Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2011

Những "Đáng Lẽ" Sau "Vụ 9-11"

Phó Tổng thống Dick Cheney trong Trung tâm Hành quân PEOC 
dưới hầm tòa Bạch Cung ngay sau vụ khủng bố 9-11.
Nguyễn Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 20110909

Mười năm sau, nghĩ lại về hậu quả của vụ khủng bố....
Từng người trong chúng ta có thể gặp một biến cố khiến mình vừa đau buồn, giận dữ lại vừa hãnh diện, để từ đó có phản ứng về cách ứng xử hay sinh sống. Trong hoàn cảnh bất thường ấy, có lẽ mình khó rút tỉa được kinh nghiệm xử thế - nên hay không - cho chính xác và đúng đắn.


Ai ai cũng có thể nghĩ rằng "đáng lẽ" mình nên làm như thế này hay thế khác trước đó thì có khi đã tránh được biến cố này. Rồi sau đấy thì suy ngẫm thêm, rằng sau biến cố bất ngờ này đáng lý mình nên làm thế này hay thế kia ... Trong cảnh ngộ cá nhân đó, chúng ta đã có một "phương trình xử thế" phức tạp vì có nhiều kích thước khác nhau. Gần như một phương trình đại số bậc năm... bậc sáu. Khó có lời giải thỏa đáng, thậm chí không giải được!

Nếu một quốc gia lại gặp biến cố như vậy, ta có loại "phương trình bậc ngàn"!

Khi quốc gia ấy có 300 triệu dân, là một siêu cường có ảnh hưởng toàn cầu mà kinh nghiệm lịch sử lại rất mỏng - chỉ có hơn 200 năm hiện hữu – ta có một "ma trận toán học". Hoặc "mô hình cả triệu phương trình", chữ của Chủ tịch Ngân hàng Trung ương Mỹ Alain Greenspan. Một loại... nan đề triết học. 

Vì luận thế nào thì cũng có một vài phần đúng – và nhiều phần sai!

Từ 10 năm nay, người ta - tại Hoa Kỳ và thế giới – đã nói ngàn lần về vụ khủng bố ngày 11 Tháng Chín 2001, gọi tắt là "Vụ 9/11". Năm nay cũng không khác, mà còn phải nói nhiều hơn vì gặp một "kỷ niệm chẵn" về tâm lý, là thời khoảng 10 năm.

Càng nên ngẫm nghĩ vì nhân dịp này đã có tin đồn "chưa chắc chắn nhưng đáng quan tâm" rằng thủ phạm - nhóm khủng bố al-Qaeda - chuẩn bị một vụ tấn công để khác làm kỷ niệm! Ít ai tin rằng al-Qaeda còn có khả năng đó: một xe gài chất nổ - vehicule-born improvised explosive device VBIE - tại nơi đông người, hoặc một tên sát thủ bắn loạn trước khi tự sát là cùng. Sau vụ 9-11, từ 10 năm nay, lãnh thổ Hoa Kỳ bị khủng bố đe dọa 46 lần mà thoát được. Nhưng nếu nước Mỹ lại hụt tay trong lần thứ 47 thì người ta nghĩ sao? Người ta sẽ nêu lên một chuỗi "đáng lý ra" khác!

Đáng lý đáng lẽ là những giả thuyết bất tận! Đó là khuôn khổ tâm lý và lý luận cho bài viết này.


***


Sau một thảm kịch, ai cũng có thể trở thành người sáng suốt và thông thái hơn khi luận rằng "đáng lẽ mình đã có thể tránh được" nếu biết ứng xử thế này thế kia trước đó.

Hoa Kỳ đã biết về sự hiện hữu của lực lượng al-Qaeda từ lâu: Trung tâm Thương mại Thế giới World Trade Center bị al-Qaeda tấn công năm 1993, gây hố sâu năm thước ở dưới hầm;Tổng thống Bill Clinton bị mưu sát hụt năm 1996; hai sứ quán Mỹ tại Kenya và Tanzania bị đánh bom năm 1998 khiến 300 người chết; chiến hạm USS Cole bị tấn công tại Yemen khiến 17 thủy thủ Mỹ thiệt mạng vào Tháng 10 năm 2000....

Như vậy, đáng lẽ tình báo Hoa Kỳ đã phải tinh vi bén nhạy - và có khả năng tưởng tượng cao hơn để dự đoán một đòn tấn công khác.

Hoặc đáng lẽ nước Mỹ không nên xem khủng bố là một vấn đề hình sự của luật pháp - của cơ quan FBI, toà án và luật sư trong khuôn khổ pháp quyền nhà nước – mà nghĩ rộng ra về một hình thái chiến tranh mới, trong đó, Hiến ước Genève về quy tắc ứng xử trong chiến tranh không thể áp dụng được. Vì đối thủ không là một quốc gia, có một quân đội mặc đồng phục, bị chi phối bởi luật lệ quốc tế, v.v....

