Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

Mùa Xuân Dân chủ

-SỰ SỤP ĐỔ CỦA MOSRI LÀM PHÁ SẢN HỌC THUYẾT CỦA OBAMA
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)

Thứ Hai, ngày 23/7/2013

TTXVN (Pretoria 18/7)

Theo mạng “Tin Trung Đông” ngày 5/7, chính sách của Tổng thống Mỹ Barack Obama đối với thế giới Arập và Hồi giáo được sinh ra tại Cairo và cũng chết yểu tại đây.



Ngày 4/6/2009, Obama đã có bài phát biểu tại trường Đại học Cairo với chủ đề “Một sự khởi đầu mới”. Với mục tiêu phát đi tín hiệu muốn hàn gắn mối quan hệ rạn nứt giữa Mỹ với thế giới Arập và Hồi giáo sau 8 năm thực hiện chính sách chống Hồi giáo của Chính quyền Bush, sự kiện này nhận được sự ủng hộ của Đại học Al-Azhar (Trung tâm học thuật và thần học Hồi giáo nổi tiếng). Thật trùng lặp khi Hiệu trưởng trường Đại học Al- Azhar, Tiến sỹ Ahmed al-Tayyeb (từng tham gia tranh cử tổng thống) và cựu nhân viên ngoại giao Ai Cập tại Liên Hợp Quốc Mohamed ElBaradei cùng Giáo chủ giáo phái Coptic Tawadros là những nhân vật đã hậu thuẫn cho lực lượng quân đội Ai Cập lật đổ Tổng thống Mohamed Morsi.

Thật kỳ lạ là Chính quyền Obama (vốn ủng hộ mạnh mẽ Morsi thông qua Đại sứ Mỹ tại Cairo, Anne Patterson) lại không gọi hành động quân đội bắt giữ Morsi và các bộ trưởng hàng đầu trong chính phủ là “cuộc đảo chính quân sự”. Một nhà hoạch định chính sách nổi tiếng của Mỹ, tác giả đạo luật Leahy, Thượng nghị sỹ đảng Dân chủ, Chủ tịch ủy ban Tư pháp Thượng viện Patrick Leahy đã yêu cầu Chính phủ Mỹ cắt viện trợ quân sự cho Ai Cập sau cuộc đảo chính. Theo quy định của luật pháp Mỹ, nếu chính phủ được thành lập bằng bầu cử bị đảo chính quân sự lật đổ thì Washington cần phải chấm dứt khoản viện trợ quân sự 1,3 tỷ USD thường niên cho Ai Cập. Tuy nhiên, các thành viên đảng Cộng hòa tại Quốc hội Mỹ, đặc biệt là những nhân vật ủng hộ Ixraen vô điều kiện, lại ủng hộ cuộc đảo chính, yêu cầu Obama và Ngoại trưởng John Kerry sử dụng các căn cứ pháp lý để khước từ yêu cầu của đạo luật Leahy. Thực tế, điều duy nhất khiến đảng Cộng hòa quan tâm chỉ là lợi nhuận của các nhà thầu quân sự Mỹ và Ixraen chứ không phải là vấn đề chính phủ dân chủ được bầu vừa bị lật đổ bằng đảo chính quân sự chớp nhoáng.

“Xử lý bất ổn” là nhiệm vụ chính của “Trách nhiệm bảo vệ-R2P” mà Cố vấn An ninh quốc gia Susan Rice, người thay thế bà làm Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Samantha Power, Phó cố vấn an ninh quốc gia Ben Rhodes và các cộng sự thân cận của tỷ phú Mỹ George Soros nắm giữ các vị trí trong Bộ Ngoại giao và Nhà Trắng, đang đề cập đến. Đối lập với quan điểm R2P là những nhân vật “hiếu chiến” trong Bộ Quốc phòng như Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Martin Dempsey.

Rõ ràng viện trợ quân sự của Mỹ đối với Ai Cập sẽ phải tiếp tục được thực hiện nhằm xoa dịu giới quân sự Ai Cập về những gì mà Đại sứ Mỹ Patterson đã công khai gia tăng ủng hộ Morsi trong khi Tổng thống Ai Cập ngày càng trở nên cứng đầu cứng cổ, không chịu thỏa hiệp với phe đối lập khi số này ngày càng thêm bất bình về cách thức cầm quyền độc đoán của tổng thống. Hành động công khai của Morsi kêu gọi người dân Ai Cập ủng hộ các phần tử cực đọan Salafi và thánh chiến Wahabi ở Xyri chống lại Chính quyền Tổng thống Bashar al-Assad là “giới hạn đỏ” cuối cùng đối với quân đội, khiến lực lượng này phải hành động.

Đại sứ Patterson đã thất bại và buộc phải thừa nhận sức mạnh và tầm quan trọng của phe đối lập thế tục chống Morsi và kêu gọi người biểu tình rời khỏi đường phố và hành động trong khuôn khổ hiến pháp Hồi giáo. Patterson có bề dày ủng hộ chế độ độc tài và bạo chúa. Trong thời gian làm Đại sứ tại Pakixtan, bà đã thất bại trong việc ủng hộ lãnh đạo phe đối lập Benazir Bhutto (người trở về nước sau thời gian sống lưu vong, bị thiệt mạng trong vụ ám sát tại thành phố Rawalpindi, ngay sau khi bà này kết thúc bài diễn thuyết trong một cuộc vận động tranh cử). Khi đảm nhiệm cương vị Đại sứ tại Colombia, Patterson đã thúc đẩy “Kế hoạch Colombia”, một chương trình viện trợ quân sự của Mỹ cho lực lượng bán quân sự của Colombia tàn sát hàng trăm dân thường vô tội. Tờ Washington Post, một cơ quan ngôn luận đáng tin cậy của Lầu Năm Góc và CIA, đã gọi Patterson là “bàn tay rắn” tại Bộ Ngoại giao.

Việc Morsi cắt đứt quan hệ với Damascus và công khai sự ủng hộ của mình đối với các phần tử thánh chiến Jihad là quá đủ đối với quân đội Ai Cập. Patterson và nhân vật chủ chốt khác nữa trong Chính quyền Obama là John O. Brennan, Giám đốc Cơ quan tình báo CIA, ủng hộ phong trào Salafis ở Trung Đông, người liên tục thực hiện các cuộc hành hương Hadj đến Mecca khi còn là Trưởng trung tâm tình báo CIA ở thủ đô Riyadh (Arập Xêút), rõ ràng đang cố gắng khắc phục tình hình sau khi Morsi bị lật đổ. Việc một nhân tố chủ chốt như Morsi bị lật đổ cùng Quốc vương Arập Xêút và Cata – những nhà lãnh đạo khu vực chịu ảnh hưởng của chính sách Obama – đã chứng tỏ rằng dù thế tục hay chuyên chế thì giới lãnh đạo Arập đều sẽ bị lật đổ giống như ở Tuynidi, Ai Cập, Libi và Yêmen.

Cộng đồng Shiite ở Trung Đông, tiêu biểu là Iran và Hezbollah; cộng đồng thiểu số người Alawite mà đại diện là Chính quyền Assad và đảng thế tục đối lập Đảng Cộne hòa Nhân dân (CHP) của Thổ Nhĩ Kỳ và lãnh đạo ngưòi Alawite (Alevi) của tổ chức này là Kemal Kililcdaroglu; khối Thiên chúa giáo của khu vực, đại diện là Tổng thống Libăng Michel Suleiman và những nhân vật ủng hộ Assad người Thiên chúa giáo trong nội các Libăng cũng như các nước Ácmênia, Nga, Hy Lạp, Vatican đã nỗ lực chứng minh cho mọi người thấy rằng các phần tử Salafist, trong đó có cả Al-Qaeda, đang cố gắng biến Xyri thành “hoang mạc cát”. Sau khi Obama cho phép cung cấp vũ khí cho lực lượng nổi dậy Xvri (chủ yếu gồm các chiến binh thánh chiến nước ngoài từ Ápganixtan, Irắc, Libi, Xômali và Yêmen), những phần tử không chịu chấp nhận chứng kiến Trung Đông nằm dưới sự lãnh đạo của khói Wahabi Sunni do Cata và Arập Xêút đứng đầu vốn nhận được hậu thuẫn ngầm từ Ixraen và Mỹ, đang bắt đầu hành động. Và quân đội Ai Cập cần phải đi trước một bước.

“Học thuyết Obama” vốn chủ trương kêu gọi ủng hộ chính trị, tài chính để lật đổ các chính quyền thế tục với di sản của chủ nghĩa xã hội toàn Arập, sau đó hỗ trợ quân sự thông qua bên thứ ba giống như NATO và Hội đồng hợp tác vùng Vịnh của các chế độ quân chủ, đã bị chết yểu tại Quảng trường Tahrir trong bối cảnh “Mùa Hè Arập”. Nhiều người dân Ai Cập tổ chức ăn mừng việc Morsi bị lật đổ và tuyên bố họ hy vọng Washington giờ đây sẽ thẳng tay triệu hồi Đại sứ của mình từ Cairo về nước. Đại sứ Patterson từng được các đối thủ của cựu Tổng thống gán cho biệt danh là “bạn gái của Morsi”.

Mặc dù Kemal Kilicdaroglu, lãnh đạo CHP – phe đối lập chính ở Thổ Nhĩ Kỳ – lên án cuộc đảo chính quân sự tại Ai Cập nhưng ngôn từ của ông này mang nhiều sắc thái và có một cảnh báo rõ ràng không chỉ nhằm vào Morsi và chính quyền vừa bị lật đổ của Anh em Hồi giáo, mà còn đối với chính phủ theo định hướng Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ của Thủ tướng Tayyip Erdogan. Lãnh đạo phe đối lập Thổ Nhĩ Kỳ (CHP), người từng chỉ trích sự ủng hộ của Erdogan đối với phiến quân Xyri chống lại Assad và chiến thuật mạnh tay của Erdogan trong việc đàn áp người biểu tình trong nước đã tuyên bố: “Không thể chấp nhận được trong một thế giới ngày nay mà vẫn tồn tại trạng thái vô cảm trước đòi hỏi của người dân, phớt lờ người dân và tuyên bố rằng tôi giành được đa số phiếu bầu và tôi có quyền làm bất cứ điều gì tôi muốn”.

Mặc dù một số chuyên gia phân tích Thổ Nhĩ Kỳ nghi ngờ Erdogan có thể giẫm vào vết xe đổ của Morsi theo kiểu bị đảo chính quân sự, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ không có truyền thống về những kiểu đảo chính và can thiệp như trên nên khả năng Erdogan bị lật đổ hoàn toàn có thể được loại trừ. Tuy nhiên, sự sụp đổ của Morsi đã giáng một đòn mạnh mẽ vào những nỗ lực của Erdogan, Mỹ và các phần tử cấp tiến Sunni trong khi tìm cách lật đổ Tổng thống Assad. Kililcdaroglu đã khiến Erdogan phải đối mặt với các cuộc tấn công liên tục về sự ủng hộ của CHP đối với Assad.

Trong bài phát biểu tại Damascus, Tổng thống Xyri rõ ràng đã được tiếp thêm động lực từ sự sụp đổ của Morsi. Ông Assad phát biểu trên đài truyền thanh Xyri rằng: “Những gì đang xảy ra tại Ai Cập là sự sụp đổ của cái gọi là Hồi giáo chính trị. Sự nổi lên của Hồi giáo chính trị là kết quả trực tiếp từ bài phát biểu tại trường Đại học Cairo của Tổng thống Obama và việc Mỹ bật đèn xanh đối với nền công nghiệp dân chủ của các nhà hoạt động chính trị, kỹ thuật viên mạng lưới xã hội, chuyên gia cố vấn dân chủ, các nhà báo và các chuyên viên chuyên nghiệp gây rối loạn xã hội khác đang tấn công Trung Đông. Bất kỳ nơi nào trên thế giới, bất kỳ ai sử dụng tôn giáo vì mục đích chính trị hay chỉ nhằm phục vụ một số nhóm người nhất định mà không phải là dành cho đa số thì sẽ bị sụp đổ. Bạn không thể đánh lừa tất cả mọi người mọi lúc được, hãy để chính người dân Ai Cập, những người sở hữu nền văn minh cổ đại hàng nghìn năm, những người biết rõ ràng mọi điều tự quyết định vận mệnh cho chính họ”. Bài phát biểu của Assad không chỉ nhằm trực tiếp vào số quan chức Anh em Hồi giáo ở Xyri mà còn hướng đến những nhân vật lãnh đạo của các quốc gia vùng Vịnh, đặc biệt là Quốc vương mới của Cata Sheikh Tamim bin Hamad AI Thani, một thành viên Anh em Hồi giáo từng tài trợ tài chính cho các phiến quân Salafi ở Xyri và những khu vực khác. Mặc dù Sheikh Tamim đã gửi lời chúc mừng đến Tổng thống lâm thời Ai Cập Adli Mansour nhưng đài truyền hình AI Jazeera thuộc sở hữu của Cata đã bị chính phủ mới của Ai Cập ra lệnh đóng cửa đầu tiên. Đây là hãng truyền thông đã và đang tiếp sức cho các phần tử nổi dậy cực đoan Sunni trên toàn thế giới. Ngoài ra, các đài truyền hình của Anh em Hồi giáo và Salafi tại Ai Cập cũng bị đóng cửa.

Chính phủ lâm thời mới của Ai Cập là nguồn động viên khích lệ mới đối với Assad, lực lượng Hezbollah ở Libăng và phe đối lập thế tục của Thổ Nhĩ Kỳ để có thêm động lực giành chiến thắng chống lại các phần tử âm mưu muốn kéo giật lùi Trung Đông trở về thế kỷ 13. Học thuyết Obama đã bị phá sản tại Quảng trường Tahrir. Trong khi Mỹ kỷ niệm ngày Quốc khánh 4/7 thì người dân Ai Cập cũng kỷ niệm ngày giành độc lập từ một chính quyền là sản phẩm ngầm của các nhà hoạch định chính sách Mỹ./.




