Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2011

Huyền Thoại "Giả Tạo" của Đường Hồ Chí Minh trên Biển

Chắt lọc đúng sai, dù sao với lòng dũng cảm các anh đã xứng đáng là anh hùng .. 
phần 1: 
Hành Khất (danlambao) "Cuộc thi tìm hiểu 'Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển" được đăng trên trang mạng thanhnien.com.vn, bắt đẩu nhận bài từ ngày 15/09/2011 đến 30/09/2011 với giải thưởng từ 10 triệu--1 triệu cho bài viết của tập thể hay cá nhân. Kèm theo, bên dưới trang là những tài liệu được "chỉ đạo" để tham khảo trên mạng baodatviet.vn, baomoi.com, và vnca.cand.com và một trang "Đề Cương Tuyên Truyền Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Mở Đường Hồ Chí Minh Trên Biển". Có lẽ, cũng vì hai chữ "huyền thoại" nầy, nên có những sự kiện dường như trái ngược, hay thêm bớt, theo chỉ đạo lèo lách một cách rất sáng tạo trong sáng tác qua cảm hứng được phóng bút của người viết.

A. Sơ lượt về "đường Hồ Chí Minh trên biển" 

        
Theo "Đề Cương Tuyên Truyền Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Mở Đường Hồ Chí Minh", trong khoảng giữa năm 1959 sau hiệp định Genève, với nhu cầu mở rộng chiến trường miền Nam để bành trướng chủ nghĩa cộng sản với sự trợ giúp của Liên Xô và Trung cộng trên vùng Đông Dương, đảng cộng sản Việt Nam thành lập"Đoàn công tác quân sự đặc biệt" - tiền thân của Đoàn 759 - với mục đích dùng đường biển để chuyên chở vũ khí được viện trợ bởi hai nước đàn anh vào miền Nam để hỗ trợ cho hai lực lượng : Bình Xuyên, các đảng phái quốc gia (Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng) và các giáo phái (Cao Đài, Hoà Hảo), và những người kháng chiến cũ là Việt Minh đóng ở miền Nam.
Theo ước tính của Mỹ, đa số cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại lên đến 100.000 người (wikipedia, "Chiến Tranh Việt Nam", bảng tiếng Việt). Và từ đó nối tiếp những chuyến tàu gọi là "tàu không số" qua "đường Hồ Chí Minh trên biển" song song với "con đường mòn Hồ Chí Minh" bắt đầu khoảng đầu năm 1960. 
Bãi tiếp nhận đầu tiên là bến Vàm Lũng (Cà Mau), sau đó hàng loạt bến ven biển được thành lập trên khắp 4 vùng chiến thuật của miền Nam: bến Rạch Kiến Vàng (Cà Mau), bến Lộc An (Bà Rịa- Vũng Tàu), bến Hòn Hèo (Khánh Hoà), bến Vũng Rô (Phú Yên), bến Lộ Diêu (Bình Định), bến Đạm Thuỷ, Ba Làng An (Quảng Ngãi), bến Bình Đào (Quảng Nam), và ở các tỉnh Minh Hải, Bạc Liêu, Trà Vinh, Bến Tre. Sau đợt tổng công kích Tết Mậu Thân, 1968, hoạt động của những con tàu số không bị thu lại trong vùng Sông Gianh - Quảng Bình và hàng tấn vũ khí, hàng hoá được chuyển tiếp bằng đường bộ. Tính đến trận chiến mùa hè đỏ lửa năm 1972, có khoảng hơn 33.000 tấn hàng được vận chuyển (khoảng trọng lượng của 825 xe tăng T54 hay 1.0000 xe hàng loại kéo).
Trong những "con tàu không số" tiêu biểu thường được nói đến là : 165, 56, 54, và 235, được Bộ Tư lệnh Hải quân quyết định sử dụng để vận chuyển vũ khí tiếp sức cho mặt trận nằm vùng ở miền Nam để phân tán sự phản công trên nhiều mặt chiến trường truy nã của quân đội Việt Nam Cộng Hoà , sau thất bại trong trận đại chiến của cuộc tổng khởi nghĩa vào dịp Tết Mậu Thân (1968), nhằm bảo tồn lực lượng bộ đội chính uy còn lại đang rút lui về vùng Hạ Lào. Con tàu 235 được xem như "bản anh hùng ca bất tử", do Trung úy Nguyễn Phan Vinh điều khiển, cùng 19 cán bộ xuôi Nam trên vùng biển quốc tế và bãi chuyển hàng theo ước định là Hòn Hèo (Khánh Hoà), cách Nha Trang khoảng hơn mười hải lý. Đó là vùng kiểm soát của lực lượng tuần giang của Hải quân Hoa Kỳ, Nước Nâu (The Brown Water Navy) trong giai đoạn 1965--1970, với nhiệm vụ bảo vệ vùng ven biển từ cửa Việt (Quảng Trị, nơi gần vĩ tuyến 17) đến Nam Căn (tận cùng đất miền Nam) vòng qua đào Hà Tiên
B. Những sự kiện dị biệt qua 3 tài liệu tiêu biểu
Tuy nhiên, có những sự kiện khác biệt về câu chuyện con tàu 235, được xét từ 3 tài liệu tiêu biểu:

1. (Tài liệu được chỉ đạo) trên vnca.cand.com.vn, "Nguyễn Phan Vinh và tàu 235 - Bàn hùng ca bất tử", ra ngày 26/10/2006, của Bùi Thị Hương (Bào tàng Quân chủng Hải quân) là loạt bài viết "Chuyện người trong cuộc - Chân dung các thuyền trưởng tàu không số. Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" ra ngày 10/09/2011, của Trịnh Dũng--Thu Hương, trên mạng qdnd.vn.
2. Qua bài viết "Chuyện người trong cuộc -  Những trang đời huyền thoại. Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh", ra ngày 9/09/2011, của Phan Tiến Dũng, cũng trên qdnd.vn.
3. Qua lời bài viết kể lại của cựu chiến binh đoàn tàu không số "Tàu 235 và trận chiến sinh tử", ra ngày 8/09/2011, của Lê Duy Mai, trên qdnd.vn.
Sau đây là những sự kiện dựa trên "Kỳ 4 : Nguyễn Phan vinh (NPV), bản hùng ca cất tử" được chọn lọc để có thể so sánh sự dị biệt, đôi khi cả mâu thuẩn, và sai sự thật trong cả 2 bài viết còn lại : 
Sự kiện (1) : thời điểm chuyển hướng
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Tối 29/2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, HQ12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
"… ngày 29-2-1968, tàu 235 đến ngang vùng biển Nha Trang, thì phát hiện máy bay trinh sát địch lượn vòng quanh tàu rồi mất hút. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh nhận định tàu ta đã bị lộ nên cho anh em ngụy trang cẩn thận, chờ đêm tối chuyển hướng vào bờ, cả tàu chuẩn bị thả hàng sẵn sàng chiến đấu "
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Trong suốt hành trình ngoài hải phận quốc tế, tàu địch và máy bay địch luôn thay phiên bám đuổi. Biết địch bám chặt, Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cho tàu chuyển hướng đánh lừa địch, khi thấy tàu và máy bay địch không “bám đuôi” nữachúng tôi mới chuyển hướng hành trình vào bến.
Trong "NPV, bản hùng ca bất tử" cho rằng khi tàu đến vùng biển Nha Trang, và chuyển hướng vào bờ, sau đó tàu địch mới phát hiện ra.
Nhưng trong "Nhớ mãi tên anh" lại viết, khi tàu đến vùng biển Nha Trang, thì phát hiện máy bay trinh sát địch, nên chờ đêm tối mới chuyển hướng vào bờ. Tương tự như trong "Tàu 235 và trận chiến sinh tử", Lê Duy Mai kể rằng khi máy bay và tàu địch không theo bám nữa, họ mới chuyển hướng. Điều nầy xét ra hợp lý hơn, qua sự kiểm soát vùng biển quốc tế trong phạm vi mở rộng ngang qua của một nước, lực lượng hải quân của họ có quyền theo dõi khi phát hiện những con tàu đáng nghi ngại cho sự an ninh vùng bờ biển thuộc chủ quyền. Một khi bất kỳ con tàu lạ nào xâm nhập lãnh hải mà không thông báo xin phép trước, lực lượng hải quân sẽ theo đuổi chận xét.
Quân đội Hoa Kỳ đã tham chiến trong khoảng thời gian 1965. Riêng lực lượng hải quân Hoa Kỳ, kết hợp với hải quân Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) đã bao phủ một hệ thống kiểm soát chặc chẽ với những đoàn tàu đủ loại được trang bị hỏa lực đủ mạnh, máy bay trinh thám và những mạng lưới radars, thì không thể không phát hiện được con tàu đi ngang qua trong hải phận quốc tế. Đó là chưa nói đến, những hình ảnh, bản vẽ trong danh sách tư liệu về những "con tàu không số" (dù số tàu có thể thay đổi, nhưng hình dáng được nhận diện khó đổi thay dù được ngụy trang bằng những tấm lưới cá, chày câu) qua chiến dịch Thời Thị Trường (Market Time)_ là một trong 3 chiến dịch nhằm đối phó với những cuộc chuyên chở vũ khí, xâm phậm vào miền Nam Việt Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh, đường biển, và đường bộ từ biên giới Lào.