Sau khi thảm kịch xảy ra, các chính khách Mỹ mới suy ngược về những giả thuyết hồi hiệu ấy để nêu ra những "đáng lẽ" và còn đả kích nhau vì mục tiêu tranh cử. Chuyện ấy càng gây nhiễu âm và hỏa mù khiến người ta khó thấy ra cái lẽ đúng sai.

Thí dụ điển hình là vụ Iraq.

Từ cuối thập niên 1990, Hoa Kỳ cùng hầu hết cơ quan tình báo của các cường quốc lẫn Nguyên tử lực cuộc IAEA của Liên hiệp quốc đều tin rằng chế độ Saddam Hussein – đang bị Liên hiệp quốc kết án và ra lệnh "cấm bay" – có kế hoạch chế tạo võ khí tàn sát hàng loạt. Kể cả võ khí hóa học hoặc nguyên tử.... Khi Mỹ khai mở chiến dịch Iraq năm 2003, cựu Tổng thống Bill Clinton còn úy lạo và cảnh báo chiến binh Mỹ về nguy cơ võ khí hoá học.

Sau này người ta mới biết rằng thông tin tình báo ấy của Mỹ, Anh, Pháp, Nga, v.v... đều sai bét.

Nhưng qua năm 2004, nhiều người trong đảng Dân Chủ bắt đầu đảo ngược chính lập trường và lá phiếu ủng hộ của họ từ 1998 đến 2003 mà đả kích Chính quyền George W. Bush là gian dối. Bỉ ổi nhất trong trò chính trị này là thái độ của Đại sứ Joseph Wilson và bà vợ Valerie Plame, nhân viên cao cấp của CIA – không là một điệp viên đang bí mật phục vụ tại ngoại quốc. Vụ Thứ trưởng Ngoại giao Richard Armitage tiết lộ danh tính của Valerie Plame – mà không thú nhận và để người khác lãnh trách nhiệm – đã gây khủng hoảng chính trị và pháp lý cho Chính quyền Bush. 

Đó là một nhiễu âm chính trị từ một vụ khủng bố mà Hoa Kỳ là nạn nhân.

Sau này, nhiều người cứ tiếp tục loan truyền lý luận rằng Chính quyền Bush có gian ý gây chiến, có khi là vì dầu khí! Người ta quên thảm kịch 9-11 mà chơi trò bẩn trong chính trường – ngay giữa thời chiến. Nhưng chuyện ấy chưa bi hài bằng một thuyết âm mưu khác, rằng chính là CIA - hay dân Do Thái - đã gây ra vụ khủng bố để có lý cớ thi hành ý đồ đen tối! Xin miễn bàn về các trường hợp ấy. 

Và thu gọn vào hoàn cảnh tâm lý của những người trong cuộc: lãnh đạo Hoa Kỳ. Phản ứng của một cá nhân chỉ là loại "phương trình bậc hai". Của những người cầm đầu nước Mỹ thì có ảnh hưởng lũy thừa, gấp bội. Phương trình bậc ngàn!


***


Trong hồi ký của Bush – "Decision Points" xuất bản năm ngoái – và của Phó Tổng thống Dick Cheney ("In My Time" vừa xuất hiện tháng trước) chúng ta có thể đọc thấy vài ba chi tiết bất ngờ:

Phản ứng tâm lý của Tổng thống Bush trong những ngày giờ sau vụ 9-11 là giận dữ - outrage – và ấm ức – frustrated

Ông giận dữ vì nước Mỹ bị tấn công một cách hèn hạ, ấm ức vì bị nhân viên bảo vệ trong cơ quan Bảo vệ Yếu nhân gọi là Secret Service áp dụng bài bản, là bảo vệ Tổng thống đến cùng, khiến ông không thể từ Florida trở về Thủ đô ngay sau đó như ông yêu cầu và đòi hỏi. Sau này, nhiều người thiếu am hiểu thì châm biếm tổng thống Mỹ là hốt hoảng sợ hãi đến nỗi không tìm ra bãi đáp. Đúng mà sai!

Thủ đô khi ấy bị đe dọa với nhiều tin tức chưa thể kiểm chứng. Ai dám lấy trách nhiệm vào lúc hoài nghi và hốt hoảng đó?

Ông Bush còn ấm ức vì trên chuyến bay lòng vòng của phi cơ Air Force One – văn phòng di động của Tổng thống - việc liên lạc điện tử tốt mật với Trung tâm Hành quân Khẩn cấp của Tổng thống (Presidential Emergency Operations Center - PEOC) và Ngũ giác đài bị gián đoạn nhiều lần. Khi hữu sự mà siêu kỹ thuật Mỹ lại tệ đến như vậy sao?

Mà làm sao Bush liên lạc với Bộ Quốc phòng khi Ngũ giác đài vừa sạt mất một góc? Tổng trưởng Donald Rumsfeld thì rời văn phòng chạy xuống cấp cứu nhân viên! Rất đáng kính, rất con người, mà đúng hay sai thì ai dám nói?

