Nguồn: George Friedman - Stratfor
FitFormFunction, X-Cafe chuyển ngữ - 19.03.2012
Chiến tranh ở Afghanistan đã được diễn tiến hơn 10 năm nay. Đó không phải là cuộc chiến duy nhất trong suốt thời gian này, với bảy trong số những năm đó, cuộc chiến tranh lớn khác đã được tiến hành ở Iraq và những cuộc xung đột nhỏ hơn cũng được diễn ra ở một số nước khác. Nhưng Chiến tranh Afghanistan vẫn là quy mô - lâu dài nhất, là cuộc chiến đa - sư đoàn trong lịch sử nước Mỹ. Việc một người lính Mỹ giết hại 16 thường dân Afghanistan, trong đó có chín em bé vào ngày 11 tháng 3 chỉ thể hiện cho một thời điểm trong cuộc chiến trường kỳ này, nhưng nó là một thời điểm quan trọng.
Trong quá trình của các cuộc chiến tranh Iraq và Afghanistan, các nhà chiến lược quân sự tại Hoa Kỳ đã triển khai quan niệm về cuộc chiến trường kỳ. Lý thuyết này được thể hiện bằng nhiều cách, nhưng lập luận cốt lõi của nó là điều này: Việc đánh bại lực lượng Taliban và khả năng kháng cự của người Iraq sẽ phải tốn một thời gian dài, nhưng sự thành công sẽ không chấm dứt được chiến tranh vì chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo và những kẻ ủng hộ nó sẽ là một mối đe dọa liên tục thay đổi, ở cả nơi chốn và những phương cách mà họ sẽ hoạt động. Do đó, khi mà việc đánh bại khủng bố là điều cần thiết, Hoa Kỳ đã và đang tham gia vào một cuộc chiến lâu dài mà kết thúc còn xa vời và chiều hướng thì vô định.
Đôi khi rõ ràng nhưng lại thường tiềm ẩn trong lập luận này là những vấn đề chiến lược khác mà Hoa Kỳ đối mặt phải được đặt sang bên và cuộc chiến trường kỳ phải là trung tâm chính sách chiến lược của Hoa Kỳ cho đến khi mối đe dọa của khủng bố Hồi giáo biến mất hoặc ít nhất cũng lắng dần xuống. Kết quả là, theo lý thuyết này – điều mà ảnh hưởng chiến lược Mỹ rất nhiều - thậm chí nếu cuộc chiến ở Afghanistan kết thúc, cuộc chiến tranh trong thế giới Hồi giáo sẽ tiếp diễn vô thời hạn. Chúng ta cần phải xem xét những hậu quả của chiến lược này.
Trung sĩ Robert Bales, người bị cáo buộc gây ra cuộc tàn sát kinh hoàng tại Afghanistan, đang trong kỳ công tác vụ lần thứ tư. Anh ta đã phục vụ ba trong chín chuyến đi ở Iraq, 15 và 12 tháng - anh đã có mặt tại chiến trường trong ba năm. Chuyến công vụ tại Afghanistan xem như là năm thứ tư của anh. Những cuộc chiến mà anh đã từng chiến đấu khác với những cuộc chiến trước đó. Fallujah và Tora Bora không phải là Stalingrad.Tuy nhiên, gian khổ, nỗi lo sợ, và mối đe dọa của cái chết luôn hiện diện. Xác suất tử vong có thể thấp hơn, nhưng nó hiện diện ở đó, nó là sự thật, và bạn có thể nhớ tên các đồng đội mà bạn đã từng thấy chết.
Ở Việt Nam, chỉ có các tình nguyện viên phục vụ hơn một công tác vụ thường niên. Đối với người Mỹ trong Thế chiến II, cuộc chiến tranh kéo dài hơn ba năm một chút, và chỉ có một số ít quân đội Mỹ tham chiến trong khỏang thời gian đó. Sự tham gia của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất kéo dài chưa đầy hai năm, và hầu hết các binh sĩ Mỹ được quân chuyển cho một năm hoặc ít hơn. Trong lịch sử Hoa Kỳ, chỉ có cuộc Nội chiến và Chiến tranh Cách mạng kéo dài lâu như Bales đã phục vụ.
Những hành động tàn bạo xảy ra trong tất cả các cuộc chiến tranh. Đây là một sự quan sát, không phải là một cái cớ. Và nó có nhiều khả năng xảy ra khi một người lính ở lâu trong chiến trận. Chiến tranh thì tàn ác và nó làm linh hồn của các chiến binh thêm hung bạo. Một số họ cưởng chế được sự hung tàn cách tốt hơn so với những người khác, nhưng không ai có thể nhìn thấy cái chết thường xuyên và không bị thay đổi. Cũng quan trọng như, kẻ thù thì vô nhân đạo. Bạn không thể chiến đấu và sợ hãi họ trong nhiều năm và đến độ không xem họ như một người xa lạ với bạn. Thậm chí tệ hơn, khi mà kẻ thù và dân chúng thật là khó phân biệt, như là trường hợp trong cuộc chống khởi nghĩa, sự sợ hãi và cơn thịnh nộ lan rộng đến tất cả mọi người. Trong trường hợp của Bales, nó thậm chí còn lan rộng đến cho trẻ em.
Đó là không có khác nhau cho tiết kiệm Taliban hai điều. Đầu tiên, họ đang chiến đấu cho quê hương và trong quê hương của họ. Người Mỹ chiến đấu cho quê hương đất nước với cảm giác rằng họ đang chiến đấu chống khủng bố, nhưng cuộc chiến đó trở nên trừu tượng sau một thời gian. Đối với Taliban thì là một thực tế. Người Mỹ có thể về nước và có thể trở nên cay đắng với những người không bao giờ chia sẻ gánh nặng. Taliban đang ở nước nhà, và sự cay đắng của họ ở những người không chia sẻ gánh nặng thì vượt xa sự cay đắng của người Mỹ. Thứ hai, một thực tế của chiến tranh là sự tàn bạo của Taliban thì vô hình đối với các phương tiện truyền thông phương Tây, nhưng chúng đang có đó, ngay cả khi các phóng viên không có mặt. Có thể nói rằng Taliban đã trở nên hung ác bởi nhiều năm chiến đấu ngay trước khi người Mỹ đến, nhưng cuối cùng, thực tế của sự hung ác thì quan trọng hơn cả căn nguyên.
Điều quan trọng là hãy nhớ rằng đối với Hoa Kỳ, chiến tranh Afghanistan là cuộc chiến lớn đầu tiên kể từ cuộc Nội chiến mà không liên quan đến một dự thảo. Đối lập với dự thảo trong quá trình Việt Nam đã làm gia tăng quân đội tình nguyện. Một điều không ai cho rằng sau khi Việt Nam thì Hoa Kỳ sẽ cố gắng tham chiến chống khởi nghĩa trên địa lục Á châu thêm lần nữa, và do đó các điều kiện để tái lập dự thảo chưa bao giờ được xem xét.