Sự kiện (2) : thời điểm bị địch phát hiện,  vượt thoát và thả hàng

"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Tối 29/2, tàu đến ngang vùng biển Nha Trang và chuyển hướng vào bờ. Phát hiện ra tàu ta, địch lập tức huy động 3 tàu chiến: Ngọc Hồi, HQ12, HQ 617 và 4 tàu khác của duyên đoàn 25 đến vùng biển Nha Trang với ý định bắt sống...
Biết đã bị lộ, Thuyền trưởng Phan Vinh khôn khéo điểu khiển tàu 235 luồn lách qua đội hình tàu địch và đến được bến Ninh Phước lúc 0 giờ 30 phút ngày 1/3. Anh quyết định thực hiện phương án hai, cho thả hàng xuống nước để quân dân ở bến mò vớt sau"
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
"Kim đồng hồ chỉ đúng 23 giờ. Màn đêm đen đặc, tàu 235 đè sóng lướt tới. Khi cách Hòn Hèo khoảng chừng 6 hải lý thì bất ngờ gặp 3 tàu chiến của địch là Ngọc Hồi, HQ12, HQ617 và 4 chiếc khác dàn hàng ngang, triển khai đội hình phục kích thành thế bao vây hòng bắt sống tàu ta. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đã mưu trí chỉ huy các thủy thủ thả khói mù, khôn khéo điều khiển tàu luồn lách qua đội hình tàu địch đến đúng vị trí bến quy định thuộc xã Ninh Phước, huyện Ninh Hòa (Khánh Hòa)"
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Ngày 1-3-1968, tàu chúng tôi vào đúng bến Hòn Hèo, phát tín hiệu nhiều lần nhưng trên bờ không có tín hiệu đáp lại. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh quyết định neo tàu và thực hiện phương án thả hàng. Hàng vừa thả xong thì chúng tôi cũng phát hiện tàu địch đã bao vây tứ phía"
Theo "NPV, bản hùng ca bất tử", thời điểm bị địch phát hiện là lúc chuyển hướng thẳng vào bờ từ vùng hải phận quốc tế; sau đó tàu 235 "luồn lách qua đội hình địch" để đến bến hẹn Ninh Phước.
Nhưng theo "Nhớ mãi tên anh" , tàu 235 "bất ngờ" gặp những tàu chiến địch, và thêm chi tiết "thả khói mù", sau đó cũng do sự khôn khéo điều khiển tàu "luồn lách" qua đội hình tàu địch, đến bến hẹn Ninh Phước .
Và theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử", tàu 235 vào đúng bến Hòn Hèo, nhưng không nhận được tín hiệu đáp lại, nên tàu thả hàng xuống nước khi vừa xong thi phát hiện tàu địch bao vây.
Sự kiện khi bị tàu địch phát hiện trong 3 bài viết hoàn toàn khác nhau, dù trong hai bài có vài phần dường như sao chép nhau, nhưng trong bài thứ 2 được thêm vào chi tiết "thả khói mù" để vượt thoát tàu địch đang bao vây. Theo tài liệu wikipedia, con tàu sắt- được chế tạo bên trung cộng, không phải từ hãng xưởng Hải Phòng hay bất kỳ vùng nào ở miền Bắc (sẽ nói và dẫn chứng thêm sau) - chỉ có thể đạt tốc độ tối đa khoảng 12 hải lý/ giờ (trong khi tuần dương đỉnh của Hoa Kỳ và tàu tuần cao tốc có thể đạt từ 17-- 28 hải lý /giờ) thì làm sao có thể vượt thoát bằng cách "luồn lách" trước đội hình mạnh mẽ của hải quân địch. Cho dù có "thả khói mù", nhưng trên vùng biển mênh mông như vậy khói mù khó có thể nào bao phủ một khoảng rộng bao quanh để che chắn, và sẽ bị loãng rất nhanh theo sức gió, cộng thêm lực chuyển động của con tàu; ngoài ra, chưa nói đến hệ thống radar trên tàu địch không bao giờ có thể bị mù vì khói.      
Sự kiện (3) : đối địch
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Các thủy thủ Thật, Phong liên tiếp dùng DKZ và 14 ly 5 bắn về phía tàu địch, một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần"
 "Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
 "Phía bên ngoài các tàu địch di chuyển khép chặt vòng vây. Trên không chúng huy động máy bay lên thẳng vũ trang yểm trợ. Cuộc chiến không cân sức diễn ra quyết liệt"
 "Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Chúng tôi dùng ĐKZ và súng máy 14,5mm bắn chìm và làm bị thương một số tàu địch"
Giữa một con tàu sắt vận chuyển hàng được ngụy trang thành tàu đánh cá và 8 tàu chiến tàu địch bao vây, thêm vào là máy bay trên không, quả là một cuộc chiến không cân sức như trong "Nhớ mãi tên anh" đã thừa nhận điều đó.
Theo wikipedia, "Action of 1 March 1968" có đoạn :

"Surveillance was continued by Market Time vessels until she crossed the 12 mile limit 28 miles northeast of Nha Trang.[1] Ignoring warning to heave to for boarding, the trawler continued on towards the beach. A South Vietnamese Navy patrol boat opened fire on the trawler and it quickly changed course and returned fire. Assisted by a U.S. Air Force AC-47 gunshipswift boats PCF-42, PCF-43, PCF-46, PCF-47, PCF-48 and two SVN junks sortied to help the patrol craft chase the trawler to a cove where it ran aground in the Hon Heo Secret Zone[4]



Tạm dịch : "Sự giám sát được tiếp tục bằng nhữncon tàu trong chiến dịch Thời Thị Trường cho đến khi con tàu(235) vượt qua 12 dặm giới hạn (hướng)28 dặm về phía đông bắc của Nha Trang. Bỏ qua sự cảnh cáo dừng lại đề lên tàu (kiểm soát), con tàu đánh cá vẫn tiếp tục hướng tới bãi biển. Tàu tuần duyên hạm của Hải quân miền Nam Việt Nam khai hoả và tàu đánh cá nhanh chóng đổi hướng và bắn trả lại. Được hỗ trợ bởi máy bay tuần thám có trang bị vũ khí AC-47 của Không quân Hoa Kỳ, những(5) Duyên tốc đĩnh PCF-42, PCF-43, PCF-46, PCF-47, PCF-48 và hai chiếc ghe hải thyền gổ (có gắn súng) của miền Nam Việt Nam chưa một lần xung trận để giúp con tàu tuần tra đuổi theo các tàu đánh cá vào vịnh nhỏ để bị mắc cạn trong Khu Hòn Hèo bí mật"




Theo tài liệu "NPV, bản hùng ca bất tử", có 3 con tàu HQ.12, Ngọc Hồi, và HQ.617 của Hải quân VNCH tham chiến, và 4 con tàu khác dàn hàng ngang. Nhưng theo "Sử Liệu" của Hải quân trên mạng hqvch.net cho biết rằng HQ.12-Ngọc Hồi là một tuần dương hạm. Và theo wikipedia, được trích đoạn ở trên, không nói rõ tên con tàu tham dự, ngoại trừ những duyên tốc đĩnh và một máy bay trinh thám được vũ trang_ không phải là "máy bay lên thẳng" như được nói đến trong "Nhớ mãi tên anh". Vì vậy có thể đoán rằng, chỉ một HQ.12 hoặc HQ.617 có mặt lúc đó. Dù vậy, lực lượng tham chiến cũng không nhỏ đối với một con tàu sắt đánh cá; do đó khó có thể nghĩ rằng sự phản công của con tàu sắt tạo nên hiệu quả như trong "NPV, bản hùng ca bất tử" viết : " một chiếc bốc cháy khiến chúng không dám vào gần" hay như trong "Tàu 235 và trận chiến sinh tử" thêm  : " bắn chìm và làm bị thương một số tàu địch" (sẽ được trích dẩn để chứng minh trong phần kế tiếp).  