Khi ấy, ông Bush còn được biết là ngoài phi vụ AA 11 và UA 175 đã đâm vào hai tòa tháp của WTC và phi vụ AA 77 đâm vào Ngũ giác đài, còn có phi vụ UA 93 đã lao xuống đất, gần thị xã Shanksville của Pennsylvania, thay vì bay vào toà nhà Quốc hội hay Phủ Tổng thống. Nhờ hành khách anh hùng của chuyến bay UA 93 biết ra nội vụ nên họ tự hy sinh. Một số người nhào lên đánh nhau với quân khủng bố làm máy bay nổ dưới đất, ở nơi khác để cứu người khác tại thủ đô.

Chuyến bay AA 77 đâm vào Bộ Quốc phòng có một hành khách khả ái, luật gia và nhà bình luận Barbara Olson của các đài Fox News và CNN. Bà là phu nhân của Theodore Olson, luật sư chính thức của Chính quyền Hoa Kỳ trước Tối cao Pháp viện, và là bạn của ông Bush. Bà Olson liên lạc được với chồng cho đến lúc cuối, trước giây phút tử nạn... Trong giây phút căng thẳng ấy, ông Bush đã hỏi thăm và an ủi Ted Olson về bi kịch này.

Những chi tiết ấy khiến Tổng thống Mỹ nghĩ đến nước Mỹ anh hùng, các nạn nhân vô tội, và đến trách nhiệm trước mắt của người lãnh đạo.

Phần mình, Phó Tổng thống Cheney cũng được bảo vệ nhưng vẫn hội họp với các giới chức hữu trách ngay trong Trung tâm PEOC dưới hầm kín của Tòa Bạch Cung, khi Tổng thống chưa về - và chưa thể nào hai người có mặt cùng một nơi. Vào ngày 13, ông Cheney còn được tin rằng Thủ đô có thể sẽ bị tấn công nữa!

Đã thế, ngày 18, hai người lãnh đạo được mật báo rằng cơ thể của họ có thể đã bị nhiễm chất độc hóa học là botulinum - đừng quên là trước đó có xảy ra nhiều vụ mưu sát chết người bằng bom thư, bên trong có độc chất anthrax.

Họ cũng có tin là quân khủng bố đã đưa vào lãnh thổ Mỹ một ngòi nổ hạch tâm đánh cắp từ Liên bang Nga hay Liên Xô cũ, chế ráp dưới cái dạng một cặp cầm tay. Loại võ khí bẩn ấy mà được kích hoạt thì cả trăm ngàn người thiệt mạng, tại New York hay Washington, hay một nơi nào khác mà chưa ai biết....

Phản ứng "công" và "thủ", truy tìm để tiêu diệt thủ phạm hầu không cho tái diễn một vụ tàn sát là điều ta nên hiểu. Trong hoàn cảnh đó, sự an toàn bản thân, dù là bản thân của những người có trách nhiệm cao nhất nước, chỉ là chuyện tương đối. An ninh của nước Mỹ mới đáng kể.

Chúng ta dần dần mường tượng ra tâm cảnh của lãnh đạo Mỹ vào thời điểm bất thường: cầm đầu một siêu cường độc bá mà bị tấn công bất ngờ vào những trung tâm đầu não kinh tế, quân sự, chính trị của quốc gia. Rồi ấm ức hậm hực vì bộ máy an ninh và quân sự lúng túng, chưa biết sự tình thế nào, làm sao bảo vệ, chẳng biết trả đòn vào đâu....

Sau đó, đến lượt phản ứng người dân. Mà phản ứng của người dân trong một nước dân chủ phải là mệnh lệnh cho lãnh đạo.


***

Khi họ ấm ức và quyết liệt ra tay thì thế giới sẽ chấn động.

Hoa Kỳ lao vào thế giới Hồi giáo như một người điên, tại hai nơi hung hiểm nhất là A Phú Hãn và Iraq, để tiêu diệt đầu não al-Qaeda, giải trừ mọi nguy cơ khủng bố khác và chứng minh rằng nước Mỹ không bị khuất phục. Không thể bị khủng bố làm tê liệt phản ứng hoặc xoay chuyển chánh sách khiến các chế độ Hồi giáo khác sẽ sụp đổ hầu al-Qaeda có thể lập ra một Vương quốc Hồi giáo thống nhất, và Osama bin Laden lãnh đạo thế giới Hồi giáo bằng Giáo luật Sharia....

Sau này, là bây giờ, ta có thể nghĩ rằng việc "lao vào" như vậy là thái độ của kẻ thiếu bình tĩnh.

Song song, cũng chính ông Bush đã có lời hiệu triệu rất Mỹ: kêu gọi dân chúng tiếp túc mua sắm ngay trong thời chiến. Lý do tâm lý: khẳng định quyết tâm không để kẻ thù làm mình phải thay đổi nếp sống. Lý do kinh tế là Hoa Kỳ đang bị suy trầm và cần... kích cầu, kích thích tiêu thụ để duy trì sản xuất!

Từ một vụ khủng bố dù ghê khiếp dữ dội, nước Mỹ đã phản ứng quá đà, bất cân xứng. Rất dễ kết luận như vậy khi mình đã có thời gian và kinh nghiệm. Chứ đúng sai thế nào thì còn là điều tranh luận. 