Khi cuộc chiến ở Afghanistan bắt đầu, không có lý thuyết của cuộc chiến lâu dài. Nó đã được giả định rằng mục tiêu là việc phân rẻ và tiêu diệt al Qaeda, và ý niệm vĩ đại hầu Dân chủ hóa Afghanistan không phải là một phần của chính sách. Tại Iraq, giả định cho rằng việc đánh bại lực lượng thông thường của Saddam Hussein sẽ không cần thiết cách đáng kể cho chi phí cũng như thời gian và sẽ không có sự kháng cự để xây dựng một nền dân chủ thân Mỹ ở đó. Phải mất thời gian cho sứ mệnh ở Afghanistan để bò lên nền dân chủ hóa, và phải mất một thời gian để nhận ra rằng không phải tất cả người dân Iraq đều cổ vũ sự chiếm đóng của Mỹ.
Nhưng ngay cả khi điều đó trở nên rõ ràng rằng Hoa Kỳ đang ở trong một cuộc chiến trường kỳ, không những là Bush lẩn chính quyền của Tổng thống Obama cũng chưa từng phải vật lộn với hậu quả của một lực lượng mà trong đó mỗi cá nhân có thể phải chiến đấu trong bốn năm và nhiều hơn nữa. Và chúng ta có thể bao gồm những mối nguy hiểm cho cả những người không trực tiếp chiến đấu và các đội ở tổng hành dinh, những người phải đối mặt với súng cối và đạn pháo bắn vào bàn làm việc của họ. Không ai thoát khỏi được gánh nặng.
Kết quả là một cuộc chiến tranh đã được nhìn thấy nơi chiến tuyến là không phải đòi hỏi một nỗ lực to lớn nhưng điều đó đòi hỏi một số người tình nguyện ở lại chiến đấu lâu hơn nhiều người đã từng ở trong Thế chiến II. Và trong khi tất cả các binh sĩ tình nguyện là thật, các tình nguyện viên chưa hẳn đã sẵn sàng hơn chính phủ về nhịp độ của các chiến dịch mà họ sẽ phải đối mặt. Ngoài ra, họ không phải luôn luôn được tự do bỏ đi. Trong lúc cao điểm của chiến tranh, một số những người cố gắng rời quân vụ khi thời gian của họ sắp hết thì bị "đình chỉ” lại. Đối với họ, nó trở nên một quân đội bị giam cầm hơn là một đội quân tình nguyện.
Học thuyết về cuộc chiến trường kỳ được chiến đấu bởi quân đội hiện nay thất bại khi không đề cập đến việc cho dù quân đội có thể duy trì cuộc chiến hay không. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Donald Rumsfeld lập luận rằng bạn chiến đấu với quân đội mà bạn có. Những gì ông đã không đề cập đến là rằng trong khi bạn bắt đầu chiến đấu với quân đội mà bạn có, như Hoa Kỳ đã làm trong chiến tranh Thế giới II, bạn không tiếp tục chiến đấu với quân đội đó, nhưng là di chuyển để huy động quốc gia. Nhưng Rumsfeld đã không nhận thức được cuộc chiến tại Afghanistan sẽ kéo dài bao lâu, và đặc biệt là, ông đã không dự đoán phí tổn sẽ có cho hai cuộc chiến tranh đa-sư đoàn. Cũng cần lưu ý rằng Bales bắt đầu với ba chuyến đi Iraq. Cuộc chiến ở Iraq có thể đã qua, nhưng những hậu quả của nó đối với lực lượng còn tồn lại.
Những gì Bales bị cáo buộc đã làm là không thể tha thứ. Đã có nhiều hành động tàn bạo, cả khi được ghi lại và không, cả khi công khai và khi mơ hồ, và chỉ huy bởi cả NATO và Taliban. Thật không thực tế khi tưởng tượng một cuộc chiến tranh dài mà không có hành động tàn bạo này. Nhưng trong cuộc chống nổi dậy, mục tiêu là không chỉ đơn giản là sự thất bại của lực lượng kẻ thù mà còn thuyết phục người dân chuyển hướng chống lại lực lượng đó thì là quá trình an toàn nhất, một cuộc tàn sát như thế này có thể có hậu quả chiến lược. Taliban hoạt động chiến tranh tâm lý sẽ tập trung vào các vụ giết người như họ đã làm với các sự cố đốt cháy kinh Koran tại một căn cứ Mỹ. Trong khi đó, những nỗ lực chiến tranh tâm lý của Mỹ sẽ tập trung vào quân đội Mỹ, cả hai phải đảm bảo rằng họ vẫn còn giữ được sự kiềm chế và -- sau khi vụ nổ súng ngày 25 tháng 2 của hai sĩ quan trong một bộ phủ Kabul bởi một đồng nghiệp Afghanistan -- trấn an họ rằng họ không phải là sợ người Afghanistan, vì khi nhiệm vụ của họ là đào tạo người Afghanistan.
Chiến tranh dài, mà không có một sự điều chỉnh lớn nơi cơ cấu lực lượng Mỹ, tạo ra hậu quả không lường cho chiến lược. Một hệ quả là khi một lực lượng có chứa một số lớn quân nhân và họ đang ở mức giới hạn của sự chịu đựng. Hành động của họ có khả năng làm suy yếu mục đích chiến lược chống nổi dậy: đó là sự chiến thắng nơi quần chúng. Điều đó mở ra cánh cửa làm tăng ảnh hưởng của Taliban và làm giảm khuynh hướng để thương lượng của Taliban khi vị thế của Mỹ bị suy yếu. Nói cách khác, quân đội không phải là những con số trên bàn tổ chức. Họ bị kiệt sức.
Có bốn giả định chiến lược của cuộc chiến trường kỳ mà cơ bản là tất cả những điều này. Đầu tiên là cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo có thể được chiến thắng và điều đó cuối cùng còn hơn là một mối đe dọa phải chịu chấp nhận. Thứ hai là các chiến dịch có quy mô lớn như ở Iraq và Afghanistan giúp đạt được mục tiêu đó. Thứ ba, rằng Hoa Kỳ có thể tiến hành một cuộc chiến tranh dài như thế này mà không cần phải điều chỉnh lớn đối với cuộc sống trong nước. Thứ tư, rằng điều này cần phải tiếp tục là trung tâm của chiến lược Mỹ vô thời hạn, bất kể các sự kiện khác trên thế giới - nói cách khác, rằng đây là thách thức quan trọng duy nhất đang trực diện Hoa Kỳ.
Cuộc đổ quân vào Afghanistan là chiến lược chính đáng như là một phương tiện phá vỡ al Qaeda và ngăn chặn các cuộc tấn công theo sau để chống lại Hoa Kỳ. Cuộc đổ quân vào Iraq được dựa trên một giả định sai lầm rằng người Iraq sẽ không chống lại sự chiếm đóng. Khi các cuộc chiến tranh đã đi xa hơn, tình hình quân sự trở nên khó khăn hơn trong khi các mục tiêu thì triển rộng. Sự triển rộng cuối cùng là ý tưởng cho rằng Hoa Kỳ đã đưa quân vào một cuộc chiến vô thời hạn dài, với các lực lượng có sẵn, và rằng điều này sẽ liên quan đến việc trú đóng các nước lớn và thù địch.
