Thứ Hai, 12 tháng 9, 2011

Vì sao TQ mềm mỏng hơn với các láng giềng?

clip_image002-Bắc Kinh đã gửi nhà ngoại giao hàng đầu sang Hà Nội gần đây.
Báo Bưu điện Hoa Nam Buổi Sáng ngày 12/09 có bài với tiêu đề "Bắc Kinh tỏ lập trường mềm mỏng hơn với các nước láng giềng". BBC trích lược vài nét chính để độc giả tham khảo về góc nhìn của một số chuyên gia Trung Quốc sau chuyến thăm Việt Nam của Ủy viên Quốc vụ Trung Quốc, ông Đới Bỉnh Quốc.Những nỗ lực ngoại giao gần đây để cải thiện quan hệ giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, vốn bị ảnh hưởng do tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), cho thấy Bắc Kinh đang có cách tiếp cận hòa giải hơn để giải quyết căng thẳng.

Quan hệ ngoại giao và quân sự với Việt Nam và Philippines được củng cố thông qua một loạt các chuyến thăm cấp cao trong hai tuần qua.

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Tổng thống Philippines Benigno Aquino đã gặp vào ngày 31 tháng 8 tại Bắc Kinh và tái khẳng định cam kết để giải quyết một cách hòa bình lãnh thổ tranh chấp trong vùng Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt vào ngày 29 tháng 8 đã gặp Thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam Nguyễn Chí Vịnh để mở đường cho một chuyến thăm Trung Quốc vào năm nay của tân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Và tuần trước, nhà ngoại giao hàng đầu của Trung Quốc, Ủy viên Quốc vụ Đới Bỉnh Quốc đã đến Hà Nội gặp Phó Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân.
Cả hai ông đã đồng chủ trì một phiên họp về quan hệ song phương và thảo luận các vấn đề chiến lược và quan trọng.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Mã Triều Húc cho biết Bắc Kinh sẽ làm việc với Hà Nội để giữ mối quan hệ song phương đi đúng hướng.

Thiếu tướng đã nghỉ hưu Từ Quang Vũ của Quân Giải phóng Nhân dân, cho biết rằng Bắc Kinh sẽ không để cho mối quan hệ với Việt Nam và Philippines xấu đi.
'Bên thứ ba'
"Mặc dù có một loạt các cuộc biểu tình chống Trung Quốc và tồn tại thái độ chống Trung Quốc ở Việt Nam và Philippines trong vòng ba tháng qua, Bắc Kinh nhận ra rằng bất kỳ cuộc xung đột với các nước láng giềng sẽ không chỉ gây tổn hại cho an ninh khu vực, mà cũng sẽ làm tổn thương phát triển kinh tế của chúng ta, và điều đó sẽ chỉ đem lại lợi ích cho bên thứ ba," ông Vũ nói tuy từ chối đề cập bên thứ ba là nước nào.

Trong khi đó học giả Vương Hàn Lĩnh, một chuyên gia về vấn đề hàng hải và luật quốc tế tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc ở Bắc Kinh, cho biết "bên thứ ba" là Hoa Kỳ.

"Hoa Kỳ đã có mặt ở đó; Hoa Kỳ chưa bao giờ rời châu Á", Giáo sư Vương nói.

Đã có hơn 10 cuộc biểu tình chống TQ tại Hà Nội.
"Bắc Kinh biết điều này rất rõ và nhận ra rằng Washington sẽ sử dụng các tranh chấp Nam Hải để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc.

"Nhưng Trung Quốc cũng nhận ra rằng, khi xét tới sự ổn định của Đông Nam Á với lợi ích kinh tế chung giữa Trung Quốc và các nước láng giềng, tranh chấp lãnh thổ tại Nam Hải không phải là vấn đề lớn ".

Ông Vương cho biết ưu tiên hàng đầu của Bắc Kinh sẽ là duy trì tốt mối quan hệ với tất cả các nước láng giềng liên quan tới tranh chấp biển, bởi vấn đề phức tạp không thể được giải quyết về ngắn hạn.