Khi ấy có lẽ ta nên lùi lại một chút để suy ngẫm thêm.

Ngày bảy Tháng 12 năm 1941, Trân Châu Cảng bị Nhật tấn công - bất ngờ là một cách nói - khiến hôm sau Hoa Kỳ chính thức tham chiến với sự cho phép và hậu thuẫn của Quốc hội. Nhưng khi ra quân thì trước tiên... tấn công nước Đức! Phản ứng quá đà? Sau đấy, lịch sử mới có thể suy ngược lên một chủ trương có vẻ hợp lý: nhân chuyện chiến tranh mà gây phân hoá và thất quân bình tại mọi nơi hầu chi phối tất cả các cường quốc khác. Đúng hay sai?

Cũng thế, ngày bốn Tháng 10 năm 1957, Liên Xô phóng vệ tinh Sputnik lên không gian. Dân Mỹ hốt hoảng y như ngày nay có người hốt hoảng về sự lớn mạnh của Trung Quốc. Dù rằng khi đó kỹ thuật không gian, hóa học và cả chế tạo hỏa tiễn của Mỹ đã vượt xa Liên Xô - chưa nói đến sức mạnh kinh tế. 

Kết cuộc là nước Mỹ chứ không phải Liên Xô mới là quốc gia đưa người lên Nguyệt cầu! Và những phát minh cho khoa học không gian đã mở ra nhiều chân trời khác cho xã hội Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ đã thất bại tại Việt Nam từ lãnh vực đầu tiên là quân sự. Rất khó tin mà có lẽ chẳng sai nếu ta nhớ đến ngần ấy phi vụ oanh tạc miền Bắc hoặc cây cầu Hàm Rồng bị chiếu cố bao lần!

Tốn kém rất nhiều mà kết quả chẳng bao nhiêu. Chính là thất bại quân sự trước tiên này – chưa nói đến lầm lẫn về chiến lược - khiến yếu tố chính trị mới quyết định về kết quả nhục nhã cho nước Mỹ. Nhưng thất bại ấy cũng khiến bộ máy chiến tranh Mỹ nghiên cứu lại về kỹ thuật chiến tranh của mình. Từ đó, các hỏa tiễn lẫn "bom khôn", với sức công phá cao hơn và chính xác hơn, đã ra đời. Và góp phần quyết định cho trận Bão Sa Mạc tại Iraq vào năm 1991.

Chiến dịch ấy cũng thay đổi luôn kỹ thuật và tổ chức chiến tranh của nước Mỹ. Và dẫn đến nhiều thay đổi khác về đối sách của Hoa Kỳ.

Nghĩ lại, ta chỉ thấy ra một phần, khá trễ, nhiều hậu quả của loại "hiệu ứng" Trân Châu Cảng, Sputnik hay Hàm Rồng – nói vậy cho tiện – cho hệ thống quân sự, an ninh và đối ngoại Hoa Kỳ. Cũng thế, từ sự hậm hực của lãnh đạo Hoa Kỳ về liên lạc điện tử tối mật, về tình báo mơ hồ trong những giây phút sau vụ 9-11 khủng khiếp - kể cả việc cơ thể tổng thống có khi đã nhiễm độc! - ta nên đoán ra nhiều chuyện khủng khiếp hơn về khoa học chiến tranh, về chiến pháp hoặc cả ngoại giao của nước Mỹ.

Dường như sau mỗi lần hốt hoảng và có những phản ứng có vẻ vô lý hoặc quá đà, Hoa Kỳ lại tiến thêm một bước rồi hợp lý hóa từng quyết định, trong khi làm cả thế giới mất thăng bằng.


***


Sau cùng, nếu thu gọn vào một mục tiêu để phân định thắng bại là "không để xảy ra một vụ 9-11 nữa", ai cũng có thể kết luận là Mỹ đã thành công - trừ nhà chức trách có tinh thần trách nhiệm và các chính khách biết rào trước đón sau!

Hãy so sánh với các xã hội Âu Châu sau này vẫn bị khủng bố loại "Thánh Chiến nội hóa" tấn công thì biết. Trong xã hội Hoa Kỳ, người Mỹ gốc Hồi giáo được hội nhập, tự do và không bị kỳ thị, khác hẳn dân Hồi giáo gốc Bắc Phi, Trung Đông hay Nam Á tại các nước Tây Âu.

Vài ba vụ ra tay lẻ tẻ của cá nhân quá khích vẫn có thể xảy ra, như vụ một Thiếu tá gốc Hồi giáo đã bắn loạn trong trại Fort Hood ở Texas năm 2009 khiến 13 người chết. Loại thảm họa tương tự đã từng xảy ra với đám "dân quân" cực hữu rất khật khùng của xã hội Mỹ, như vụ đánh bom cao ốc của chính quyền tại Okholahoma City năm 1995. Nhưng không thể có kích thước gây chấn động như vụ 9-11.

