-Jorge Castañeda – Những người thua trận ở Libya
Nhóm người chiến thắng thứ hai bao gồm Nicolas Sarkozy, David Cameron và Barack Obama. Đấy là những nhà lãnh đạo của Pháp và Anh, những người đã thuyết phục Tổng thống Mĩ áp lực Liên hiệp quốc cho phép can thiệp vào Libya, và chính Tổng thống Obama, người đã cung cấp vũ khí, thiếu nó thì không cuộc can thiệp nào có thể giành thắng lợi được. Trong khi cả ba nhà lãnh đạo đều không được đánh giá cao trong các cuộc thăm dò dư luận ở trong nước thì thắng lợi của chiến dịch ở Libya có thể an ủi được phần nào.
Và cuối cùng là các tổ chức quốc tế. Liên hiệp quốc, Tòa hình sự quốc tế và Liên đoàn Arab có thể ăn mừng vì đây là hình ảnh trái ngược hoàn toàn với vụ thất bại ở Iraq. Cơ chế đa phương đã hoạt động, luôn được sự ủng hộ trong khu vực; giá phải trả là khá cao, nhưng không đến nỗi như ở Iraq và sự ổn định ở Libya dường như không còn xa nữa. So với năm 2003 thì đây đã là một thế giới khác rồi.
Brazil, Ấn Độ và Nam Phi đều coi không can thiệp là nguyên tắc nền tảng trong bất kì quan hệ đa phương nào: nhân đạo không quan trọng bằng việc bảo vệ chủ quyền quốc gia khỏi sự can thiệp từ bên ngoài. Đấy là lí do vì sao họ lưỡng tự trong việc can thiệp vào những cuộc khủng hoảng khác, kể cả việc chính quyền Syria đàn áp dã man người biểu tình. Mặc dù họ đã gửi một đoàn đại biểu đến Damascus với hi vọng ngây thơ là sẽ thuyết phục được Tổng thống Bashar Assad chấm dứt việc giết hại thường dân, nhưng họ vẫn ngăn cản những biện pháp trừng phạt do Hội đồng bảo an đưa ra và cùng với Nga, trói chân trói tay Liên hiệp quốc trước tình hình ở Syria. Bám vào những quan điểm đã làm họ thất bại ở Libya, các nước này đang chứng tỏ rằng họ chưa sẵn sàng đóng vai trò lớn hơn trong những vấn đề quốc tế.
Nguồn: The Time (Mĩ) Losers in Libya
Đã đăng trên Bauxite Việt Nam
Phạm Nguyên Trường dịch
Phải mất bao nhiêu thời gian nữa mới tìm được Muammar Gaddafi không phải là vấn đề quan trọng, bây giờ đã có thể dễ dàng đánh giá được cuộc xung đột kéo dài sáu tháng ở Libya và xác định được kẻ thắng người thua rồi. Thắng nhất dĩ nhiên là nhân dân Libya, những người, mà nhờ sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế, đã cưỡi lên đầu ngọn sóng khởi sự ở Tunisia và Cairo và lật đổ được nhà độc tài. Dù kết quả của những xáo trộn hiện thời có như thế nào đi nữa thì tình hình cũng khó mà có thể xấu hơn 42 năm vừa qua.
Nhóm người chiến thắng thứ hai bao gồm Nicolas Sarkozy, David Cameron và Barack Obama. Đấy là những nhà lãnh đạo của Pháp và Anh, những người đã thuyết phục Tổng thống Mĩ áp lực Liên hiệp quốc cho phép can thiệp vào Libya, và chính Tổng thống Obama, người đã cung cấp vũ khí, thiếu nó thì không cuộc can thiệp nào có thể giành thắng lợi được. Trong khi cả ba nhà lãnh đạo đều không được đánh giá cao trong các cuộc thăm dò dư luận ở trong nước thì thắng lợi của chiến dịch ở Libya có thể an ủi được phần nào.
Và cuối cùng là các tổ chức quốc tế. Liên hiệp quốc, Tòa hình sự quốc tế và Liên đoàn Arab có thể ăn mừng vì đây là hình ảnh trái ngược hoàn toàn với vụ thất bại ở Iraq. Cơ chế đa phương đã hoạt động, luôn được sự ủng hộ trong khu vực; giá phải trả là khá cao, nhưng không đến nỗi như ở Iraq và sự ổn định ở Libya dường như không còn xa nữa. So với năm 2003 thì đây đã là một thế giới khác rồi.