Hành Khất (danlambao) Hai chữ "huyền thoại" đã tạo nên những sự kiện dường như trái ngược, hay thêm bớt, theo chỉ đạo lèo lách một cách rất sáng tạo trong sáng tác qua cảm hứng được phóng bút của người viết. Tất cả tạo nên "huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên Biển" như là một trong hàng ngàn "huyền thoại" khác được sản xuất trong suốt nhiều thập niên qua...


*
Sự kiện (1) : thời điểm chuyển hướng
Sự kiện (2) : thời điểm bị địch phát hiện,  vượt thoát và thả hàng
Sự kiện (3) : đối địch
Sự kiện (4) : quyết định hủy tàu

"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Anh có ý định phá vòng vây bởi ngoài khơi dễ cơ động, nếu cần thì áp sát tàu địch và cho nổ tàu tiêu diệt bọn chúng. Nhưng rất không may, lúc đó máy tàu hỏng nặng. Ý định phá vòng vây không thành.
" Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu."
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
" Biết không thể thoát khỏi vòng vây của địch được nữa, Nguyễn Phan Vinh hội ý với anh em và ra quyết định hủy tàu để không lọt vào tay địch."
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Thấy tàu Việt Cộng hành động quyết liệt, các tàu địch còn lại không dám lại gần. Đây là thời cơ để chúng tôi thực hiện phương án 3, hủy nổ tàu để bảo đảm bí mật về “đường mòn trên biển”."
Theo "NPV, bản hùng ca bất tử" vì lúc đó máy tàu hư nặng không thể phá vòng vây ra ngoài khơi, nên phải bắt buộc cho nổ tàu, sau khi tải người đã hy sinh và bị thương vào bờ trước. 
Nhưng theo "Nhớ mãi tên anh" thì cho rằng vì cuộc chiến không cân sức, và biết rằng không thể thoát khỏi vòng vây - có thể không phải con tàu bị hư hại nặng - nên Thuyền trưởng NPV "phải hội ý" và cuối cùng quyết định hủy tàu.
Và theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử" vì các tàu địch còn lại không dám đến gần, nên tàu 235 lợi dụng thời cơ đó, thực hiện phương án 3 là hủy tàu, dù đã chống trả một cách quyết liệt.
Qua 3 đoạn trích trên cho cùng một sự kiện, nhưng sự việc diễn tiến hoàn toàn mâu thuẫn nhau qua các lý do cho thực hiện phương án hủy tàu. Vấn đề có thể đặt ra là "sự kiện hủy tàu có thực sự xảy ra không, hay chỉ là cách ngụy tạo để che giấu cho sự thất bại chiến dịch vận chuyển vũ khí làm hao tốn tài vật và đồng thời mượn cớ nhằm đánh bóng thêm những thành tích anh hùng của đảng ?"
           
Những con tàu dù đến được bến hẹn hay không nhưng một khi bị phát hiện là không còn cách vượt thoát ra khơi. Vì tốc độ của một con tàu để vận chuyển hàng hoá nặng như xe tải loại kéo thì tốc độ không thể nhanh hơn những con tàu duyên tốc đĩnh, hay tuần duyên hạm v.v, dù giả như lúc đó con tàu sắt hoàn toàn không có hàng hóa, thì cũng không thể nào vượt thoát vòng vây với hỏa lực mạnh gấp nhiều lần trên biển và trên không. Đó là những chuyến tàu dường như khó có thể trở lại ! Chỉ còn cách duy nhất là hủy tàu.
           
Theo wikipedia, "Action of 1 March 1968", có đoạn như sau :
"At 0230, 1 March, five 81-millimeter mortar rounds from PCF-47 were direct hits and the trawler exploded with a massive explosion due to the munitions aboard"
           
Tạm dịch : "Lúc 2 giờ 30 sáng, ngày 01 tháng 3, năm loạt đạn súng cối 81 mm từ PCF-47(duyên tốc đĩnh) đã rơi đúng mục tiêu và tàu đánh cá phát nổ với sự bùng phát to lớn do vũ khí trên tàu"
  
Sự kiện (5) : bối cảnh lúc hủy tàu
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :

"Anh chỉ huy cho tàu di chuyển vào sát bờ. Lúc đó chừng 2 giờ 20 phút, tàu cách bờ hơn 100 mét, anh tổ chức đưa người đã hy sinh và bị thương vào bờ, sau đó ra lệnh chuẩn bị điểm hỏa cho nổ tàu."Anh Vinh, Thứ và tôi cài kíp nổ ở khoang máy, các vị trí khác do Khung, Thật, Mai đảm nhiệm. Kiểm tra xong lần cuối, chúng tôi nhảy xuống nước bơi vào bờ. Tôi được giao nhiệm vụ nếu tàu không nổ phải quay lại kiểm tra các kíp nổ"
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
"Thuyền trưởng Vinh cho tất cả anh em bơi vào bờ trước, còn anh và thợ máy Ngô Văn Thứ ở lại chuẩn bị các loại kíp nổ và trực tiếp điểm hỏa khối thuốc nổ hủy tàu rồi bình thản nhảy xuống nước bơi vào bờ...."