Hứa hẹn của Mùa Xuân Á Rập Bauxite Việt Nam
Sheri BernardForeign Affairs, January/March 2013
Trần Ngọc Cư dịch
 (Trong phát triển chính trị, không thành quả nào mà không gian khổ)
Người ta dễ dàng cảm thấy bi quan về Mùa Xuân Á Rập, nếu chỉ nhìn vào tình trạng nhiễu nhương hậu cách mạng mà vùng Trung Đông đang trải qua. Nhưng các người chỉ trích quên rằng các nền dân chủ mới mẻ cần phải có thời gian để vượt qua quá khứ độc tài của chúng. Như lịch sử phát triển chính trị tại các nơi khác cho thấy, nhất định tình hình sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
 SHERI BERNARD là Giáo sư Khoa Chính trị tại Barnard College, Đại học Columbia, Hoa Kỳ.
                                                                              Foreign Affairs

Chỉ trong vòng hai năm tiếp theo sau sự bộc phát của cái gọi là Mùa Xuân Á Rập, nụ hồng đã vội hết thời xuân sắc. Các chế độ dân chủ non trẻ tại Bắc Phi đang phấn đấu vất vả để tiến lên hay thậm chí để giữ được quyền kiểm soát, những cuộc đàn áp của chính phủ tại vùng Vịnh Ba Tư và những nơi khác đã chặn đứng tiến trình tự do hóa, và Syria ngày càng lún sâu vào một cuộc nội chiến ác liệt đang đe dọa châm ngòi toàn khu vực Trung Đông. Thay vì có một sự hân hoan đều khắp về sự kiện thể chế dân chủ cuối cùng đã đến với vùng này, bây giờ người ta lại nghe trỗi lên chủ nghĩa bi quan về nhiều trở ngại trên con đường tiến tới dân chủ, nỗi sợ hãi về những gì sắp xảy ra, và thậm chí cả lòng hoài cổ công khai về trật tự của chế độ độc tài trước đây. Tháng Sáu vừa qua, khi quân đội Ai Cập giải tán Quốc hội và cố đẩy lùi lịch sử bằng cách phá rỗng chế độ tổng thống dân sự, nhà bình luận đối ngoại chính của tờ The Wall Street Journal đã nửa đùa nửa thật, “Ta hãy hy vọng chế độ dân sự này có thể vận hành tốt” (Thật ra nó không được như vậy). Và âm mưu giành quyền lực [từ tay quân đội] của Tổng thống Ai Cập Mohamed Morsi vào tháng Mười một đã làm cho việc tiếc nuối chế độ cũ trở nên bình thường. 
Mặc dù chủ nghĩa hoài nghi này là điều có thể đoán được, nhưng nó cũng sai lầm không kém. Mỗi đợt dân chủ hóa trong thế kỷ vừa qua – sau Thế Chiến I, sau Thế Chiến II, trong cái gọi là làn sóng dân chủ thứ ba vào những thập niên gần đây – đều được tiếp nối bằng một giai đoạn thoái trào, đi kèm với một thái độ hoài nghi phổ biến về khả năng phát triển và thậm chí cả sự đáng được thèm muốn của việc quản trị quốc gia theo đường lối dân chủ tại các vùng liên hệ. Ngay sau khi tiến bộ chính trị khựng lại, một phản ứng bảo thủ liền diễn ra, trong khi các người chỉ trích lên tiếng ta thán về tình trạng nhiễu nhương của thời đại mới và tiếc nuối tình trạng được cho là ổn định và an ninh của kỷ nguyên độc tài trước đó. Người ta hy vọng rằng trình độ dân chúng ngày nay sẽ khá hơn – rằng họ sẽ hiểu rằng phát triển chính trị thật ra là như thế đấy, hiện nay cũng như trong quá khứ, ở phương Tây cũng như tại Trung Đông, và rằng con đường duy nhất trước mặt là phải lao tới tương lai chứ không quay đầu trở lại quá khứ. 
Sai lầm đầu tiên mà các người chỉ trích vấp phải là, họ coi các chế độ dân chủ mới mẻ như những tấm bảng chưa hề được viết lên, bất chấp những động lực và vận mệnh được thừa hưởng hơn là được lựa chọn. Tình trạng nhiễu nhương, bạo động, và tham nhũng được họ coi như là bằng chứng của sự rối loạn chức năng có sẵn trong bản thân của thể chế dân chủ, hay của sự ấu trĩ hoặc phi lý của một khối dân chúng đặc thù, chứ không phải là những căn bệnh của chế độ độc tài trước đó. Bởi vì các chế độ độc tài vốn không có chính nghĩa trước nhân dân, chúng thường dùng thủ đoạn để vận dụng và đào sâu hố ngăn cách trong xã hội nhằm chia rẽ các thành phần có tiềm năng chống đối và tạo hậu thuẫn cho chúng từ các nhóm được ưu đãi. Vì thế khi tiến trình dân chủ hóa diễn ra, mối nghi kỵ và thù ghét lẫn nhau bị dồn nén lâu ngày thường bùng nổ. Và vì các chế độ độc tài cai trị bằng mệnh mệnh chứ không phải bằng sự đồng thuận, chúng đàn áp các thành phần bất đồng chính kiến và ngăn chặn việc thành lập các cơ chế chính trị và xã hội nhằm giúp người dân phát biểu và thể hiện đòi hỏi của mình một cách bình thường. Do đó, người dân trong các chế độ dân chủ mới mẻ thường bày tỏ những bất bình của mình một cách tùy tiện và thiếu tổ chức, bằng một mạng lưới choáng ngợp gồm nhiều đảng phái, bằng luận điệu và hành động cực đoan, bằng các cuộc xuống đường và thậm chí đánh nhau. 
Tất cả những động cơ này đã biểu hiện tiếp theo sau Mùa Xuân Ả Rập. Tại Ai Cập, chẳng hạn, các chế độ Anwar al-Sadat và Hosni Mubarak trước đó đã không cho phép các chính đảng có thực chất hay các tổ chức dân sự độc lập phát triển; sự kiện này giúp ta hiểu được tại sao Hồi giáo (Islamism) là lực lượng chính trị có quá nhiều ưu thế hiện nay. Trước đây, các tổ chức tôn giáo vốn đã nằm trong số những diễn đàn duy nhất, qua đó người dân trung bình có thể bày tỏ nguyện vọng hay tích cực tham gia các sinh hoạt trong cộng đồng của họ. Vì thế khi Mubarak bị lật đổ và sự chuyển đổi chính trị diễn ra, thì chỉ một mình các lãnh đạo Hội giáo có sẵn cơ sở hạ tầng để huy động hậu thuẫn một cách hiệu quả. Tình trạng kém phát triển của các tổ chức xã hội dân sự và chính trị, vì thế, có nghĩa là một khi chế độ độc tài tan rã, sẽ không mấy cơ chế có đủ khả năng nói lên những bất bình của người dân, huống hồ đáp ứng được chúng. Điều này giải thích sự thiếu vắng các đảng phái phi-Hồi giáo có thực lực hiện nay và giúp ta hiểu được khuynh hướng xuống đường của người Ai Cập để bày tỏ những đòi hỏi và nỗi bất bình của mình. Nước cờ của Tổng thống Morsi vào tháng Mười một vừa qua, nhằm tránh né việc duyệt xét tính hợp hiến (judicial review) của các sắc lệnh mà ông đưa ra, phản ánh sự hoài nghi rộng lớn trong khối Hồi giáo đối với hệ thống toà án Ai Cập, một phần vì thiếu một chế độ pháp trị đáng tin cậy trong thời đại Mubarak, cũng như tình trạng các lực lượng chống Mubarak hiện không thể hợp tác với nhau phản ánh lịch sử phân hóa tai hại của họ dưới chế độ độc tài trước đây. Như Ahmed Mekky, Bộ trưởng Tư pháp, đã nói đến cuộc tranh cải về việc duyệt xét tính hợp hiến nói trên như sau: “Tôi qui trách nhiệm cho cả nước Ai Cập, bởi vì họ không biết cách đối thoại với nhau” – nhưng đây chính là ý đồ của Mubarak. 
Những chuyện tương tự như vậy được nói về các chế độ độc tài Trung Đông khác. Tại Iraq, Saddam Hussein đã cố tình tạo nhiều mâu thuẫn trực tiếp giữa các bộ phận dân chúng khác nhau như một phương cách để ràng buộc một số nhóm lợi ích nhất định vào chế độ, đồng thời làm suy yếu bất cứ tiềm năng chống đối nào. Lề thói này, cùng với việc chế độ hoàn toàn dẹp bỏ các sinh hoạt chính trị và xã hội công dân bình thường, có nghĩa là Iraq sẵn sàng rơi vào tình trạng bạo loạn một khi chế độ Saddam sụp đổ – một tiến trình mà chính Mỹ cũng thúc đẩy bằng cách không chịu giúp đỡ để Iraq có được một trật tự mới hữu hiệu nhằm thay thế trật tự cũ. Tại Lybia, Muammar al-Qaddafi đã cai trị bằng một chế độ độc tài cá nhân quái gở, một chế độ độc tài đã làm cho đất nước ông trở thành hoàn toàn không có guồng máy nhà nước (stateless) sau khi ông bị lật đổ, khiến chính phủ mới tại Tripoli phải rất vất vả trong nỗ lực thiết lập trật tự khắp lãnh thổ của mình. Và tạiSyria, chế độ độc tài của gia đình Assad đã dành đặc ân cho nhóm thiểu số Alawite, bất chấp quyền lợi của các cộng đồng khác, tạo điều kiện cho sự tranh chấp phe phái khi chế độ Assad tan rã. 
Ngoài việc gán cho các chế độ dân chủ mới mẻ những thứ tội của các chế độ độc tài đi trước, những người chỉ trích còn đặt ra những tiêu chuẩn thành công ở một nấc cao đến độ phi lý, hoàn toàn không có trong lịch sử. Họ giải thích tình trạng bạo động, nạn tham nhũng, sự hỗn loạn và bất lực, tiếp theo cuộc chuyển đổi chính trị, như là những dấu hiệu cho thấy một số quốc gia đặc thù (hay thậm chí toàn bộ một khu vực hoặc tôn giáo đặc thù) là không sẵn sàng chấp nhận dân chủ, như thể các thời kỳ quá độ dân chủ bình thường sẽ êm ả dẫn thẳng đến các thành tựu tự do ổn định và như thể các nước vấp ngã trên con đường tiến tới dân chủ nhất định đã mang trong mình một cái gì sai hỏng. Thật ra, chế độ dân chủ tự do ổn định thường thường chỉ xuất hiện sau các cuộc đấu tranh bạo động lâu dài, đầy những quanh co khúc khuỷu, những khởi động giả hiệu, và những con đường vòng. 
Hơn nữa, những vấn đề này không phải là một khuyết tật kỹ thuật, mà là một đặc điểm của tiến trình – không phải là những dấu hiệu cho thấy các vấn đề gắn liền với thể chế dân chủ, mà là bằng chứng cho thấy tiến trình khó khăn phức tạp của sự nghiệp phát triển chính trị, qua đó các xã hội gột rửa các tàn tích của chế độ độc tài và xây dựng các trật tự dân chủ mới mẻ và tốt đẹp hơn. Thể chế dân chủ tự do ổn định không những chỉ đòi thay đổi chế độ chính trị, mà còn đòi hỏi phải loại bỏ những di sản xã hội, văn hóa, và kinh tế của chế độ cũ. Một tiến trình này cần đến nhiều thời gian và nỗ lực, qua nhiều cuộc thử nghiệm. Lịch sử cho thấy, hầu hết các cuộc chuyển đổi chính trị ban đầu mới chỉ là bước khởi đầu chứ không phải là giai đoạn kết thúc của tiến trình dân chủ hóa – đây là điều mà lịch sử đau thương của các nền dân chủ trưởng thành của thế giới ngày nay đã chứng minh. 
NHỮNG BÀI HỌC CỦA NƯỚC PHÁP 
Hãy lấy nước Pháp làm ví dụ. Cũng như Mùa Xuân Ả Rập và các đợt dân chủ hóa toàn cầu khác gần đây, sự sụp đổ của chế độ độc tài cha truyền con nối tại Pháp năm 1789 được giới quan sát trên địa cầu hân hoan chào đón. Trong tác phẩm The Prelude (Khúc dạo đầu), William Wordsworth đã nhớ lại thời điểm này như là lúc mà toàn châu Âu “bồi hồi sung sướng/ Nước Pháp đứng trên đỉnh cao của giờ phút huy hoàng/ Và tính người như được tái sinh”. Nhưng mặc dù thế giới có thái độ lạc quan ban đầu, cuộc chuyển đổi chính trị đã nhanh chóng chệch hướng. Năm 1791, với sự tuyên bố thành lập chế độ quân chủ lập hiến, nước Pháp đã thực hiện thí nghiệm đầu tiên để tạo ra một trật tự chính trị mới, nhưng chế độ chính trị ôn hòa này đã bị cả phe phản động lẫn phe cực đoan bác bỏ. Chẳng bao lâu, phe cực đoan thắng thế, và vào năm 1793, họ hành quyết nhà vua và tuyên bố một nền cộng hoà với quyền bầu phiếu phổ thông, đồng thời cam kết tôn trọng một loạt quyền công dân và quyền chính trị rộng rãi. Sau đó, nền dân chủ hiện đại đầu tiên này của châu Âu nhanh chóng suy sụp và trở thành cái gọi là Triều đại Khủng bố (the Reign of Terror), trong đó vào khoảng từ 20.000 đến 40.000 người đã bị xử tử vì những hoạt động “phản cách mạng”. 
Lý thuyết gia chính trị Anh Edmund Burke chỉ là một nhà phê bình bảo thủ nổi tiếng nhất đã tranh luận rằng những kinh nghiệm lịch sử này cho thấy các hiểm họa của việc thay đổi chính trị một cách cực đoan và sự cần thiết phải có một giới tinh anh và các định chế chính trị để kềm hãm sự cuồng nhiệt của quần chúng. Nhưng Burke và các nhà phê bình khác đã sai lầm. Xung đột và bạo loạn tiếp theo sau Cách mạng Pháp không phải là hậu quả tất yếu của bản thân thể chế dân chủ hay của sự thiếu chín chắn về phía quần chúng Pháp; nói đúng ra, chúng phát xuất từ đường lối cai trị của chế độ độc tài trước đó. Chế độ cũ đã dựa vào một liên minh giữa nhà vua và một bộ phận rất nhỏ bé trong xã hội, chủ yếu là giới quí tộc. Để nắm được hậu thuẫn của các nhà quí tộc này, các vua Pháp đã mua chuộc họ bằng các đặc quyền đặc lợi tài chánh, gồm có lương hưu, chế độ bảo trợ [chế độ ô dù], cách đối xử đặc biệt về pháp lý, khả năng tiếp cận các cơ hội thương mại béo bở, và được miễn thuế. Hệ thống này đã cho phép dòng họ Bourbons ổn định được tình hình đất nước và bắt đầu công cuộc xây dựng một nhà nước hiện đại trung ương tập quyền. Nhưng nó tạo ra một cảm thức phổ biến trong dân chúng rằng giới quí tộc Pháp là một tầng lớp ăn bám đã rút tỉa nguồn lực quốc gia đồng thời bóc lột giới nông dân. Nói tóm lại, chế độ cũ đã tựa lên một cơ sở xã hội cực kỳ nhỏ bé, với nhà vua và giới quí tộc được gắn chặt trong một liên minh thiếu lành mạnh, một liên minh đã tạo ra sự oán ghét và xung đột giữa các tầng lớp hạ lưu và các bộ phận được ưu đãi trong xã hội. Như học giả Hilton Root nhận định, sự kiện này đã đưa đến một “xã hội bị phân hóa thành những nhóm khép kín, chỉ biết đến mình thôi” – và các thành viên của những nhóm này, như Alexis de Tocqueville trích lời một vị trong những bộ trưởng của Louis XVI, đã “không mấy liên hệ với nhau, khiến cho mỗi người chỉ nghĩ đến lợi ích riêng tư của mình, và không có một mảy may quan tâm nào đối với phúc lợi công cộng”. 
Vào nửa sau của Thế kỷ XVIII, phần lớn vì những cuộc chiến tranh tốn kém và thất bại nặng nề, nhà nước Pháp gặp phải vấn đề tài chính rất nghiêm trọng. Không muốn tăng thuế trên giới giàu có vốn được ưu đãi, chế độ phải dùng đến biện pháp vay mượn ngày càng nhiều, và vào thập niên 1780, gánh nặng nợ nần trở nên không còn chịu đựng được nữa. Vào thời điểm nhà vua rốt cuộc bị buộc phải triệu tập một quốc dân đại hội vào năm 1789 để cố gắng đối phó những vấn đề của đất nước, những xung đột vốn đã âm ỉ lâu ngày ở bên trong và ở giữa các phe nhóm xã hội-kinh tế bùng nổ công khai, và nước Pháp được đặt vào con đường dẫn đến cách mạng và tình trạng xáo trộn hậu cách mạng. 
Nếu thử nghiệm dân chủ đầu tiên của nước Pháp có thất bại đi nữa, nó cũng đã đóng góp sâu sắc cho việc hình thành sau cùng một chế độ dân chủ tự do ổn định. Về mặt kinh tế, cuộc cách mạng Pháp đã thay thế hệ thống bảo trợ [chế độ ô dù] dựa trên các tôn ti trật tự phong kiến giả hiệu bằng một hệ thống thị trường đặt cơ sở trên quyền tư hữu tài sản và quyền bình đẳng trước pháp luật. Về mặt xã hội, nó đã thay thế một xã hội được cấu trúc bởi những nhóm cha truyền con nối có chức năng khác nhau (quí tộc, nông dân, v.v.) bằng một quốc gia gồm có những công dân bình đẳng. Về mặt chính trị, nó đã thay đổi thái độ của người dân đối với quyền công dân, các quyền khác, và việc quản trị đất nước hợp pháp. Và cuộc cách mạng này đã nhanh chóng tăng tốc tiến trình hiện đại hóa quốc gia, thay thế một mớ hỗn độn những sắp xếp địa phương và các thái ấp bằng một hệ thống thư lại quốc gia và hệ thống thuế khóa quốc gia. Nói tóm lại, cuộc cách mạng Pháp và hậu quả của nó đã trở thành những bước quan trọng đầu tiên trong một cuộc đấu tranh kéo dài một thế kỷ rưỡi để loại bỏ chế độ cũ và thay vào đó bằng một cái gì tốt đẹp hơn và dân chủ hơn. 
TRƯỜNG HỢP NƯỚC Ý 
Trong khi đó, nước Ý chỉ bắt đầu dân chủ hóa trước Thế chiến I. Chế độ mới bị băng hoại vì xung đột xã hội và bất ổn chính trị ngay từ ban đầu, và những vấn đề này bị hậu quả khó khăn của chiến tranh làm cho tồi tệ thêm. Vào thời kỳ 1919-1920, khoảng 1,3 triệu công nhân nhà máy tại các thành thị rời bỏ công việc và tuyên bố rằng chính họ chứ không phải giới chủ và giới quản lý đang trông coi nhà máy. Tình hình ở các vùng quê có lẽ còn hỗn loạn hơn khi nông dân và các công nhân nông nghiệp chiếm giữ tài sản vắng người hay khiếm dụng và các đại địa chủ phải phản ứng bằng cách thuê mướn các đội dân quân tư nhân (private militia) để chặn đứng giới nông dân và các công nhân nông nghiệp nổi loạn. Hai đảng chính trị lớn nhất nước, một đại diện cho Công giáo và một đại diện cho Xã hội chủ nghĩa, không thể hoặc không muốn hợp tác với nhau hay có cam kết rõ ràng đối với thể chế dân chủ, khiến việc xây dựng các chính phủ hữu hiệu ổn định không thể thực hiện được. Nhiều người dân Ý nhanh chóng đâm ra chán ngán với cuộc xung đột thườngxuyên và tình trạng bất ổn chính trị, rồi qui trách nhiệm cho bản thân thể chế dân chủ về những vấn đề của đất nước. Và vào tháng Mười 1922, những chính trị gia phản dân chủ giành được những gì mà họ mong muốn khi vua Ý, được các nhà chính trị bảo thủ thúc đẩy, chấm dứt cuộc thí nghiệm dân chủ và giao vận mệnh đất nước cho nhà lãnh đạo năng động của cánh hữu cực đoan, đó là Benito Mussolini. 