Tôi lập luận trong cuốn sách vừa qua của tôi, "Thập kỷ tới", là rằng sự nguy hiểm của đế chế là nó đe dọa nền cộng hòa. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Hoa Kỳ đã trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới, kết hợp sức mạnh quân sự, kinh tế và chính trị trên cơ sở toàn cầu. Cho dù họ có muốn quyền lực này hay không, họ đã có. Trong vòng một thập kỷ của việc Liên Xô sụp đổ, 9/11 đã xảy ra. Dù ý định ban đầu của họ là gì đi nữa, Hoa Kỳ tìm thấy chính họ trong một cuộc chiến tranh đã kéo dài hơn 10 năm. Cuộc chiến tranh đó đã làm căng thẳng nguồn tiềm lực Mỹ. Nó cũng làm căng thẳng cơ cấu đời sống Mỹ.
Mối đe dọa cho nền cộng hòa đến từ nhiều hướng, từ việc tạo ra các hệ thống quốc phòng, làm suy yếu những nguyên tắc cộng hòa khi đánh giá quá cao khả năng quân sự và đưa nước cộng hòa vào một cuộc chiến tranh mà thời kết không rõ ràng và các phương sách không đầy đủ. Chiến tranh biến đổi các quốc gia, và cuộc chiến trường kỳ thay đổi cuộc sống trong nước và tạo ra một chính sách ngọai giao không cân bằng. Hầu hết, nó tạo ra một đẳng cấp chuyên nghiệp nhằm tham chiến các cuộc chiến tranh được coi là vô hạn trong khi phần còn lại của xã hội, mặc dù phải trả các hóa đơn, không nhìn thấy chiến tranh như là một phần của cuộc sống hàng ngày. Việc xa rời giữa người công dân và người lính trong một quốc gia đang gặp khó khăn để hòa giải năng lượng toàn cầu với các thể chế cộng hòa theo lịch sử là nguy hiểm.
Điều này làm tất cả mọi nguy hiểm được tăng hơn bởi vì quân đội đang đạt tới giới hạn của nó. Chống lại chủ nghĩa khủng bố là quan trọng. Loại bỏ nó là một ảo tưởng. Để tiếp tục cuộc chiến lâu dài với các lực lượng có sẵn lợi ích của Mỹ không được đảm bảo và bị đặt trong quá trình chuyển động làm đe dọa nền cộng hòa. Gác lại những mối đe dọa cho nền cộng hòa, một quân đội ở mức giới hạn của nó và lại còn chiến đấu chống lại một cuộc chiến tranh bên lề của ý thức dân tộc thì sẽ không có hiệu quả.
- Dư luận về ngôi minh chủ thế giới của Trung Quốc
Chữ “minh chủ” ở trên rõ ràng được mô phỏng theo ngôn ngữ phim Tàu.
Trong phim kiếm hiệp Tàu, hầu như người nào có võ nghệ cao cường cũng đều mong ước trở thành minh chủ võ lâm. Không đủ sức thì dùng đủ mọi thứ mưu mô, thủ đoạn. Hiện nay, chính phủ Trung Quốc hình như cũng muốn tham vọng ấy: muốn giành ngôi minh chủ thế giới của Mỹ.
Để trở thành “minh chủ” hay nước lãnh đạo thế giới, người ta cần ba điều kiện chính: một, một siêu quyền lực về quân sự để có khả năng can thiệp vào tình hình chính trị ở bất cứ nơi nào trên thế giới; hai, một siêu quyền lực về kinh tế để có khả năng ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển ở quy mô toàn cầu; và ba, một siêu quyền lực mềm (soft superpower) để trở thành một bảng giá trị chuẩn phổ quát được mọi người ngưỡng mộ, chấp nhận và học tập.
Trước khi bàn đến từng điểm trong ba điều kiện ấy, chúng ta thử tìm hiểu một vấn đề khác: trên thế giới, người ta có tin là Trung Quốc có đủ sức để trở thành một siêu cường số một và đóng vai trò lãnh đạo thế giới hay không? Câu trả lời phổ biến nhất là: Có. Kết quả một cuộc thăm dò dư luận do Pew Research Center’s Global Attitudes Project thực hiện trong hai tháng, từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2011,[1] cho thấy, ở 15 trong số 22 quốc gia được thăm dò, phần lớn dân chúng nghĩ là Trung Quốc đã hoặc/và đang thay thế Mỹ trong vai trò một siêu cường đứng đầu thế giới. Tỉ lệ dân chúng tin điều đó ở Pháp là 72%; ở Tây Ban Nha là 67%; ở Anh là 66% và ở Đức là 61%. Ngay chính ở Mỹ, dân chúng cũng phân vân: một nửa nghĩ là không và một nửa khác tin là có. Số lượng quốc gia cho là Trung Quốc không bao giờ giành được vị thế minh chủ thế giới tương đối ít: Thổ Nhĩ Kỳ, Lebanon, Nhật Bản, Indonesia và Brazil (Xem bảng “Will China replace U.S. as world’s leading superpower?” – Trung Quốc sẽ thay thế Mỹ trong vai trò siêu cường đứng đầu thế giới?).
Điều đáng chú ý không phải chỉ ở tỉ lệ áp đảo của những người tin là Trung Quốc sẽ trở thành siêu cường số một mà còn ở tốc độ của sự thay đổi trong nhận định của dân chúng. Ở trên, chúng ta thấy là ở Mỹ, 46% dân chúng tin vào điều đó. Trước đó, vào năm 2009, tỉ lệ những người tin như vậy chỉ có 33%. Như vậy, chỉ có hai năm mà thêm 13%. Điều đáng ngạc nhiên là số người tin Trung Quốc đóng vai trò đầu đàn về kinh tế tương đối thấp hơn. Phần lớn các nước Đông Âu, Á châu và Phi châu vẫn tiếp tục tin tưởng vào Mỹ. Nhưng dân chúng ở các nước phát triển nhất ở Tây Âu, ngược lại, càng ngày càng tin là vai trò lãnh đạo về kinh tế đang dần dần lọt vào tay Trung Quốc.
Sự thay đổi trong cách nhận định này, từ năm 2009 đến năm 2011, ở Tây Ban Nha là 27%; ở Đức là 20%; ở Anh là 13% và ở Pháp là 12% (Xem bảng “More Western Europeans convinced China is world’s leading economy” – Càng ngày càng nhiều người Tây Âu tin Trung Quốc là nền kinh tế dẫn đầu thế giới). Điều đáng chú ý nhất là phản ứng của dân chúng các nước trước sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc. Ở đây có hai khía cạnh. Thứ nhất, về khía cạnh kinh tế, phần lớn các phản ứng có tính chất lạc quan. Tổng cộng có 13 quốc gia tin là sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc sẽ có lợi cho họ. Nhưng ở khía cạnh thứ hai, về quân sự, chỉ có 4 quốc gia cho là sự phát triển của Trung Quốc là điều tốt. Còn lại, tất cả đều xem đó là một đe dọa. Nước có cái nhìn thiên về sự đe dọa ấy nhiều nhất là Nhật (87%), kế tiếp là Pháp (83%); Mỹ và Đức (79%), Tây Ban Nha và Nga (74%), Anh (71%), Ba Lan (68%), Thổ Nhĩ Kỳ và Israel (66%) (Xem bảng “How China’s growing power affects your country” – Sự phát triển của Trung Quốc ảnh hưởng đối với nước bạn như thế nào).
