Chủ Nhật, 23 tháng 10, 2011

Bàn về bài báo “Thế kỷ Thái Bình Dương”

-Bàn về bài báo “Thế kỷ Thái Bình Dương” – Bài 4: Thành tích có ý nghĩa nhất về đường lối đối ngoại của Obama và Clinton
David Rothkopf/ Foreign Polici
Hoàng Hưng dịch
Trong số tháng 11 của Foreign Policy, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton tranh luận rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải tiếp tục tiến lên từ các chiến trường tốn kém tại Iraq và Afghanistan, và thực hiện một cuộc chuyển hướng chiến lược tại châu Á. FP đã yêu cầu bốn nhà quan sát thời sự thông thái đánh giá những kế hoạch của Bà Clinton để Hoa Kỳ dấn thân vào Đông Á.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật” mà BVN vẫn tuân thủ bấy lâu nay, đúng như câu nói trong  Kinh Thánh: "And you shall know the truth, for the truth will set you free" (Và anh phải biết sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng anh), chúng tôi đã mời một số dịch giả thân tín dịch cả 4 bài phản biện của bốn nhà thông thái nói trên và lần lượt đăng tải nhằm cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều trước chủ trương chiến lược mới của nước Mỹ thông qua bài viết quan trọng của Ngoại trưởng Hillary Clinton.