"Căng thẳng trong tranh chấp tại Biển Nam Trung Hoa nên được kiểm soát, không được phép leo thang, vì sẽ chỉ gây tổn hại cho sự phát triển kinh tế và an ninh khu vực Đông Nam Á," ông nói.
"Bắc Kinh cũng nhắc nhở các nước các nước láng giềng là chúng ta có cùng một văn hoá và lịch sử, đặc biệt là ở chỗ tất cả chúng ta đều bị các nước phương Tây xâm chiếm trong thế kỷ qua."
Ông Vương cho biết Trung Quốc đã đề nghị Việt Nam, Philippines và những người khác thực hiện các biện pháp để ngăn chặn khả năng tranh chấp biển leo thang.
'Không thể cắt quan hệ'
Tiến sĩ Trương Minh Lượng, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á tại Đại học Tế Nam ở Quảng Châu, cho biết Bắc Kinh phải giữ mối quan hệ tốt về ngoại giao và quân sự với Hà Nội và Hà Nội, đặc biệt là trong thời điểm nhạy cảm như khi có cuộc biểu tình chống Trung Quốc tại Việt Nam gần đây do "Vai trò đáng xấu hổ" của Trung Quốc trong tranh chấp tại Biển Nam Trung Hoa.

"Không giống như quan hệ Trung-Mỹ, vốn bị đình chỉ nhiều lần trong hai thập niên qua, chúng ta có thể không dễ dàng cắt quan hệ với Việt Nam và Philippines ", ông Trương nói.

Trung Quốc lo ngại VN gần hơn với Hoa Kỳ
"Khi so với Việt Nam và Philippines, Trung Quốc là quá lớn. Nếu Bắc Kinh quá lớn tiếng (về tranh chấp biển), Trung Quốc sẽ đe dọa các nước nhỏ hơn và đẩy các nước này tìm sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ. "

Lấy ví dụ về việc tàu hải quân Mỹ đến Cam Ranh lần đầu tiên trong 38 năm, quan hệ Việt-Mỹ dường như đang được tăng cường.
Hai nước hồi tháng trước đã ký một tuyên bố về ý định phát triển quan hệ quân y.
"Thật dễ dàng để Việt Nam đứng về phía Hoa Kỳ vì Washington là quá quan trọng đối với Hà Nội," ông Trương nói.

Ông cũng chỉ ra rằng mậu dịch Trung-Việt đạt 30 tỷ USD vào năm ngoái, nhưng 90% là đồ Trung Quốc xuất sang Việt Nam, tạo thâm hụt mậu dịch lớn cho Hà Nội.

"Tuy nhiên, Hoa Kỳ có thể cung cấp cho Việt Nam nhiều sản phẩm công nghệ cao và công nghệ, và Trung Quốc không có khả năng làm điều đó," ông cho biết.
Ông Trương có nhiều Việt Kiều Mỹ gửi tiền về nước và có thể giúp người nhà ở Việt Nam mua nhiều sản phẩm công nghệ cao từ Hoa Kỳ.

"Đó là lý do tại sao Bắc Kinh nên giữ mối quan hệ tốt với Hà Nội để ngăn Việt Nam xích quá gần tới Hoa Kỳ," ông Trương nói.

Vì sao TQ mềm mỏng hơn với các láng giềng?