Cuộc chuyển đổi qua chủ nghĩa phát-xít được nhiều người cả bên trong lẫn bên ngoài nước Ý ca ngợi vì họ tin rằng chế độ độc tài cung ứng một cơ may tốt đẹp hơn để tạo ra tình trạng ổn định và phát triển mà đất nước đang khao khát. Những năm cầm quyền đầu tiên của Mussolini chỉ một mực gia tăng tiếng tăm của ông và sự ca ngợi của dân chúng dành cho ông. Nhưng sự sùng bái này đã đặt không đúng chỗ. Chế độ dân chủ ngắn ngủi trước đó là hấp dẫn hơn chế độ phát-xít tiếp theo; hơn nữa, những vấn đề của thời kỳ dân chủ phần lớn được tạo ra bởi chế độ phi dân chủ trước đó, một chế độ đã cố tình chia rẽ và dùng thủ đoạn để thao túng dân chúng Ý, đồng thời không cho phép họ thường xuyên bày tỏ những nguyện vọng và bất bình của mình. 
Chỉ một vài thập kỷ trước đó, bán đảo Ý gồm có nhiều quốc gia riêng biệt với lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội, và văn hóa khác nhau. Vì mạng lưới giao thông nghèo nàn và vì thiếu một ngôn ngữ chung, nên hầu hết dân chúng trong khu vực này không mấy hiểu biết và quan tâm đến nhau. Việc thống nhất lãnh thổ diễn ra vào thập niên 1860 không phải là kết quả của một cuộc nổi dậy của quần chúng, mà là do các quyết sách từ trên, được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo của Piedmont, quốc gia hùng mạnh nhất trên bán đảo. Người Piedmont chủ yếu áp đặt những gì có thể gọi là một hệ thống chính trị ngoại bang (hệ thống của họ) trên phần còn lại của khu vực. Do đó, quốc gia Ý mới mẻ này gặp sự chống đối lập tức –từ các cộng đồng tự cảm thấy mình đã trở thành thuộc địa, bị người Piedmont bóc lột, và từ Giáo hội Công giáo vì họ bác bỏ ý niệm một chính quyền thế tục vượt lên trên giáo hội quản trị đời sống của người dân Ý. 
Thiếu khả năng và có lẽ không muốn gầy dựng hậu thuẫn từ phía quần chúng, tầng lớp chính trị chóp bu của Ý cai trị đất nước mới mẻ này xuyên qua một hệ thống được mệnh danh là trasformismo (chính phủ liên hiệp cánh giữa), bằng cách kết nạp một số nhóm được ưu đãi nhất định vào trật tự chính trị xuyên qua hệ thống bảo trợ [chế độ ô dù]. Bậc thầy đã sử dụng đường lối này là Giovani Giolitti, vị Thủ tướng Ý ở vào nhiều thời điểm khác nhau từ năm 1892 đến năm 1921, một chính trị gia đã bằng cách gia hạn hoặc trì hoãn sự bảo trợ của nhà nước và bằng cách dùng các hợp đồng ở hậu trường để tưởng tưởng hoặc trừng phạt các nhóm cử tri chủ chốt [Dưới thời Giolitti, toàn nước Ý chỉ có 2 triệu đàn ông có quyền bầu cử và bị khống chế bởi giới đại địa chủ, ND]. Nói cách khác, nạn tham nhũng được cơ chế hoá (institutionalized corruption) đã nằm sẵn trong lòng nhà nước non trẻ của Ý từ những ngày đầu, một sự kiện đã để lại những hậu quả nghiêm trọng cho sự nghiệp phát triển chính trị của đất nước về sau. 
Vì các định chế chính thức của nền chính trị nước Ý vào cuối Thế kỷ 19 và đầu Thế kỷ 20 – gồm các cuộc tuyển cử và quốc hội – rõ ràng không phải là trọng tài đích thực cho quyền lực chính trị, nhiều phe nhóm trong xã hội Ý không còn quan tâm đến chúng và bắt đầu thành hình ngoài các định chế hay thậm chí chống lại chúng. Ngoài ra, việc độc đoán loại trừ một số nhóm nhất định ra khỏi hành lang quyền lực đã tạo phẫn nộ và thất vọng. Và vì hệ thống chính trị không đáp ứng những quan tâm và đòi hỏi của dân chúng, những chia rẽ trong xã hội Ý đã không được giải quyết một cách nhất quán hay có hiệu quả. 
Tất cả điều này có nghĩa là, khi một sự chuyển đổi hoàn toàn qua chế độ dân chủ cuối cùng xảy ra, chế độ mới được khai sinh với hàng loạt vấn đề tồn đọng. Nói cách khác, tình trạng hỗn loạn, xung đột, và bạo động vốn làm băng hoại nước Ý trước khi Mussolini lên nắm chính quyền được gây ra không phải bởi quá nhiều dân chủ (như những người chỉ trích rêu rao) nhưng bởi quá ít dân chủ trước đó. Thời kỳ phát-xít là một bước thụt lùi chứ không phải là một bước đi tới, và khi chế độ dân chủ Ý được phục hồi sau Thế chiến II, nó đã thừa hưởng những lợi ích từ tiến trình thử nghiệm và lại tiếp tục phát triển từ nơi mà cuộc thí nghiệm dân chủ trước đây bị dang dở. 
MÔ HÌNH ĐỨC 
Nước Đức bắt đầu dân chủ hóa cùng với làn sóng dân chủ tràn qua châu Âu sau Thế chiến I, và từ buổi khai sinh, Cộng hòa Weimar non trẻ cũng bị đè nặng bởi những vấn đề như xung đột xã hội, bất ổn chính trị, và chủ nghĩa cực đoan [Cộng hòa Weimar là tên gọi các nhà sử học dùng để chỉ cộng hòa liên bang và thể chế dân chủ đại nghị được thiết lập năm 1919 để thay thế chính phủ đế chế, ND]. Nội trong vài tháng sau khi nền cộng hòa được thành lập, Cộng sản địa phương đã tuyên bố khai sinh một cộng hoà Xô-viết tại Bavaria, nhưng nó liền bị lật đổ bởi quân tình nguyện Freikorps, vốn là những đơn vị dân quân của cánh hữu, phần lớn nằm ngoài sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Sau đó Freikorps tiếp tục các cuộc tàn phá, nhúng tay vào các vụ ám sát và biểu tình bạo động, để rồi cuối cùng hậu thuẫn một cuộc đảo chánh hụt năm 1920; những cuộc nổi dậy cánh hữu khác, gồm có cuộc Đảo chánh Beer Hall (Beer Hall Putsch) thất bại nhục nhã của Hitler vào năm 1923, tiếp theo đó, và cả những cuộc nổi dậy của cánh tả [Beer Hall là nơi công chúng tụ tập uống bia và cũng là nơi các chính khách thường đăng đàn diễn thuyết, ND]. Và tình hình nghiêm trọng hơn cả là việc vào năm 1923 Chính phủ Đức không trả nỗi các khoản nợ bồi thường chiến tranh đã khiến Bỉ và Pháp giành quyền kiểm soát vùng Ruhr, nhanh chóng đưa đến nạn Đại Lạm phát (the Great Inflation) – rốt cuộc xóa bỏ các giai cấp trung lưu Đức và càng làm cho Chính phủ và các cơ chế chính trị chủ lưu (mainstream) khác mất thêm chính nghĩa. Một mức độ ổn định nào đó thực sự đã diễn ra vào cuối thập niên 1920, nhưng nước cộng hòa này chưa kịp thở lấy sức thì đã bị cuộc Đại Khủng hoảng Kinh tế vùi dập. Những lực lượng chính trị chủ lưu chao đảo trước thảm họa kinh tế chính trị đang lù lù xuất hiện, những phần tử cực đoan thắng thế, và vào mùa Thu năm 1932, Đảng Quốc Xã trở thành đảng lớn nhất nước, đã vận động tranh cử bằng chương trình hành động kết hợp những mũi tấn công vào thể chế dân chủ với những hứa hẹn giải quyết các vấn đề của chủ nghĩa tư bản, đồng thời hàn gắn những phân hóa xã hội của Đức. Tháng Hai 1933, Hitler được trao ghế Thủ tướng, và cuộc thử nghiệm dân chủ tại Đức kết thúc. 
Chẳng mấy ai có đủ lý do để tin chắc rằng thế giới Ả Rập sẽ mãi mãi là một ngoại lệ của những qui luật phát triển chính trị. Phản ánh những sợ hãi và phân tích bi quan của Burke và những học giả khác, hàng loạt các nhà phê bình bảo thủ cho rằng Cộng hòa Weimar và các thử nghiệm dân chủ thất bại khác giữa hai cuộc Thế chiến chứng tỏ rằng thể chế dân chủ và sự tham gia của đại chúng vào các sinh hoạt chính trị không sớm thì muộn thường đưa đến thảm họa. Họ cho rằng chỉ có những hệ thống chính trị độc tài được cai trị bởi một nhà lãnh đạo cứng rắn mới bảo đảm được kỹ cương và chặn đứng được tranh chấp xã hội, bất ổn chính trị và suy đồi đạo lý. Nhưng một lần nữa, những nhà phê bình này lại sai lầm. Số phận của Cộng hòa Weimar ít có liên hệ với bất cứ vấn đề nội tại nào trong thể chế dân chủ hay điều mà nhà văn Tây Ban Nha José Ortega gọi là “con người quần chúng” (mass man); nó có nhiều liên hệ hơn với di sản bi thảm của chủ nghĩa độc tài Đức trước đó. 
Nước Đức hiện đại xuất hiện vào nửa sau của Thế kỷ 19, được thống nhất do quyết định từ trên, dưới sự bảo trợ của bang mạnh nhất của nó, đó là nước Phổ (Prussia) bảo thủ và quân phiệt. Chính phủ được điều hành bởi một thủ tướng chịu trách nhiệm trước một vị vua cha truyền con nối (the kaiser) chứ không chịu trách nhiệm với đại chúng; có hai viện lập pháp, thượng viện bị giới bảo thủ Phổ khống chế và hạ viện được bầu chọn theo chế độ bầu cử phổ thông (universal suffrage). Thủ tướng không cần đến hậu thuẫn của dân chúng để nắm quyền hành, nhưng cần hậu thuẫn này để thông qua các đạo luật quan trọng. Chế độ độc tài mềm dẻo hoặc hỗn hợp này đã mạnh mẽ khích lệ các nhà lãnh đạo dùng thủ đoạn chính trị để đạt được những gì họ mong muốn đồng thời làm các thành phần đối lập ở vào thế chông chênh chỉ biết phòng ngự. Otto von Bismark, ngồi ở chức vụ thủ tướng gần hai thập kỷ, là một bậc thầy về hành động quân bình lực lượng này. Một mặt, Bismark tạo ra một liên minh bảo thủ, phản dân chủ, gồm giới địa chủ quí tộc rộng lớn và các nhà công nghiệp nặng; mặt khác, ông chia rẽ, đàn áp, và bôi nhọ các đối thủ Công giáo và Xã hội chủ nghĩa, đồng thời đào sâu hố chia rẽ khắp nước. Chính sách “kẻ thù của quốc gia” do Bismark đưa ra cũng để lại ảnh hưởng độc hại lên chủ nghĩa dân tộc Đức, tạo ra một quan niệm cho rằng nước Đức đang đối đầu với những đe dọa từ bên trong lẫn bên ngoài. 
Hậu quả là một nước Đức thống nhất về mặt chính trị nhưng ngày càng phân hóa về mặt xã hội, với một tinh thần dân tộc chủ nghĩa lệch lạc, một đầu óc đa nghi về thù trong giặc ngoài, và mức độ thất vọng và cực đoan ngày càng gia tăng (vì chính phủ phi dân chủ này tỏ ra không đủ sức và không muốn đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi của dân chúng). Vì thế, khi một cuộc chuyển đổi trọn vẹn qua thể chế dân chủ cuối cùng đã diễn ra tiếp theo sau sự thất trận của Đức năm 1918, chế độ mới đã thừa kế nhiều di sản băng hoại từ chế độ độc tài trước đó, kể cả việc cố tình ngụy tạo trách nhiệm về chiến bại của Đức và tất cả các hậu quả chính trị, kinh tế và tâm lý phát xuất từ đó. 
Tại Đức, cũng như tại Pháp và Ý, thậm chí dù cuộc thử nghiệm dân chủ hóa đầu tiên có thất bại thảm hại đi nữa, nó vẫn để lại những hậu quả tích cực quan trọng về lâu về dài. Khoảng một thế hệ sau, khi dân chủ có một cơ hội thứ hai, người ta sẽ xây dựng lên đó nhiều cơ chế mới, và mọi thứ, từ đảng phái chính trị đến chính quyền quốc gia và địa phương đến các tổ chức xã hội công dân, đều được hồi phục từ đống tro tàn. Kinh nghiệm của Cộng hòa Weimar giúp các lãnh đạo chính trị về sau đảm bảo rằng những sai lầm trong lịch sử sẽ không được lặp lại, với những bài học có ảnh hưởng tốt đẹp lên việc soạn thảo các bản hiến pháp, lên việc tổ chức các nhà nước phúc lợi (welfare states), cơ cấu các quan hệ giữa công ty và nhân viên, và hành vi chính trị nói chung. Giai đoạn giữa hai cuộc Thế chiến và hậu quả của nó hóa ra không phải là một bước vòng vo của lịch sử, mà là một giai đoạn quan trọng trong cuộc tranh đấu về lâu về dài của châu Âu để xây dựng các chế độ dân chủ tự do ổn định. 
TÌNH HÌNH SẼ TỐT ĐẸP HƠN 
Những trường hợp trên có gì để nói về Mùa Xuân Á Rập? Chúng cho ta thấy rằng những vấn đề đang biểu hiện rất rõ nét tại Ai Cập và các nước đang chuyển mình khác trong thế giới ngày nay là hoàn toàn bình thường và có thể tiên đoán được, rằng những vấn đề này chủ yếu là lỗi lầm của các chế độ độc tài trước đó chứ không phải là do các tác nhân dân chủ mới mẻ, và rằng sự cáo chung của chủ nghĩa độc tài và việc thử nghiệm chế độ dân chủ chắc chắn về sau sẽ được nhìn nhận là những bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển chính trị tại những nước này, cho dù tình hình có trở nên tồi tệ trước khi rốt cuộc lại trở nên tốt đẹp hơn. 
Hầu hết các nước dân chủ tự do ổn định hiện nay đều đã kinh qua một thời gian rất khó khăn mới được như vậy. Thậm chí cả những trường hợp thường được đề cao như những tấm gương dân chủ hóa sớm sủa và dễ dàng, như Anh và Mỹ, cũng kinh qua nhiều vấn đề hơn người ta thường nhớ, với những cuộc nội chiến trên qui mô lớn diễn ra trên con đường tiến tới dân chủ. Giống như những vấn đề này không có nghĩa là thể chế dân chủ là sai lầm hay không thể thực hiện đối với Bắc Mỹ hay châu Âu, những vấn đề của các nước dân chủ Ả Rập non trẻ cũng không có nghĩa là thể chế dân chủ là sai lầm hay không thể xảy ra đối với Trung Đông. Xưa cũng như nay, hầu hết các vấn đề mà những nước dân chủ phải đương đầu là được thừa kế từ các chế độ trước đó. Thể chế dân chủ không nhất thiết tạo ra hay làm trầm trọng thêm sự tranh chấp và nỗi thất vọng của cộng đồng và xã hội, nhưng nó cho phép thái độ hoài nghi và nỗi niềm cay đắng mà người dân chất chứa dưới các chế độ độc tài có cơ hội bộc lộ, thường thường với những hậu quả đáng tiếc. Nhưng việc tiếc nuối sự ổn định dưới chế độ độc tài quả là một phản ứng sai lầm, vì chính những căn bệnh có sẵn trong chủ nghĩa độc tài vốn đã giúp tạo ra những vấn đề tiềm ẩn này từ đâu. 
Lịch sử cho chúng ta biết rằng các xã hội không thể vượt qua những vấn đề này trừ phi và cho đến bao giờ họ đối đầu trực tiếp với chúng. Việc lật đổ một chế độ độc tài đã trụ được một thời gian lâu dài không phải là điểm kết thúc của tiến trình dân chủ hóa nhưng mới chỉ là bước khởi đầu. Thậm chí cả những cuộc thử nghiệm dân chủ thất bại thông thường vẫn là những giai đoạn tích cực quan trọng trong tiến trình phát triển chính trị của các nước, là những thời kỳ trong đó những nước này bắt đầu loại bỏ các di sản xã hội, văn hoá, và kinh tế phản dân chủ của quá khứ. Có quá nhiều nhà quan sát hiện nay đang lý giải các vấn đề và những bước thụt lùi [tại Trung Đông] như là những dấu hiệu cho thấy rằng một thành quả dân chủ ổn định sau cùng là điều không thể xảy ra. Nhưng những biến cố bạo động và bi thảm như Cách mạng Pháp, sự sụp đổ của thể chế dân chủ tại Ý cũng như tại Đức, và cuộc Nội chiến Mỹ không phải là những bằng chứng cho thấy những nước này không thể tạo ra hoặc duy trì được các chế độ dân chủ tự do; những biến cố lịch sử ấy là một phần rất quan trọng trong tiến trình theo đó những nước này đã đạt được thành quả tốt đẹp như vậy. 
Thái độ bi quan khắp mọi nơi về Mùa Xuân Ả Rập gần như chắc chắn sẽ sai lầm. Hẳn nhiên, Trung Đông có một hỗn hợp gồm nhiều thuộc tính văn hóa, lịch sử, và kinh tế độc đáo. Nhưng mọi khu vực cũng đều như thế cả, vì thế không lý do gì chúng ta lại tin chắc thế giới Ả Rập sẽ vĩnh viễn trở thành một ngoại lệ đối với qui luật phát triển chính trị. Năm 2011 là hừng đông của một kỷ nguyên mới mẻ đầy hứa hẹn cho toàn khu vực, và trong tương lai thời điểm này sẽ được coi là một bước ngoặt lịch sử, cho dù xuôi về hạ lưu sẽ còn gặp nhiều thác ghềnh hung dữ. Các đầu óc bảo thủ chỉ trích thể chế dân chủ chắc chắn sẽ sai lầm lần này, cũng như họ đã từng sai lầm về tình hình các nước Pháp, Ý, Đức và mọi nước khác mà họ từng cho là tốt đẹp hơn dưới các chế độ độc tài.
S.B.
Nguồn bài gốc: http://www.foreignaffairs.com/articles/138479/sheri-berman/the-promise-of-the-arab-spring?page=show
 Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN




 Nguồn:- -Mùa Xuân Dân chủ

Nguyễn Điền Lăng

Phi Châu, lục địa đã mất? 

Làm thế nào để có thể tóm lược trong vài giòng về một lục địa rộng lớn, đa dạng trong mọi lãnh vực: chủng tộc, địa lý, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ và phong tục mang tên là Phi Châu?

Chiến tranh liên tục (với đủ mọi hình thái), thảm sát tập thể (đến từ nhiều nguyên nhân), thiên tai, hạn hán dẫn theo nạn đói xẩy ra thường xuyên (với số nạn nhân vượt ngoài sức tưởng tượng) cùng sự hiện diện đầy dẫy các chế độ độc tài, toàn trị, là những điều ai cũng liên tưởng khi nói đến lục địa này. 



Với một hiện tại như vậy, kèm theo nỗi đau lịch sử mà vết sẹo của xích xiềng, dù có tan biến cùng số phận của kẻ làm thân nô lệ đã nằm xuống trong qúa khứ, vẫn còn đó trong tiềm thức của thế hệ hậu duệ sau này, thì nhận định Phi Châu là một lục địa đã mất (the lost continent) như thường thấy trên báo chí từ nhiều thập niên qua, tuy chua chát và bi quan nhưng cũng không hẳn hoàn toàn vô lý.

Trong bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh chính trị, xã hội như đã phác họa ở trên, sự kiện chú én Tunisia không chỉ mang lại mùa xuân cho đất nước mình mà còn kéo sang Ai Cập, Lybia và báo hiệu mùa xuân đang đến tại hàng loạt quốc gia ở Bắc Phi và Trung Đông (những quốc gia nằm trong khối Ả Rập) qủa là một chấn động lịch sử không ai có thể ngờ. Sự chuyển mình bằng những cuộc nổi dậy, xuống đường tại các quốc gia: Algeria, Bahrain, Iran, Iraq, Jordan, Kuwait, Morocco, Oman, Saudi Arabia, Syria và Yemen là một thực trạng không thể phủ nhận. Mùa Xuân Dân Chủ đang bắt đầu ở Bắc Phi và Trung Đông.

Điểm bắt đầu Khởi đi từ Tunisia. Một quốc gia mà chỉ số thất nghiệp và nạn hối lộ, tham nhũng, bất công xã hội đua nhau “phát triển” theo tỷ lệ thuận, cộng với sự lạm dụng quyền lực càng lúc càng trắng trợn hơn, thì tương lai của người dân, đen như con đường hầm không lối thoát.

Mồ côi cha từ bé, gánh nặng của cuộc sống với gia đình gồm mẹ, bác (cũng là người dượng = bố ghẻ) và năm người em, trong một ngôi nhà ba phòng qúa nhỏ, đè nặng lên đôi vai. Tất cả hầu như tùy thuộc vào nguồn lợi tức duy nhất có được qua rổ bán trái cây trên vĩa hè. Một cuộc sống với tương lai mù mịt, còn hiện tại là danh dự bị lăng nhục và nhân phẩm bị chà đạp bởi một nữ kiểm soát viên của chính quyền, đã làm cho người thanh niên bán hàng rong có tên Mohammed Bouazizi không thể chịu đựng hơn(1). Sự bất mãn tích tụ, dồn nén từ lâu chỉ cần một tác động nhỏ cũng đủ để bùng nổ. Giọt nước cuối cùng đó đã rớt xuống và làm tràn ly, hay nói theo ngạn ngữ Ả Rập “Cọng rơm cuối cùng làm gẫy lưng con lạc đà”, vào ngày 17 tháng 12 năm 2010, ngày anh dùng thân mình đốt lên ngọn lửa phản kháng, tạo nên làn sóng phẫn nộ, kéo theo nhiều cuộc tự thiêu khác tại Ai Cập, Algeria, Senegal(2), biến thành một phản ứng dây chuyền lan rộng trên toàn Bắc Phi và Trung Đông.