"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"Ở lại tàu lúc đó, theo trí nhớ của tôi còn Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và các đồng chí: Hàng hải, điều khiển 2 máy trước, điều khiển hai máy sau, 2 đồng chí pháo thủ súng máy 14,5mm, đồng chí pháo thủ ĐKZ và tôi."
"… Người đánh bộc phá khoang máy trước là anh Vũ Long An. Người đánh bộc phá khoang mũi tàu là anh Hà Minh Thật. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đến từng vị trí kiểm tra và động viên từng người."
Trong bối cảnh trước khi hủy tàu, theo "NPV, bản anh hùng bất tử" viết rằng sau khi tải những người đã hy sinh và bị thương vào bờ, NPV và một người tên Thứ cùng tác giả tên Long An lo việc gài kíp nổ ở khoang máy, trong khi ba người khác lo những vị trí còn lại. Sau đó, cả 5 người cùng nhảy xuống nước bơi vào bờ.
Nhưng theo "Nhớ mãi tên anh", NPV cho tất cả bơi vào bờ trước, chỉ còn người thợ máy tên Thứ và chính Thuyền trưởng_ không phải là 5 người như đoạn trên đã nói ở lại để chuẩn bị các loại kíp nổ và trực tiếp điểm hỏa, rồi mới nhảy xuống nước.
Và tác giả Lê Duy Mai, cũng là thợ điện, kể lại trong "Tàu 235 và trận chiến sinh tử" thì cho rằng người đánh bộc phá khoang máy trước là Vũ Long An - không phải là NPV và người tên Thứ -, và người lo khoang mũi tàu là Hà Minh Thật. Thuyền trưởng NPV chỉ kiểm tra và động viên.
Nếu cho rằng những ngưởi kể lại trong 3 bài viết có thể nhớ lộn vài chi tiết vì quá lâu hay tình hình lúc đó quá căng thẳng, nhưng thật ra qua nhiều đoạn trong bài cho thấy rằng họ nhớ rất tỉ mỉ những sự kiện khác, ngay cả nhận thấy sự "bình tĩnh" của NPV  nhảy xuống nước như trong "Nhớ mãi tên anh" đã kể. Những chi tiết khá đơn giản nầy nhưng trái ngược nhau, khiến người đọc càng thêm bối rối, nhất là khi muốn tìm hiểu thêm tài liệu để viết bài.
Trong lúc con tàu 235 bị bao phủ bởi những loạt pháo, và tràng đạn bắn xả liên tục của kẻ địch từ trên không và trên biển, nhưng họ "vẫn có thể bình tĩnh" tổ chức đưa "5 cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, 7 người bị thương nhẹ" vào bờ trước, như trong "NPV, bản anh hùng  bất tử" viết; thì quả thật là một là việc rất anh hùng… "khó tưởng" như trong mấy phim ảnh dàn dựng cốt chuyện cho thêm phần gai go và hấp dẫn; nhất là trong khoảng thời gian rất ngắn ngủi, cấp bách, và nguy kịch lúc đó nhưng phải tải tất cả là 14 người xuống xuồng bơm hơi cao su. (cũng như những sự kiện trên, sẽ được chứng dẫn thêm sau về sự thật xảy ra như thế nào).
Sự kiện (6) : bối cảnh sau khi lên bờ
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Mười ngày phơi dưới nắng, không lương thực, không nước uống, chúng tôi kiệt sức. Ngày thứ 11, Khung đi tìm nước uống, rồi không trở về. Sau này mới hay Khung bị địch bắt. Ngày thứ 12, chúng tôi liên lạc được với du kích ở bến. Mọi người quay lại đón anh Nhi đang nằm trong rừng"
"Kỳ 4 : Nhớ mãi tên anh" :
"Cuộc chiến đấu trên bộ giữa thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng thợ máy Ngô Văn Thứ với bộ binh địch diễn ra vô cùng ác liệt. Lợi dụng địa hình, địa vật, các anh đã tiêu diệt nhiều tên địch. Cuối cùng, do vết thương ngày càng nặng, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, rồi anh dũng hi sinh..."
"Tàu 235 và trận chiến sinh tử" :
"sau khoảng 7, 8 ngày lẩn tránh các cuộc truy lùng của địch, anh Mai Văn Khung đi tìm nước cho anh Nhi uống thì bị địch phát hiện. Chúng tôi nổ súng quyết chiến với quân địch. Anh Nhi hy sinh tại chỗ còn anh Khung sau đó bị thương. Gần đây tôi được biết, anh Khung bị địch bắt rồi đày đi Phú Quốc"
Theo "NPV, bản hùng ca bất tử", số còn lại sau khi rút lên bờ là 9 người -5 người đã hy sinh, 2 người bị thương nặng, và 7 người bị thương nhẹ, còn lại 6 người không thương tích lo việc gài kíp nổ. Như vậy, có tất cả là 11 người đã hy sinh trong tổng số ban đầu là 20 người - có thể là 5 người trước đó, thêm 2 người bị thương nặng, và 4 người bị thương nhẹ. Số còn lại là 6 người không thương tích và 3 người bị thương, phải chiến đấu quyết liệt với kẻ địch đang kéo đến trên bờ. Thuyền trưởng NPV và người tên Thứ đã phải chịu hy sinh để chận đứng nhiều cuộc tấn công. Chỉ còn lại 7 người phải lẩn trốn và chịu đựng 10 ngày phơi nắng, không lương thực, nước uống, ngay cả thuốc men, băng bó. Đến ngày thứ 11, người tên Khung đi tìm nước và rồi không về; sau nầy mới biết là bị địch bắt. Cuối cùng, 7 người cũng được trở về miền Bắc hơn 6 tháng vượt Trường Sơn, sau khi bắt liên lạc với du kích và tịnh dưỡng một thời gian.
           
Trong "Mãi nhớ tên anh" thì không… nói đến việc vượt Trường sơn trở lại miền Bắc, cũng như thời gian lẩn tránh, hay chuyện về người tên Khung.
           
Nhưng theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử" cho rằng số 7 người còn lại phải lẩn tránh trong 7,8 ngày - không phải là 10 ngày như được nói ở trên. Và cuộc chiến trên bờ chỉ xảy ra sau khi Khung đi tìm nước bị địch phát hiện. Sau đó Khung bị thương - có thể bị bỏ lại, nên tác giả không biết Khung đã hy sinh hay bị bắt - đến mãi sau nầy mới được tin : "Khung bị địch bắt rồi đày đi Phú Quốc" .
           
Sức con người luôn có hạn, dù có thể nhịn ăn nhưng không thể không uống nước trong 10 ngày liên tục như trong "NPV, bản hùng ca bất tử" đã kể. Và 3 người bị thương, không có thuốc men để băng bó, trong vùng bùn lầy mà vẫn có thể chịu đựng được; thì điều nầy lại phải đặt thêm nghi vấn. Vì với một vết thương bằng súng đạn như vậy, trong vòng 3 ngày đã hóa mủ và bắt đầu ung thúi. Ngoài ra không được ăn uống trong nhiều ngày - cơ thể dần mất khả năng chịu đựng, tự bảo vệ, và hàn gắn vết thương - thì khó bảo toàn phần cơ thể còn lại. Và giả như được may mắn sống sót, phần cơ thể đó chắc chắn phải bị cắt bỏ; nhưng trong tình hình bấy giờ, không có thuốc men thì dễ gì làm phẫu thuật dù với dụng cụ thô sơ.
Riêng về câu chuyện người tên Khung lại mâu thuẫn nhau, cũng như sự kiện xảy ra trận chiến trên bờ hoàn toàn khác biệt về giai đoạn thời gian : trước hay sau khi Khung bị phát hiện? Nhưng trong "NPV, bản hùng ca  bất tử" mô tả lại trận chiến rất chi tiết như khẳng định rằng sự việc đó là thật và đã xảy ra trước khi Khung bị bắt.
Một trận chiến không kém phần náo động, với : "… máy bay đến bắn phá ven biển, nhằm dọn đường cho bộ binh bao vây, bắt sống các thủy thủ tàu 235" "Địch lập tức đổ quân lùng sục. Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Thứ chốt ở đó, kiên cường chống trả, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch,…", thì khó có thể làm người ta dễ dàng quên đi vài chi tiết, bao gồm sự việc về người tên Khung.

Sự kiện (7) : bản tin không chứng cứ
"Kỳ 4 : Nguyễn Phan Vinh, bản hùng ca bất tử" :
"Về sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân quân đội Sài Gòn viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”..."
Đây lại một là bản tin không chứng cứ hay chỉ nói qua loa về nguồn dẫn, nhưng nó cũng dễ khiến người đọc tin là thật vì đa số đọc giả không hiểu biết rõ ràng về những danh từ dùng trong quân đội như tiểu đoàn, chiến hạm, phi cơ, nếu không có những hình ảnh cụ thể, hay vài lời chú thích. Họ khó có thể hình dung 1 tiểu đoàn như thế nào, ngoại trừ cho họ một khái niệm về con số, hay một chiến hạm to lớn được trang bị ra sao, nếu chưa từng được nhìn thấy qua hình ảnh, hay khoảng tróng trong khoang của một con tàu vận chuyển hẹp rộng như thế nào, cùng với 14 tấn vũ khí, và khả năng hủy hoại của một chiếc phi cơ chiến đấu đến mức nào, so với máy bay tuần thám.   
Để chú giải phần nào, theo wikipedia cho biết, một tiểu đoàn có khoảng 300 đến 500 người. Nhưng cũng có thể lên đến 800 người, tùy tình hình và hoàn cảnh của mỗi quốc gia qua cách phân chia trong quân đội của họ. Đơn giản hoá, người ta có thể dùng con số 400 cho một tiểu đoàn.

Theo tài liệu "Lực Lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa" trên http://hqvnch.net/default.asp?id=502&lstid=62hải quân của VNCH có tất cả là 20 tuần duyên hạm trong khoảng 1963--1967, và 7 tuần dương hạm trong khoảng 1971--1972. Vì vậy, theo bản tin, có thể xem như chỉ có tuần duyên hạm tham gia, lúc đó. Và phải vận động gần như toàn bộ lực lượng hải quân để vây đánh… một tàu sắt vận chuyển hàng hóa với 20 thủy thủ (?). Và một chiếc quân vận đĩnh chỉ có thể chứa khoảng 100 người; như vậy cần đến 4 chiếc cho một tiểu đoàn khoảng 400 người. Nhưng theo bản tin viết, con tàu sắt đánh cá chuyên chở cả "một tiểu đoàn Việt Cộng" (?)