--
---Nước cờ mới của Bắc Kinh tại châu Á – Thái Bình DươngTVN

 Tác giả: Bhaskar Roy

Kỷ niệm 84 năm ngày thành lập Quân Giải phóng nhân dân Trung Hoa (PLA), Nhật báo Quân giải phóng (LAD, số ra ngày 1/8) đăng một bài xã luận quan trọng liên quan nhiều đến khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APR).
Sau nhận xét thông thường về vai trò lãnh đạo tối cao của Đảng đối với quân đội, thúc đẩy việc xây dựng đảng trong quân đội, quan hệ dân sự-quân sự, bài xã luận cũng đưa ra các nhận xét sau. Tác giả kêu gọi các sĩ quan và binh lính PLA nâng cao cảnh giác về nguy cơ và ý thức về nhiệm vụ của mình trong bối cảnh cuộc cạnh tranh quân sự quốc tế đang ngày càng khốc liệt, và các cuộc chiến tranh hiện đại sẽ bao gồm chiến tranh cơ học và chiến tranh thông tin.
Bài xã luận về chính sách quan trọng nói trên hẳn phải nhận được sự cho phép của Quân Ủy trung ương (CMC) do Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào làm chủ tịch. Bài viết này cũng được sự ủng hộ của chính giới.
Điểm mấu chốt của bài xã luận có thể được tóm tắt bằng hai ý, một là nguy cơ đối đầu quân sự đang ngày càng hiện hữu, và hai là đề nghị của PLA được cung cấp thêm nguồn lực để đảm bảo chủ quyền và lợi ích lãnh thổ của Trung Quốc mà họ khẳng định là không thể thương lượng và là "lợi ích cốt lõi" của nước này. Để phục vụ cho quá trình hiện đại hóa của mình, PLA không chỉ cần nguồn lực tài chính mà cả nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó có công nghệ tối tân.
Về đầu vào, tài chính có thể không thành vấn đề lắm. Nguồn nhân lực cũng có thể là "của nhà trồng được". Nhưng chất lượng và công nghệ cao mới đặt ra nhiều vấn đề. Dù Trung Quốc muốn là một trong những nước có nhiều phát minh khoa học nhất, nhưng thực tế là một số lượng lớn phát minh của họ hoặc là đồ ăn cắp hoặc không được quốc tế chứng nhận.
Nhưng Trung Quốc đã tiến xa trong hiện đại hóa quốc phòng, đặc biệt trong lĩnh vực tên lửa, vũ khí hạt nhân và máy bay. Lịch sử phát triển quân đội Trung Quốc cho thấy hầu hết công nghệ cao đều được nhập khẩu từ phương Tây và Nga. Bất chấp lệnh cấm của phương Tây đối với các loại vũ khí tính vi và công nghệ kép (phục vụ cả mục đích quân sự và dân sự) đối với Trung Quốc, các hợp đồng mua bán ngầm vẫn hoạt động.
Quan trọng hơn, đó là quan điểm cho rằng cuộc cạnh tranh quân sự quốc tế đang trở nên "ngày càng khốc liệt". Trong tất cả những thời điểm quan trọng, Trung Quốc đều chính thức nêu quan điểm của mình về tình hình khu vực và quốc tế. Có một chính sách rõ ràng đằng sau đó - là nói cho thế giới biết rằng một số cường quốc đang sẵn sàng phá vỡ thế cân bằng toàn cầu. Có thời, Trung Quốc cho rằng một cuộc chiến tranh thế giới là khó tránh khỏi. Sau đó họ đã thay đổi sang "chiến tranh cục bộ" và "chiến tranh cục bộ sử dụng công nghệ cao". Kể cả nguy cơ với các "điểm nóng" trên bán đảo Triều Tiên, Eo biển Đài Loan và khu vực Ấn Độ - Pakistan. Đây là những mối đe dọa thực sự và Trung Quốc nhấn mạnh đến chúng có thể để thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế vào việc giải quyết tình hình. Một nước láng giềng nổ tung sẽ không có lợi cho sự phát triển của Trung Quốc.
Cảnh báo trên không nói đến Iraq, Afghanistan, Libya hay Syria, mà tập trung vào khu vực APR, từ biển Nhật Bản/Đông Hải tới Biển Đông, nơi Trung Quốc có yêu sách lãnh thổ chồng lấn hoàn toàn hoặc một phần với các nước xung quanh.
Năm 2010 đã chứng kiến bất đồng nghiêm trọng giữa Trung Quốc với Nhật Bản về chủ quyền đối với quần đảo Điếu Ngư/Senkaku và các vùng nước liền kề, dẫn tới một số đối đầu trên thực địa. Cùng lúc, Trung Quốc cũng sử dụng chính sách ngoại giao tàu chiến tại Biển Đông, quần đảo Trường Sa. Trung Quốc đòi toàn bộ Biển Đông cùng các đảo và bãi đá ngầm. Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei và Đài Loan cũng đòi chủ quyền đối với một phần khu vực này. Các cuộc tập trận hải quân hăm dọa đã được tiến hành, và gần đây hơn, các tàu thăm dò của Philippines và Việt Nam đã bị gây thiệt hại bởi tàu biển Trung Quốc.