Bauxite Việt Nam

“Thế kỷ Thái Bình Dương của Hoa Kỳ”, bài viết của Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton miêu tả một cách sâu sắc và bao hàm đầy đủ sáng kiến về đường lối đối ngoại rất có khả năng sẽ được coi như thành tích có ý nghĩa và thành công nhất của kỷ nguyên đối ngoại Barack Obama - Clinton. Hoàn toàn có thể là Clinton sẽ không còn là Ngoại trưởng quá năm sau, và do đó hình như rất có thể liên di sản với Tổng thống của bà sẽ được thống trị bởi cái “then chốt” có tính hệ thống, được thực thi tốt đẹp, thường khó bị truy kích (below-the-radar) mà bà miêu tả trong bài viết của mình.
Mặc dù các xung đột ở Trung Đông và Trung Á đã ngốn hết mọi khả năng và nguồn lực của chính quyền này, như Clinton lưu ý, sự chú ý của Hoa Kỳ đang chuyển. Điều đó có phần có lý do mà bà nêu lên: tài sản của Hoa Kỳ ở Iraq và Afghanistan co lại. Nhưng cũng do thực tế Hoa Kỳ đang rời khỏi một quan điểm về thế giới từng khiến cho “cuộc chiến chống khủng bố” thành ưu tiên hàng đầu của chính quyền George W. Bush. Thêm nữa, đó còn do thực tế là càng ngày, ngay cả những vấn đề quan trọng nhất ở Trung Đông và Trung Á – từ tương lai của chương trình hạt nhân Iran đến những thị trường năng lượng toàn cầu đang chuyển chỗ, đến nhiệm vụ kiềm chế những mối đe dọa từ bên trong Pakistan – ngày càng phụ thuộc vào những hành động và lập trường không phải của các tác nhân trong vùng mà của Trung Quốc và Ấn Độ.
Như Daniel Yergin đã nói với tôi trong cuộc thảo luận gần đây về cuốn The Quest, cuốn sách mới của ông về tương lai của năng lượng, hầu như tất cả yêu cầu mới về năng lượng từ Trung Đông đều đến từ TQ hay Ấn Độ. Cường quốc lớn nhất mà ảnh hưởng rất có thể là lá phiếu làm thay đổi trên tòa án dư luận – không kể Hội đồng Bảo an LHQ – đối với tương lai chương trình hạt nhân Iran là TQ. Cả Ấn Độ và TQ đều có vai trò sống còn trong việc thu xếp các quan hệ với Pakistan và Afghanistan.
Sự tăng trưởng kinh tế châu Á và kích cỡ dân số của nó, năng lực sản xuất và yêu cầu của nó, sự dẫn đầu về công nghệ và tầm quan trọng địa chính trị của những tác nhân hàng đầu của nó, là tất cả mọi lý do để chính quyền Obama có quyết định đúng đắn là dành ưu tiên đến thế cho một chính sách mới đối với châu Á mang tính chiến lược, toàn diện. Ta gần như có thể nói rằng một quyết định như thế là không thể tránh. Nhưng tất nhiên, chính quyền tiền nhiệm đã có sự tính toán rất khác, ngay cả khi nhiều xu hướng y như thế đã rõ ràng đối với các quan sát viên ngay cả trước khi Bush vào Nhà Trắng.
Nhưng sáng kiến của chính quyền Obama đã không chỉ là đúng lúc, là đơn giản nhận thức được cái hiển nhiên. Nó cũng rất thông minh và có hệ thống. Điểm trung tâm, đúng như cần thiết, là cam kết với TQ. Nỗ lực ấy đang tiếp diễn, cả công khai và riêng tư, và cả ở cấp cao và cấp thấp. Nói cách khác, nó đúng là cái còn phải mong đợi được êm đềm nếu như đã không trơn tru về mọi vần đề – thực thế, nó không bao giờ có thể đạt điều đó. Nhưng nó cũng đã được phát ngôn trầm tĩnh một cách khôn ngoan trong phần lớn thời gian, gác sang bên những lời lẽ cường điệu và thái quá như đã thấy trong một số chương trước của quan hệ hai nước.
Hơn thế nữa, chính quyền (Obama) đã rất ý thức tìm sự cân bằng ở mọi cấp độ – giữa những yếu tố khác nhau của quan hệ với TQ và giữa TQ với các nước láng giềng. Việc xây dựng trên công trình quan trọng đã làm được trong thời các chính quyền Bill Clinton và Bush, tăng cường quan hệ với Ấn Độ – bao gồm mục tiêu của Ấn Độ trở thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ – đã là một địa hạt đặc biệt của thành tích. Nhưng chính quyền (Obama) cũng đã đoan chắc làm sâu thêm các quan hệ chặt chẽ với Nhật Bản bất kể sự trục trặc trong hoạt động của bộ máy chính trị nước này như nhanh chóng theo sau thảm họa hạt nhân Fukushima. Nó cũng đã cần cù làm việc với vấn đề Bắc Triều Tiên. Và nó đã, như Ngoại trưởng Clinton lưu ý trong bài viết của bà, không ngừng lại với các nước chiếm tin tức hàng đầu trong vùng; từ Myanmar đến châu thổ sông Mekong, từ ASEAN tới quần đảo Trường Sa, nó đã thừa nhận rằng châm ngôn “Thượng đế ở trong các chi tiết” của Mies van der Rohe được áp dụng trực tiếp vào ngoại giao cũng như vào kiến trúc.
Còn hơn nữa, uy tín của Clinton còn ở chỗ bà đã làm cho sáng kiến này được nhân danh Tổng thống với hết khả năng. Bà đã tích cực tiến hành, làm việc ở hậu trường khi thích hợp và xuất hiện ở mặt tiền và cất lên tiếng nói của Hoa Kỳ khi cần thiết. Bà đã phục vụ Tổng thống và đất nước bằng cách gác cái tôi sang bên và xắn tay áo làm công việc tẻ ngắt hàng ngày là sắp xếp các mối quan hệ và chú ý tới chi tiết hồ sơ của mình. Bà cũng đã trao quyền và chỉ dẫn rất tốt ê kíp của mình ở Bộ Ngoại giao, với những công tác quan trọng đã thực hiện được gần như nhất quán và liền lạc từ cấp Thứ trưởng, Trợ lý Bộ trưởng, Đại sứ, và các cấp thừa hành.
Kết quả là Hoa Kỳ chưa bao giờ được tôn trọng hơn thế trong vùng cũng chưa bao giờ hòa hợp một cách sâu sắc hơn với những vấn đề thời sự của khu vực. Sự chuyển đổi về tiêu điểm, do đó, có vị trí cao cùng với những thay đổi quan trọng sống còn mà ê kíp an ninh quốc gia của Obama đã giám thị – trong đó có việc khôi phục danh tiếng quốc tế của Hoa Kỳ, việc chuyển chủ nghĩa đơn phương sang chủ nghĩa đa phương, và việc chuyển từ cách tiếp cận “giải phẫu tim mở” (open-heart surgery) đối với cuộc chiến chống khủng bố sang cách tiếp cận từng khớp (arthrocospic) (tình báo, lực lượng đặc biệt, máy bay không người lái). Tất cả hợp lại thành “then chốt” – dùng từ của Clinton – một trong những then chốt có ý nghĩa nhất trong lịch sử đường lối đối ngoại của Hoa Kỳ thời gần đây và có thể được coi không chỉ là then chốt cho “Thế kỷ Thái Bình Dương” mà then chốt trong thực tế từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI.
David Rothkopf là học giả du giảng ở Quỹ Carnegie cho Hòa bình quốc tế (Carnegie Endowment for International Peace) và tác giả cuốn sách Power, Inc. (Công ty Quyền lực) sắp ra mắt đầu năm 2012

