng lang dạ thú.
Thời gian qua Trưng Quốc ngang nhiên cho tầu hải quân bắn dọa quấy nhiếu các tầu cá Việt Nam khi bà con đang đánh bắt cá trong vùng hải phận của Viêt Nam. Đây là những dấu hiệu hiếu chiến bất chấp lẽ phải đúng sai cố tình gây hấn từ phía Trung Quốc.
Mặc dù chưa thể có những biện pháp hữu hiệu hóa giải vận hạn, nhưng những gì đang thể hiện trên báo chí cho thấy một ngoại lực mới đã nhập nội vào tâm trí người dân Việt Nam để giải thoát cho họ khỏi “bùa ma hiểm” bị Trung Quốc “yểm” lâu nay.
Các “đồng chí” Trung Quốc rất giỏi trong việc “khóa mồm” thiên hạ. Trong mọi vấn đề Trung Quốc đều tính toán rất bài bản và kỹ lưỡng đến độ kẻ bị hại không dám kêu, mà nếu có kêu thì cũng có biết kêu ai. Với cảm giác lờ mờ về tình hữu nghị, người Việt Nam nghi ngại lẫn nhau tránh né nói lên sự thật về Trung Quốc.
Năm 1946, lấy cớ giải giáp phát xít Nhật, Trung Hoa Quốc Dân Đảng đã đánh chiếm một phần quần đảo Hoàng Sa. Ngày 19/1/1974, lợi dụng thời điểm khó khăn của Việt Nam, một lực lượng lớn hải quân Trung Quốc đã bất ngờ đánh chiếm tất cả các hòn đảo của quần đảo Hoàng Sa do chính quyền Sài Gòn kiểm soát.
Trung Quốc đã tính toán rất chính xác thời điểm để tấn công cướp đảo, bởi trong bối cảnh nhập nhèm “bạn thù” và trong thời khắc quan trọng tất cả phải dồn cho cuộc chiến tranh thống nhất đất nước, chính phủ Việt Nam, mặc dù rất phẫn nộ nhưng không thể ra tuyên bố lên án họ. Một lần nữa Trung Quốc thành công trong việc “khóa mồm” người bạn “môi hở răng lạnh”.
Vào năm 1979, Trung Quốc sau khi lên kịch bản cho Ponpot gây hấn khiến cho Việt Nam phải tập trung quân để bảo vệ biên giới phía Nam, thì Trung Quốc đã xua quân tấn công các tính phía Bắc của Việt Nam. 10 năm sau, đúng lúc Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế, phần bị cấm vận, phần vì Liên Xô – liên minh chiến lược của Việt Nam – bị tan rã; tháng 3/1988, Trung Quốc ngang nhiên tấn công chiếm đóng một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Mặc dù Việt Nam ra sức chiến đấu để bảo vệ biển đảo, và về mặt ngoại giao đã lên án hành động xâm lược này của Trung Quốc, nhưng khó có quốc gia nào trên thế giới hiểu được sự tình, bởi Việt Nam vẫn đang bị bóng đè từ phía các đồng chí cùng chí hướng xã hội chủ nghĩa Trung Quốc.
Trước những sự kiện như vậy, người dân Việt Nam không khỏi không căm thù Trung Quốc. Tuy nhiên chỉ vài năm sau đó, trên tất cả các kênh truyền hình Việt Nam đều chiếu phim Trung Quốc, chiếu ngày chiếu đêm, chiếu liên tục trong hàng chục năm trời, và nội dung của tất cả các phim này chỉ xoay quanh một điều là nhồi nhét vào đầu người xem thông điệp “Vua Trung Quốc là người nhân từ và đại diện cho lẽ phải”. Người dân phẫn nộ, nhưng không một ai dám đặt vấn đề nghi ngờ có bàn tay khống chế của Trung Quốc?
Cuộc xâm lăng văn hóa này không phải không có tác dụng. Người ta đã nghĩ đến một tình hữu nghị mới giữa hai dân tộc, và luôn tránh né mọi nguyên cớ dẫn đến sự đổ vỡ. Sự tránh né còn được thể hiện trong việc có biết bao nhiêu hàng dởm “made in China”, biết bao nhiêu hoa quả có hóa chất độc hại tràn vào Việt Nam, nhưng thay vì chính phủ phải lên tiếng thì chỉ khuyến cáo người dân Việt Nam thận trọng, còn người dân cũng chỉ còn cách tự trách mình mỗi khi bị lừa.
Với những sự chuẩn bị tinh thần “Vua Trung Quốc đại diện cho lẽ phải”, Trung Quốc đã tính bài tìm cớ gây hấn, nhằm đổ vấy trách nhiệm “đạo đức” lên nhà nước Việt Nam. Trải qua hàng nghìn năm chiến đấu chống lại quân xậm lược Trung Quốc, người dân Việt Nam không dễ bị mắc lỡm. Nếu Trung Quốc dám liều lĩnh gây hấn tấn công Việt Nam tức là nó đã vứt bỏ những chiếc lá nho đạo đức cuối cùng để hiện nguyên hình là một kẻ xâm lược Đại Hán.
Trước những hành động ngang ngược của Trung Quốc ở biển Đông như hiện nay, mặc dù Việt Nam đã lên tiếng phản đối nhung sự ủng hộ từ các nước lớn trên thế giới chưa thực sự mạnh. Điều này một phần là do bản thân sự việc quá phức tạp và trong nhiều năm trước đây Trung Quốc đã thành công trong việc “khóa mồm” hạn chế sự phản ứng từ phía Việt Nam; một phần là do sự nham hiểm của Trung Quốc được thể hiện trong việc tính toán thời điểm động binh. Các nước lớn trên thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế. Cuộc chiến Trung Đông và Bắc Phi đang làm đau đầu Mỹ và NATO.
Trong bối cảnh hiện nay, mặc dù thế chủ động gây hấn nằm hoàn toàn trong tay Trung Quốc, nhưng nhiều người vẫn đang còn luẩn quẩn trong cái vòng kiểm tỏa của khái niệm ý thức hệ, khiến cho khả năng nhận thức bị tê liệt.
Cần phải hiểu là có một sự khác biệt giữa một bên là phương thức sản xuất và một bên là tình hữu nghị.
Những giá trị khoa học đích thực từ kinh nghiệm phát triển đất nước thì cần phải học. Nhưng chắc chằn người dân Việt Nam không muốn vì tình “hữu nghị” mà bị xỉ nhục, mà chịu kiếp nô lệ, bị cướp mất biển Đông, mất cơ hội trở nên hùng mạnh.
Trước những thái độ ngang ngược và hiếu chiến của Trung Quốc, nhiều người dân Việt Nam không khỏi không lo lắng cho vân mệnh dân tộc. Tuy nhiên cũng cần phải nhận thấy một điều là, bằng chính những tuyên bố cứng rắn đáp lại những hành động ngang ngược của Trung Quốc, người Việt Nam đã dũng cảm xé toạc bức màn “u mê”, để nói lên tiếng nói của chính mình với thế giới và đó là bước đầu tiên để giữ gìn được sự vẹn toàn biển đảo giữ gìn độc lập dân tộc.
Sóng Ngầm

Tổng số lượt xem trang