Những kẻ bại trận cũng được xác định một cách dễ dàng. Gaddafi, gia đình và bạn bè ông ta bây giờ đang lẩn trốn hay bỏ chạy như những kẻ hèn nhát. Những người ủng hộ và cổ vũ cho họ bị mọi người khinh bỉ. Ở Mĩ và châu Âu, uy tín của những người chống đối vụ can thiệp mang tính nhân đạo nhằm ngăn chặn vụ thảm sát ở Benghazi và sau đó trở thành chiến dịch nhằm lật đổ chế độ đã bị giảm sút nghiêm trọng. Nước Đức bỏ phiếu trắng đối với nghị quyết 1973 của Hội đồng bảo an, tức là Nghị quyết cho phép sử dụng vũ lực nhằm bảo vệ thường dân, nước này cũng từ chối, không tham gia vào chiến dịch của NATO. Angela Merkel đã né tránh vì những nguyên nhân đối nội và tính toán sai về khả năng chiến thắng. Nhìn lại, hóa ra bà đã sai.
Những nước như Trung Quốc và Nga cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự như thế, mặc dù hai nước này không phủ quyết Nghị quyết 1973, nhưng họ cũng không được lợi lộc gì. Tình cảm của họ dành cho chế độ của Gaddafi là bằng chứng rõ ràng về thái độ chống đối đối với nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ”, tức là chống đối tư tưởng cho rằng quyền con người phải cao hơn chủ quyền quốc gia, một tư tưởng đang được các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ bàn thảo trong thời gian gần đây.
Những nước như Trung Quốc và Nga cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự như thế, mặc dù hai nước này không phủ quyết Nghị quyết 1973, nhưng họ cũng không được lợi lộc gì. Tình cảm của họ dành cho chế độ của Gaddafi là bằng chứng rõ ràng về thái độ chống đối đối với nguyên tắc “trách nhiệm bảo vệ”, tức là chống đối tư tưởng cho rằng quyền con người phải cao hơn chủ quyền quốc gia, một tư tưởng đang được các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ bàn thảo trong thời gian gần đây.
Nhưng có lẽ thua thiệt nhất – đấy là không kể gia đình Gaddafi - là những nước công khai chống đối quan điểm cho rằng cộng đồng quốc tế cần can thiệp nhằm bảo vệ thường dân và lật đổ những tên độc tài, ngay cả khi đã có sự ủy quyền quốc tế. Những người chống đối cũng chia làm hai nhóm: những kẻ ủng hộ chế độ Gaddafi một cách trơ trẽn và những kẻ giữ vị trí trung lập một cách đáng xấu hổ, lúc nào cũng dao động, không biết phải đứng về bên nào.
Nhóm thứ nhất gồm có Cuba, Nicaragua và Venezuela — thái độ của họ có thể dự đoán được từ trước, nhưng quan điểm của họ nói chung là chẳng có ý nghĩa gì. Quan trọng hơn là quan điểm của ba nước chủ chốt, đấy cũng là những nước đang tìm cách nhảy vào vị trí lãnh đạo thế giới. Brazil và Ấn Độ cùng bỏ phiếu trắng đối với Nghị quyết 1973, còn Nam Phi thì chỉ ủng hộ sau khi Tổng thống Obama đã gọi điện trực tiếp cho Tổng thống Jacob Zuma.
Nhóm thứ nhất gồm có Cuba, Nicaragua và Venezuela — thái độ của họ có thể dự đoán được từ trước, nhưng quan điểm của họ nói chung là chẳng có ý nghĩa gì. Quan trọng hơn là quan điểm của ba nước chủ chốt, đấy cũng là những nước đang tìm cách nhảy vào vị trí lãnh đạo thế giới. Brazil và Ấn Độ cùng bỏ phiếu trắng đối với Nghị quyết 1973, còn Nam Phi thì chỉ ủng hộ sau khi Tổng thống Obama đã gọi điện trực tiếp cho Tổng thống Jacob Zuma.
Nam Phi vớt vát được phần nào uy tín bằng cách cố gắng tìm giải pháp trung gian ở Libya. Những cố gắng đó đã không đi đến đâu chủ yếu là vì nhằm bảo vệ chế độ của Gaddafi. Brazil và Ấn Độ - hai nước đang kì vọng trở thành thành viên thường trực của Hội đồng bảo an và đòi hỏi phải được coi là những nước có tầm ảnh hưởng trên toàn thế giới – đã không tham gia vào một trong những hoạt động thành công nhất của Hội đồng bảo an trong thời gian gần đây. Cả hai nước đều sững sờ khi nhà độc tài này bị lật đổ, cả hai đều chưa công nhận chính phủ mới.