Trong bảng “Would it be good or bad if China became as powerful military as the U.S.?” – Sẽ là một việc tốt hay xấu nếu Trung Quốc trở thành một siêu cường quân sự như Mỹ?, chúng ta có thể thấy rõ hơn quan niệm của dân chúng từng nước đối với việc phát triển quân sự của Trung Quốc trong những năm gần đây: Xin lưu ý là đối tượng chính của cuộc thăm dò dư luận này là quần chúng. Kỳ tới, chúng ta sẽ nhìn vấn đề từ góc độ của các chuyên gia. Giữa hai góc độ này, có sự khác biệt khá lớn.
Một điều khác cũng cần lưu ý là dường như không ai quan tâm đến việc thăm dò ý kiến của dân chúng Việt Nam về sự phát triển của Trung Quốc ở cả hai lãnh vực kinh tế và quân sự. Nếu một cuộc thăm dò như thế được thực hiện một cách nghiêm túc, kết quả có lẽ sẽ rất thú vị.
Và vô cùng cần thiết cho giới hoạch định chính sách ở Việt Nam.
[1] Toàn bộ số liệu trong bài này đều lấy từ trang web: http://www.pewglobal.org/2011/07/13/chapter-1-the-global-balance-of-power/
-Theo: http://www.voanews.com/vietnamese/blogs/quoc/minh-chu-the-gioi-03-05-2012-141617473.html
-George Friedman - Trạng thái của thế giới: Giải thích Chiến lược Hoa Kỳ
Nguồn: George Friedman - Stratfor
FitFormFunction, X-Cafe chuyển ngữ -28.02.2012
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết đã kết thúc kỷ nguyên của châu Âu, khoảng thời gian mà quyền lực châu Âu thống trị thế giới. Để lại Hoa Kỳ như là một cường quốc toàn cầu duy nhất, một cái gì đó mà họ không được chuẩn bị về mặt văn hóa và thể chế. Kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, Hoa Kỳ đã định nghĩa chính sách đối ngoại của mình là về cuộc đối đầu với Liên Xô. Hầu như tất cả mọi thứ họ đã làm trên khắp thế giới theo những tính cách có liên quan đến cuộc đối đầu này. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết cùng một lúc cho Hoa Kỳ thóat khỏi một cuộc đối đầu nguy hiểm và loại bỏ các trọng tâm của chính sách đối ngoại của mình.
Trong quá trình một thế kỷ, Hoa Kỳ đã đi từ vị trí hạng rìa cho đến một cường quốc trên thế giới. Họ đã tiến hành chiến tranh hoặc chiến tranh lạnh từ năm 1917 đến năm 1991, với khoảng 20 năm hòa bình giữa hai cuộc chiến tranh chi phối bởi cuộc Đại suy thoái và rất nhiều sự can thiệp ở châu Mỹ La tinh. Theo đó, thế kỷ 20 là một thời gian xung đột và khủng hoảng cho Hoa Kỳ. Họ bước vào một thế kỷ mà không phát triển cách hiệu quả các tổ chức chính phủ nhằm để quản lý chính sách đối ngoại của mình. Họ xây dựng chính sách ngoại giao của mình như bộ máy để đối phó với chiến tranh và mối đe dọa của chiến tranh, sự vắng mặt bất ngờ của đối phương tất nhiên để lại cho Hoa Kỳ sự mất cân bằng.
Sau Chiến tranh Lạnh
Thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh có thể được chia thành ba phần. Thứ nhất, là sự lạc quan và không chắc chắn, kéo dài từ năm 1992 đến năm 2001. Một mặt là, sự sụp đổ của Liên Xô hứa hẹn một thời kỳ phát triển kinh tế thay thế chiến tranh. Mặt khác, các tổ chức của Mỹ đã được sinh ra trong thời chiến, do đó, để dễ nói chuyện, biến đổi chúng trong một thời gian hòa bình dường như là không dễ dàng. Tổng thống George W Bush và Bill Clinton cả hai đều theo đuổi một chính sách được xây dựng xung quanh tăng trưởng kinh tế, với định kỳ và không hoàn toàn dự định can thiệp quân sự ở những nơi như Panama, Somalia, Haiti vàKosovo.
Những sự can thiệp này đã không được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia của Mỹ. Trong một số trường hợp, họ được xem như là giải quyết một vấn đề bên lề, chẳng hạn như việc buôn bán ma túy của nhà độc tài Manuel Noriega ở Panama. Ngoài ra, họ đã được giải thích là nhiệm vụ chủ yếu là nhân đạo. Một số đã tìm kiếm một mô hình hoặc logic với những can thiệp khác nhau, trong thực tế, những việc này là ngẫu nhiên khi chúng xuất hiện, thúc đẩy bởi các vấn đề chính trị trong nước và áp lực liên minh hơn là so với bất kỳ mục đích quốc gia rõ ràng. Sức mạnh của Mỹ đa số trội hơn nên những chi phí can thiệp tương đối ít và thậm chí còn ít nguy hiểm hơn.
Thời gian cho những đặc ân đó kết thúc vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tại thời điểm đó, Hoa Kỳ phải đối mặt với một tình hình đồng dạng với nền văn hóa chiến lược của họ. Họ có một kẻ thù thực tế nếu không theo quy ước, một kẻ thù thể hiện mối đe dọa thực sự đối với đất nước. Các tổ chức đã từng được xây dựng trong và sau Thế chiến II có thể hoạt động hiệu quả. Trong một cách bi thương và kỳ lạ, Hoa Kỳ đã trở lại trong vùng thoải mái của họ, chiến đấu với một cuộc chiến tranh mà họ thấy như đang đánh vào họ.
Khoảng thời gian từ năm 2001 cho đến khoảng năm 2007 bao gồm một loạt các cuộc chiến tranh trong thế giới Hồi giáo. Giống như tất cả các cuộc chiến tranh khác, họ thực hiện những thành công rực rỡ và bị những thất bại khốn khổ. Họ có thể được đánh giá một trong hai cách. Đầu tiên,nếu các cuộc chiến tranh đã được dự định nhằm để ngăn chặn al Qaeda đừng bao giờ tấn công Hoa Kỳ thêm một lần nữa theo kiểu cách của 9/11, họ đã thành công. Ngay cả nếu cho là khó khăn để xem làm thế nào cuộc chiến ở Iraq được đan vào với mục tiêu này, tất cả các cuộc chiến tranh liên quan đến hoạt động không rõ ràng, biện pháp của chiến tranh là thành công. Tuy nhiên, nếu mục đích của các cuộc chiến này là để tạo ra những chế độ thân Mỹ tòan cầu, ổn định và mô phỏng các giá trị Mỹ, họ rõ ràng đã thất bại.
Đến năm 2007 và sự gia tăng ở Iraq, chính sách đối ngoại của Mỹ chuyển sang giai đoạn hiện nay. Không còn mục tiêu chính để thống trị khu vực. Thay vào đó, là họ rút khỏi khu vực trong khi cố gắng để duy trì chế độ có thể bảo vệ bản thân và không thù nghịch với Hoa Kỳ. Việc rút khỏi Iraq không đạt được mục tiêu này, rút quân khỏi Afghanistan lại có thể sẽ là không. Sau khi rút khỏi Iraq, Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Afghanistan bất kể hậu quả. Hoa Kỳ sẽ không kết thúc sự tham gia của mình trong khu vực, và mục tiêu chính nhằm đánh bại al Qaeda sẽ không còn là trọng tâm.