Với tám chín ngàn phi cơ hàng không hay cả vạn chuyến tầu hàng và xe lửa di chuyển mỗi ngày, trên một lãnh thổ có chu vi 15 ngàn cây số thì không ai có thể khẳng định rằng Hoa Kỳ an toàn 100%. Nhưng với chế độ kiểm soát gay gắt của một hệ thống độc tài, Liên bang Nga không thể ngừa nổi nạn khủng bố Hồi giáo trong khi nước Mỹ vẫn phải bảo vệ cả sự an ninh lẫn quyền tự do của người dân - mà đã tránh được một vụ tàn sát.

Cho nên, bảo rằng nước Mỹ thành công là không sai.

Còn lại, ta thấy ra một nghịch lý khác: các nước có dân Hồi giáo cư ngụ đều bị khủng bố Hồi giáo đe dọa. Thậm chí gặp vấn đề Hồi giáo đòi ly khai, như Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ và rất nhiều nước khác - trừ nước Mỹ.

Nhưng, Hoa Kỳ gặp vấn đề Hồi giáo ở nước khác! Chỉ vì vị trí siêu cường của mình.

Khi ấy, câu hỏi nên nêu ra là "Có phải vì Hoa Kỳ hung hăng hay vì chính đạo Hồi ở tại Bắc Phi, Trung Đông và Nam Á?"

Người dân theo đạo Hồi giáo được Hoa Kỳ tôn trọng ở bên trong, lại còn được Mỹ bênh vực và bảo vệ - như tại Bosnia năm 1995, Kuweit năm 1991, Kosovo năm 1999, A Phú Hãn năm 2001 và Iraq năm 2003. Trong khi đó, các nước Hồi giáo và lãnh đạo của họ làm gì? Hay là chỉ ức hiếp người dân của họ, rồi đả kích Mỹ như tại Iran, Syria, Libya. Hoặc trông cậy vào Hoa Kỳ như tại Ai Cập, Saudi Arabia, Yemen, Jordan, v.v....?

Câu hỏi ấy khiến ta nhớ đến các pho tượng Phật tại khu vực Banyan của A Phú Hãn đã bị chế độ Taliban cho nổ tung vào Tháng Ba năm 2001, sáu tháng trước vụ 9-11. Trong ngần ấy quốc gia Hồi giáo, có mấy ai lên tiếng phản đối và nhìn ra dấu hiệu của tội ác trong vụ 9-11 ?

Chúng ta đang ra khỏi chuyện 9-11 mà nói về nhiều bài học chưa thấm ngay trong thế giới Hồi giáo về vụ khủng bố 9-11! Một chuyện "đáng lẽ" khác....


Sau cùng, hãy ngẫm lại về chuyện Việt Nam:

Khi Trung Quốc bất ngờ xua quân tấn công miền Bắc vào năm 1979, để "cho Việt Nam một bài học", lãnh đạo Hà Nội làm gì?

Họ tạm lánh nạn vào đâu, sau đó bàn tính ra sao, rút tỉa kết luận thế nào về mục tiêu, chiến lược hay đối sách?... Một chuyện khác là có bao nhiêu người Việt đã hy sinh trong cuộc chiến ngắn ngủi mà dữ dội đó? Người dân không hề biết và chẳng được quyền biết, chưa nói gì đến cái quyền có phản ứng để bảo vệ tổ quốc!

Tại Hoa Kỳ, Quốc hội và các cơ quan hữu trách  mở cuộc điều tra và công khai hóa nhiều chi tiết về vụ 9-11. Rồi từng người trong cuộc viết sách kể lại nội vụ, với kho dữ kiện còn nguyên đó cho dư luận kiểm chứng và phê phán. Chuyện ấy có là một "đáng lẽ" đáng cho ta suy ngẫm chăng?
-Những "Đáng Lẽ" Sau "Vụ 9-11"

---

Nỗi sợ hãi, sự khuyếch đại và những cuộc chiến (TVN)