Brazil, Ấn Độ và Nam Phi đều coi không can thiệp là nguyên tắc nền tảng trong bất kì quan hệ đa phương nào: nhân đạo không quan trọng bằng việc bảo vệ chủ quyền quốc gia khỏi sự can thiệp từ bên ngoài. Đấy là lí do vì sao họ lưỡng tự trong việc can thiệp vào những cuộc khủng hoảng khác, kể cả việc chính quyền Syria đàn áp dã man người biểu tình. Mặc dù họ đã gửi một đoàn đại biểu đến Damascus với hi vọng ngây thơ là sẽ thuyết phục được Tổng thống Bashar Assad chấm dứt việc giết hại thường dân, nhưng họ vẫn ngăn cản những biện pháp trừng phạt do Hội đồng bảo an đưa ra và cùng với Nga, trói chân trói tay Liên hiệp quốc trước tình hình ở Syria. Bám vào những quan điểm đã làm họ thất bại ở Libya, các nước này đang chứng tỏ rằng họ chưa sẵn sàng đóng vai trò lớn hơn trong những vấn đề quốc tế.
Nguồn: The Time (Mĩ) Losers in Libya
Castañeda, từ là cựu bộ trưởng ngoại giao của Mexico, hiện là một trong những giáo sư nổi tiếng thế giới của Đại học New York (New York University)
--------------------
-Ở Tây phương, người ta thường nói: có hai nghề rất khó tìm ra người tử tế và nói thật: những người bán xe cũ và các chính trị gia.
Xe cũ đến mấy, khi vào tiệm, cũng đều được đánh bóng; và qua miệng của người bán hàng, tự nhiên biến thành mới, đẹp, an toàn, sang trọng và, dĩ nhiên, mắc tiền hơn hẳn. Có điều sự gian dối của những người bán xe cũ, nghĩ lại, cũng chẳng thấm tháp gì. Thứ nhất, họ chỉ lừa được từng người. Và mỗi người chỉ bị lừa, xui lắm, vài lần trong đời. Là hết. Vả lại, mức lừa cũng có giới hạn. Chiếc xe cũ trị giá thực khoảng năm ngàn, họ nâng lên khoảng 7,8 ngàn là nhiều. Có lẽ hiếm khi nào tăng được gấp đôi. Lý do là họ còn chịu sức ép cạnh tranh của các đối thủ khác. Thứ hai, dù sao đó cũng là chuyện mua bán. Mà nguyên tắc chính của mua bán là sự đồng thuận (thuận mua vừa bán).
Các chính trị gia thì khác. Từ mà giới chính trị gia thường nói nhiều nhất có lẽ là từ "sự thật" hay "chân lý" (kiểu "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi!"). Nhưng rất hiếm khi chân lý ấy là chân lý thật. Thường là giả. Lại là thứ giả do cố ý: chúng là những sự dối trá. Có thể nói một cách ngắn gọn: chính trị là dối trá. Tìm được một nhà chính trị thành thực, nhất là thực thà, là một điều bất khả. Sự khác biệt giữa nhà chính trị này và nhà chính trị kia, về phương diện này, chỉ là ở mức độ, kể cả mức độ dối trá cũng như mức độ khôn khéo khi dối trá. Vậy thôi.
Nói đến sự dối trá của các nhà chính trị, tôi nhớ ngay đến một nhận định của một nhà cựu ngoại giao người Singapore, Kishore Mahbubani, trong một bài viết trên The Financial Times mới đây:
"Các nhà độc tài đang sụp đổ. Các chế độ dân chủ cũng đang sụp đổ. Một trùng hợp lạ lùng chăng? Hay có lẽ, đó là dấu hiệu của một sự thay đổi căn bản nào đó trong khuynh hướng lịch sử nhân loại? Tôi ngờ là như vậy. Tại sao các nhà độc tài tồn tại? Tại chúng nói láo. Muammar Gaddfi là một trong những tên nói láo lớn nhất của mọi thời đại. Hắn tuyên bố là nhân dân nước hắn yêu hắn. Hắn kiểm soát mọi nguồn thông tin đến nhân dân hắn bằng cách ngăn chận mọi sự thật khác với những gì hắn kể. Rồi các máy điện thoại di động đơn giản ra đời nối kết mọi người lại với nhau. Sự thật lan tràn rộng rãi, cuốn trôi mọi sự dối trá mà tên đại tá đã phát đi phát lại trên các đài truyền thanh. Tương tự như vậy, ở Ai Cập và Tunisia, các chế độ mất quyền kiểm soát trên các tự sự. Nói một cách vắn tắt, kỹ thuật đã và đang xói mòn khả năng nói láo của các tên độc tài đối với nhân dân nước chúng. Vậy tại sao các nền dân chủ cũng đang sụp đổ cùng lúc? Câu trả lời đơn giản: các nền dân chủ cũng đang nói láo."