H.H. dịch từ: foreignpolicy.com
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN


-Bàn về bài báo “Thế kỷ Thái Bình Dương” – Bài 3: Một bức tranh đẹp, nhưng liệu các mảng có ăn khớp nhau không?

Minxin Pei / Foreign Policy

Trần Ngọc Cư dịch
Trong số tháng 11 của Foreign Policy, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton tranh luận rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải tiếp tục tiến lên từ các chiến trường tốn kém tại Iraq và Afghanistan, và thực hiện một cuộc chuyển hướng chiến lược tại châu Á. FP đã yêu cầu bốn nhà quan sát thời sự thông thái đánh giá những kế hoạch của Bà Clinton để Hoa Kỳ dấn thân vào Đông Á.

Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật” mà BVN vẫn tuân thủ bấy lâu nay, đúng như câu nói trong  Kinh Thánh: "And you shall know the truth, for the truth will set you free" (Và anh phải biết sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng anh), chúng tôi đã mời một số dịch giả thân tín dịch cả 4 bài phản biện của bốn nhà thông thái nói trên và lần lượt đăng tải nhằm cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều trước chủ trương chiến lược mới của nước Mỹ thông qua bài viết quan trọng của Ngoại trưởng Hillary Clinton.
Bauxite Việt Nam

Như là một cách mô tả chi tiết rõ ràng và toàn diện về chính sách của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương, bài tiểu luận của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton, nhan đề “Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ”, có vẻ xuất hiện quá trễ. Nhưng nó đã đến vào một thời điểm thích hợp nhất cho Washington. Một sự kết hợp gồm nhiều yếu tố, một số có tính cách ngẫu nhiên và một số khác thì không, đã giúp Hoa Kỳ tái lập địa vị siêu cường của mình trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong hai năm qua, sau nhiều năm êm ả bỏ quên dưới Chính quyền Bush. Chắc chắn là, Chính quyền Barack Obama đã bắt đầu gặt hái kết quả của đường lối ngoại giao tái tham gia vào khu vực này. Những cuộc thăm viếng cấp cao do các nhà ngoại giao Mỹ thực hiện, đặc biệt nhiều chuyến đi của Bà Clinton đến khu vực này, đã cải thiện rất nhiều cái lăng kính qua đó các nước châu Á-thái Bình Đương sẽ nhìn Hoa Kỳ. Thái độ hung hăng quyết đoán mà TQ biểu lộ trong các tranh chấp lãnh thổ gần đây cũng đã gây phẫn nộ cho các nước láng giềng và đẩy họ xích lại gần Washington hơn.
Trong tình thế này, một tuyên bố chính sách toàn diện nhằm khẳng định sự cam kết của Mỹ đối với khu vực sẽ mạnh mẽ trấn an các đồng minh và loan truyền sự rõ ràng chiến lược của Mỹ đến các đối thủ, chủ yếu là Trung Quốc. Về thực chất, bản tuyên bố Clinton chẳng khai phá điều gì mới mẻ. Cái gọi là “sáu nguyên tắc hành động chủ yếu” – như Bà Clinton mô tả, “tăng cường các liên minh an ninh song phương; đào sâu các quan hệ hợp tác với các cường quốc đang lên, kể cả Trung Quốc; tham gia các định chế đa phương trong khu vực; mở rộng thương mại và đầu tư; tạo sự hiện diện quân sự trên cơ sở rộng lớn; và đẩy mạnh dân chủ và nhân quyền” – là những điều ai cũng biết. Tái khẳng định chúng hay diễn tả chúng bằng những câu văn mới hơn không hề thay đổi thực chất của chúng hay chính sách của Mỹ.
Nhưng những thắc mắc nghiêm trọng vẫn còn tồn tại về chính sách Mỹ đối với châu Á-Thái Bình Dương. Thắc mắc quan trọng hơn cả là mục tiêu chiến lược dài hạn của Washington. Hoa Kỳ đang cố gắng đạt những mục đích dài hạn nào với sáu nguyên tắc nói trên? Duy trì địa vị siêu cường mãi mãi chăng? Ngăn chặn sự xuất hiện một bá quyền địa phương chăng?
Một thắc mắc khác là làm thế nào để sáu nguyên tắc hành động đó ăn khớp với nhau; chúng không luôn luôn tương hợp với nhau và, thật ra, là thường xung khắc. Chẳng hạn, tăng cường cộng tác với Trung Quốc nhất định xung khắc với việc duy trì một lực lượng quân sự to lớn triển khai ra phía trước (điều mà Bắc Kinh cho là một mối đe dọa cho an ninh của Trung Quốc), hậu thuẫn dân chủ và nhân quyền (điều mà Trung Quốc ghét thậm tệ), và duy trì các liên minh an ninh song phương (điều mà Trung Quốc cho là tàn tích của Chiến tranh Lạnh).
Thắc mắc cuối cùng là, liệu Washington có đủ nguồn lực để thực hiện các chính sách của mình một cách hữu hiệu trong khu vực hay không. Rõ ràng là, những khó khăn ngân sách của Mỹ đã giảm khả năng tài trợ các nỗ lực ngoại giao một cách nghiêm trọng. Nhưng trong tình thế chính quyền Mỹ đang ngày càng bận tâm với các vấn đề trong nước, vốn chính trị cần thiết cho các nỗ lực ngoại giao cũng trở nên thiếu hụt. Trường hợp điển hình là đề nghị thành lập “Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương” (TTP), một kế hoạch đầy tham vọng nhằm thiết lập một khu mậu dịch tự do ở trong khu vực. Những quốc gia nằm trong đề nghị này có thể là đang phấn chấn, nhưng khổ nỗi là tại Washington gần như không có người nào biết được ba chữ TPP tượng trung cho cái gì.
Minxin Pei là Giáo sư môn Chính phủ tại Đại học Claremont McKenna.
T.N.C. dịch từ: foreignpolicy.com
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