Ảnh minh họa: qwikstep.eu
Trung Quốc có lợi khi Mỹ giảm bớt sự tập trung vào khu vực này hơn một thập kỷ rưỡi qua vì bận rộn với các cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, và vì vậy, họ đã tăng cường quan tâm tới khu vực. Tuyên bố về Quy tắc ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC) năm 2002 và mới đây là Nguyên tắc hướng dẫn thực hiện DOC hồi tháng Bảy vừa qua giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đòi chủ quyền tại Trường Sa đã được ký kết.
Cả hai thỏa thuận này gạt các tranh chấp sang một bên, và coi việc cùng khai thác tài nguyên của Biển Đông là trọng tâm. Nhưng trên thực tế, cả hai việc này đều không có ý nghĩ gì thực sự. Nguyên tắc của Trung Quốc là "cái gì của tôi phải là của tôi, nhưng cái gì của bạn cũng là của tôi".
Các chuyên gia cấp cao của Trung Quốc như giáo sư Trần Đinh Lập (Shen Dingli, Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải) cũng bắt đầu thấy các đòi hỏi và hành động của Trung Quốc là sai lầm. Viết trên tờ "Diplomat" (có trụ sở tại Nhật Bản) số ra ngày 2/8, ông Trần đã chỉ ra rằng điều 4 của DOC cho phép các biện pháp giải quyết hòa bình vấn đề này, bao gồm các nguyên tắc của Công ước Luật Biển của LHQ năm 1982 (UNCLOS).
Tuyên bố này nguyện từ bỏ việc sử dụng vũ lực và công khai phản đối việc bất cứ bên nào cho rằng các yêu sách của mình là không thể tranh cãi, hoặc đòi chủ quyền lãnh thổ đối với toàn bộ Biển Đông. Tuy nhiên, trên thực tế, Trung Quốc đã vi phạm tất cả các nội dụng của DOC, và liên tục tuyên bố rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông là không thể tranh cãi. Trung Quốc lập luận đòi hỏi của mình dựa trên bằng chứng lịch sử là đường 6 đoạn, và không quan tâm tới UNCLOS dù họ là một bên ký kết công ước này.
Sự nổi lên mang tính chiến lược của Trung Quốc đã khá rõ. Họ muốn toàn bộ khu vực biển từ Đông Hải/biển Nhật Bản tới Biển Đông phải nằm dưới quyền kiểm soát của họ. Đây là chiến lược chuỗi đảo thứ hai đã được nói tới trong nhiều năm qua.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và các mỏ dầu và khí đốt được cho là đang nằm dưới lòng đại dương nơi đây chính là cái mà Trung Quốc đang thèm khát. Nhưng có một sự cân nhắc lớn hơn nhiều mang chiều kích quân sự -chiến lược. Đó là vai trò bá chủ Biển Đông sẽ mở ra cho hạm đội tàu ngầm đang ngày càng lớn mạnh của Trung Quốc một bể bơi lớn để được vùng vẫy an toàn, thoải mái chặn tàu bè trên các hải trình quốc tế, và có thể hoành hành tại Ấn Độ Dương.
Tại biển Hoa Đông, họ sẽ có một không gian tương tự để tiến về phía trước và ngăn cản các lực lượng hải quân Mỹ và Nhật Bản tiếp cận để do thám các hoạt động của hải quân Trung Quốc. Quan trọng hơn cả là chính sách chống can thiệp đối với Mỹ trong khu vực đang tranh chấp này.
Một cuộc thăm dò trên phương tiện truyền thông chính thống của Trung Quốc cho thấy có nhiều bất đồng giữa giới lãnh đạo chính trị và quân sự về các vấn đề này. Trong khi giới lãnh đạo chính trị và các chuyên gia cố vấn dường như tỏ ra thận trọng, thì ít nhất một bộ phận trong giới quân sự lại thúc đẩy một đường lối cứng rắn.
Có hai ví dụ để chứng minh điều này. Tháng 5/2011, Tướng Lưu Viên (Liu Yuan) viết trong lời mào đầu của một cuốn sách về sự cần thiết phải trở lại văn hóa quân sự, cho rằng không có chiến tranh sẽ không có đại đoàn kết dân tộc.
Tướng Lưu, người được tiến cử chức Chính Ủy của Tổng Cục Hậu Cần (GLD) của PLA, là một lãnh đạo đang lên của PLA và thuộc vào nhóm "vua con", tức là con của các cựu lãnh đạo. Cha của ông là Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), từng là Chủ tịch Trung Quốc nhưng đã bị sát hại bởi lực lượng vệ binh Đỏ của Mao Trạch Đông trong cuộc Cách mạng Văn hóa. Những ông vua con là một nhóm ngày càng có ảnh hưởng ở Trung Quốc, theo xu hướng dân tộc chủ nghĩa và sẵn sàng đóng những vai trò lớn trong thế hệ lãnh đạo thứ 5 của nước này vào cuối năm 2012.
Ví dụ thứ hai là một bài viết của chiến lược gia Hàn Hiếu Vinh (Han Xiaorong), giáo sư Đại học Quốc phòng (NDU), đăng trên tờ Liêu Vọng (Liaowang, số ra ngày 4/7/2011). Giáo sư Hàn nói rõ rằng có thể không có diễn biến hòa bình nếu không có quân đội, và hòa bình không thể đạt được nếu không sử dụng chiến tranh. Theo ông, Trung Quốc nên tuyên bố rõ ràng và công khai yêu sách lãnh thổ của mình và cần thiết phải sử dụng vũ lực.