Tổng thống Barack Obama tiếp tục chiến lược của người tiền nhiệm, George W. Bush, thiết lập ở Iraq sau năm 2007. Trong khi Obama tăng sức ép vượt quá những gì ông Bush đã làm ở Afghanistan, ông vẫn chấp nhận khái niệm của sự đột biến gia tăng của lực lượng thiết kế hầu để tạo điều kiện cho việc thóai quân. Đối với Obama, cốt lõi của vấn đề chiến lược không phải các cuộc chiến tranh mà là vấn đề của những năm 1990 - cụ thể là, làm thế nào để Hoa Kỳ và các tổ chức của mình thích ứng với một thế giới mà không có sự hiện diện của kẻ thù lớn.
Sự thất bại của việc tái thiết
Nút bấm “reset” của Hillary Clinton đã gởi tới Nga dấu hiệu chiến lược của ông Obama. Rằng ông Obama muốn thiết lập lại chính sách đối ngoại của Mỹ theo thời gian trước khi 9/11, khoảng thời gian mà khi Mỹ can thiệp, mặc dù có khi thường xuyên, thật ra là thứ yếu và có thể được biện minh là nhân đạo. Các vấn đề kinh tế chi phối thời điểm đó, và các vấn đề chính được quản lý cách hữu hiệu. Nó cũng là một khoảng thời gian trongquan hệ Mỹ-châu Âu và Mỹ-Trung Quốc rơi vào sự liên kết, và khi quan hệ Mỹ-Nga vẫn ổn định. Obama do đó đã tìm cách quay trở lại với một khoảng thời gian khi hệ thống quốc tế ổn định, thân Mỹ và thịnh vượng. Trong khi nếu hiểu từ quan điểm của một người Mỹ thì, lấy ví dụ, Nga, thì những năm 1990 được xem như một thảm họa mà họ không bao giờ nên quay trở lại.
Các vấn đề trong chiến lược này là nó không thể thiết lập lại hệ thống quốc tế. Sự thịnh vượng của những năm 1990 đã trở thành những khó khăn sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Điều này rõ ràng tạo ra sự quá bận tâm với việc quản lý nền kinh tế trong nước, nhưng như chúng ta đã thấy trong phần đầu tiên của chúng tôi, cuộc khủng hoảng tài chính định nghĩa lại cách hoạt động của các phần còn lại của thế giới. Châu Âu, Trung Quốc và Nga của những năm 1990 không còn tồn tại, và Trung Đông cũng đoồng thời chuyển đổi.
Trong những năm 1990, có thể nói rằng châu Âu là một thực thể duy nhất với hy vọng rằng một châu Âu thống nhất sẽ ngày càng tăng trưởng. Điều đó không còn phù hợp vào năm 2010. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu đã xé nát sự hiệp nhất đã từng tồn tại trong thập niên 90, các tổ chức châu Âu chịu áp lực lớn cùng với các tổ chức xuyên Đại Tây Dương như NATO. Qua nhiều hình thức, Hoa Kỳ không liên quan đến các vấn đề Liên minh châu Âu phải đối mặt. Châu Âu có thể muốn tiền từ người Mỹ, nhưng họ không muốn phong cách lãnh đạo của những năm 1990.
Trung Quốc cũng đã thay đổi. Tình trạng bất ổn của nền kinh tế xứ họ đã thay thế sự tự tin của các tầng lớp thống trị trong những năm 1990 ở Trung Quốc. Xuất khẩu của họ bị đặc dưới áp lực nặng nề, và mối quan tâm về sự ổn định xã hội đã tăng lên. Trung Quốc cũng trở thành ngày càng đàn áp và thù địch, ít nhất nói cách hoa văn, trong chính sách đối ngoại của mình.
Tại Trung Đông, có rất ít người tiếp thu chính sách ngoại giao công chúng của Obama.Trên thực tế, việc mở rộng quyền lực của Iran là đáng kể. Israel lo ngại về vũ khí hạt nhân của Iran, Obama thấy mình đi trên một ranh giới giữa cuộc xung đột có thể xảy ra với Iran và cho phép các sự kiện diễn tiến theo tự nhiên.
Hạn chế việc can thiệp
Điều này nổi lên như là nền tảng của chính sách đối ngoại của Mỹ.Trường hợp trước đây Hoa Kỳ đã nhìn thấy chính họ như là bắt buộc phải có cố gắng để quản lý các chính sự, Obama rõ ràng đã thấy đó là một vấn đề. Như đã thấy trong chiến lược này, Hoa Kỳ đã hạn chế nguồn tài nguyên đã bị quá căng thẳng trong các cuộc chiến tranh. Hơn là cố gắng để quản lý các sự kiện nước ngoài, Obama đang chuyển đổi chiến lược của Mỹ đối với việc hạn chế can thiệp và cho phép các sự kiện tiến hành theo lối riêng của nó.
Chiến lược ở châu Âu rõ ràng phản ánh điều này. Washington đã tránh bất kỳ nỗ lực dẫn đầu châu Âu đi đến một giải pháp mặc dù Hoa Kỳ đã cung cấp hỗ trợ lớn thông qua Dự trữ Liên bang. Chiến lược này được thiết kế để ổn định chứ không phải là để quản lý. Với người Nga, những người rõ ràng đã đạt đến một điểm tự tin, sự thất bại của nỗ lực nhằm để thiết lập lại quan hệ dẫn đến việc rút quân của Hoa Kỳ, việc tập trung và chú ý ở vòng ngoài của Nga và hành động sẵn sàng đứng bên của Washington cho phép Nga tiến hóa theo ý họ. Tương tự như vậy, bất cứ hoa văn gì khi thảo luận đến việc Trung Quốc-Mỹ, về việc tái triển khai để đối phó với mối đe dọa Trung Quốc, thì chính sách của Mỹ vẫn còn thụ động và chấp nhận.
Iran chính là nơi mà chúng ta thấy điều này rõ ràng nhất. Ngoài vũ khí hạt nhân, Iran đang trở thành một quyền lực lớn trong khu vực với phạm vi ảnh hưởng đáng kể. Thay vì cố gắng để ngăn chặn Iran trực tiếp, Hoa Kỳ đã chọn cách đứng bên và cho phép các trò chơi tiến hành, làm cho người Israel thấy rõ rằng họ thích biện pháp ngoại giao hơn các hành động quân sự, mà trong thực tế có nghĩa là cho phép các sự kiện đó xảy ra theo cách riêng của nó.
Điều này không nhất thiết là một chính sách tồi. Các khái niệm làm thăng bằng toàn bộ cán cân quyền lực được xây dựng trên giả định rằng các thách thức trong khu vực sẽ đối đầu với đối trọng khu vực của họ.Lý thuyết cân bằng quyền lực giả định rằng việc can thiệp sức mạnh của thế lực đứng hàng đầu chỉ nên xảy ra khi có sự mất cân bằng. Kể từ khi không can thiệp vào thực tiển ở Trung Quốc, châu Âu hay Nga, một mức độ có ý nghĩa làm cho thụ động.Trong trường hợp của Iran, nơi mà hành động quân sự chống lại các lực lượng chính quy của họ là khó khăn và chống lại các cơ sở hạt nhân của họ là nguy hiểm, thì cùng một logic được áp dụng.