Bàn về bài báo “Thế kỷ Thái Bình Dương” – Bài 2  — (Boxitvn).

Liệu chính quyền Obama có hậu thuẫn lời tuyên bố của Bà Clinton bằng hành động cụ thể hay không?

Daniel Twining / Foreign Policy

Trần Ngọc Cư dịch
Trong số tháng 11 của Foreign Policy, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton tranh luận rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải tiếp tục tiến lên từ các chiến trường tốn kém tại Iraq và Afghanistan, và thực hiện một cuộc chuyển hướng chiến lược tại châu Á. FP đã yêu cầu bốn nhà quan sát thời sự thông thái đánh giá những kế hoạch của Bà Clinton để Hoa Kỳ dấn thân vào Đông Á.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật” mà BVN vẫn tuân thủ bấy lâu nay, đúng như câu nói trong Kinh Thánh: "And you shall know the truth, for the truth will set you free" (Và anh phải biết sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng anh), chúng tôi đã mời một số dịch giả thân tín dịch cả 4 bài phản biện của bốn nhà thông thái nói trên và lần lượt đăng tải nhằm cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều trước chủ trương chiến lược mới của nước Mỹ thông qua bài viết quan trọng của Ngoại trưởng Hillary Clinton.
Bauxite Việt Nam