Cả tướng Lưu và giáo sư Hàn trong vài tháng qua đều cho rằng tàu biển Trung Quốc nên được giao cả sức mạnh ngoại giao và quân sự; nếu chỉ giữ vai trò quân sự trong các sự việc bất thường như chiến tranh thì sẽ là mâu thuẫn với mong muốn phát triển hòa bình của Trung Quốc. Các quan điểm cứng rắn trong quân đội dường như đã được đưa vào các chính sách của Trung Quốc, cả đối nội và đối ngoại.
Các lập luận trong bài xã luận của LAD đã củng cố các quan điểm như thế, theo đó chiến tranh là không thể tránh khỏi, trừ phi các nước láng giềng thỏa hiệp với các đòi hỏi của Trung Quốc. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi chính sách ngoại giao của Trung Quốc "đến hẹn lại lên", liên tục tỏ ra xác quyết.
Trung Quốc vẫn chưa chính thức tuyên bố Biển Đông là lợi ích "cốt lõi" của mình, nhưng đã đưa ra các tuyên bố như vậy theo cách này hay cách khác. Điều ngăn cản Trung Quốc tuyên bố chính thức về điều này chính là việc Mỹ trở lại khu vực này một cách mạnh mẽ. Động thái này bắt đầu bằng tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và được Lầu Năm Góc ủng hộ.
APR là khu vực "diễn viên" kinh tế hàng đầu thế giới, và Mỹ không sẵn sàng nhường khu vực này cho Trung Quốc một mình bá chủ. Năm 2010, bà Clinton đã nói rõ tại hội nghị của ASEAN ở Hà Nội rằng tự do hàng hải tại Biển Đông nằm trong lợi ích quốc gia của Mỹ. Tuyên bố của bà đã khiến Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì phản ứng mạnh mẽ. Kể từ đó, vấn đề này chỉ được kiềm chế, song chưa tìm được giải pháp.
Trung Quốc không có dấu hiệu sẽ giảm bớt. Tờ Nhân dân Nhật Báo số ra ngày 2/8 cảnh báo "những hậu quả tất yếu" đối với các nước liên quan nếu "mắc phải những sai lầm chiến lược nghiêm trọng tại Biển Đông". Philippines đã khiến Trung Quốc giận dữ.
Bà Hillary Clinton đã nói rõ nhu cầu của Mỹ trong khu vực. Thỏa thuận quốc phòng của Mỹ với Manila đã được củng cố, Mỹ cũng cải thiện quan hệ với kẻ thù cũ là Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng, và nâng cấp quan hệ chiến lược và quốc phòng với Nhật Bản. Trung Quốc lo ngại Mỹ đang tìm cách tạo ra một mặt trận thống nhất trong khu vực để chống Trung Quốc. Bắc Kinh cũng cố gắng cải thiện quan hệ quốc phòng với Hàn Quốc và Nhật Bản, nhưng mấu chốt cũng chỉ theo điều kiện của Trung Quốc. Việc này sẽ không đạt kết quả.
Giọng điệu của Sách trắng Quốc phòng thường niên của Nhật Bản (ngày 2/8) đã chứng tỏ mối lo ngại ngày càng lớn, đồng thời cảnh báo về sự không minh bạch của Trung Quốc về quốc phòng, và thái độ "xác quyết" ngày càng mạnh mẽ của họ không chỉ nhằm vào Nhật Bản mà hướng tới toàn khu vực. Thông điệp không nói ra trong tài liệu này là quan hệ hợp tác quốc phòng Mỹ - Nhật có thể sẽ "đi xa hơn" lãnh thổ Nhật Bản nếu Trung Quốc tiếp tục chiến lược ngoại giao-quân sự của mình.
Vẫn chưa rõ liệu Trung Quốc có đưa ra một học thuyết chiến lược mới hay không, nhưng nhiều diễn biến đang cho thấy điều này. Nếu lực lượng quân đội được đặt lên bàn hoặc bên dưới bàn đàm phán giữa Trung Quốc với các nước khác, nhất là những nước láng giềng về các vấn đề lãnh thổ và biển, thì khu vực từ Ấn Độ Dương đến APR sẽ rơi vào một tình huống khó khăn. Trong quá trình đàm phán, Trung Quốc không cần sử dụng đe dọa vũ lực trên bàn đàm phán, mà họ sẽ tiếp tục các hành động quân sự trên thực địa.
Tờ Nhân dân Nhật báo ngày 2/8 viết: một nước cờ mới của Bắc Kinh là thử và thuyết phục Mỹ chia sẻ vai trò lãnh đạo APR, với lập luận rằng Mỹ đang yếu đi vì các vấn đề kinh tế của mình trong khi sức mạnh quân sự của Trung Quốc đang gia tăng "không ngừng". Đây là một gợi ý quái dị. Không cần phải nói ra, Mỹ vẫn nắm trong tay cán cân quyền lực khu vực.
Các thành viên ASEAN vẫn chưa biết liệu Mỹ còn quan tâm tới khu vực này bao lâu nữa và Mỹ sẽ có thể thỏa thuận những gì với Trung Quốc. Lịch sử cam kết của Mỹ trong khu vực không giúp có niềm tin mạnh mẽ. Tùy thuộc vào Mỹ muốn chứng tỏ mình đến mức nào. Bằng không, sẽ có thể xảy ra tình trạng lộn xộn và Washington cũng sẽ bị tổn thương./.