Thật khó tìm một trường hợp tự thiêu nào có tác động lớn tương tự như thế trong lịch sử nhân loại! Đặc biệt hơn, Mohammed Bouazizi, một người Hồi giáo (tôn giáo thường bị Tây phương cho là cực đoan và nhìn với ánh mắt e dè, thiếu thiện cảm - hoặc xa hơn nữa là thù hận) đã áp dụng một phương pháp phản kháng mà trước đó ít thấy được áp dụng bởi một tôn giác khác ngoài Phật giáo.

Tin tức, phân tích và nhận định 

Nguyên nhân nào đưa đến biến động lịch sử này và biến động này có ảnh hưởng gì trên bình diện quốc tế, đặc biệt là khối Ả Rập cũng như Hồi Giáo nói chung và Việt Nam nói riêng?

Cùng với những câu hỏi được nêu là sự dè dặt và ngần ngại. Dè dặt vì vấn đề qúa lớn, đa dạng và phức tạp. Ngần ngại vì đã có qúa nhiều tin tức, bài vở và nhận định về vụ việc đang diễn tiến. Dĩ nhiên ở đây chúng ta không bàn đến những cơ quan truyền thông, báo chí sử dụng tin tức (và sẵn sàng pha thêm mầu) để phục vụ quan điểm chính trị, hoặc đăng tin giật gân để lôi cuốn khán, thính và độc giả. Nếu việc đài truyền hình Iraq dưới thời Saddam Hussein gọi cuộc chiến Iraq là “Cuộc chiến tối thượng” đã không gây ngạc nhiên, thì cũng không khó hiểu khi Fox News Channel chả cần tìm hoặc chờ bằng chứng về sự liên hệ giữa tổ chức Al Qaida/Osama Binladen và Saddam Hussein cũng như sự hiện diện của vũ khí hóa học, vẫn thoải mái gọi cuộc chiến đó là “Cuộc chiến chống khủng bố - War on terror”(3).

Cũng tạm gác qua sự khác biệt về thông tin do cách nhìn khác nhau, những-bản-tin-không-được-thông-tin hoặc chỉ được phổ biến giới hạn vì nhiều lý do. Như ví dụ đã dẫn về cuộc chiến tranh Iraq. Theo Al Jazeera thì đó là: “Cuộc tấn công Iraq - Attack on Iraq”, BBC gọi: “Cuộc chiến cho Iraq – Struggle for Iraq”, với CNN: “Cuộc chiến ở Iraq – Strike on Iraq”. Cùng một sự kiện bức tượng của Saddam Hussein bị kéo sập tại công trường Fardus, tùy theo xem chương trình và nghe bình luận từ CNN hay Al Jazeera, người ta sẽ thấy hai hình ảnh và có hai ấn tượng khác nhau.(4)

Tuy nhiên sự phức tạp của vấn đề không chỉ chừng đó! Vì chưa hẳn một hãng thông tấn có uy tín, một tờ báo nổi tiếng lúc nào cũng cung cấp tin tức chính xác. Hãy thử xem phóng sự được thực hiện tại chỗ của một cơ quan truyền thông được tiếng là độc lập và có uy tín của Hòa Lan như NOS(5). Và không phải phân tích nào cũng sâu sắc, nhận định nào cũng có giá trị. Hãy đọc kỹ quan điểm của tờ báo có một bề dầy qúa khứ và nổi tiếng thế giới như tờ New York Times qua bài phân tích của nhà bỉnh bút Thomas Friedman đăng ngày 1 tháng 3 năm 2011(6) - sau khi đến tận nơi, nghe tận tai và thấy tận mắt - đã mang lại (ít ra cho cá nhân người viết bài này) sự ngạc nhiên trước nhận định “tự tin”, tầm nhìn “viễn kiến” và suy nghĩ “sáng tạo” của tác giả. Trong bài viết này, Thomas Friedman dẫn giải thêm một số tác động đưa đến việc xuống đường đòi quyền sống và khẳng định sự kiện này khởi đi từ yếu tố TT. Obama, qua bài diễn văn ở Cairo năm 2009, như một kích thích tố. Ngoài ra ông cũng không ngần ngại đẩy Do Thái và Trung quốc nhẩy vào dự phần thành công của cuộc cách mạng Ai Cập, khi cho rằng ảnh hưởng của phiên tòa xử Thủ Tướng Do Thái Ehud Olmert vì tội hối lộ (cùng một số vụ án liên quan đến vài chính trị gia, quan chức khác của Do Thái) trên đài truyền hình Ả Rập Al Jazeera đã là một tấm gương về dân chủ và pháp trị cho dân Ai Cập và Thế Vận Hội Bắc Kinh năm 2009 đã khơi dậy lòng tự ái dân tộc của Ai Cập.

Chắc hẳn Friedman đã không tiếp xúc với những người lãnh đạo phong trào nổi dậy và tìm hiểu sâu xa nguyên nhân. Vì nếu trao đổi và biết họ nghĩ gì về TT Obama, về chính sách Hoa Kỳ, sau lời phát biểu của Ngoại trưởng Hillary Clinton, Sứ thần đặc nhiệm Frank Wisner và thái độ lừng khừng của Mỹ trong giai đoạn đầu của cuộc nổi dậy, chắc chắn bài viết của ông sẽ không có nội dung lạc quan như thế.

Trên đây chỉ là hai sự kiện tiêu biểu. Bản tin nói về cái chết của ông Nguyễn Cao Kỳ ngày 23 tháng 7 năm 2011, trên tờ New York Times(7) và những tin tức thiếu chính xác đại loại như thế không hiếm.

Nhận định của báo chí, truyền thông của Châu Âu và Mỹ là thế! Còn nhận định của tình báo, chuyên gia và chính trị gia thì sao? Thử dạo qua một vòng từ Mỹ sang Châu Âu:

Hoa Kỳ với cơ quan CIA, một trong những cơ quan tình báo đứng đầu thế giới về số lượng nhân sự và ngân sách hoạt động dồi dào cùng phương tiện kỹ thuật tối tân. Cơ quan này đã phân tích và đánh giá tình hình Ai Cập như thế nào trong các thông tin cung cấp cho giới lãnh đạo Mỹ? Chi tiết của các bản báo cáo được trình lên tổng thống Obama mỗi buổi sáng không được tiết lộ. Nhưng mức độ chính xác của những nguồn tin này có thể thấy được qua phản ứng của chính phủ Mỹ.

Ngoại trưởng Hillary Clinton trong phần trả lời phỏng vấn của đài Al Arabiya hôm 11 tháng 1 năm 2011 liên quan đến tình hình Tunisia cho biết: “Chính phủ Tunisia cần chú trọng hơn về việc tạo công ăn, việc làm cho giới trẻ” và nhiều lần nhấn mạnh “Chúng tôi không chọn phe nào”(8). Rất tiếc thời gian không chờ đợi Hoa Kỳ. Chưa kịp chọn một thái độ mới thì ba ngày sau, 14 tháng 1 năm 2011, tổng thống Tunisia Zine El Abidine Ben Ali đã bỏ chạy sau 23 năm thống trị(9) Tuyên bố của Hillary Clinton có liên quan gì đến cuộc biểu tình phản đối chuyến viếng thăm Tunisia của bà ngày 17 tháng 3 năm 2011? Tiếc rằng tin tức về cuộc biểu tình tẩy chay này đã không được nhiều báo chí quan tâm và tìm hiểu nguyên nhân.

Ai Cập, quốc gia lớn nhất khối Ả Rập, có ảnh hưởng văn hóa trong toàn vùng và là đồng minh chiến lược quan trọng nhất của Mỹ ở Bắc Phi. Tại đây, trong lúc cường độ biểu tình cũng như số lượng người tham dự càng lúc càng tăng, thì ngày 25 tháng 1 năm 2011 bà Hillary Clinton nhận định: “Chúng tôi đánh giá chính quyền Ai Cập vững chắc và đang tìm cách đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi chính đáng của người dân Ai Cập”(10). Tiếc rằng bộ Ngoại giao Mỹ đã không quan tâm đến bài xã luận đăng cùng ngày của tờ Washington Post(11), trong đó tờ báo này vạch rõ những sai lầm và sơ hở trong chính sách đối ngoại Mỹ qua thái độ lúng túng và lập trường lừng khừng thể hiện qua lời tuyên bố của Ngoại trường Hillary Clinton. Mặc tiếng kêu gào của hàng chục ngàn người dân Ai Cập đang ngày đêm đóng trụ ở quảng trường Tahrir đòi TT Mubarak phải từ nhiệm. Bỏ qua sự kiện cảnh sát trong giai đoạn này hầu như vắng bóng hoàn toàn và quân đội mất dần khả năng kiểm soát trên đường phố Cairo. Phản ứng của Mỹ thật khó hiểu qua việc phát ngôn viên chính phủ, Robert Gibbs, tuyên bố tương tự như Ngoại trưởng Hillary Cliton, khi trả lời câu hỏi về quan điểm của Hoa Kỳ trong vấn đề Ai Cập được đặt ra ngày 31/1/2011(12).

Sứ thần đặc nhiệm Frank Wisner, một nhà ngoại giao về hưu, từng là đại sứ lâu năm tại Ai Cập và là bạn của TT Mubarak, được gởi sang Ai Cập trong ba ngày từ 1 đến 3 tháng 2 năm 2011. Sau nhiều lần trao đổi với TT Mubarak, ông cựu đại sứ này tuyên bố tại Hội Nghị An Ninh tại Munich hôm 5 tháng 2 năm 2011: “TT Mubarak phải tại chức để lèo lái những sự thay đổi.. ông ta đã cống hiến 60 năm của đời mình để phục vụ đất nước mình và đây là thời điểm lý tưởng để ông ta dẫn đất nước đi lên” (13). Lần này phát ngôn viên bộ Ngoại giao, Philip J. Crowley, phải nhanh chóng lên tiếng đính chính(14). May mắn thay! Vì chưa đầy một tuần sau, ngày 11 tháng 2 năm 2011, TT Mubarak từ chức.

Không chịu thua Mỹ, Châu âu cũng tỏ rõ bản lĩnh! Ngoại Trưởng Michelle Alliot-Marie của Pháp “bén nhậy” và “nhanh nhẩu” không kém người đồng nghiệp bên kia bờ Đại Tây Dương. Ba ngày trước khi Tổng Thống Zine el Abidine Ben Ali chạy trốn khỏi Tunisia bà Ngoại trưởng này tuyên bố sẵn sàng hợp tác và giúp chính quyền Tunisia về kiến thức và kinh nghiệm chống biểu tình để giữ an ninh(15). Kết qủa của sự vội vã này là Michelle Alliot-Marie văng khỏi ghế ngoại trưởng sau đó. Nếu biết rằng Tunisia là sân sau (backyard) của Pháp thì đây là lỗi riêng của bà Michelle Alliot-Marie hay Phòng Nhì của Pháp cũng có phần trách nhiệm? Riêng cựu Thủ tướng Berlusconi của Ý và những lời phán lạc quẻ của ông về Đại tá Gaddafi và tình hình Lybia đã làm dư luận ngạc nhiên và khó tin đó là những phát biểu đứng đắn.

Nhận định của Dân Biểu Quốc Hội Âu Châu kiêm chủ tịch tổ chức Liên Minh Quốc Tế Tự Do, Hans van Balen, về Ai Cập và tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo (Muslim Brotherhood) ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng(16) và sau khi ông ta sang Ai Cập(17), lúc chế độ Mubarak đã sụp đổ, làm người nghe không khỏi liên tưởng đến sự thay đổi mầu da của cắc kè. Còn ai nhớ lời tuyên bố trên đài truyền hình NOS “Cuối tuần này coi như xong!”(18) của Bertus Hendriks, chuyên gia về Trung Đông của Viện Bang Giao Quốc Tế Clingendael (think-tank, trung tâm nghiên cứu chiến lược và học viện ngoại giao của Hòa Lan) hôm 28 tháng 1 năm 2011 về diễn biến ở Ai Cập?

Dẫn chứng như thế đã tạm đủ. Đưa ra những ví dụ về mức độ (thiếu) chính xác của tin tức và nhận định, không phải để chê bai hay trách cứ. Không mấy khó hiểu nếu biết rằng trong cuộc chạy đua thông tin giữa các hãng thông tấn và cơ quan truyền thông, người ký giả (tự nguyện, hoặc bị bắt buộc bởi hoàn cảnh) được sử dụng như người săn tin. Trong hoàn cảnh đó người ký giả chạy theo từng biến động. Giới hạn của thời gian (deadline), kiến thức và ngôn ngữ sẽ không cho họ có điều kiện đến gần hơn với sự thật. Ngay cả ký giả chọn nghề vì lý tưởng (đi tìm sự thật, ghi lại lịch sử, chứng nhân của thời cuộc v.v.), giỏi ngôn ngữ Ả Rập, am hiểu tình hình và sống hẳn ở Bắc phi hoặc Trung đông hằng nhiều năm cũng xác nhận khó biết đâu là sự thật. Làm thế nào để kiểm chứng tin tức ở các quốc gia độc tài, nơi người ta sống trong sự sợ hãi thường trực và thông tin trong mọi lãnh vực bị kiểm duyệt tối đa? Và không phải bản tin nào cũng được đăng. Có nhiều lý do, trong đó “sự tế nhị và nhậy cảm của vấn đề” thường là nguyên nhân chính.

Ngoài ra định kiến lẫn thành kiến (vì thiếu thông tin chẳng hạn) cũng là nguyên nhân làm cho tầm nhìn mất đi sự khách quan, dễ dẫn đến sự phân tích hời hợt và nhận định thiếu chính xác. Đáng sợ hơn khi định kiến và thành kiến được cố tình dàn dựng và thổi phồng vì mục đích chính trị.