Bộ trưởng Ngoại giao Hillary Clinton đáng được khen ngợi vì có công đưa ra một viễn kiến toàn diện cho sự can dự của Mỹ trong khu vực Ấn độ-Thái Bình Dương trong một thế kỷ tới. Bà Clinton và Ban đặc trách châu Á của bà, đứng đầu bởi Phụ tá Ngoại trưởng Kurt Campell, đã và đang hăng hái tổ chức những chuyến công du đến khu vực này và đánh dấu những nỗ lực của Mỹ nhằm hỗ trợ các liên minh của Mỹ với Nhật Bản, Nam Hàn, và Australia; hợp tác chiến lược với Ấn Độ, bao gồm cả việc xuyên qua một hợp tác tay ba Mỹ-Ấn-Nhật (U.S-India-Japan trilateral cooperation) quan trọng và mới mẻ; tăng cường quan hệ với Indonesia; bảo vệ tự do lưu thông hàng hải trên Biển Đông; và phát triển tình hữu nghị với các đảo quốc Thái Bình Dương.  Sự vận động này nhắc nhở với thế giới rằng chính sách châu Á của Mỹ có cơ sở của một sự đồng thuận lưỡng đảng [cả Dân chủ lẫn Cộng hòa] tại Washington – và rằng Mỹ chưa bao giờ “rời bỏ” châu Á dưới thời George W. Bush. Thật vậy, nỗ lực lịch sử của [cựu Tổng thống] Bush trong việc mở rộng quan hệ với Ấn Độ đã đặc biệt đóng góp cho việc tạo ra một bối cảnh chiến lược thuận lợi hơn để Tổng thống Barack Obama tích cực tham gia vào khu vực này.
Câu hỏi gay gắt hơn sẽ là, liệu chính quyền Obama có thực sự cam kết duy trì một cán cân lực lượng có lợi cho Mỹ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương hay không – vì nếu không có một sự cam kết như vậy, thì nhiều mục tiêu đáng ca ngợi của Bà Clinton không thể thực hiện được. Chính dự án ngân sách của Obama sẽ cắt giảm 1.000 tỷ đôla chi phí quốc phòng trong 10 năm tới. Trong khi đó, TQ đang phát triển những vũ khí tinh vi, rõ ràng là được thiết kế để trục xuất quân đội Mỹ ra khỏi các vùng ven biển châu Á. Thật khó hiểu là làm thế nào mà Mỹ có thể tăng cường những cam kết an ninh và sự hiện diện của mình tại châu Á – một sự tăng cường đang nhận được sự hậu thuẫn lưỡng đảng tại Washington và sự đồng thuận rộng rãi trong khu vực – thậm chí cả khi vị Tổng Tư lệnh Quân đội Mỹ [tức Tổng thống] đề nghị rút ruột quân lực của mình.
Có một điều cũng nổi bật là, viễn kiến châu Á của Bà Clinton tập trung vào một quốc gia nhiều hơn bất cứ quốc gia nào khác. Quốc gia đó không phải là Nhật Bản, đồng minh thân cận nhất của Mỹ trong khu vực. Cũng không phải là nước dân chủ Ấn Độ gồm 1,3 tỉ dân mà cộng đồng nghiên cứu chiến lược nhận ra là có sự trùng hợp lợi ích với Mỹ trong việc duy trì sự quân bình lực lượng tại châu Á, đánh bại chủ nghĩa khủng bố tại Afghanistan và Pakistan, đồng thời duy trì an ninh hàng hải. Hơn bất cứ quốc gia nào khác, chính TQ – một đối thủ đang trỗi dậy của Mỹ – là nước mà Bà Clinton có vẻ muốn trấn an. Việc Chính quyền Obama gần đây không chịu bán cho Đài Loan các máy bay chiến đấu hiện đại có vẻ phù hợp với sự đánh giá này.
Hình như đường lối này đã đảo ngược vấn đề; thay vì tìm cách trấn an TQ, nó đã giao trách nhiệm cho TQ trấn an Mỹ. Dẫu sao, Mỹ và đồng minh của Mỹ đã tạo được ổn định tại châu Á trong 60 năm qua – và phải kể cả vai trò của TQ từ khi nó bắt đầu tự do hóa kinh tế vào năm 1978. Tình trạng tương phản hiện nay là, việc nhanh chóng hiện đại hóa quân đội và thái độ quyết đoán đối với thế giới bên ngoài của TQ đang tạo ra bất ổn nghiêm trọng dưới mắt các nước láng giềng của TQ trong khu vực, xói mòn sự ổn định đã từng đảm bảo phép lạ kinh tế của châu Á.
Bà Clinton nhận định đúng đắn rằng vai trò lãnh đạo kinh tế của Mỹ tại châu Á là thiết yếu. Nếu đo bằng lượng thương mại hàng hóa và dịch vụ cộng với các lượng tiền đầu tư chảy vào khu vực, thì chính Mỹ – chứ không phải TQ – vẫn là đối tác kinh tế được ưa chuộng nhất của gần như tất cả các nước châu Á. Tuy thế, mãi cho đến tuần trước, Chính quyền Obama vẫn không chịu gửi đến Quốc hội phê chuẩn một hiệp ước tự do mậu dịch với Nam Hàn, một văn kiện đã nằm trên bàn giấy của Tổng thống kể từ khi ông nhậm chức. Mỹ đã hạ thấp tầm quan trọng của cuộc đối thoại kinh tế với Nhật Bản và tiếp tục trì hoãn một hiệp ước đầu tư song phương với Ấn Độ. Những thương thuyết ở tầm mức kỹ thuật về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership, TTP) không thể thay thế cho một chiến lược lãnh đạo kinh tế vững vàng tại khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Cựu Thứ trưởng Ngoại giao của Chính quyền Obama, Ông James Steinberg, từng thích ví von với giới lãnh đạo chóp bu châu Á rằng quan hệ Mỹ-Trung hiện nay cũng giống như quan hệ Anh-Mỹ một thế kỷ trước đây – và rằng cũng giống như Anh quốc thời trước, ngày nay Mỹ đang chuẩn bị để nhường quyền lãnh đạo trong các vấn đề quốc tế cho một TQ đang trỗi dậy. Thông điệp này đã gây dao động khắp châu Á. Như cố học giả Ấn Độ về các vấn đề quốc tế, Ông K. Subrahmanyam, đã phát biểu, dân chúng châu Á (kể cả người Ấn Độ) sẽ rất bằng lòng sống dưới chiếc dù của siêu cường Mỹ – và không chấp nhận thay thế nó bằng bá quyền TQ.
Việc Mỹ muốn duy trì địa vị siêu cường của mình trong khu vực Thái Bình Dương trước sự thách đố của TQ sẽ là một nỗ lực rất tốn kém và khó khăn. Những bài diễn văn hùng hồn có giúp phần nào, nhưng các hành động mới thực sự quan trọng hơn.
Daniel Twining là nhà nghiên cứu thâm niên  về châu Á tại Quỹ Marshall Đức của Hoa Kỳ (the German Marshall Fund of the United States) và là cựu thành viên của ban hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao Mỹ.
T.N.C. dịch từ: foreignpolicy.com
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN

Bàn về bài báo “Thế kỷ Thái Bình Dương” – Bài 1: Một kế hoạch có tham vọng một cách ảo tưởng – và tốn kém  —  (Boxitvn).

Richard McGregor / Foreign Policy

Trần Ngọc Cư dịch
Trong số tháng 11 của Foreign Policy, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton tranh luận rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải tiếp tục tiến lên từ các chiến trường tốn kém tại Iraq và Afghanistan, và thực hiện một cuộc chuyển hướng chiến lược tại châu Á. FP đã yêu cầu bốn nhà quan sát thời sự thông thái đánh giá những kế hoạch của Bà Clinton để Hoa Kỳ dấn thân vào Đông Á.
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật” mà BVN vẫn tuân thủ bấy lâu nay, đúng như câu nói trong  Kinh Thánh: "And you shall know the truth, for the truth will set you free" (Và anh phải biết sự thật, vì sự thật sẽ giải phóng anh), chúng tôi đã mời một số dịch giả thân tín dịch cả 4 bài phản biện của bốn nhà thông thái nói trên và lần lượt đăng tải nhằm cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều trước chủ trương chiến lược mới của nước Mỹ thông qua bài viết quan trọng của Ngoại trưởng Hillary Clinton.
Bauxite Việt Nam