Cho các nền dân chủ đang sụp đổ kể cũng vội. Có lẽ Mahbubani chỉ căn cứ vào sự suy thoái kinh tế ở một số nước. Cho Gaddafi là kẻ nói láo lớn nhất mọi thời đại kể cũng hơi vội. Nghĩ xem, những điều Mahbubani kể về tội nói láo của Gaddafi, với người Việt chúng ta, nghe quen thuộc lắm, phải không? Thì, ở nước ta, cũng có người lúc nào cũng xưng xưng tuyên bố là được cả nước yêu mến đó thôi. Không phải chỉ yêu mến suông. Mà yêu mến như bác, như cha, như ông cơ! (Nhớ câu hát:"Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng".)
Không ai có thể chối cãi là ở các nước dân chủ, các chính trị gia cũng nói láo. Nói láo trắng trợn nữa là khác. Đã có nhiều người viết nhiều cuốn sách dày cộm về thứ chính trị dối trá (the politics of lying) ở Tây phương với vô số bằng chứng hùng hồn. George W. Bush nói láo về sự hiện diện của các loại vũ khí giết người hàng loạt của Sadam Hussein như cái cớ để tấn công Iraq. Đã đành. Ngay chính Barack Obama cũng bị kết tội nói láo khi không dám nhìn nhận sự thật là kinh tế Mỹ đang bị khủng hoảng nghiêm trọng và cần phải có những biện pháp cứu vãn mạnh mẽ và quyết liệt. Nhưng đó chỉ là những lần nói láo lớn. Còn những lần nói láo nhỏ hơn thì chắc chắn là nhiều hơn.
Tuy nhiên, dù nhiều đến mấy, chắc chắn các chính trị gia ở các nước dân chủ cũng không thể nói láo nhiều bằng các chính trị gia ở các nước độc tài. Ở các nước dân chủ, ít nhất cũng còn có các phe đối lập và giới truyền thông vốn lúc nào cũng rình rập để bắt quả tang những lời nói láo. Rồi tri hô. Rồi vạch mặt. Rồi phê phán. Biết vậy, giới làm chính trị, dù muốn nói láo, cũng đâm ra dè dặt. Ở các nước độ tài thì ngay cả những sự dè dặt tối thiểu cũng không có. Họ độc quyền trên các cơ quan truyền thông. Radio là của họ. Truyền hình là của họ. Báo chí là của họ. Không ai dám nghi vấn họ cả. Họ cứ nói như thánh phán. Rồi sẽ có cả bọn nịnh bợ xúm vào tâng bốc. Thành ra họ nói láo dễ dàng như việc họ mở miệng ban huấn từ. Nhân dân yêu mến họ. Nhân dân tin tưởng họ. Nhân dân ủng hộ họ. Một triệu người là nhân dân. Một ngàn người là nhân dân. Thậm chí, một người - chính họ - cũng là nhân dân nốt.
Một mình họ tha hồ tô vẽ các tự sự hoang đường về chính họ. Họ nói láo không biết ngượng mồm là vì vậy. Có thể nói, nếu đặc điểm đầu tiên của các tên độc tài là nói láo, thì đặc điểm thứ hai của chúng chính là: tuyệt đối không biết xấu hổ khi nói láo. Tuyệt đối.
Ví dụ, ở Việt Nam, sau khi câu chuyện Lê Văn Tám, cậu bé bán đậu phộng rang tẩm xăng tự đốt rồi chạy đến kho xăng, nhảy vào một thùng xăng gần nhất, làm bùng cháy cả một kho xăng lớn của Pháp vào năm 1946, gần đây, bị vạch trần là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt. Có ai xấu hổ không? Có. Hai người: một là Trần Huy Liệu, một sử gia; và hai là Phan Huy Lê, cũng là sử gia. Còn giới chính trị thì sao? Không ai lên tiếng cả. Lê Văn Tám, cho đến bây giờ, vẫn được đặt tên đường, tên công viên và tên trường học. Hàng ngày, học sinh vẫn ra rả đọc các bài ca tụng "anh Tám" anh hùng chống Pháp.