Để có thể nhận được viện trợ (hiểu theo nghĩa rộng nhất) của phương Tây (Mỹ và Âu Châu), các chế độ độc tài thường đưa ra hiểm họa, sự đe dọa đến từ các tổ chức Hồi giáo cực đoan và nhu cầu ổn định chính trị, để biện minh cho chính sách đàn áp của mình. Đến đây khoảng cách giữa dối trá và tội ác đã mất hẳn. Nhưng với phưong Tây thì lập luận ấy nghe hữu lý làm sao! Nhất là khi quyền lợi kinh tế và ảnh hưởng chính trị, quân sự của họ tại những quốc gia đó cần được bảo vệ. Bởi vậy phương Tây dễ dàng chấp nhận một Ben Ali, Mubarak, Gaddafi. Dù sao những tay độc tài (phe ta, nghe lời ta) cũng vẫn tốt hơn đám khủng bố Hồi giáo cực đoan (phe địch, chống lại mình). Đâu phải Ai Cập trước đó không có đình công, xuống đường? Suốt năm năm qua những cuộc biểu tình càng lúc càng thường xuyên hơn. Tuy nhiên hầu hết báo chí đều lơ là vì ai cũng cho rằng số lượng biểu tình qúa ít, tổ chức qúa lỏng lẻo.

Nắm trong tay mọi phương tiện trấn áp và sẵn sàng sử dụng mọi phương pháp đàn áp, không phải các chế độ độc tài nhờ vậy đã tồn tại trong nhiều thập niên đó sao? Cứ như thế, phương Tây và các chế độ toàn trị chung sống trong lâu đài ảo ảnh do họ tự tạo ra. Thời gian trôi qua qúa lâu, đủ để họ tin mộng là thực và hoàn toàn xa lạ với thực tế. Khi diễn tiến xẩy ra ngoài dự định (khi tỉnh mộng và trở về thực tại) thì phản ứng lúng túng là điều tất nhiên.

Tóm lại để có một cái nhìn tương đối đa diện, một phân tích không đến nỗi hời hợt và một nhận định không qúa chủ quan cần đọc nhiều, tìm hiểu kỹ, tự suy nghĩ và giữ khách quan.

Nguyên nhân và ảnh hưởng

Để tìm nguyên nhân cuộc cách mạng Bắc phi không phải là việc khó. Chỉ cần theo dõi tin tức thường xuyên và đọc kỹ những bài phân tích (khi sự việc đã rồi) của một số tờ báo, ai cũng có thể liệt kê đầy đủ. Chợt nhớ câu ngạn ngữ Tây phương: “Sau khi sự việc xẩy ra, ai cũng đoán đúng”, thôi thì đành chọn con đường khác. Thử tìm hiểu nguyên nhân qua phân tích của chuyên gia, tin tức và phóng sự của ký giả những tờ báo uy tín và nhận định của các tổ chức quốc tế vào thời điểm trước cuộc cách mạng xem thế nào.


Nguyên nhân – Sự bộc phát dân số (youth bulge = gia tăng dân số qúa nhanh) cùng với cấu trúc chính trị khập khiễng (chế độ độc tài, độc đảng dẫn đến hậu qủa cơ cấu lập pháp, hành pháp lẫn tư pháp không độc lập, không hoạt động đúng chức năng, hoặc bị giới hạn phạm vi hoạt động) và sự điều hành đất nước kém cỏi dẫn đến hậu qủa tất yếu là: tổ chức xã hội yếu kém (môi trường sống tệ hại, xã hội đầy dẫy bất công, thiếu vắng những tổ chức dân sự), hệ thống giáo dục, y tế thiếu chất lượng trầm trọng, hệ thống kinh tế chậm phát triển (chỉ số thất nghiệp cao, thu nhập bình quân mỗi đầu người thấp) và tình trạng vật giá leo thang là một trong những tác động quan trọng dẫn đến cuộc nổi dậy ở Bắc Phi.

Tuy nhiên còn có những yếu tố khác đến từ bên ngoài gây tác động mạnh thêm. Yếu tố đó là cuộc khủng hoảng tài chánh bắt đầu tại Hoa Kỳ, dẫn theo sự suy thoái kinh tế tại Mỹ và Âu châu, làm cho nền kinh tế tại các quốc gia Bắc phi vốn đã yếu, lại càng gặp khó khăn hơn. Một yếu tố khác là sự phát triển kinh tế ở Trung quốc kéo theo sự gia tăng nhu cầu sử dụng năng lượng, thực phẩm (nhất là thịt) và ngũ cốc làm vật giá leo thang. Ngoài ra trong cuộc chạy đua tìm năng lượng mới thay thế dầu hỏa càng lúc càng khan hiếm và tăng giá, nhiều quốc gia (đặc biệt là Mỹ, Châu âu và Ba Tây) sử dụng nông sản để chế biến thành dầu sinh học (bio oil) mỗi lúc một nhiều hơn. Điều này làm giảm số lượng nông sản cung ứng.

Chưa hết! Khí hậu, thời tiết cũng là một nguyên nhân có tác động không nhỏ. Thiên tai, hạn hán và bão lụt suốt mấy năm liền, gây thiệt hại nặng cho nhiều quốc gia xuất cảng nông phẩm. Số lượng cung ứng giảm làm giá cả tăng là điều đương nhiên. Nhưng bên cạnh đó một số quốc gia đồng thời tăng thuế xuất cảng nông phẩm (Á Căn Đình tăng thuế 44% cho đậu nành và hạt hoa hướng dương, trong khi Nga tăng thuế 40% cho lúa mì) làm giá càng đắt thêm. Việc các công ty đầu tư quốc tế dự đoán nông sản sẽ lên giá và kiếm lợi bằng cách ký các hợp đồng tương lai (futures contract) đã vô tình làm cho giá nông sản càng tăng hơn nữa.

Để dễ hiểu, có thể so sánh tình hình Bắc Phi với tình trạng của một gia đình nghèo, mỗi năm tăng miệng ăn trong khi vật giá, vì đủ thứ lý do, càng lúc càng đắt đỏ hơn. Đã thế gia đình này luôn phải sống trong nơm nớp lo âu và chạm trán với bao bất công, trong khi một thiểu số sống trong xa hoa dựa vào sức mạnh để bóc lột. Nếu nghèo đói là gánh nặng đè lên vai phải, thì bất công xã hội, tệ nạn tham nhũng, độc tài đàn áp, nhân phẩm bị chà đạp, hợp lại thành tảng đá ghì lên vai còn lại.


Arab Human Development Report 2002
Nguồn ảnh: UN

Phân tích - những cái nhìn từ nhiều góc cạnh trong qúa khứ – Năm 2002 Báo cáo về Phát triển Nhân loại tại Ả Rập năm 2002 (Arap Human Development Report 2002)(19) lần đầu tiên ra đời. Bản báo cáo này làm chấn động dư luận thế giới. Những dữ kiện bao trùm các lãnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, môi sinh đưa ra đã cho ta thấy một hình ảnh trì trệ, bệ rạc của khối Ả Rập. Điển hình như: Với dân số hơn 280 triệu người, có tới 65 triệu người mù chữ (phụ nữ chiếm 2/3) và 10 triệu trẻ em từ 6 đến 15 tuổi không được đến trường. Ai may mắn được đi học, sẽ phải theo một chương trình giáo dục thiếu chất lượng. Năm 1981 công trình nghiên cứu của học giả, khoa học gia Trung quốc chỉ bằng phân nửa và Nam Hàn bằng 10% của khối Ả Rập. Năm 1995 công trình nghiên cứu của Trung quốc nhiều hơn gấp đôi và Nam Hàn gần bằng khối Ả Rập. Chi phí cho công trình nghiên cứu của học giả, khoa học gia chiếm 0,4% tổng sản lượng quốc gia, thấp hơn cả Cuba. Số lượng sách nước ngoài được dịch sang tiếng Ả Rập hàng năm cho toàn khu vực (22 quốc gia và 280 triệu người) khoảng 330 cuốn. Con số này chỉ bằng 1/5 (= 20%) số sách được dịch sang tiếng Hy Lạp (1 quốc gia với hơn 10 triệu dân, ít hơn 28 lần). Tỷ lệ sử dụng internet của khối Ả Rập chiếm 0,5% trong tổng số người sử dụng internet trên toàn cầu. Tình trạng khan hiếm nước dùng trong đời sống hàng ngày là một vấn đề. Trong danh sách 22 quốc gia khan hiếm nước được Ngân hàng Thế Giới (World Bank) công bố, có 15 quốc gia nằm trong khối Ả Rập. Điều hành kém cộng với hiện tượng hạn hán, sa mạc hóa đã làm giảm diện tích đất canh tác. Từ 0,40 ha (1970) giảm xuống còn 0,28 ha (1998) cho mỗi đầu người.

Lỗi tại ai? Bản báo cáo nhận định rằng: “Ngọn gió dân chủ tại Nam Mỹ, Đông Á và Đông Âu từ những năm 80 và 90 đã không thổi tới khối Ả Rập và điều này sẽ gây phương hại cho sự phát triển con người”. Khát vọng tự do vẫn chưa được thỏa mãn. Trong biểu đồ so sánh tự do của 7 vùng trên toàn thế giới năm 1990 khối Ả Rập đứng chót. Trong lời mở đầu Tiến sĩ Rima Khalaf Junaidi đưa ra kết luận “Các quốc gia Ả Rập cần tái thiết xã hội trên căn bản tôn trọng nhân quyền, tự do của con người như một nền tảng của một chính quyền tốt, theo xu hướng phát triển nhân loại”.

Năm 2003, Giáo sư Gunnar Heinsohn, giám đốc Viện Nghiên cứu về nạn Diệt chủng tại Đại học Bremen đã lên tiếng báo động về hiểm họa của sự bộc phát dân số (youth bulge) trong một công trình nghiên cứu(20). Dựa trên những dữ kiện lịch sử, xã hội, kinh tế, văn hóa, tôn giáo và luật pháp được tổng hợp từ thời Trung cổ đến hiện tại ông chứng minh sự tương quan giữa tình trạng bộc phát dân số và những biến động xã hội như: di dân - tỵ nạn - đảo chính - cách mạng - chiến tranh. Từ đó ông đưa ra danh sách các quốc gia có tiềm năng trở thành lò thuốc súng trong tương lai. Đối chiếu với tình hình hiện nay, để thấy sự hiện diện của hầu hết các quốc gia đang xuống đường đòi dân chủ tại Bắc Phi và Trung Đông trong danh sách, không phải là một sự tình cờ.

Năm 2006, một ký giả am tường ngôn ngữ Ả Rập và tình hình Trung đông, Joris Luyendijk, đã trình bầy trong một tác phẩm(21) về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội trong khu vực. Qua đó người đọc thấy được thực trạng một xã hội của nghèo đói, bệnh tật, bất công cùng tệ nạn hối lộ, tham nhũng, không khí khủng bố, đàn áp bởi hệ thống công an, cảnh sát. Ngoài ra vấn nạn bộc phát dân số được ông đưa ra bằng những con số làm độc giả choáng váng. Chúng ta thấy gì qua các dữ kiện do hai nhân vật này cung cấp?

Dân số Ai Cập, theo Gunnar Heinsohn, trong thời điểm 1967-2002 tăng từ 30 đến 71 triệu. Ai Cập năm 2005, theo Joris Luyendijk, có 75 triệu dân. Số lượng dân số tăng mỗi ngày là 16.000 người và mỗi năm 1,5 triệu người. Ai Cập của tháng 7 năm 2011 có 82 triệu dân (CIA World factboek).

Với diện tích lãnh thổ hơn 1 triệu cây số vuông (km2), mật độ trung bình là 82 người trên 1km2. Tuy nhiên đó là mật độ trung bình. Điều thống kê không nhắc đến là ngoài những vùng sa mạc rộng lớn, diện tích còn lại có thể sống được chỉ hơn 40 ngàn km2, nâng mật độ từ 82 người/km2 lên khoảng 200 người/km2. Để có thể tiếp nhận số lượng người khổng lồ đó trên một diện tích hạn hẹp như vậy, hàng năm Ai Cập cần tạo 500.000 công việc mới, xây hàng trăm ngàn ngôi nhà, cất hàng ngàn ngôi trường, hàng trăm bệnh viện và hàng chục trường đại học, chưa nói đến hệ thống giao thông, cống rãnh, điện, nước và gaz. Cứ thế Bắc Phi và Trung đông mỗi năm có thêm 6 triệu miệng ăn mới. Joris Luyendijk cho biết “Khi nào số người này chưa tìm đường sang Âu châu hàng loạt, thì ngày ấy chả ai thèm quan tâm và sự bộc phát dân số không phải là tin tức”. May cho Âu châu! Đa số dân Bắc Phi đã không tìm-đường –đi-vượt-biển mà xuống-đường-làm-cách-mạng.

Năm 2008 trên tờ Washington Post, một loạt bài giá trị được đăng từ ngày 27 tháng 4 đến 1 tháng 5, báo động nguy cơ khủng hoảng lương thực (trầm trọng nhất kể từ năm 1970) tại Bắc Phi. Ở một số quốc gia giá bánh mì tăng 67%, giá dầu ăn tăng 117%, giá gạo tăng 25% trong một năm. Đáng quan tâm là 22 trong số 30 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất nằm ở Phi châu.