Với một con tàu vận chuyển đầy hàng như hình ảnh ở trên, khó có thể nào dồn thêm cả 400 người trong khoang. Và cứ giả như là vậy, lực lượng chiến đấu của 1 tiểu đoàn chỉ bám vào một con tàu sắt đơn sơ, chậm chạp như thế, chỉ là cách tự sát tập thể. Theo như bản tin, ngoài 12 chiến hạm, và hàng chục hải thuyền, còn có thêm phi cơ - không phải là loại thám thính - thì đó là một trận thư hùng kinh hoàng không kém.
Thật ra, với khả năng của 1 chiếc phi cơ, cũng đủ đánh chìm con tàu sắt cùng 1 tiểu đoàn của nó trong chớp nhoáng, vì tàu sắt vận hàng, dĩ nhiên không được trang bị hỏa lực như một tàu chiến và sự chính xác của lằn đạn từ người trên tàu cầm súng bắn lên phi cơ thì rất mong manh . Vã lại, không một vị chỉ huy nào nghĩ rằng họ sẽ vận dụng một lực lượng to lớn đến vậy để chỉ đối phó với một con tàu sắt vận hàng vì trong trách nhiệm và bổn phận của người thừa hành có cấp bậc, bao gồm cả việc chi tiêu về chiến phí để tiết kiệm quân nhu và phí tổn không cần thiết, và sự điều quân thích hợp để tránh sự hao hục lực lượng.
Nếu một bản tin như vậy đăng trên tạp chí "Lướt sóng" của quân đội VNCH, thì chỉ có trong mục truyện vui cười, vì không một quân nhân nào trong quân đội VNCH nói chung, và hải quân nói riêng, thiếu kiến thức để nhận thấy sự lố bịch trong ngụy tạo như vậy. Đó là chưa nói, trong binh chủng hải quân, hay những binh chủng khác, phóng viên quân đội được đào tạo bằng trường lớp chuyên nghiệp, sau khi đỗ đạt qua hai kỳ thi tú tài toàn phần với số điểm bình (hạng thứ, hạng bình, hạng ưu). Từ đó, người ta có hiểu được một khía cạnh nhỏ như thế nào về điều kiện để trở thành một sĩ quan hải quân, hay trong binh chủng khác.
Tóm lại, chỉ cần đọc sơ qua bản tin trên, một người lính VNCH không cấp bậc, cũng hiểu rằng đó là một bài viết thiếu hiểu biết cơ bản về quân đội và chiến trận. Vậy tác giả nào dám nghĩ đến chuyện đăng lên một tạp chí hải quân như vậy mà không cảm thấy sự mê muội lố bịch của mình phơi bày sao ? Họa chăng, với bản tin như thế có thể dẫn dụ sự tin tưởng của những người dân đen cần cù mưa nắng, ví thiếu thời gian, điều kiện tự tìm hiểu thêm, ngoài trừ chỉ được đọc những bài báo tuyên truyền lá cải như tình trạng ở Việt Nam hôm nay. Cái đau của dân tộc cũng chính là sự thiếu hiểu biết trong dân chúng, khi nhà cầm quyền cố tình tạo một nền giáo dục u mê, ngụy tạo ngay cả trong lịch sử xa xưa, để có được những người "trung thành tuyệt đối với đảng"  như trong "Đề Cương"  nói về nhiệm vụ thứ 3 trong tình hình mới hôm nay (2011). Cũng có nghĩa là: "người dân không được quyền đặt bất kỳ nghi vấn gì với đảng", dù chỉ bắt đầu men nhóm trong tư tưởng mà đó là một đặc ân về trí não, của Thượng Đế ban cho con người.
Hành Khất (danlambao) - Ở đâu cũng có anh hùng, dù đó là phía bên kia của kẻ thù. Và trong chiến tranh vừa qua, đã không biết có bao nhiêu anh hùng Nam-Trung-Bắc đã phải nằm xuống vì lý tưởng nào đó mà họ được vẽ nên hay theo đuổi. Dù là như thế nào, những người đã nằm xuống cũng đáng được xem là anh hùng - trong tất cả thủy thủ của 3 con tàu đó, hay của những con tàu không số khác. Thì tại sao lại lo ngại khi viết lên sự thật, dù đó là sự thật như thế nào, nhưng chính những người đã phải hy sinh cũng rất đáng được ca ngợi trong sự chân thành của người viết kể lại. ... Đây là phần cuối của bài viết, xin gửi đến các bạn.

(A) Sơ lược về "đường Hồ Chí Minh trên biển" 
(B) Những sự kiện dị biệt qua 3 tài liệu tiêu biểu 
Sự kiện (1) : thời điểm chuyển hướng 
Sự kiện (2) : thời điểm bị địch phát hiện, vượt thoát và thả hàng 
Sự kiện (3) : đối địch 

Sự kiện (4) : quyết định hủy tàu 
Sự kiện (5) : bối cảnh lúc hủy tàu 
Sự kiện (6) : bối cảnh sau khi lên bờ 
Sự kiện (7) : bản tin không chứng cứ 

*

(C) Tài liệu mật về con tàu không số, 235

Trong chiến dịch Thời Thị Trường (Market Time) của quân đội Hoa Kỳ, nó bao phủ một hệ thống giám sát dọc theo vùng biển miền Nam, từ vĩ tuyến 17 đến tận Cà Mau, chạy lên Hà Tiên. Những con tàu qua lại dường như được ghi nhận hầu hết qua không ảnh, và lưu giữ trong đống hồ sơ dự trữ. Vì vậy những hình dáng của con tàu không số cũng nằm trong tài liệu mật của các cấp sĩ quan chịu trách nhiệm về việc kiểm soát vùng duyên hải. Ngoài ra có rất nhiều chi tiết khác về những kết quả của chiến dịch cho mỗi sự kiện diển tiến trong tình hình vùng biển miền Nam Việt Nam. 

(Ảnh: Sơ đồ của chiến dịch Thời Thị Trường) 

Điểm qua tài liệu "Đề Cương - Tuyên Truyền Kỷ Niệm 50 Năm Ngày Mở Đường Hồ Chí Minh Trên Biển" - một bài viết quan trọng nhất được dùng như kim chỉ nam cho những ai muốn hiểu về những con tàu không số. Và trong đó, người ta nhìn thấy hình ảnh của con tàu 235, mà có thể chắc chắn rằng nó được copy lại từ tài liệu mật của Thời Thị Trường (nhưng sau một thời gian dài sau chiến tranh, tài liệu mật nầy bị xoá bỏ chữ "bí mật" (confidential) thành ra "bật mí" (declassified)), và sau đó cắt bỏ dòng chữ tiếng Anh, đồng thời thêm màu xanh nước biển vào thay cho hình ảnh trắng đen thời đó. Tuy nhiên, trong "Đề Cương" , những chi tiết về con số và những sự kiện hoàn toàn do nhà cầm quyền đương thời tạo ra theo chiều hướng tuyên truyền có lợi về chính trị của họ. Và trong đó có đoạn như sau : 

"Quân uỷ Trung ương chủ trương nhanh chóng đầu tư, trang bị cho Đoàn 759 loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 tấn đến 100 tấn; cuối năm 1962, Bộ Tổng Tư lệnh đề nghị Xưởng đóng tàu III (Hải Phòng) thuộc Bộ Giao thông vận tải đảm nhiệm việc đóng tàu vỏ sắt." 

Trong giai đoạn từ 1954 đến cuối năm 1962, dân miền Bắc phải chịu biết bao thống khổ dưới những chính sách khắc nghiệt khác nhau, không ngoài mục đích của nhà cầm quyền là gom góp tài vật tư hữu để huy động một cuộc chiến tranh khác dưới danh nghĩa dân tộc để đánh chiếm miền Nam Việt Nam bằng mọi giá, theo chủ trương mở rộng chủ nghĩa cộng sản của Liên Sô và Trung Cộng. Cuộc sống của dân bị bất ổn; nhà nước cộng sản thì nghèo nàn vì mới vừa chấm dứt chiến tranh với Pháp, chưa kịp xây dựng kinh tế lại bắt đầu cuộc chiến khác. Trong bối cảnh kiệt quệ về sản xuất, thì làm sao miền Bắc có một xưởng đóng tàu lúc bấy giờ? 