Còn bao nhiêu chuyện khác nữa.
Nhưng thôi. Lại nhớ một câu viết của Mahbubani trong đoạn văn dẫn trên: "kỹ thuật đã và đang xói mòn khả năng nói láo của các tên độc tài đối với nhân dân nước chúng." Kẻ thù của những tên độc tài, như vậy, chẳng phải là đảng này đảng nọ đứng đằng sau xúi giục các biểu tình chống Trung Quốc đâu. Chúng chính là các blog, twitter, facebook và những chiếc máy điện thoại di động đấy, các "đồng chí" ạ. (Nhớ trả công tôi về việc tố giác này đấy nhé!)
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Xe cũ đến mấy, khi vào tiệm, cũng đều được đánh bóng; và qua miệng của người bán hàng, tự nhiên biến thành mới, đẹp, an toàn, sang trọng và, dĩ nhiên, mắc tiền hơn hẳn. Có điều sự gian dối của những người bán xe cũ, nghĩ lại, cũng chẳng thấm tháp gì. Thứ nhất, họ chỉ lừa được từng người. Và mỗi người chỉ bị lừa, xui lắm, vài lần trong đời. Là hết. Vả lại, mức lừa cũng có giới hạn. Chiếc xe cũ trị giá thực khoảng năm ngàn, họ nâng lên khoảng 7,8 ngàn là nhiều. Có lẽ hiếm khi nào tăng được gấp đôi. Lý do là họ còn chịu sức ép cạnh tranh của các đối thủ khác. Thứ hai, dù sao đó cũng là chuyện mua bán. Mà nguyên tắc chính của mua bán là sự đồng thuận (thuận mua vừa bán).
Các chính trị gia thì khác. Từ mà giới chính trị gia thường nói nhiều nhất có lẽ là từ "sự thật" hay "chân lý" (kiểu "Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi!"). Nhưng rất hiếm khi chân lý ấy là chân lý thật. Thường là giả. Lại là thứ giả do cố ý: chúng là những sự dối trá. Có thể nói một cách ngắn gọn: chính trị là dối trá. Tìm được một nhà chính trị thành thực, nhất là thực thà, là một điều bất khả. Sự khác biệt giữa nhà chính trị này và nhà chính trị kia, về phương diện này, chỉ là ở mức độ, kể cả mức độ dối trá cũng như mức độ khôn khéo khi dối trá. Vậy thôi.
Nói đến sự dối trá của các nhà chính trị, tôi nhớ ngay đến một nhận định của một nhà cựu ngoại giao người Singapore, Kishore Mahbubani, trong một bài viết trên The Financial Times mới đây:
"Các nhà độc tài đang sụp đổ. Các chế độ dân chủ cũng đang sụp đổ. Một trùng hợp lạ lùng chăng? Hay có lẽ, đó là dấu hiệu của một sự thay đổi căn bản nào đó trong khuynh hướng lịch sử nhân loại? Tôi ngờ là như vậy. Tại sao các nhà độc tài tồn tại? Tại chúng nói láo. Muammar Gaddfi là một trong những tên nói láo lớn nhất của mọi thời đại. Hắn tuyên bố là nhân dân nước hắn yêu hắn. Hắn kiểm soát mọi nguồn thông tin đến nhân dân hắn bằng cách ngăn chận mọi sự thật khác với những gì hắn kể. Rồi các máy điện thoại di động đơn giản ra đời nối kết mọi người lại với nhau. Sự thật lan tràn rộng rãi, cuốn trôi mọi sự dối trá mà tên đại tá đã phát đi phát lại trên các đài truyền thanh. Tương tự như vậy, ở Ai Cập và Tunisia, các chế độ mất quyền kiểm soát trên các tự sự. Nói một cách vắn tắt, kỹ thuật đã và đang xói mòn khả năng nói láo của các tên độc tài đối với nhân dân nước chúng. Vậy tại sao các nền dân chủ cũng đang sụp đổ cùng lúc? Câu trả lời đơn giản: các nền dân chủ cũng đang nói láo."
Cho các nền dân chủ đang sụp đổ kể cũng vội. Có lẽ Mahbubani chỉ căn cứ vào sự suy thoái kinh tế ở một số nước. Cho Gaddafi là kẻ nói láo lớn nhất mọi thời đại kể cũng hơi vội. Nghĩ xem, những điều Mahbubani kể về tội nói láo của Gaddafi, với người Việt chúng ta, nghe quen thuộc lắm, phải không? Thì, ở nước ta, cũng có người lúc nào cũng xưng xưng tuyên bố là được cả nước yêu mến đó thôi. Không phải chỉ yêu mến suông. Mà yêu mến như bác, như cha, như ông cơ! (Nhớ câu hát:"Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn các em nhi đồng".)