Sau sự kiện 11.9.2001, khi chính quyền Bush nói rằng Mỹ phải tấn công Afganistan, mọi người dân đều đồng ý. Và khi chính quyền Bush nói Mỹ phải xâm lược Iraq, 76% dân Mỹ ủng hộ. Lúc đó, người Mỹ đã không tư duy bằng cái đầu, mà bằng trái tim.
LTS: Bên lề Hội nghị Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, tổ chức tại Hà Nội đầu tháng 12.2008, phóng viên Huỳnh Phan đã có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư sử học người Canada Pierre Asseline của Viện Đại học Hawaii (Mỹ) về một số vấn đề, trong đó có cuộc chiến của Mỹ ở Iraq.
Khác với niềm tin phổ biến rằng động cơ chủ yếu của Mỹ khi phát động cuộc chiến này chủ yếu là vì dầu mỏ, PGS Asseline lại nghĩ rằng quyết định của Tổng thống George Bush được đưa ra do tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, theo vị sử gia này, yếu tố quan trọng nhất chính là ông Bush đã thật sự tin rằng Iraq là một mối hiểm hoạ đối với an ninh quốc gia của Mỹ, chừng nào Saddam Hussein vẫn còn nắm giữ quyền lực.
Theo PGS Asseline, những thông tin bị tiết lộ sau đó cho thấy quyết định của Tổng thống Bush đã bị tác động bởi những thông tin sai lệch nghiêm trọng.
PGS Asseline còn nhận định rằng hệ tư tưởng cũng là một động cơ quan trọng của cuộc chiến này. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ, đứng đầu là Tổng thống Bush, đã tin rằng cuộc xâm lược Iraq là một hành động phải làm, nhằm hướng tới các mục tiêu sau đây: sự đón chào của người dân Iraq; tiến tới việc thể chế hoá nền dân chủ ở quốc gia này; và tạo dựng quá trình dân chủ hoá chính trị trong dài hạn đối với phần còn lại của Trung Đông.
Mục tiêu thứ nhất rõ ràng đã thất bại. Sự thành công của mục tiêu thứ hai dường như còn gây tranh cãi. Nhưng, rõ ràng, mục tiêu thứ ba của Mỹ đã có những kết quả không cần bàn cãi, sau những biến động chính trị từ đầu năm nay ở một số nước Trung Đông và Bắc Phi.
Nhân kỷ niệm 10 năm ngày xảy ra sự kiện 11.9, Mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin giới thiệu cuộc trao đổi giữa phóng viên Huỳnh Phan và PGS Pierre Asseline.
Nỗi hoảng sợ hậu 11.9 và cuộc chiến Iraq
Khi cuộc chiến ở Iraq nổ ra, mọi người hay nhắc tới "bài học Việt Nam". Theo ông, điểm tương đồng lớn nhất giữa cuộc Chiến tranh Việt Nam và cuộc Chiến tranh Iraq là gì?
PGS Pierre Asseline: Nếu chúng ta cùng quay lại xuất xứ của hai cuộc chiến này, chúng ta sẽ thấy rõ sự tương đồng lớn nhất: Đó là nỗi sợ hãi của chính quyền Washington, và chính nỗi sợ hãi đó là nguyên nhân chính dẫn tới quyết định đưa quân đội sang Việt Nam và Iraq.
Sau sự kiện 11.9, ở Hoa Kỳ ai cũng lo sợ chủ nghĩa khủng bố, và chính quyền Bush đã khuyếch đại nỗi sợ hãi của người dân thành nguy cơ lớn đối với an ninh quốc gia của nước Mỹ từ Saddam Hussein.
Cũng tương tự như vậy đối với trường hợp Việt Nam trong giai đoạn 1964-1965. Do cuộc khủng hoảng Vịnh Con Lợn năm 1962, khi Liên Xô đưa tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tới đây, và dường như Washington và Moscow đã tiến gần tới một cuộc chiến tranh hạt nhân. Cả nước Mỹ lúc đó ai cũng lo sợ về một cuộc tấn công của những người cộng sản.
Sau sự kiện Vịnh Con Lợn, có một số vấn đề nổi lên ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Washington đã khuyếch đại mối lo cộng sản nói chung của người dân Mỹ thành sự đe doạ từ những người cộng sản ở Việt Nam.
Nỗi lo sợ, và cả vấn đề hệ tư tưởng, đã dẫn nước Mỹ tới sự lựa chọn phát động cuộc chiến
Trong cuốn hồi ký của mình ông Mcnamara nói đó là một sai lầm của nhà cầm quyền Mỹ. Và nhiều người cho rằng kết luận đó không hề thoả đáng, bởi, sau sự mất mát to lớn của cả hai phía, và những hậu quả mà cho đến giừo không chỉ Việt Nam phải gánh chịu, nói như vậy quá dễ dàng. Ông có nghĩ như vậy không?
Tôi lại nghĩ thế này: Đúng, bây giờ ở thời điểm cuối năm 2008, tôi cũng có thể dễ dàng nói đó là một sai lầm. Nhưng ở thời điểm năm 1964, điều đó không hề đơn giản.
Hãy hình dung trạng thái cảm xúc của cả một xã hội Mỹ, sau sự kiện Vịnh Con Lợn. Họ không biết tương lai họ sẽ ra sao. Họ sợ chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm 1964-1965, hầu hết người Mỹ ủng hộ việc Mỹ đưa quân sang Việt Nam.