Trong giai đoạn từ 1960 đến cuối năm 1965, những tài liệu thật về "con tàu không số" dường như không tồn tại hay bị hủy bỏ sau khi miền Nam thất thủ. Khi Hoa Kỳ bắt đầu tham chiến, năm 1965, lực lượng tuần giang của Hải quân Hoa Kỳ, Nước Nâu (The Brown Water Navy) đã lưu ý và phát hiện những con tàu không số. Và trong loạt bài "The Brown Water Navy in Vietnam" của Robert H. Stoner, GMCM (SW)(Ret), trên mạng warboats.org
(http://www.warboats.org/StonerBWN/The%20Brown%20Water%20Navy%20in%20Vietnam_Part%201.htm) cho biết rằng, đó là những con tàu do chính Trung Cộng sản xuất : 

"The typical North Vietnamese trawler was about 100 feet long, was a Chinese-built coastal freighter, and it could carry several tons of arms and ammunition. These trawlers did not fly a national flag, and would maneuver “innocently” in the South China Sea or Gulf of Thailand until they could make a high-speed run to the South Vietnamese coast to off-load their cargo for waiting Viet Cong or North Vietnamese Army forces.

Tạm dịch: "Tàu đánh cá Bắc Việt điển hình là khoảng 100 feet, là một tàu chở hàng ven biển do Trung Quốc đóng, và nó có thể chuyên chở nhiều tấn vũ khí và đạn dược. Những con tàu đánh cá nầy không treo cờ quốc gia, và điều động theo kế hoạch "một cách ngây ngô" trong vùng Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), hay Vịnh Thái Lan cho đến khi họ (Bắc Việt) có thể chạy hết tốc độ đến bờ biển miền Nam Việt Nam để xuống hàng cho Việt Cộng hay quân lực Bằc Việt đang chờ đợi". 

Và chỉ riêng trong bài viết "Tàu 235 và trận chiến sinh tử", vô tình cũng đã thừa nhận như thế : 

"Tàu 235 là tàu vận tải có tốc độ cao, đóng mới tại Trung Quốc. Tàu được lắp nhiều thiết bị tương đối hiện đại bảo đảm khả năng hành trình dài ngày trên biển và khả năng chiến đấu tự vệ độc lập. 

Mùa hè năm 1966, tôi và một số đồng chí được chỉ huy đơn vị điều động đi nhận tàu tại Trung Quốc với phiên hiệu 235 do Nguyễn Phan Vinh làm Thuyền trưởng. Cùng nhận tàu chuyến này còn có tàu 246 do đồng chí Võ Hán làm Thuyền trưởng

Riêng trong giai đoạn 01/1966-- 03/1975, những hồ sơ mật của quân đội hải quân Hoa Kỳ trong chiến dịch Thời Thị Trường vẫn còn lưu lại, sau khi được đưa về đưa về nước, và qua một thời gian dài hơn nửa thế kỷ sau chiến tranh Việt Nam, chúng được phơi bày ra công chúng như những tài liệu để nghiên cứu qua bộ CDs, sách trong thư viện, và trên mạng "Lịch sử và di sản hải quân" (http://www.history.navy.mil/branches/org10-8.htm). Đó là tập tài liệu được đúc kết cho mỗi năm, có tên là "Những tổng kết hàng tháng của Tư lệnh lực lượng tại Việt Nam" (Commander Naval Forces Vietnam (COMMAVFORV) Monthly Summaries). Và một phần trong tháng hai, 1968, có đoạn ghi lại về con tàu 235 của Thuyền trưởng NPV như sau: 

"A second trawler beached itself in a cove approximately 10 miles northeast of Nha Trang at 0200 on 1 March. The trawler the opened fire on the MARKET TIME units. Continuos fire was returned by the MARKET TIME units and an attempt to capture the trawler was unsuccessful. At 0231 the trawler was completely destroyed after five direct hits by 81-mm mortars

Tạm dịch: "Một tàu đánh cá thứ hai đã ủi bãi trong một cái vịnh khoảng 10 dặm về hướng đông bắc Nha Trang lúc 2 giờ sáng vào ngày 01 tháng 3. Tàu đánh cá đã khai hỏa vào những đơn vị của Thời Thị Trường. Hỏa lực phản công liên tục được trao trả bởi các đơn vị Thời Thị Trường và nỗ lực để bắt giữ con tàu đánh cá đã không thành công. Vào lúc 2 giờ 31, tàu đánh cá đã hoàn toàn bị phá hủy sau năm loạt đạn đánh trúng thằng mục tiêu bằng súng cối 81 mm"


(Bản copy lại một đoạn từ tập tài liệu mật của Thời Thị Trường) 

Sự kiện nầy cũng được wikipedia, "Action of 1 March 1968", mô tả với vài điều chi tiết hơn : 

"At 0230, 1 March, five 81-millimeter mortar rounds from PCF-47 were direct hits and the trawler exploded with a massive explosion due to the munitions aboard. Fourteen dead North Vietnamese sailors were recovered the following morning. Rifles, machine guns and rocket launchers; along with considerable ammunition and explosives were recovered from the sunken trawler. The salvage operations extended over 12 days and included the recovery of a 14.5 millimeter antiaircraft gun and 68 cases of ammunition.

Tạm dịch : "Lúc 2 giờ 30 sáng, ngày 01 tháng 3, năm loạt đạn súng cối 81 mm từ PCF-47 (duyên tốc đĩnh) rơi trúng mục tiêucon tàu đánh cá đã phát nổ dử dội vì những vũ khí trên tàu. Mười bốn thủy thủ Bắc Việt tử vong được thu hồi vào sáng hôm sau. Súng trường, súng máy và súng phóng tên lửa; cùng với đạn dược đáng kể và chất nổ đã được thu hồi từ con tàu đánh cá bị chìm. Những hoạt động cứu vớt kéo dài trên 12 ngày và bao gồm sự phục hồi của một khẩu súng phòng không 14,5 mm và 68 thùng đạn dược". 

Qua hai dẫn chứng trên, cho thấy rằng số thủy thủ 14 người hoàn toàn bị tử trận - không phải là 20 người như trong 3 "tài liệu được chỉ đạo" ở trên. Và với sức công phá của chất nổ đã gài trước trên con tàu đầy vũ khí, thêm vào 5 loạt súng cối 81 mm, thì dĩ nhiên không một ai có thể thoát chết, dù họ có nhảy xuống nước trước đó. Cũng có nghĩa rằng Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh đã tử trận vì đạn pháo của kẻ địch "rót" trúng mục tiêu. Và không có chuyện về hỏa lực phản công của con tàu 235 bằng DKZ và 14 ly 5 làm bốc cháy tàu địch, cũng như không có trận chiến nào tiếp theo đó đã xảy ra sau khi lên bờ.

Tạm dịch: Con tàu đánh cá của kẻ địch bùng cháy sau khi nhận năm quả súng cối 81 mm, khoảng 10 dặm về hướng đông bắc của Nha Trang. Con tàu đánh cá nầy, là một trong bốn con tàu, cố gắng xâm nhập hàng hóa (vũ khí) vào miền Nam Việt Nam vào ngày 01 tháng 3, bị phát hiện bởi các đơn vị Thời Thị Trường ven biển. 

(D) Tại sao chọn con tàu 235 và Nguyễn Phan Vinh là bản hùng ca bất tử ? 

Con tàu 235 là một trong 4 con tàu bị phát hiện vào khoảng đầu tháng 3, 1968, như trong "Đề Cương" (lại) vô tình tiết lộ : 

"Tàu 165, 56, 54 và Tàu 235 lên đường làm nhiệm vụ vận chuyển đặc biệt chi viện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam. Kết thúc giai đoạn vận chuyển cực kỳ ác liệt, từ tháng 10 năm 1965 đến tháng 3 năm 1968". 