Châu Giang
theo eurasiareview






- Nguyên PTTg Vũ Khoan: "Hòa để Tiến" TVN
Tác giả :  Vũ Khoan

Ngày này đúng 65 năm về trước đã diễn ra một sự kiện ngoại giao quan trọng: tại Paris, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp M.Moutet ký bản Tạm ước 14 tháng Chín. Cùng với hàng loạt hoạt động ngoại giao sôi động, đầy tính sáng tạo sau Cách mạng tháng Tám, cuộc đàm phán cam go đưa tới việc ký Tạm ước 14/9 đã đặt nền móng cho nền ngoại giao Việt Nam – một nhân tố đã góp phần hết sức quan trọng vào những thắng lợi của nhân dân ta trên các chặng đường tiếp theo. Thiết nghĩ, việc ôn lại những bài học lịch sử của thời kỳ đó rất có ích cho hôm nay và mai sau.
          Bối cảnh đất nước sau Cách mạng tháng Tám thật hiểm nghèo. Nhà nước Dân chủ Cộng hòa mới ra đời đã phải đối mặt với ba loại giặc cùng một lúc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Loại giặc thứ ba bao gồm cả thù trong, giặc ngoài: tàn quân nước Nhật bại trận còn đọng lại không ít ở nước ta;  20 vạn quân đội Tưởng Giới-thạch mà dân ta lúc đó gọi là “quân Tầu ô” do tính ô hợp của chúng tràn vào phía Bắc vĩ tuyến 20 dưới chiêu bài giải giáp quân đội Nhật mưu toan “diệt Cộng, cầm Hồ” (tức tiêu diệt cộng sản, bắt giam Hồ Chí Minh); ở phía Nam quân đội Pháp núp sau lưng quân đội Anh-Ấn (lúc đó còn là thuộc địa của Anh) gầm ghè khai chiến hòng một lần nữa khoác lên cổ nhân dân ta chòng nô lệ. Lăng xăng sau lưng chúng là đủ loại đảng phái Đại Việt, Việt nam Quốc dân đảng, Việt nam Cách mạng Đồng minh hội…
          Trong tình thế lực lượng vật chất rất mỏng thì phương cách hầu như duy nhất để đối phó với bọn chúng là đấu tranh ngoại giao dựa trên sức mạnh và sự đồng lòng nhất trí của toàn dân đi đôi với việc gấp rút xây dựng lực lượng để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến khó bề tránh khỏi.
          Các hoạt động ngoại giao lớn diễn ra chủ yếu vào năm 1946: 6/3 ký Hiệp định sơ bộ với Pháp, từ 16/4 tới 11/5 tiến hành Hội nghị Đà lạt, từ 31/5 đến trung tuần tháng 10 Hồ Chủ tịch đi thăm Pháp, từ 6/7 đến 10/9 tiến hành hội nghị Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau), 14/9 ký Tạm ước…
          Nhìn lại lịch sử có thể thấy khâu đầu tiên cực kỳ quan trọng là xác định rõ mục tiêu cơ bản. Ngày 3/10/1945, tức là một tháng sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ ta đã ra Thông cáo về chính sách ngoại giao, trong đó nói rõ: “Đưa nước nhà đến tự do, độc lập hoàn toàn và vĩnh viễn… tất cả chính sách ngoại giao phải có mục đích cốt yếu là giúp cho sự đấu tranh ấy thắng lợi bằng mọi phương pháp êm dịu hay kiên quyết”. Mục tiêu cơ bản này đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hoạt động ngoại giao tiếp sau.
Nhưng đấu tranh ngoại giao ra sao, thành bại thế nào lại tùy thuộc đáng kể vào việc đánh giá đúng tình hình, phân tích đúng tính toán của các đối phương, phát hiện chuẩn xác những điểm đồng và sự dị biệt của họ để hoạch định chính sách, bố trí lực lượng, chọn lựa phương châm hành động. Ôn lại lịch sử thời kỳ ấy có thể thấy sự đánh giá, phân tích của Đảng ta sáng suốt lạ kỳ. Bên thềm của Cách mạng tháng Tám, tại Hội nghị toàn quốc họp ở Tân trào (Tuyên quang) ngày 13-15/8/1945 Đảng ta đã nhận định “Hiện nay về chính sách ngoại giao chúng ta cần phải nhận định rõ hai điều:
a. Sự mâu thuẫn giữa hai phe Đồng minh Anh-Pháp và Mỹ-Trung quốc về vấn đề Đông dương là một điều ta cần lợi dụng.