Không ai có thể chối cãi là ở các nước dân chủ, các chính trị gia cũng nói láo. Nói láo trắng trợn nữa là khác. Đã có nhiều người viết nhiều cuốn sách dày cộm về thứ chính trị dối trá (the politics of lying) ở Tây phương với vô số bằng chứng hùng hồn. George W. Bush nói láo về sự hiện diện của các loại vũ khí giết người hàng loạt của Sadam Hussein như cái cớ để tấn công Iraq. Đã đành. Ngay chính Barack Obama cũng bị kết tội nói láo khi không dám nhìn nhận sự thật là kinh tế Mỹ đang bị khủng hoảng nghiêm trọng và cần phải có những biện pháp cứu vãn mạnh mẽ và quyết liệt. Nhưng đó chỉ là những lần nói láo lớn. Còn những lần nói láo nhỏ hơn thì chắc chắn là nhiều hơn.
Tuy nhiên, dù nhiều đến mấy, chắc chắn các chính trị gia ở các nước dân chủ cũng không thể nói láo nhiều bằng các chính trị gia ở các nước độc tài. Ở các nước dân chủ, ít nhất cũng còn có các phe đối lập và giới truyền thông vốn lúc nào cũng rình rập để bắt quả tang những lời nói láo. Rồi tri hô. Rồi vạch mặt. Rồi phê phán. Biết vậy, giới làm chính trị, dù muốn nói láo, cũng đâm ra dè dặt. Ở các nước độ tài thì ngay cả những sự dè dặt tối thiểu cũng không có. Họ độc quyền trên các cơ quan truyền thông. Radio là của họ. Truyền hình là của họ. Báo chí là của họ. Không ai dám nghi vấn họ cả. Họ cứ nói như thánh phán. Rồi sẽ có cả bọn nịnh bợ xúm vào tâng bốc. Thành ra họ nói láo dễ dàng như việc họ mở miệng ban huấn từ. Nhân dân yêu mến họ. Nhân dân tin tưởng họ. Nhân dân ủng hộ họ. Một triệu người là nhân dân. Một ngàn người là nhân dân. Thậm chí, một người - chính họ - cũng là nhân dân nốt.
Một mình họ tha hồ tô vẽ các tự sự hoang đường về chính họ. Họ nói láo không biết ngượng mồm là vì vậy. Có thể nói, nếu đặc điểm đầu tiên của các tên độc tài là nói láo, thì đặc điểm thứ hai của chúng chính là: tuyệt đối không biết xấu hổ khi nói láo. Tuyệt đối.
Ví dụ, ở Việt Nam, sau khi câu chuyện Lê Văn Tám, cậu bé bán đậu phộng rang tẩm xăng tự đốt rồi chạy đến kho xăng, nhảy vào một thùng xăng gần nhất, làm bùng cháy cả một kho xăng lớn của Pháp vào năm 1946, gần đây, bị vạch trần là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt. Có ai xấu hổ không? Có. Hai người: một là Trần Huy Liệu, một sử gia; và hai là Phan Huy Lê, cũng là sử gia. Còn giới chính trị thì sao? Không ai lên tiếng cả. Lê Văn Tám, cho đến bây giờ, vẫn được đặt tên đường, tên công viên và tên trường học. Hàng ngày, học sinh vẫn ra rả đọc các bài ca tụng "anh Tám" anh hùng chống Pháp.
Còn bao nhiêu chuyện khác nữa.
Nhưng thôi. Lại nhớ một câu viết của Mahbubani trong đoạn văn dẫn trên: "kỹ thuật đã và đang xói mòn khả năng nói láo của các tên độc tài đối với nhân dân nước chúng." Kẻ thù của những tên độc tài, như vậy, chẳng phải là đảng này đảng nọ đứng đằng sau xúi giục các biểu tình chống Trung Quốc đâu. Chúng chính là các blog, twitter, facebook và những chiếc máy điện thoại di động đấy, các "đồng chí" ạ. (Nhớ trả công tôi về việc tố giác này đấy nhé!)
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Tìm bài viết này tại: http://www.voanews.com/vietnamese/blogs/quoc/chinh-tri-doi-tra-09-20-2011-130216478.html |