Trong chiến lược này, Obama đã không trở về những năm 1990.Thay vào đó, ông đang cố gắng đặt cược mặt trận mới. Nó không phải là biệt lập theo ý nghĩa cổ điển của nó, như Hoa Kỳ bây giờ là nước duy nhất có quyền lực toàn cầu. Ông dường như là kỹ thuật gia của một chiến lược mới, thừa nhận rằng hầu hết các kết quả trên thế giới đối với Hoa Kỳ là chấp nhận được và không có thành quả nào là vốn bất khả thi. Sự quan tâm của Mỹ nằm trong việc khôi phục sự thịnh vượng riêng của mình, sắp xếp phần còn lại của thế giới sao cho trong phạm vi giới hạn rất rộng, là chấp nhận được.
Nói cách khác, không thể quay trở lại chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm 1990 và không muốn và không thể tiếp tục chiến lược Hậu-9/11, Obama đang theo đuổi một chính sách mặc nhận. Ông đang giảm dần việc sử dụng lực lượng quân sự và, có hạn chế đòn bẩy kinh tế, cho phép hệ máy tiến hóa theo ý riêng của nó.
Tiềm ẩn trong chiến lược này là sự tồn tại của lực lượng quân sự nổi bậc, đặc biệt là sức mạnh hải quân.
Châu Âu không phải dễ quản lý thông qua lực lượng quân sự, và nó đặt ra mối đe dọa dài hạn nghiêm trọng nhất. Như những xung đột ở châu Âu, lợi ích của Đức có thể được lợi ích tốt hơn trong một mối quan hệ với Nga. Đức có nhu cầu năng lượng của Nga, và Nga cần công nghệ của Đức. Cả hai đều không hài lòng với sức mạnh của Mỹ, và họ cùng nhau có thể hạn chế Mỹ. Thật vậy, một sự thỏa hiệp giữa Đức và Nga là nền móng sợ hãi trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ chiến tranh thế giới thứ I cho đến khi Chiến tranh Lạnh. Đây là sự kết hợp duy nhất đe dọa Hoa Kỳ mà có thể nhận thức được. Truy cập của Mỹ ở đây là để hỗ trợ Ba Lan, có địa thế phân chia cả hai, cùng với các đồng minh quan trọng khác ở châu Âu, và Hoa Kỳ đang làm điều này với một mức độ thận trọng rất cao.
Trung Quốc rất dễ bị tổn thương lực lượng hải quân vì cách cấu hình của các vùng ven biển cung cấp các huyệt điểm để truy cập vào bờ biển của họ. Trung Quốc lo sợ cuối cùng là một cuộc phong tỏa của Mỹ,mà hải quân Trung Quốc yếu kém sẽ không thể đối lại, nhưng điều này chỉ là một nỗi sợ hãi xa xôi. Tuy nhiên, cuối cùng nó vẫn là lợi thế của Mỹ.
Yếu huyệt của Nga nằm trong khả năng của các thành viên cũ của Liên Xô, mà nó đang cố gắng để tổ chức thành một Liên minh Á-Âu, phá hoại chương trình nghị sự hậu Xô Viết. Hoa Kỳ đã không can thiệp trong quá trình này một cách đáng kể, nhưng họ có ưu đãi kinh tế và các ảnh hưởng bí mật họ có thể sử dụng để phá hoại hoặc ít nhất là thách thức Nga. Nga nhận thức được những khả năng này và ý thức được rằng Hoa Kỳ đã chưa mang ra sử dụng chúng.
Cùng là một chiến lược giống như thế đang được đặc với Iran. Cấm vận đối với Iran không có khả năng thành công bởi vì họ có quá nhiều ngõ ngác và Trung Quốc và Nga sẽ không thừa nhận nó. Tuy nhiên, những gì Hoa Kỳ theo đuổi không phải là cho những gì họ sẽ đạt được nhưng những gì họ sẽ tránh được - cụ thể là, hành động trực tiếp. Hãy bỏ lời nói sang một bên, Mỹ cơ bản giả định rằng các lực lượng trong khu vực, đặc biệt người Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ buộc phải đối phó với Iran, và rằng sự kiên nhẫn sẽ cho phép một sự cân bằng quyền lực được xuất hiện.
Các rủi ro của việc thụ động
Chiến lược của Hoa Kỳ dưới thời Obama là cổ điển theo nghĩa là nó cho phép hệ máy sẽ tiến triển hóa theo ý nó, do đó cho phép Hoa Kỳ giảm thiểu nỗ lực của mình. Mặt khác, sức mạnh quân sự của Mỹ là đủ dung khi tình hình phát triển không được cách thỏa mản, can thiệp và đảo ngược vẫn còn có thể. Obama cố để chống lại các cơ sở chính sách đối ngoại, đặc biệt là Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và cộng đồng tình báo, để chống lại các cám dỗ cũ. Ông đang cố gắng xây dựng lại các kiến trúc của chính sách đối ngoại đi từ mô hình Chiến tranh thế giới II - Chiến tranh lạnh, và rằng cần có thời gian.
Sự yếu kém trong chiến lược của Obama là tình hình ở nhiều khu vực có thể đột ngột và bất ngờ chuyển hướng không mong muốn. Không giống như các hệ thống chiến tranh lạnh, mà có xu hướng phản ứng quá sớm cho các vấn đề, nó không cho thấy rõ ràng rằng hệ thống hiện tại sẽ không mất quá lâu để phản ứng. Chiến lược tạo ra khuôn khổ tâm lý lần lượt định hình trong các quyết định, và ông Obama đã tạo ra một tình huống mà Hoa Kỳ có thể không phản ứng đủ nhanh nếu các phương pháp tiếp cận thụ động bị sụp đổ bất ngờ.
Thật là khó để nhìn thấy chiến lược hiện tại như là một mô hình vĩnh viễn. Trước khi cán cân thăng bằng quyền lực được tạo ra, các cường quốc phải đảm bảo rằng sự cân bằng là có thể. Trong Châu Âu, bên trongTrung Quốc, chống lại Nga và Vịnh Ba Tư, nó không cho thấy rõ ràng sự cân bằng được bao gồm những gì. Nó rõ ràng không phải là rằng sự cân bằng trong khu vực để có các quyền hạn mới nổi lên. Vì vậy, đây không phải là một sự cân bằng quyền lực chiến lược cổ điển. Thay vào đó là một chiến lược quảng cáo đặc biệt đối với cuộc khủng hoảng tài chính và tác động về tâm lý và bởi sự mệt mỏi về chiến tranh. Những vấn đề này không thể được bỏ qua, nhưng họ không cung cấp một nền tảng ổn định cho một chính sách dài hạn, mà có thể sẽ thay thế chính sách mà Obama đang theo đuổi.
– Chủ tịch nước: Sớm tăng trang bị cho Cảnh sát biển (ĐV). – Nhấn mạnh vai trò cảnh sát biển VN – (BBC).