Sự kiện sau có thể là công đầu của chính sách ngoại giao Mỹ: Hai nhà lãnh đạo của hai Đảng Cộng sản tồn tại vững bền nhất thế giới đã gặp nhau tại Bắc Kinh tuần này, và, trong vài phương diện nào đó, Washington có thể lấy điểm vì đã đưa họ lại với nhau.
Ông Hồ Cẩm Đào, người đứng đầu Đảng Cộng sản đang cầm quyền tại Trung Quốc (TQ), đã tiếp vị đồng nhiệm Việt Nam, Ông Nguyễn Phú Trọng, để đối thoại chính thức tại thủ đô TQ, và hai bên đã thỏa thuận hợp tác với nhau nhằm giải quyết cuộc tranh chấp lãnh thổ gay gắt của họ trong Biển Đông. Vì TQ có thái độ hung hãn về vấn đề này trong 18 tháng qua, Việt Nam đã thúc đẩy Hoa Kỳ can thiệp, việc này sau đó đã giúp tạo ra một diễn đàn để Hà Nội tái khởi động cuộc đối thoại với Bắc Kinh.
Hành vi quyết đoán của TQ đã là một quà tặng cho Mỹ tại châu Á, một điều được biểu hiện bằng giọng điệu tự tin trong một bài báo của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton trong số mới nhất của Foreign Policy. Có một thời gian trong thập niên 1990 Hoa Kỳ thường bị các lãnh đạo trong khu vực xa lánh, mãi cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 làm dịu bớt thái độ căng thẳng của họ. Nhưng trong thập niên đầu của Thế kỷ XXI, Mỹ lại quá bận tâm với vấn đề Iraq và Afghanistan, trong khi Châu Á bị mê hoặc bởi sự trỗi dậy của TQ.
Nhưng trong hai năm qua, Hoa Kỳ được nhiệt liệt đón mời trở lại khu vực này, trong khi nhiều nước đang tìm cách đề phòng một TQ đang trỗi dậy. Và nếu căn cứ vào lời nói của Bà Clinton, thì rõ là Chính quyền Obama đang một lần nữa nhìn sang hướng Đông, với những kế hoạch to lớn trong đầu. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong thập kỷ tới của Mỹ, theo Bà, là “quyết định gia tăng đầu tư đáng kể  – về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và nhiều lãnh vực khác – tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương”. Đây là một tuyên bố phi thường ở một thời điểm Washington cần phải tập trung vào nhiều vấn đề quốc nội và cắt giảm chi phí quốc phòng.
Những viên gạch đầu tiên tạo nền móng cho việc Mỹ trở lại châu Á đã có sẵn. Quan hệ quốc phòng với Singapore đã được tăng cường. Vào thời điểm Tổng thống Mỹ Obama đến thăm Australia tháng 11 năm nay, ông sẽ công bố một chương trình thăm viếng của các chiến hạm Mỹ và việc thiết lập căn cứ ở phía Bắc nước này. Cùng tháng đó, Tổng thống Mỹ sẽ có mặt tại Bali để lần đầu tiên tham dự Cuộc họp Thượng đỉnh Đông Á và sẽ đến Hawaii để tham dự cuộc họp thường niên của các lãnh đạo quốc gia thuộc diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương. Tất cả diễn tiến này, tất nhiên chỉ là một màn giáo đầu cho bàn cờ chính trị quan trọng: đó là, liệu Mỹ và TQ có thể đi đến một tạm ước (modus vivendi) tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương hay không.
Có nhiều điều TQ sẽ không hài lòng trong bài báo của Bà Clinton. Như Minxin Pei nhận xét trong một bài phân tích trên tạp chí Diplomat, “bản tuyên bố Clinton sẽ được Bắc Kinh coi như thêm một tuyên cáo nữa nói rằng Mỹ quyết tâm giữ địa vị siêu cường Châu Á - Thái Bình Dương… Thông điệp chiến lược cho mọi quốc gia trong khu vực này, đặc biệt TQ, là rất rõ ràng: đừng coi chúng tôi như là không có và thậm chí đừng nghĩ đến việc đẩy chúng tôi ra khỏi nơi đây”.
Nhưng liệu Mỹ có đủ sức để thực hiện một cam kết thực sự lớn hơn hiện nay đối với Châu Á vào một thời điểm Mỹ đang đối phó với những thâm thủng ngân sách ngày một phình lớn? Và TQ sẽ hưởng được khích lệ vật chất nào để phải nhượng bộ trước sức mạnh của Mỹ ở một thời điểm TQ đã có đủ hỏa lực để tích lũy quyền lực của mình? Pax Americana (hoà bình kiểu Mỹ) đã phục vụ châu Á tốt đẹp kể từ khi Thế chiến II chấm dứt. Liệu nó có đưa được TQ vào dưới cái dù của nó hay không, đó là thử thách lớn nhất mà nó đã gặp phải trong nửa thế kỷ vừa qua.
Richard McGregor là Văn phòng trưởng tại Washington của tờ Financial Times và là tác giả cuốn The Party: The Secret World of China’s Communist Rulers.
T.N.C. dịch
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN



Tổng số lượt xem trang