Năm 2009 Bản Báo cáo về Phát triển Nhân bản tại Ả Rập năm 2009 cho thấy tình hình bi thảm và bế tắc. hơn. Tình trạng kỹ nghệ hóa trong khối Ả Rập của năm 2007 thụt lùi so với gần 40 năm về trước (1970). Nạn thất nghiệp trong khối Ả Rập tăng dần từ thập niên 80 (10,6%) đến thập niên 90 (14,5%) và tiếp tục tăng cho đến năm 2005 (15,5% - trong khi tỷ lệ thất nghiệp trung bình trên toàn thế giới là 6,3%). Cũng thế tại Ai Cập và Tunisia với tỷ lệ thất nghiệp từ 7,6% và 13,6% trong thập niên 80 tăng lên 9,6% và 15,5% trong thập niên 90. Nguy ngập hơn là tỷ lệ thất nghiệp của giới trẻ. Điển hình: trong năm 2005-2006 tỷ lệ này tại Ai Cập chiếm 26%, Lybia 27% và Tunisia là 26%. Khoảng 40% học sinh, sinh viên từ 15 đến 25 tuổi, ra trường không tìm được công việc. Hơn 20% dân số Ả Rập có mức thu hoạch thấp hơn 2 dollar một ngày. Ở Ai Cập tỷ lệ này chiếm 40,9%. Bản báo cáo lên tiếng“Cái giá mà ai cũng thấy qua cuộc sống bấp bênh và sự bất mãn của những người trẻ thất nghiệp, là họ có thể nhanh chóng chuyển sang chống đối, và trong vài trường hợp trở thành cực đoan. Trên đường dài, điều này có thể làm xã hội mất ổn định.” 

Giá lương thực giữa năm 2008 tăng 40% so với năm 2007. Từ năm 2001 đến 2008 giá thực phẩm tăng trung bình 75%, đặc biệt giá lúa mì tăng 200%. Tình trạng về môi sinh thật bi quan. Khối Ả Rập chiếm 5% dân số toàn cầu, nhưng chỉ có 1% lượng nước của thế giới. Đã thế 2/3 số nước ấy sử dụng cho việc canh tác. Chỉ còn 0,33% số lượng nước toàn cầu cho 5% dân số thế giới và không phải tất cả đều là nước sạch! Bản báo cáo kêu gọi thay đổi thủ tục ứng cử và bầu cử, phục hồi chức năng của cả ba ngành Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Lên án hệ thống công an, cảnh sát và đòi hỏi thực thi dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Kết luận của bản báo cáo có giá trị của một lời cảnh cáo về sự chống đối càng lúc càng tăng của người dân và hệ thống kiểm soát của hệ thống cầm quyền càng lúc càng lỏng lẻo. (22) (23).

Lướt qua những điểm nêu ở trên, chắc chắn sẽ không còn ai ngạc nhiên về cuộc cách mạng đang diễn ra. Tóm lại: tất cả những chất liệu tạo thành chất nổ đã hội đủ. Chỉ cần một tàn thuốc vô tình, một đốm lửa nhỏ, một tia nắng gắt đủ để tất cả nổ tung. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian. Dĩ nhiên không thể quên vai trò của tin học và truyền thông. Qủa thực dù chỉ có 20% dân số Ai Cập sử dụng internet, nhưng youtube, faceboek, twitter v.v. đã góp phần không nhỏ trong phương diện liên lạc, tổ chức, truyền thông. Thông tin, đặc biệt là Al Jazeera, đã đóng góp một phần quan trọng vào việc chuyển lửa cho cuộc cách mạng Bắc Phi và đem đến thành công tại Ai Cập.

Ảnh hưởng - Như đã trình bầy ở trên cuộc cách mạng dân chủ tại Bắc Phi đã tạo nên một phản ứng giây chuyền trong khối Ả Rập. Ảnh hưởng lớn hay nhỏ, thay đổi nhiều hay ít tùy vào tình hình mỗi quồc gia. Sự thay đổi đó đã và đang tiếp tục. Nhìn vào những khó khăn mà các quốc gia trong khối Ả Rập đang phải đối đầu trong tất cả mọi lãnh vực, chắc hẳn không ai ngây thơ đến mức tin rằng mọi việc sẽ tốt đẹp trong vòng vài năm. “Rome đâu phải được xây trong một ngày!” Thành công tại Tunisia, Egypt và Lybia có thể coi là bước đầu tiên trên con đường thiên lý có tên là dân chủ. Diễn biến tại Bắc Phi làm cháy bừng khát vọng tự do tại Iran (một quốc gia Hồi giáo không thuộc khối Ả Rập), tại Trung Quốc và tạo cảm hứng cho phong trào chiếm đóng (Occupy movement) tại phương Tây.

Khát vọng tự do, ý thức dân chủ, sự khôn ngoan trong tổ chức, dũng cảm trong hành động, hy sinh cho lý tưởng và tinh thần dân tộc không cực đoan đã mang lại thành công với số tổn thất nhân mạng thật thấp là điều mang lại sự ngạc nhiên lẫn cảm phục.

Bản Báo cáo về Phát triển Con Người Ả Rập 2002 không chỉ làm thế giới ngạc nhiên và thán phục vì quy mô và tầm vóc nghiên cứu của những học giả Ả Rập độc lập. Điều đáng nói hơn là trong bản báo cáo đó, kết qủa và số liệu của những công trình nghiên cứu được đưa ra làm bằng chứng cho tình trạng bế tắc trong khối Ả Rập không phải để đổ thừa cho phương Tây hay Do Thái mà để vạch rõ sự tắc trách của các chế độ cầm quyền.

Người Ả Rập đã bắt đầu xét lại chính mình và vượt qua hàng rào của sự sỡ hãi. Đã đến lúc thế giới cũng cần làm điều đó và bước ra bức tường của ám ảnh để mở rộng tầm nhìn. Thiểu số bảo thủ, cực đoan và giáo điều hiện diện ở khắp nơi, dưới đủ mọi mầu da và có mặt trong hầu hết các tôn giáo. Quyền lực và ảnh hưởng dựa trên nền tảng của sợ hãi không còn thích hợp. Tren bình diện quốc tế, tương quan giữa các quốc gia cần được đặt trên một căn bản khác, nhân bản và công bằng hơn. Cách nhìn của con người về những người khác chủng tộc, văn hóa và tôn giáo cần cởi mở và thoáng hơn. Thành kiến, định kiến trong quan hệ cần được thay đổi bằng tìm hiểu và tôn trọng hoặc học hỏi và tương kính. Dù muốn hay không, thế giới chúng ta đang sống cũng đang thay đổi. Thay đổi theo chiều hướng nào? tốt hay xấu? đều do ảnh hưởng ít nhiều của mỗi người trong chúng ta. Ý thức được điều đó và tự thay đổi chính mình đã là một bước tiến rất xa.

Kết

Vấn đề còn lại là vấn đề của chúng ta với câu hỏi nhức nhối, thế Việt Nam thì sao?

Qủa thật có nhiều điểm trùng hợp giữa các quốc gia trong khối Ả Rập, nơi đang chuyển mình và Việt Nam. Chế độ độc tài nào, dù mang tên gì và ở đâu cũng giống nhau ở bản chất. Hệ thống đàn áp dẫu có khác tên: Baltagi ở Ai Cập, Shabiha ở Syria hay công an, cảnh sát ở Việt Nam nhưng không khác ở sự tàn bạo và độc ác. Tham nhũng là bản chất gắn liền với chế độ độc tài. Những mẫu truyện về bất công trong xã hội, tệ nạn tham những, bóc lột, sự tùy tiện của hệ thống pháp luật và những câu truyện châm biếm chế độ, lãnh tụ v.v. tại các quốc gia này làm người đọc có cảm giác tác giả đang nói về Việt Nam. Sự bộc phát dân số ở Việt Nam trầm trọng không kém. Số lượng trẻ em dưới 15 tuổi ở Việt Nam cao hơn Ai Cập, Tunisa và Lybia(24). Trong vài lãnh vực Việt Nam còn tệ hơn Tunisia, Ai Cập và Lybia. Số thu nhập bình quân mỗi đầu người là một ví dụ, hiện tượng bệnh Liệt kháng (Aids) là một ví dụ khác. Việt Nam cũng có tự thiêu, có đình công (của công nhân), biểu tình (dân oan khiếu kiện), xuống đường (sinh viên, học sinh chống Trung quốc) hoặc biểu lộ sự phản kháng bằng hành động khác (sự kiện giáo dân Thái Hà)… thế nhưng những tác động vừa kể không đủ để Việt Nam chuyển mình. Tại sao lại như thế? Có sự khác biệt quan trọng nào giữa Việt Nam và các quốc gia trong khối Ả Rập?

Quay lại những con số: Trong khi hầu hết các quốc gia trong khối Ả Rập phải nhập cảng nông sản và chịu ảnh hưởng nặng nề khi vật giá leo thang thì Việt Nam là nước xuất cảng nông sản và nhiều năm liền đứng hạng hai trên thế giới về xuất cảng gạo. Ảnh hưởng của vật giá leo thang tại Việt Nam vì thế không trầm trọng như ở các quốc gia Ả Rập. Như đã dẫn chứng ở trên, tỷ lệ thất nghiệp tại Tunisia và Ai Cập nói riêng và đa số các quốc gia Ả Rập tăng liên tiếp và nằm ở mức độ rất cao. Nhưng ở Việt Nam tỷ lệ thất nghiệp của năm 2009 và 2010 là 4,6% và 4,4%(25). Lạm phát ở Việt Nam cao, nhưng bên cạnh đó kinh tế cũng phát triển mạnh. Chính sách xóa đói giảm nghèo được đánh giá là thành công. Xã hội Việt Nam tương đối mở rộng, dễ tiếp nhận những điều mới hơn (dĩ nhiên tốt hay xấu lại là việc khác). Nạn mù chữ ở Việt Nam cũng thấp hơn, hệ thống y tế khá hơn….và chắc chắn Tunisia và Ai Cập làm gì có một kỹ nghệ mãi dâm, bia ôm đa dạng và phong phú như ở Việt Nam. Tóm lại: Với một chế độ độc tài và chính sách độc đảng như hiện nay ở Việt Nam, tự do, nhân quyền sẽ mãi mãi là giấc mơ và bất công, đàn áp luôn luôn là thực tại. Bất ổn và biến động xã hội sẽ xẩy ra mỗi lúc một thường xuyên hơn. Tuy nhiên, như đã dẫn, những yếu tố tác động chưa đủ mạnh và tình hình chưa đủ chín mùi để những cơn gió ấy có thể trở thành trận bão thổi sập chế độ.

Viết đến đây chợt nghĩ đến hai bài phóng sự của bà Elske Schouten (từng được giải Citi Journalist Excellence Award) viết về Việt Nam, về Sài Gòn, về cuộc sống của những người nữ công nhân trong một hãng may, về “chợ buôn cô dâu” vào đầu tháng 2 năm 2011, lúc tình hình Ai Cập đang căng thẳng. Tin tức đưa ra đại khái như sau:

Việt Nam đứng đầu thế giới về phá thai và số tuổi càng lúc càng trẻ hơn. (Vâng! Điều đó có gì mới?)(26)

Việt Nam có kỹ nghệ vá màng trinh. (Phải! Việc ấy có gì lạ?)

Tuổi trẻ Việt Nam không quan tâm đến chính trị và chỉ biết kiếm tiền. (Khổ qúa! Cái này đã có nhiều ký giả cho biết từ nhiều năm rồi!)

Nếu chỉ có thế thì tại sao tôi phải day dứt để nhớ mãi bài phóng sự đó? Phải chăng vì tựa đề“Thịnh vượng dẫn đến cách mạng tình dục dưới một chế độ không tưởng” (27)?


Việt Nam...
Nguồn: posters.uk.com

Nhìn trên màn hình, với hình ảnh quen thuộc hàng ngày của hàng chục ngàn người hừng hực đứng lên trên đường phố Cairo chan hòa ánh nắng để làm cuộc cách mạng Dân Chủ, ghé mắt nhìn tựa đề tờ báo…liên tưởng đến cảnh những người thanh niên, thiếu nữ đằng sau bờ tường, trong những lùm cây, hằng đêm hùng hục ưỡn người trong bóng tối làm cuộc cách mạng ….Tình Dục ở Việt Nam. Ừ nhỉ! Hóa ra ở Việt Nam ta cũng có một cuộc cách mạng đang diễn ra!

“Ăn và Chơi” (Panem et Circenses), câu nói châm biếm đầy thực tính của hơn 2.000 năm trước ám chỉ sự tha hóa của dân La Mã được biến thành chính sách trị nưóc của nhiều triều đại, chế độ trong qúa khứ(28) và vẫn còn giá trị trong hiện tại. Thật vậy! Khi con người ta chưa bị dồn vào đường cùng và còn có thể vật lộn hàng ngày với cuộc sống để kiếm cơm, áo, gạo, tiền thì vẫn còn chút hy vọng để bám víu. Ai có thể cấm người con gái với chút nhan sắc và tuổi thanh xuân không được quyền mơ một gã Việt kiều, một tên Hàn Quốc hay một lão Ba Tầu để thoát khỏi vũng lẩy tăm tối? Nỗi buồn về thân phận có thể tạm quên bằng cơn say trong các quán bia ôm. Bất mãn về cuộc sống đã có các nàng kiều nữ để giải tỏa. Cứ như thế người dân tìm lối thoát bằng cách tự lừa dối chính mình và trốn chạy.

Tội ác cần bóng tối để che dấu. Độc tài cần dối trá để tồn tại. Hãy tự khơi ngọn lửa của vô úy trong mỗi trái tim và mở cánh cửa tỉnh thức trong mỗi khối óc. Hãy đập vỡ khối đá nghiệt ngã có tên là độc tài đang đè nặng bằng hai bàn tay của Trí Tuệ và Dũng Cảm. Kỷ nguyên của tin học giúp con người mở rộng tầm nhìn. Một đoạn băng thâu lại lời hoạnh họe của công an, vài tấm hình, một đoạn phim về sự đàn áp, hối lộ của cảnh sát vừa dễ thực hiện, vừa tiện phổ biến và vừa có sức mạnh tương đương với bao bài viết. Hãy tận dụng tối đa khả năng và công dụng của các phương tiện như điện thoại cầm tay, youtube, faceboek, blogs, twitter để phổ biến tin tức, phim ảnh và sự thật. Có trận hỏa hoạn nào không bắt đầu từ những đốm lửa? Hãy bắt đầu Việc Lớn bằng những hành động nhỏ. Đừng để khát vọng về một cuộc Cách Mạng Dân Tộc-Dân Chủ ở Việt Nam mãi mãi chỉ là một giấc mơ mà hãy cùng nhau thực hiện ước vọng ấy.