b. Sự mâu thuẫn giữa Anh-Mỹ-Pháp và Liên Xô có thể làm cho Anh-Mỹ nhân nhượng với Pháp và để cho Pháp trở lại Đông dương…” .
Diễn biến tình hình sau đó cho thấy nhận định trên hoàn toàn chính xác.
Dựa trên sự phân tích như vậy, Đảng ta đã đề ra một chính sách ngoại giao toàn diện. Đường hướng cơ bản của chính sách đó đã được hoạch định ngay tại Hội nghị Trung ương lần thứ Tám họp ở Pắc bó (Cao bằng) vào tháng 5/1941 theo tinh thần “Kiên quyết chống tất cả các lực lượng xâm phạm đến quyền và lợi ích của nước Việt Nam…Tuyên bố các dân tộc bình đẳng và hết sức giữ hòa bình…”. Chuyển sang ngôn ngữ ngày nay thì đó là chính sách kiên quyết bảo vệ lợi ích chính đáng của dân tộc, đồng thời giữ vững hòa bình và sự hợp tác bình đẳng. Sau đó, chính sách ấy đã được khẳng định nhiều lần và kiên trì theo đuổi cho đến tận nay.
Để thực hiện thành công, sự xếp sắp lực lượng chuẩn xác có tầm quan trọng lớn lao. Lần theo các văn bản của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đó, nhất là Thông cáo về chính sách ngoại giao ngày 3/10 nói trên có thể thấy nổi lên 4 chủ trương lớn: “chỉ có thực lực của ta mới quyết định sự thắng lợi”; “…với các nước lớn, các nước trong Đồng minh chống phát-xít, Việt Nam hết sức thân thiện và thành thực hợp tác trên lập trường bình đẳng và tương ái”; “với láng giềng, Việt nam nhấn mạnh đến hữu nghị, hợp tác và bình đẳng…”; “với các nước tiểu dân tộc trên toàn cầu sẵn sàng thân thiện hợp tác chặt chẽ trên nguyên tắc bình đẳng để ủng hộ lẫn nhau trong sự xây đắp và giữ vững nền độc lập”.
Qua nội dung trên có thể thấy, ngay từ khi mới ra đời Nhà nước ta luôn chủ trương lấy việc xây dựng thực lực là căn bản; trong quan hệ quốc tế luôn coi trọng việc xử lý quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng và các dân tộc bị áp bức; nền tảng chung là hợp tác bình đẳng.
Đồng thời, Đảng ta đã đề ra nhiều phương châm hành động phù hợp: “thực lực bản thân là quyết định”; “mâu thuẫn giữa các phe là điều cần lợi dụng”; “tránh các trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng”; về phương pháp thì “kết hợp kiên quyết với êm dịu”; “hòa để tiến”, nghĩa là tạm thời thỏa hiệp, hòa hoãn để xây dựng thực lực, tiến lên giành thắng lợi mới.
Những nhận định, chủ trương, phương châm nói trên đã được thể hiện nhuần nhuyễn trong các hoạt động ngoại giao dồn dập vào năm 1945-1946 và cả trong những năm tháng sau này.
Trước hết là chủ trương lợi dụng mâu thuẫn giữa các nước mưu toan xâm hại lợi ích nước ta để “bớt thù”, tập trung sức lực đối phó với đối thủ chủ yếu. Như trên đã nói, sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, thù trong giặc ngoại đầy rẫy trên đất nước ta; giữa chúng luôn có những mâu thuẫn gay gắt. Ta đã khéo léo lợi dụng những mâu thuần đó, đẩy quân Tưởng về nước và cùng với chúng là bọn tay sai Việt Quốc, Việt Cách để tập trung sức lực đối phó với thực dân xâm lược Pháp là kẻ thù chủ yếu của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Trong cuộc đấu tranh ngoại giao với chúng, cái chính yếu mà ta kiên trì là quyền độc lập dân tộc, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của giang sơn. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể lúc đó, khi lực lượng vật chất của nước nhà có hạn, sự ủng hộ và giúp đỡ từ bên ngoài hầu như không có, Hồ Chủ tịch đã làm một việc không tiền khoáng hậu trong lịch sử ngoại giao thế giới là đích thân sang hang ổ của kẻ địch, suốt gần 5 tháng trời vận dụng sách lược “kiên quyết đi đôi với êm dịu”, kiên trì đấu tranh, đàm phán kết hợp với hoạt động rộng lớn, phong phú nhằm tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân Pháp và dư luận thế giới đồng cảm và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.