- TQ: Chính sách đối ngoại phục vụ cho phát triển, chủ quyền quốc gia – (VOA). - Thủ tướng TQ: Quân đội phải thắng các cuộc chiến tranh cục bộ – (VOA). – Bắc Kinh đòi Mỹ tôn trọng lợi ích của Trung Quốc tại Châu Á – (RFI). – TQ muốn Mỹ tôn trọng ‘lợi ích cốt lõi’ – (BBC). – China urges US to respect its interests in Asia (AFP). – Quan chức Quốc phòng Trung Quốc đề nghị thiết lập Lực lượng Cảnh sát Biển Quốc gia: Chinese Defence Official Proposes Establishing National Coast Guard (DefPro). – Tướng Lạc Nguyên của Trung Quốc: Cần có cảnh sát biển tham gia trong tranh chấp trên biển: Coast guard needed for maritime disputes (EastDay).
- Ấn, Trung đàm phán vòng đầu về vấn đề biên giới (TTXVN). - Cộng đồng hay xung đột (TVN/Foreign Affairs). – Nga có thể bán cho Trung Quốc 48 phi cơ tiêm kích – (RFI).
FitFormFunction, X-Cafe chuyển ngữ -28.02.2012
Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết đã kết thúc kỷ nguyên của châu Âu, khoảng thời gian mà quyền lực châu Âu thống trị thế giới. Để lại Hoa Kỳ như là một cường quốc toàn cầu duy nhất, một cái gì đó mà họ không được chuẩn bị về mặt văn hóa và thể chế. Kể từ khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ II, Hoa Kỳ đã định nghĩa chính sách đối ngoại của mình là về cuộc đối đầu với Liên Xô. Hầu như tất cả mọi thứ họ đã làm trên khắp thế giới theo những tính cách có liên quan đến cuộc đối đầu này. Sự sụp đổ của Liên bang Xô viết cùng một lúc cho Hoa Kỳ thóat khỏi một cuộc đối đầu nguy hiểm và loại bỏ các trọng tâm của chính sách đối ngoại của mình.
Trong quá trình một thế kỷ, Hoa Kỳ đã đi từ vị trí hạng rìa cho đến một cường quốc trên thế giới. Họ đã tiến hành chiến tranh hoặc chiến tranh lạnh từ năm 1917 đến năm 1991, với khoảng 20 năm hòa bình giữa hai cuộc chiến tranh chi phối bởi cuộc Đại suy thoái và rất nhiều sự can thiệp ở châu Mỹ La tinh. Theo đó, thế kỷ 20 là một thời gian xung đột và khủng hoảng cho Hoa Kỳ. Họ bước vào một thế kỷ mà không phát triển cách hiệu quả các tổ chức chính phủ nhằm để quản lý chính sách đối ngoại của mình. Họ xây dựng chính sách ngoại giao của mình như bộ máy để đối phó với chiến tranh và mối đe dọa của chiến tranh, sự vắng mặt bất ngờ của đối phương tất nhiên để lại cho Hoa Kỳ sự mất cân bằng.
Sau Chiến tranh Lạnh
Thời kỳ hậu Chiến tranh Lạnh có thể được chia thành ba phần. Thứ nhất, là sự lạc quan và không chắc chắn, kéo dài từ năm 1992 đến năm 2001. Một mặt là, sự sụp đổ của Liên Xô hứa hẹn một thời kỳ phát triển kinh tế thay thế chiến tranh. Mặt khác, các tổ chức của Mỹ đã được sinh ra trong thời chiến, do đó, để dễ nói chuyện, biến đổi chúng trong một thời gian hòa bình dường như là không dễ dàng. Tổng thống George W Bush và Bill Clinton cả hai đều theo đuổi một chính sách được xây dựng xung quanh tăng trưởng kinh tế, với định kỳ và không hoàn toàn dự định can thiệp quân sự ở những nơi như Panama, Somalia, Haiti vàKosovo.
Những sự can thiệp này đã không được coi là quan trọng đối với an ninh quốc gia của Mỹ. Trong một số trường hợp, họ được xem như là giải quyết một vấn đề bên lề, chẳng hạn như việc buôn bán ma túy của nhà độc tài Manuel Noriega ở Panama. Ngoài ra, họ đã được giải thích là nhiệm vụ chủ yếu là nhân đạo. Một số đã tìm kiếm một mô hình hoặc logic với những can thiệp khác nhau, trong thực tế, những việc này là ngẫu nhiên khi chúng xuất hiện, thúc đẩy bởi các vấn đề chính trị trong nước và áp lực liên minh hơn là so với bất kỳ mục đích quốc gia rõ ràng. Sức mạnh của Mỹ đa số trội hơn nên những chi phí can thiệp tương đối ít và thậm chí còn ít nguy hiểm hơn.
Thời gian cho những đặc ân đó kết thúc vào ngày 11 tháng 9 năm 2001. Tại thời điểm đó, Hoa Kỳ phải đối mặt với một tình hình đồng dạng với nền văn hóa chiến lược của họ. Họ có một kẻ thù thực tế nếu không theo quy ước, một kẻ thù thể hiện mối đe dọa thực sự đối với đất nước. Các tổ chức đã từng được xây dựng trong và sau Thế chiến II có thể hoạt động hiệu quả. Trong một cách bi thương và kỳ lạ, Hoa Kỳ đã trở lại trong vùng thoải mái của họ, chiến đấu với một cuộc chiến tranh mà họ thấy như đang đánh vào họ.
Khoảng thời gian từ năm 2001 cho đến khoảng năm 2007 bao gồm một loạt các cuộc chiến tranh trong thế giới Hồi giáo. Giống như tất cả các cuộc chiến tranh khác, họ thực hiện những thành công rực rỡ và bị những thất bại khốn khổ. Họ có thể được đánh giá một trong hai cách. Đầu tiên,nếu các cuộc chiến tranh đã được dự định nhằm để ngăn chặn al Qaeda đừng bao giờ tấn công Hoa Kỳ thêm một lần nữa theo kiểu cách của 9/11, họ đã thành công. Ngay cả nếu cho là khó khăn để xem làm thế nào cuộc chiến ở Iraq được đan vào với mục tiêu này, tất cả các cuộc chiến tranh liên quan đến hoạt động không rõ ràng, biện pháp của chiến tranh là thành công. Tuy nhiên, nếu mục đích của các cuộc chiến này là để tạo ra những chế độ thân Mỹ tòan cầu, ổn định và mô phỏng các giá trị Mỹ, họ rõ ràng đã thất bại.
Đến năm 2007 và sự gia tăng ở Iraq, chính sách đối ngoại của Mỹ chuyển sang giai đoạn hiện nay. Không còn mục tiêu chính để thống trị khu vực. Thay vào đó, là họ rút khỏi khu vực trong khi cố gắng để duy trì chế độ có thể bảo vệ bản thân và không thù nghịch với Hoa Kỳ. Việc rút khỏi Iraq không đạt được mục tiêu này, rút quân khỏi Afghanistan lại có thể sẽ là không. Sau khi rút khỏi Iraq, Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Afghanistan bất kể hậu quả. Hoa Kỳ sẽ không kết thúc sự tham gia của mình trong khu vực, và mục tiêu chính nhằm đánh bại al Qaeda sẽ không còn là trọng tâm.