Đa tạ SCB đã chia sẻ nhận định và đóng góp để bài viết có nội dung như trên.
Viết trong mùa tang lần thứ 27 của anh Trần Văn Bá như một nén nhang cho người nằm xuống.


14/01/2012



© DCVOnline







DCVOnline biên tập và minh hoạ. Chú thích của tác giả.

(1) The New York Times, Slap to a Man’s Pride Set Off Tumult in Tunisia by Kareem Fahim, Published: January 21, 2011
(2) Washington Post Foreign Service, January 17, 18 and 20, 2011 and The Jerusalempost January 25, 2011.
(3) Fox News Channel thuộc tập đoàn News Corporation một trong những công ty truyền thông quốc tế lớn nhất thế giới, sở hữu chủ của nhiều tờ báo, tạp chí, đài truyền hình, công ty phim ảnh tại Anh, Mỹ và Úc. Người sáng lập và lãnh đạo tập đoàn là Rupert Murdoch. Nhân vật có khuynh hướng và quan niệm bảo thủ được CNN Money xếp hạng 2 (chỉ sau Steve Jobs/Apple) trong 25 nhân vật quyền lực nhất thể giới trong lãnh vực thương trường => http://money.cnn.com/magazines/fortune/power25/2007/. Khả năng đặc biệt của Rupert Murdoch là biến những tờ báo đang đi xuống trở thành tờ báo được nhiều người thích đọc, bằng cách mở những mục đặc biệt gồm hình ảnh phụ nữ khỏa thân, tai nạn máu me, bạo lực (để hiểu tại sao câu “If it bleeds, it leads = càng có máu, càng ăn khách” - là câu phổ thông trong giới ký giả), cùng những tiết lộ “động trời” về “sự nghiệp ái/ngoại tình” lẩm cẩm của giới nghệ sĩ. Sự kiện Ruppert Murdoch phải đình bản tờ News of the World, tờ báo lâu đời nhất của Anh quốc với lịch sử 168 năm, vì những thủ đoạn lấy tin, dựng tin bằng cách nghe lén bị phanh phui bởi Scotland Yard tạo chấn động dư luận tại Anh, tự nó đã đủ nói lên tất cả. Câu hỏi còn lại: Nên trách Ruppert Murdoch hay trách độc giả đây?
(4) Het zijn net mensen, beelden uit het Midden-Oosten, Joris Luyendijk (Họ cũng giống như người, những hình ảnh từ Trung Đông – pag. 13 – trang 13, xuất bản lần đầu vào tháng 6 nẳm 2006, tái bản lần thứ 19 vào tháng 1 năm 2008 (1e druk juni 2006 – 19e druk - jannuari 2008) Qua màn hình CNN chúng ta thấy những khuôn mặt xúc động, vui mừng của người dân Iraq, dùng giầy đập vào mặt pho tượng, miệng thốt lên câu “Thank you mister Bus” trong lúc người thực hiện chương trình tuyên bố “đây là phút lịch sử”. Nhưng từ một góc cạnh khác Al Jazeera cho thấy hình ảnh lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ phủ lá cờ Hoa Kỳ lên bức tượng lưng chừng gẫy đổ, rồi lại cất đi và hình ảnh người reo hò, vui mừng, được chiếu từ một khoảng cách xa đủ để thấy “đám đông” thật thưa thớt và hầu hết đều chỉ đứng từ xa để nhìn.
(5) http://nos.nl/artikel/209553-waarom-mohammed-zichzelf-in-brand-stak.html. .Truy cập ngày 14/01/2012.
http://nos.nl/video/213027-tunesische-familie-over-zelfverbranding-zoon.html. .Truy cập ngày 14/01/2012. Trong bài phóng sự đăng ngày 6 tháng 1 năm 2011 – phóng viên đài truyền hình NOS viết rằng Mohammed Bouazizi tốt nghiệp đại học và vì không tìm được công việc nên đã phải đi bán rong – chi tiết này được lập lại trong phóng sự truyền hình chiếu ngày 20 tháng 1 năm 2011. Theo bản tin đăng trên báo The New York Times ngày 22 tháng 1 năm 2011 với tựa đề “Slap to a Man’s Pride Set Off Tumult in Tunisia - Cái tát vào danh dự người đàn ông gây nên biến động ở Tunisia” của tác giả Kareem Fahim thì Mohammed Bouazizi chưa hề đặt chân vào ngưỡng cửa đại học. – Nguyên nhân nào dẫn đến sự lầm lẫn này?Phải chăng hiện tượng sùng bái trí thức vẫn còn tồn tại ở một dân tộc nổi tiếng bình dân bạt mạng này?(thắc mắc riêng của người viết).
(6) The New York Times, This Is Just the Start by Thomas L. Friedman, Published: March 1, 2011.
(7) The New York Times, Ex-General Who Ruled South Vietnam Dies, Published: July 23, 2011 – Theo tờ NY Times ông Kỳ gặp bà vợ thứ ba ở Thái Lan
trong thời gian sống tạm ở đó. Hãy hỏi ông Võ Văn Ẩn hoặc ông Lý Tống và nhiều người khác sống ở New Orleans để biết sự thật thế nào.
(8) http://www.america.gov/st/texttrans-english/2011/January/20110111171532su0.726681.html.Truy cập ngày 14/01/2012.
(9) http://www.bbc.co.uk/news/world-africa-12195025. Truy cập ngày 14/01/2012.
(10) http://af.reuters.com/article/topNews/idAFJOE70O0KF20110125. Truy cập ngày 14/01/2012.
(11) Washington Post, Egypt’s Unstable Regime, January 25, 2011.
(12) http://www.cbsnews.com/8301-503544_162-20030108-503544.html. Truy cập ngày 14/01/2012.
(13) http://www.bbc.co.uk/news/world-us-canada-12374753. Truy cập ngày 14/01/2012.
(14) The New York Times, West Backs Gradual Egyptian, Published: February 5, 2011
(15) http://www.lefigaro.fr/flash-actu/2011/01/24/97001-20110124FILWWW00482-tunisie-sarkozy-defend-alliot-marie.php và
http://www.lefigaro.fr/flash-actu/2011/01/30/97001-20110130FILWWW00052-tunisie-mam-n-a-pas-pense-demissionner.php. Truy cập ngày 14/01/2012.
(16) http://www.radio1.nl/contents/25344-de-opstand-in-egypte-arabist-fred-leemhuis-europarlementari-r-hans-van-baalen-en-amerika-deskundige-maarten-van-rossem. Truy cập ngày 14/01/2012.
(17) http://nos.nl/audio/221872-het-oog-wat-doet-hans-van-baalen-in-cairo.html. Truy cập ngày 14/01/2012.
(18) http://nos.nl/audio/215296-oog-studiogesprek-over-de-situatie-in-egypte.html. Truy cập ngày 14/01/2012.
(19) Arab Human Development Report 2002 là một công trình nghiên cứu độc lập với sự đóng góp của nhiều học giả trong khối Ả Rập và được tài trợ bởi Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc. Được xem như bản báo cáo quy mô, khoa học nhất về tình hình Ả Rập từ xưa đến nay. Ngay từ đầu bản báo cáo này được đón nhận nồng nhiệt, được đánh giá là một công trình nghiên cứu tầm vóc thế giới và năm 2003 được giải Prins Claus (tên của người chồng, đã qua đời, của bà Nữ hoàng Hòa Lan hiện nay), giải thưởng dành cho công trình đóng góp văn hóa và phát triển xuất sắc tại quốc gia thuộc Á, Phi châu, Nam Mỹ và quần đảo thuộc Châu Mỹ La Tinh. Số liệu dẫn chứng từ các trang 2, 3, 27, 44-45, 51-52, 66.
(20) Sohne und Weltmacht, Terro im Aufstieg und Fall der Nationen (Những người con trai và quyền lực thế giới, khủng bố trong sự hình thành và sụp đổ của một quốc gia) – 2003 Orell Fussli Verlag AG – This translation 2008 Nieuw Amsterdam Uitgevers – pag. 12-13 và 132 (sách xuất bản lần đầu năm 2003 và cập nhật hóa vào tháng 12 năm 2007)
(21) Het zijn net mensen, beelden uit het Midden-Oosten, Joris Luyendijk (Họ cũng giống như người, những hình ảnh từ Trung Đông – trang 91-92, xuất bản lần đầu vào tháng 6 nẳm 2006, tái bản lần thứ 19 vào tháng 1 năm 2008 (1e druk juni 2006 – 19e druk - jannuari 2008). Tác giả từng sống nhiều năm ở Bắc Phi và làm việc cho những cơ quan thông tin có uy tín nhất ở Hòa Lan, được giải thưởng Golden Pen dành cho ký giả. Hiện nay ông là cộng tác viên của tờ Guardian tại Anh.
(22) Arap Human Development Report 2009. Số liệu dẫn từ các trang 103, 108-109, 111, 132, 194-209. Theo tờ Guardian, số ra ngày 17 tháng 2 năm 2011, ký giả Duncan Green cho biết 2/3 dân số Ai Cập trẻ hơn 30 tuổi (thời kỳ trai trẻ, sung mãn và thích hợp nhất để làm cách mạng), mỗi năm chỉ có 200.000 công việc cho 700.000 sinh viên tốt nghiệp.
(23) http://nos.nl/artikel/216362-vn-verwacht-stijging-voedselprijzen.html. Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc đầu tháng 2 năm 2011 báo động về tình trạng giá tăng vọt suốt 7 tháng liên tục và từ năm 1990 cho đến nay, chưa bao giờ giá dầu, đường và lúa mì cao như vậy. Truy cập ngày 14/01/2012.
(24) Sohne und Weltmacht, Terro im Aufstieg und Fall der Nationen (Những người con trai và quyền lực thế giới, khủng bố trong sự hình thành và sụp đổ của một quốc gia) – 2003 Orell Fussli Verlag AG – This translation 2008 Nieuw Amsterdam Uitgevers – pag. 71 (sách xuất bản lần đầu năm 2003 và cập nhật hóa vào tháng 12/2007)
(25) https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/geos/vm.html. Truy cập ngày 14/01/2012.
(26) Trưóc khi bức tường Berlin sụp đổ, tại những khu tập thể của hàng chục ngàn dân “xuất khâu lao động” được gởi sang các quốc gia Cộng Sản Đông Âu, cuộc “cách mạng tình dục” được thực hiện dưới đủ mọi hình thức. Vì công ăn, việc làm, vì dư luận vì ảnh hưởng và tương lai, phá thai là một hiện tượng phổ biến. Có những cô gái phá thai nhiều đến độ mất hẳn khả năng sinh sản. Sự kiện này không phải đọc qua sách vở, báo chí mà chứng kiến và nghe chính người trong cuộc kể lại. Từng học hỏi, thực tập và rút tỉa kinh nghiệm trong một quy mô rộng lớn như thế, hơn 20 năm sau, bài học cũ được áp dụng lại ở những khu tập thể dành cho công nhân là điều không ai ngạc nhiên. Cái gọi là cuộc cách mạng tình dục……thật ra đã bắt đầu từ hơn 20 năm trước!
(27) NRC Handelsblad – Vrijdag 4 februari 2011 – Liefde ontbreekt op bruidsmarkt Viet Nam (thứ sáu ngày 4 tháng 2 năm 2011 – Không có tình yêu ở chợ Cô Dâu) Donderdag 10 februari 2011 – Welvaart leidt tot seksuele revolutie in de heilstaat, Door Elske Schouten (thứ năm ngày 10 tháng 2 năm 2011 - Thịnh vượng dẫn đến cách mạng tình dục ở một chế độ không tưởng – do Elske Schouten)
(28) La Mã nổi tiếng với Giác Đấu trường (Colosseum) là việc của qúa khứ. Trong lịch sử cận đại Pháp độc quyền bán thuốc phiện ở Việt Nam, Hòa Lan làm tương tự như thế ở Nam Dương và Anh áp dụng ở Trung Hoa. Có gì mâu thuẫn giữa thực tế và chủ trương “đem ánh sáng khai hóa và tinh thần bác ái của tôn giáo” đến cho người dân thuộc địa? Đừng thắc mắc gì cả! Đau khổ trong cuộc sống hiện tại đã có rượu và thuốc phiện - đời sống tinh thần, nhất là sau khi chết đã có tôn giáo. Mẫu quốc và chính quyền bảo hộ lo lắng cả phẩn hồn lẫn phần xác như thế chu đáo đấy chứ? 


-Nỗi thống khổ của dân oan huyện Từ Liêm  –  (RFA). – LÊ GIA NINH: SỰ TÍCH BÀI THƠ “CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ” CỦA NHÀ THƠ PHÙNG QUÁN (Quê choa).
- GS Tương Lai: Nghĩ về bản lĩnh Việt Nam (Việt sử ký). -
Thành phố Hồ Chí Minh gặp mặt mừng Xuân – mừng Ðảng (ND).- Hà Sỹ Phu – Câu đối và Thơ khai bút: Buồn vui năm Rồng  – (BoxitVN). - – Tết Nhâm Thìn, lạm bàn về một người viết câu đối thời @… – (BoxitVN). – Phỏng vấn nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên: – Đảng và trí thức VN trong bối cảnh mới  –  (BBC). - Lãnh đạo Đảng, Nhà nước thăm và chúc tết (SGGP). - Lãnh đạo Đảng, Nhà nước thăm, chúc tết tại các địa phương (TN).
-Chuyện về người Việt tị nạn tại Thái – (RFA).- FAO-EU hỗ trợ Việt Nam ‘canh tác thông minh’   –  (VOA).  – Malawi, Zambia và Việt Nam: Ba quốc gia thử nghiệm canh tác thông minh – (VOA). – Việt Nam gửi 1.000 nông gia sang Israel học tập kinh nghiệm   –  (VOA).
Người Việt làm Tổng thư ký Asean  –  (BBC). -Xây dựng, chỉnh đốn Đảng: Không hành động thật thì lòng tin càng giảm (PLTP 15-1-12)  -- Các "lão đồng chí" nói rất hay!Quốc vương Qatar thăm Việt Nam  –  (BBC). - Chủ tịch nước hội đàm với Quốc vương Qatar (TN).-----

Tổng số lượt xem trang