Sự thất bại của cuộc Tổng tiến công ngày 1 Tết Mậu Thân, 1968 làm quân đội Bắc Việt bị hao hụt về quân số, vũ khí, đạn dược, và hàng hoá không ít. Nhưng nhà cầm quyền Hà Nội cũng còn nuôi lấy hy vọng phản công, vì xem đó là một cơ hội khó có sau bao năm mưu tính chinh chiến, là được tiếp cận Sài Gòn gần nhất như lúc nầy, nên họ quyết định ra ván bài cuối là đưa 4 con tàu vận chuyển vũ khí_ trong đó tàu 235 được xem là hiện đại, lúc đó - xâm nhập vùng duyên hải, nhưng cuối cùng chỉ còn một con tàu 56 trốn thoát trở lại miền Bắc với số vũ khí chưa kịp xuống bến hẹn; ngoài ra 3 con tàu còn lại đều bị trúng pháo của lực lượng duyên phòng Hoa Kỳ. 




Lướt qua đoạn trích trên, đọc giả có thể cho rằng 4 con tàu không số đó, chi viện trực tiếp cho cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Nhưng ngày tháng chính xác khi những con tàu đó bị phát hiện là 1/03/1968, sau Tết những 2 tháng. Vậy đoạn trích: "làm nhiệm vụ vận chuyển đặc biệt chi viện cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường miền Nam" mang ý nghĩa gì ? 

Hiển nhiên, lực lượng quân đội chính quy từ Bắc Việt và số Việt cộng trong miền Nam, cùng những phe giáo hội trong "Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam", đã bị phá vỡ bởi nhiều lý do, nhưng chủ yếu là : 

"… các cấp chỉ huy chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam đã không tách bạch được đâu là mục tiêu chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến rộng rãi trong quân để cổ vũ khí thế chiến đấu." (theo wikipedia, "Chiến tranh Việt Nam", bản tiếng Việt) 

"Mục tiêu chính trị thực chất" đó chính là gây tiếng vang trên thế giới, và ép buộc Hoa Kỳ vào thế hòa đàm có lợi cho chính quyền Hà Nội - là rút lui khỏi miền Nam Việt Nam. Và "mục tiêu được phổ biến rộng rãi" là hô hào, tuyên truyền trong dân chúng miền Nam về cuộc tổng khởi nghĩa nầy chắc chắn sẽ thành công, ngay cả trong quân đội của hai miền - vừa cổ vũ khí thế lực lượng Bắc Việt và làm nản lòng chiến đấu của quân đội VNCH. Nhưng đã không may, cuộc phản công dử dội của lực lượng miền Nam kết hợp với quân đội Hoa Kỳ, đã khiến Hà Nội lo lắng. Hà Nội biết rằng, phải mất một thời gian dài để dưỡng và mộ quân, vận chuyển thêm vũ khí, trước khi mưu tính cuộc tổng tấn công khác. Do đó, ý nghĩa của câu trích đoạn trên không ngoài mục đích làm an lòng quân đội miền Bắc, hăng hái dấn thân tiếp cho cuộc tổng tấn công chỉ có trong tư tưởng. Và 4 con tàu không số lại được đưa đi trong nổi lo sợ không thể không có của những thủy thủ và Thuyền trưởng (một con tàu chạy trở lại). 

Trong 3 con tàu bị trúng pháo - 2 tàu bỏ tháo chạy - chỉ có tàu 235 chống trả nhưng cũng vô hiệu hóa. Và có lẽ đó là con tàu duy nhất đã liều lĩnh phản công lại kẻ địch, từ trước đến giờ trong giai đoạn 1960--1968. Hơn nữa, Thuyền trưởng NPV có thể là một trong số ít người được đưa qua trung cộng học về hàng hải, cũng như cả đơn vị thủy thủ của tàu qua khóa huấn luyện theo nhiệm vụ được phân công, tại cảng Di Linh (Hải Nam, trung cộng) (theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử"). Và nhất là để khỏa lấp sự thất bại trong cuộc Tổng khởi nghĩa Tết Mậu Thân, tiếp theo là 3 con tàu bị trúng pháo, nên con tàu 235 được xem như một con tàu tiêu biểu để được dịp ca tụng, biểu dương anh hùng tính. Đây cũng là giai đoạn chấm đứt những chuyến hải hành sâu vào vùng biển hướng Nam, nên hàng loạt câu chuyện mang tính chất rất… "huyền thoại" được sáng tạo khéo léo cho thêm phần hấp dẩn và sống động - được tuyên truyền rộng rãi ngay cả trong trường tiểu học - , và tô vẽ thêm đủ màu sắc cho cái tên Nguyễn Phan Vinh. 

Theo "Tàu 235 và trận chiến sinh tử": 

"Ngày 25-8-1970, liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVTND. Nhân kỷ niệm 15 năm ngày giải phóng quần đảo Trường Sa (29-4-1990), tên người thuyền trưởng tàu 235 quả cảm ấy đã thành tên một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa – đảo Phan Vinh.

"…Thi đua với cán bộ, chiến sỹ trên hòn đảo mang tên người anh hùng, ở nơi “thành phố đầu biển, cuối sông”, Trường tiểu học Nguyễn Phan Vinh cũng đã vượt lên chính mình để trở thành ngôi trường đạt chuẩn Quốc gia".

Lại thêm hàng loạt câu hỏi tự nẫy sinh, khi người ta đọc thấy: "ngày giải phóng quần đảo Trường Sa (29-4-1990)". Không phải miền Bắc Việt Nam đã "giải phóng" miền Nam từ năm 1975 rồi sao ? Và tại sao, mãi đến năm 1990 mới được xem là đã hoàn tất giải phóng quần đảo Trường Sa ? Đó chỉ là một vùng quần đảo trong hải phận miền Nam Việt Nam, nhưng phải mất 15 năm mới giải phóng được ? Trong khi sự đối đầu giữa hai lực lượng Nam-Bắc tàn khốc biết bao nhiêu, mất khoảng 21 năm (1954--1975) - chỉ hơn 9 năm để giải phóng vùng quần đảo không người sống hay rất ít, thuộc về chủ quyền đã có sẵn của miền Nam (?). (Nhưng đây là vấn đề đi quá xa trong chủ đề bài viết, nên đành phải gác lại). 

(E) Những con tàu không số khác 

1. Thành quả của chiến dịch Thời Thị Trường 

Trong bài viết "Một Cuộc Săn Đánh Tàu Địch" của Phan Lạc Tiếp, sĩ quan Hải quân, ra ngày 12/7/1999, trên http://www.vietnamnavy.com/haiSu1.html, cho biết rằng sự kiện tại Vũng Rô ngày 16/2/1965, là con tàu không số thứ 23 - theo tài liệu tịch thu được trên con tàu nầy. Khoảng 1 tháng sau, màn lưới của chiến dịch Thời Thị Trường_ kết hợp với lực lượng hải quân VNCH, và Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳ - được tung ra và đã thu hoạch được những thành quả khả quan. Và chỉ có tất cả là 13 con tàu không số, tính từ thàng 2/1965 đến 4/1972 - là năm chấm dứt "Huyền thoại của đường Hồ Chí Minh trên biển."

(Dựa trên tài liệu trên hqvn.net, Thời Thị Trường, và "Đề Cương" và 3 tài liệu được chỉ đạo) 
(* : tàu bị bắt; ** : tàu đánh chìm; *** tàu bị phá hủy) 
(Thời Thị Trường phân chia 4 loại tàu, tùy theo hình dáng : Cà Mau, Lộ Diêu (An Xuyên, Bình Định), Sa Kỳ (Quảng Ngãi), và Hòn Hèo (Khánh Hòa))


Nhưng theo "Đề Cương" cho biết đã có trên 90 chuyến tàu vận chuyển hàng, tính đến đầu năm 1965: 

"Năm 1964 là năm mà Đoàn 125 vận chuyển được nhiều vũ khí nhất chi viện cho chiến trường; từ ngày đi chuyến đầu tiên (tháng 10 năm 1962) cho tới đầu năm 1965, Đoàn 125 đã tổ chức trên 90 chuyến, vận chuyển trên 5 ngàn tấn vũ khí cho chiến trường

Với chính sách tuyên truyền cực đoan của cộng sản Hà Nội ngụy tạo về những sự tàn ác của lực lượng quân đội VNCH, nên những con tàu không số bị dồn vào thế "chuyến đi khó trở lại" nếu bị kẻ địch phát hiện. Nhưng theo Phan Lạc Tiếp cho biết thêm: 

"Hơn thế nữa, dù ở thế thượng phong, chúng tôi sẵn sàng mở một cánh cửa để cho các anh có thể về với chúng tôi qua chính sách chiêu hồi. Cực chẳng đã, chúng tôi mới sử dụng vũ khí, và cũng chỉ giới hạn, rất giới hạn hỏa lực và thời gian tác xạ. Chúng tôi muốn cứu sống các anh tối đa. Khi tàu các anh đã chìm, chúng tôi đã cứu vớt các anh ngay và đối xử với các anh rất tử tế, nồng hậu". 