Phó Giáo sư sử học Pierre Asseline
Và đối với Iraq cũng tương tự như vậy. Tôi đã tận mắt chứng kiến nước Mỹ sợ hãi như thế nào sau sự kiện 11.9.2001. Họ sợ lại tiếp tục bị bọn khủng bố tấn công.
Kết quả là khi chính quyền Bush nói rằng Mỹ phải tấn công Afganistan, mọi người đều đồng ý. Và khi chính quyền Bush nói Mỹ phải xâm lược Iraq, 76% dân Mỹ ủng hộ.
Có thể nói rằng, lúc đó, người Mỹ đã không tư duy bằng cái đầu, mà bằng trái tim. Họ muốn quân đội Mỹ phải đập tan chủ nghĩa khủng bố.
Đến bây giờ tôi mới hiểu tại sao những hãng như CNN, khi đưa tin lại tỏ ra không khách quan về cuộc chiến, tức là đưa tin một chiều. Ông có đồng ý không?
Nếu để ý anh sẽ thấy sau sự kiện 11.9, mỗi phóng viên đều ra chiến trường đưa tin với một lá quốc kỳ gắn trên ngực áo. Ngay cả giới báo chí cũng bị mất tính khách quan cần thiết của mình.
Sau sự kiện 11.9, họ ra chiến trường, đến Afganistan, hay Iraq, cùng với quân đội Mỹ. Nói một cách khác là họ hoà mình vào với những người lính. Hãy nói cho tôi biết nếu anh đi cùng quân đội Mỹ, được họ bảo vệ mạng sống, liệu anh còn giữ được tính khách quan hay không? Khó, đúng không?
Bây giờ, ai cũng đổ tội cho Tổng Thống Bush, nói rằng quyết định tấn công Iraq là một sai lầm, thậm chí là một quyết định ngu xuẩn. Nhưng vào năm 2003, nước Mỹ đã có cơ hội phản đối quyết định của chính quyền Bush, nhưng chỉ có rất ít người lên tiếng. Hầu hết đều chọn cách im lặng.
Lúc đó, có thể họ không thích chiến tranh, nhưng họ sợ mọi người chỉ trích là họ không yêu nước.
Đó là lý do mà Bush đã phản công John Kerry một cách thành công trong lần tái tranh cử năm 2004, khi chỉ trích John Kerry là người "tiền hậu bất nhất"?
Đúng vậy. Và Hilary Clinton cũng không khác gì, lúc đầu ủng hộ, sau đó mới phản đối. Chỉ có Barrack Obama là phản đối ngay từ đầu, và giữ nguyên quan điểm của mình từ đầu đến cuối.
Ông dự đoán thế nào về chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tân Tổng thống Barrack Obama?
Tôi không cho rằng ông Obama sẽ làm một cuộc cách mạng đối với chính sách đối ngoại của Mỹ dưới bất cứ hình thức nào. Có những truyền thống và nguyên tắc đã hằn sâu trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, và chắc hẳn ông Obama không dám thách thức chúng. Chí ít là vào những năm đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình.
Là một người trẻ và ít kinh nghiệm, ông Obama có cách lựa chọn tốt nhất là hành động một cách cứng rắn trên trường quốc tế, tức là tiếp tục theo đuổi chính sách đối ngoại của người tiền nhiệm. Mặc dù, có thể có đôi chút điều chỉnh.
Tôi tin ông ta sẽ tiếp tục tiến hành cuộc chiến chống khủng bố, duy trì sự ủng hộ của Mỹ đối với Israel và tránh chỉ trích quốc gia này, cũng như duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ tại Iraq. Bởi nếu ông ta nhanh chóng rút quân khỏi Iraq, ông ta sẽ chịu sự chỉ trích của Đảng Cộng hoà. Nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ là một thách thức lớn đối với chính quyền của ông.
Lịch sử hấp dẫn vì không có đáp án chính xác 100%
Ông đánh giá thế nào về giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam?
Tôi nghĩ rằng các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề, bởi vì trong suốt một thời kỳ dài trong quá khứ, nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam chủ yếu để phục vụ cho mục đích chính trị. Vì lý do đó, khá nhiều nhà sử học khó thoát khỏi lối tư duy như vậy.
Nhiều nhà nghiên cứu trẻ muốn có cách nhìn mới mẻ về các sự kiện lịch sử, nhưng họ vẫn phải nghĩ đến chỗ làm của họ, nghĩ đến tương lai của họ, và rất khó để họ có thể đi ngược lại truyền thống.
Hơn nữa, bản thân lịch sử là một môn khoa học rất bảo thủ. Thậm chí ở Mỹ cũng vậy.
Điều này có vẻ mới mẻ đây. Xin ông nói cụ thể hơn.
Chẳng hạn, trong một thời gian rất dài các sử gia Mỹ đều nói nhiều về sự vĩ đại của nước Mỹ. Chỉ có gần đây, có một số nhà nghiên cứu trẻ mới có cách nhìn mang tính phê phán đối với nước Mỹ.
Lý do?
Tôi nghĩ cuộc chiến tranh ở Việt Nam thực sự đã tạo ra một bước ngoặt trong tư duy nghiên cứu lịch sử. Cho đến cuối những năm '60, thậm chí đầu '70, các sử gia đều cho rằng nước Mỹ là một trường hợp cá biệt.