Trong Hiệp định sơ bộ 6/3 cũng như Tạm ước 14/9, cái bất biến là ta đòi Pháp phải công nhận nền độc lập và thống nhất của nước nhà. Tuy nhiên, trong tương quan lực lượng lúc bấy giờ ta đã phải thỏa hiệp trong một số vấn đề như thay vì ghi quy định Pháp công nhận nước Việt Nam là “độc lập”, Hiệp định mới chỉ ghi công nhận nước Việt Nam “tự do” nhưng thực chất vẫn là độc lập vì có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng; riêng vấn đề thống nhất ba kỳ Trung-Nam-Bắc sẽ được giải quyết qua cuộc trưng cầu dân ý và Pháp sẽ thừa nhận kết quả; phía ta chấp nhận nằm trong Liên hiệp Pháp và quân Pháp thay thế quân Tưởng…Đúng như ta dự đoán, Hiệp định tạm thời chưa ráo mực, bọn thực dân Pháp đã vi phạm thô bạo song ta vẫn kiên trì thương lượng. Tiếp sau thất bại của các Hội nghị Đà lạt và Hội nghị Phôn-ten-nơ-blô, Hồ Chủ tịch đã ký Tạm ước 14/9 cốt để tạm đẩy lùi nguy cơ xung đột lớn, tranh thủ thêm thời gian xây dựng lực lượng. Đảng ta coi đây là “…bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”.
Những bước đi sách lược như vậy không phải mọi người đều hiểu, thậm chí một số đảng viên, cán bộ cũng hiểu lầm. Ấy là chưa kể bọn phản động đủ loại, nhất là Việt Quốc, Việt Cách mà đại diện là các tờ báo Việt Nam, Tự do, Phục quốc…đội lốt “yêu nước” ra sức xuyên tạc, kích động, chống phá. Trước tình hình đó, ngày 9/3 Thường vụ Trung ương Đảng đã phải ra chỉ thị “Hòa để tiến” giải thích tình hình và chủ trương của ta. Hồ Chủ tịch căn dặn “Muốn đi cho đúng với thời cuộc, chúng ta nên đặt lý trí lên trên tình cảm”, thậm chí trong bức thư gửi đồng bào Nam bộ trước khi lên đường sang Pháp Người thốt lê: “Tôi xin hứa với đồng bào rằng, Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”.
Mặc dầu ta đã nỗ lực đến mức tối đa để vãn hồi hòa bình song thực dân phản động Pháp vẫn không rời bỏ dã tâm một lần nữa đô hộ đất nước ta. Trong hoàn cảnh đó, theo tiếng gọi của Hồ Chủ tịch : “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Chúng ta phải đứng lên!”, toàn dân ta đã đồng tâm hiệp lực đi vào cuộc kháng chiến trường kỳ.
Cần nói thêm rằng, song song với tuyến đấu tranh trực diện với thực dân Pháp là chủ yếu, ta đã nỗ lực hết mình trên các tuyến hỗ trợ. Ngay từ lúc ấy đã hình thành tư tưởng mà ngày nay ta gọi là “đa dạng hóa” theo tinh thần “Nước Việt Nam sẵn sàng làm bạn với mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”, tiến hành hoạt động “ngoại giao nhân dân” và “ngoại giao kinh tế”, thực thi chính sách “mở cửa với bên ngoài”. Có rất nhiều tư liệu rất phong phú về những phương hướng này nhưng do khuôn khổ của bài báo không đề cập hết được, xin để dịp khác.
65 năm đã qua, thế và lực của nước ta đã khác hẳn trước, cục diện thế giới và khu vực cũng có nhiều chuyển biến sâu sắc. Nước ta đứng trước nhiều thuận lợi song vẫn phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Để ứng phó với những khó khăn, thách thức ấy, thiết tưởng rằng, những bài học ngoại giao trong các năm 1945-46 vẫn còn nguyên giá trị./.

“Khích lệ dân chủ” phải là sự khích lệ về một dân chủ do tự nhân dân thích nói ra. P. J. O’Rourke
Nguồn: Tạp chí World Affairs số tháng Tám năm 2010
Trần Quốc Việt dịch

Tổng số lượt xem trang