"… Khi vớt các anh lên, nếu muốn cho phi tang, quá dễ. Vậy mà các anh đã được nuôi dưỡng, đón tiếp như thế. Trừ một mình anh Hiệu, hơn 10 người của con tàu 645, đã được vớt

Và : 

"HQ. 4 đánh tàu địch ngày 24 tháng 4 năm 1972 đã chính thức chấm dứt cuộc xâm lăng bằng đường biển vào Nam theo lối bình thường". 

2. Những con tàu không số… nên không nhớ 

Trước khoảng thời gian 1965, có một số tàu đến được điểm hẹn và xuống hàng một cách tốt đẹp. Tuy nhiên, dường như những sự kiện đó không được thống kê một cách mạch lạc, nên sau nầy khi viết lại câu chuyện thường có sự sai lạc khiến người đọc càng khó hiểu, nhưng dường như cũng chẳng có ai buồn quan tâm sửa đổi cho hợp lý với sự thật dù những bài viết đó lại là tài liệu được chỉ đạo. 

Như trong "Đề Cương" cho rằng bốn con tàu không số 54, 56, 165 và 235 được Bộ Tư lệnh Hải quân s ử dụng trong sự kiện 1/03/1968. Nhưng trong wikipedia, "Đoàn tàu không số" , bản tiếng Việt, thì lại viết là 43; 56; 164 và 235. 

Nếu xét trên sự chính thống của tài liệu, có thể nói rằng những gì trong "Đề Cương" viết phải là chính thống. Chỉ tiết rằng, trong "Đề Cương" không hề có thêm một vài dòng nào về con tàu 54, hay 165 ! 

Có phải chăng con tàu 54, và 165 trong "Đề Cương" là tàu 43, và 164 ? 

Nhưng… "Những trang đời huyền thoại", ra ngày 5/09/2011, trên mạng qdnd.vn, cũng chính là tài liệu được chỉ đạo cho cuộc thi bài viết! 

Tuy nhiên, xét theo những sự kiện đã xảy ra, ngưởi ta có thể kết luận rằng đó chính là con tàu 43 - không phải là con tàu 54. Đáng tiếc, không có bài viết nào về con tàu 165 hay 164, nhưng dựa trên tài liệu mật của Thời Thị Trường, ngoài con tàu 56 trốn thoát, còn lại một con tàu bị đánh chìm. Vậy cứ xem như con tàu còn lại đó là tàu 165, theo "Đề Cương". 

Chỉ riêng về con tàu 43 đã có vài sự kiện khác thường về tên nhân vật, số thũy thủ, số tàu tham chiến, cũng như những "thành tích" diệt địch, trong lần xuất hiện… cuối (theo "Những trang đời huyền thoại (Kỳ 1)", ra ngày 5/09/2011, trên mạng qdnd.vn, qua l ời kể lại của Trần Ngọc Tuấn, cựu chính trị viên tàu 43, so với tài liệu trên wikipedia, "Đoàn tàu không số", bản tiếng Việt). 

Qua mỗi câu chuyện được kể, và viết lại về những con tàu không số, người ta biết thêm được "rất nhiều chi tiết", nhưng cũng có rất nhiều chi tiết không "bằng chứng", và ngay cả kết quả sau cùng cũng hoàn toàn trái ngược với tập tài liệu mật của Thời Thị Trường, hay trên mạng hqvn.net (do chính các sĩ quan Hải quân VNCH từng tham chiến, viết ra). Điều đó, khiến đọc giả tự hỏi : "Tại sao, qua bài viết kể rất rỏ ràng về từng chi tiết cụ thể như thế, nhưng không lẽ, ngưởi kể về những con tàu không số lại… không nhớ đến kết quả của sự kết thúc sau cùng của con tàu ra sao ?" 

(F) Lời Bình Kết 

Bài viết nầy chỉ là sự tra cứu thô thiển về con tàu 235, và người tên NPV để tìm hiểu một ít sự thật nào đó mà đáng lý ra cần được tôn trọng hơn là cứ bôi trét lên đó đủ màu sắc thành một bức tranh vô giá trị, lạc lẽo; rồi nhồi nhét vào đầu những bé học sinh ngây thơ. Không chỉ riêng về một NPV phải gánh chịu oan uổng, mà còn rất nhiều nhân vật khác trong lịch sử đảng. Từ vài tiếng pháo chủ động khai chiến của con tàu 235, rồi được "nhân cấp tính lên" thành những chiến công, rồi trận chiến tưởng tượng trên bờ. Nếu người ta phân tích về những con tàu không số khác, thì chắc chắn sẽ viết đầy cả mấy quyển sách về những màu sắc loè loẹt che đậy sự trung thực. 

Riêng tác giả bài viết nầy, không có chút gì ghen ghét hay thù hận gì người tên NPV, ngược lại vẫn xem NPV là người có chí khí, dám liều mình với kẻ địch dù biết rằng sẽ nắm chắc phần thua. Nhưng đáng trách thay cho những kẻ lãnh đạo u tối, đã cố tình ngụy tạo lịch sử thêm để phờ phỉnh cả những thế hệ sau, chỉ vì quyền lực, và tham vọng riêng của đảng họ. 

Ở đâu cũng có anh hùng, dù đó là phía bên kia của kẻ thù. Và trong chiến tranh vừa qua, đã không biết có bao nhiêu anh hùng Nam-Trung-Bắc đã phải nằm xuống vì lý tưởng nào đó mà họ được vẽ nên hay theo đuổi. Dù là như thế nào, những người đã nằm xuống cũng đáng được xem là anh hùng - trong tất cả thủy thủ của 3 con tàu đó, hay của những con tàu không số khác. Thì tại sao lại lo ngại khi viết lên sự thật, dù đó là sự thật như thế nào, nhưng chính những người đã phải hy sinh cũng rất đáng được ca ngợi trong sự chân thành của người viết kể lại. 

Ngoài ra, có những anh hùng không ai biết đến. Họ âm thầm nằm xuống trong oán hận kẻ đã xúi giục, bắt buộc họ trở thành anh hùng, hơn là sự "thù nghịch" với kẻ thù. Và cũng có những anh hùng thầm mĩm cười tự mãn với sự hy sinh của họ vì đồng đội, vì chính nghĩa dân tộc, và vì non nước. Đến đoạn nầy, người viết tự hỏi : "Nguyễn Chí Vịnh có phải là anh hùng không ?" Biết đâu, ngày nào đó, cái chữ "Chí Vịnh" sẽ được đặt thay cho tên quần đảo Trường Sa - mà không phải chỉ là một hòn đảo nhỏ như tên Phan Vinh. Và lần nầy không chỉ riêng ý kiến của đảng mà còn là… chỉ thị của Trung Cộng. Cũng có thể, mọi vật dụng thường dùng trong ngày của… "quần chúng" có cả dòng chữ "Chí Vịnh." 

Xin mượn câu kết của tác giả Phan Lạc Tiếp trong bài viết "Một Cuộc Săn Đánh Tàu Địch" trên http://www.vietnamnavy.com/haiSu1.html làm câu kết cho bài viết nầy: 

"Hỡi các anh trong Ban Biên Tập của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Hà Nội, chúng tôi, bằng tất cả tấm lòng tôn trọng sự thật, và rầt bình tĩnh mong được anh lên tiếng. Hãy trả sự thật lại cho sự thật.

Ps. 

Tôi không cầu danh lợi 
Cũng không cần vinh hoa 
Chỉ cầu xin dân Việt 
Cứu non nước, quê nhà ! 

Tổng số lượt xem trang