Chẳng hạn, họ cho rằng Philippines, tuy là thuộc địa của Mỹ, nhưng nước Mỹ đối xử với người Philippines khác hẳn với cách người Pháp cư xử với người dân Đông Dương, hay người Anh ở Ấn Độ. Tức là tử tế hơn nhiều.
Do có cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiều học giả Mỹ bắt đầu nhìn lịch sử đất nước mình kỹ càng hơn, và họ "soi" nhiều hơn. Và chính vì vậy, hiện giờ quan điểm của giới sử gia ở Mỹ trở nên cân bằng hơn.
Những nhà nghiên cứu truyền thống vẫn cho rằng chính sách đối ngoại của Mỹ được dẫn dắt bới những ý định tốt. Thế còn những người theo trường phái "xét lại" thì cho rằng chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên những lợi ích quốc gia ích kỷ, hẹp hòi, rất có thể là những lợi ích kinh tế.
Do nước Mỹ cũng phải mất rất nhiều thời gian để có sự cân bằng này, tôi không tin rằng Việt Nam còn phải đi một đoạn đường rất dài nữa để đạt được sự cân bằng. Mặc dù, các bạn đã bắt đầu bước trên con đường này.
Ông thấy có sự khác biệt nào giữa những cuộc tranh luận tại hội nghị và những cuộc tiếp xúc với sinh viên khoa sử của Đại học Xã hội Nhân văn?
Tại cuộc hội thảo, sau khi tôi trình bày, một số học giả đã nói rằng đây là một cách nhìn mới mẻ, nhưng họ vẫn nghi ngờ tính xác thực của nó. Còn sinh viên đã đặt luôn những câu hỏi cụ thể cho tôi, và tôi cảm nhận rằng họ có thái độ cởi mở hơn với những ý tưởng mới, và mong muốn tìm những cách lý giải mới đối với các sự kiện lịch sử.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải công nhận rằng vẫn có những sử gia thuộc thế hệ già thực sự mong muốn tìm cách tiếp cận mới, nếu không nói là muốn đặt nền móng cho một tư duy nghiên cứu lịch sử mới. Giáo sư sử học Vũ Minh Giang là một trong những người như vậy.
Trước khi đến dự hội nghị này, ông có chờ đợi sự phản biện mạnh mẽ của các nhà sử học Việt Nam không?
Đó cũng là một cơ hội tốt cho tôi. Ở Mỹ khi tôi trình bày, nhiều đồng nghiệp chỉ nói đại loại như "đó là một ý tưởng tốt", hay "cách tiếp cận mới này hay"... Nhưng họ chẳng giải thích tại sao. Thực sự họ chẳng mấy quan tâm, vì nhiều người trong số họ đã không tìm hiểu các tư liệu từ phía Hà Nội, khi họ nghiên cứu về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng ở Hà Nội, khi mọi người không đồng ý, họ luôn giải thích tại sao. Chính điều đó giúp cho nghiêm cứu của tôi toàn diện hơn, khách quan hơn.
Và tiến gần hơn đến  sự thật?
Đúng vậy. Tôi phải đọc ký lại tài liệu này, nghị quyết kia. Chính vì vậy, khi trình bày, đối khi tôi cố gắng nói theo cái cách gây tranh cãi nhiều hơn, và quả thực tôi đã nhận được những phản biện mà tôi mong đợi.
Tôi luôn tìm cách đưa ra luận điểm của mình trong mọi cơ hội có thể, để nhận những phản hồi của các học giả Việt Nam, nhất là những người hiểu rõ chủ đề tôi đang nói. Nghiên cứu lịch sử nghiêm túc là như vậy đấy.
"A cowboy work is never done", ông còn nhớ câu đó trong bài "Rain" chứ? Dường như công việc của nhà sử học cũng như vậy?
Chính xác. Tôi luôn nghĩ rằng cho dù có nghiên cứu cả đời, cũng chẳng bao giờ chúng ta tìm ra sự thật 100% cả. Chúng ta chỉ tiến ngày càng gần tới sự thật mà thôi, với những phân tích và dẫn chứng có vẻ hợp lý cho luận điểm mà chúng ta đưa ra thôi. Và đó là tất cả.
Chẳng hạn, quay lại cuộc chiến Iraq, các sử gia sẽ tiếp tục tranh luận nhiều năm nữa, thậm chí hàng thập kỷ, về những động cơ "thực sự" trong quyết định của Tổng thống Bush.
Đó cũng là lý do tại sao tôi thích lịch sử. Đó là loại câu hỏi mà chẳng bao giờ anh tìm ra câu trả lời chính xác 100% cả. Và chính loại câu hỏi này mới hấp dẫn, và khiến người ta luôn tò mò tìm hiểu.
Anh hiểu không, nghề nhà báo của anh cũng giống nghề sử gia của tôi, tức là cũng giống anh cowboy mà thôi.  Cái giống nhau giữa tôi và anh là đều phải khách quan. Để có thể viết đúng sự thật nhất, chúng ta không được để cảm xúc xen vào bài viết của mình.
Thế còn cái khác nhau?
Cái khác là anh tìm hiểu hiện tại, còn tôi nghiên cứu quá khứ. À, còn nữa, phát hiện quan trọng nhất trong bài báo anh sẽ để lên đầu, còn tôi lại phải để xuống cuối cùng.
Xin cám ơn ông.
 
-- Người Việt nghĩ gì về sự kiện “9/11″  – (RFA).

Tổng số lượt xem trang