Tổng thống Barack Obama tiếp tục chiến lược của người tiền nhiệm, George W. Bush, thiết lập ở Iraq sau năm 2007. Trong khi Obama tăng sức ép vượt quá những gì ông Bush đã làm ở Afghanistan, ông vẫn chấp nhận khái niệm của sự đột biến gia tăng của lực lượng thiết kế hầu để tạo điều kiện cho việc thóai quân. Đối với Obama, cốt lõi của vấn đề chiến lược không phải các cuộc chiến tranh mà là vấn đề của những năm 1990 - cụ thể là, làm thế nào để Hoa Kỳ và các tổ chức của mình thích ứng với một thế giới mà không có sự hiện diện của kẻ thù lớn.
Sự thất bại của việc tái thiết
Nút bấm “reset” của Hillary Clinton đã gởi tới Nga dấu hiệu chiến lược của ông Obama. Rằng ông Obama muốn thiết lập lại chính sách đối ngoại của Mỹ theo thời gian trước khi 9/11, khoảng thời gian mà khi Mỹ can thiệp, mặc dù có khi thường xuyên, thật ra là thứ yếu và có thể được biện minh là nhân đạo. Các vấn đề kinh tế chi phối thời điểm đó, và các vấn đề chính được quản lý cách hữu hiệu. Nó cũng là một khoảng thời gian trongquan hệ Mỹ-châu Âu và Mỹ-Trung Quốc rơi vào sự liên kết, và khi quan hệ Mỹ-Nga vẫn ổn định. Obama do đó đã tìm cách quay trở lại với một khoảng thời gian khi hệ thống quốc tế ổn định, thân Mỹ và thịnh vượng. Trong khi nếu hiểu từ quan điểm của một người Mỹ thì, lấy ví dụ, Nga, thì những năm 1990 được xem như một thảm họa mà họ không bao giờ nên quay trở lại.
Các vấn đề trong chiến lược này là nó không thể thiết lập lại hệ thống quốc tế. Sự thịnh vượng của những năm 1990 đã trở thành những khó khăn sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Điều này rõ ràng tạo ra sự quá bận tâm với việc quản lý nền kinh tế trong nước, nhưng như chúng ta đã thấy trong phần đầu tiên của chúng tôi, cuộc khủng hoảng tài chính định nghĩa lại cách hoạt động của các phần còn lại của thế giới. Châu Âu, Trung Quốc và Nga của những năm 1990 không còn tồn tại, và Trung Đông cũng đoồng thời chuyển đổi.
Trong những năm 1990, có thể nói rằng châu Âu là một thực thể duy nhất với hy vọng rằng một châu Âu thống nhất sẽ ngày càng tăng trưởng. Điều đó không còn phù hợp vào năm 2010. Cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu đã xé nát sự hiệp nhất đã từng tồn tại trong thập niên 90, các tổ chức châu Âu chịu áp lực lớn cùng với các tổ chức xuyên Đại Tây Dương như NATO. Qua nhiều hình thức, Hoa Kỳ không liên quan đến các vấn đề Liên minh châu Âu phải đối mặt. Châu Âu có thể muốn tiền từ người Mỹ, nhưng họ không muốn phong cách lãnh đạo của những năm 1990.
Trung Quốc cũng đã thay đổi. Tình trạng bất ổn của nền kinh tế xứ họ đã thay thế sự tự tin của các tầng lớp thống trị trong những năm 1990 ở Trung Quốc. Xuất khẩu của họ bị đặc dưới áp lực nặng nề, và mối quan tâm về sự ổn định xã hội đã tăng lên. Trung Quốc cũng trở thành ngày càng đàn áp và thù địch, ít nhất nói cách hoa văn, trong chính sách đối ngoại của mình.
Tại Trung Đông, có rất ít người tiếp thu chính sách ngoại giao công chúng của Obama.Trên thực tế, việc mở rộng quyền lực của Iran là đáng kể. Israel lo ngại về vũ khí hạt nhân của Iran, Obama thấy mình đi trên một ranh giới giữa cuộc xung đột có thể xảy ra với Iran và cho phép các sự kiện diễn tiến theo tự nhiên.
Hạn chế việc can thiệp
Điều này nổi lên như là nền tảng của chính sách đối ngoại của Mỹ.Trường hợp trước đây Hoa Kỳ đã nhìn thấy chính họ như là bắt buộc phải có cố gắng để quản lý các chính sự, Obama rõ ràng đã thấy đó là một vấn đề. Như đã thấy trong chiến lược này, Hoa Kỳ đã hạn chế nguồn tài nguyên đã bị quá căng thẳng trong các cuộc chiến tranh. Hơn là cố gắng để quản lý các sự kiện nước ngoài, Obama đang chuyển đổi chiến lược của Mỹ đối với việc hạn chế can thiệp và cho phép các sự kiện tiến hành theo lối riêng của nó.
Chiến lược ở châu Âu rõ ràng phản ánh điều này. Washington đã tránh bất kỳ nỗ lực dẫn đầu châu Âu đi đến một giải pháp mặc dù Hoa Kỳ đã cung cấp hỗ trợ lớn thông qua Dự trữ Liên bang. Chiến lược này được thiết kế để ổn định chứ không phải là để quản lý. Với người Nga, những người rõ ràng đã đạt đến một điểm tự tin, sự thất bại của nỗ lực nhằm để thiết lập lại quan hệ dẫn đến việc rút quân của Hoa Kỳ, việc tập trung và chú ý ở vòng ngoài của Nga và hành động sẵn sàng đứng bên của Washington cho phép Nga tiến hóa theo ý họ. Tương tự như vậy, bất cứ hoa văn gì khi thảo luận đến việc Trung Quốc-Mỹ, về việc tái triển khai để đối phó với mối đe dọa Trung Quốc, thì chính sách của Mỹ vẫn còn thụ động và chấp nhận.
Iran chính là nơi mà chúng ta thấy điều này rõ ràng nhất. Ngoài vũ khí hạt nhân, Iran đang trở thành một quyền lực lớn trong khu vực với phạm vi ảnh hưởng đáng kể. Thay vì cố gắng để ngăn chặn Iran trực tiếp, Hoa Kỳ đã chọn cách đứng bên và cho phép các trò chơi tiến hành, làm cho người Israel thấy rõ rằng họ thích biện pháp ngoại giao hơn các hành động quân sự, mà trong thực tế có nghĩa là cho phép các sự kiện đó xảy ra theo cách riêng của nó.
Điều này không nhất thiết là một chính sách tồi. Các khái niệm làm thăng bằng toàn bộ cán cân quyền lực được xây dựng trên giả định rằng các thách thức trong khu vực sẽ đối đầu với đối trọng khu vực của họ.Lý thuyết cân bằng quyền lực giả định rằng việc can thiệp sức mạnh của thế lực đứng hàng đầu chỉ nên xảy ra khi có sự mất cân bằng. Kể từ khi không can thiệp vào thực tiển ở Trung Quốc, châu Âu hay Nga, một mức độ có ý nghĩa làm cho thụ động.Trong trường hợp của Iran, nơi mà hành động quân sự chống lại các lực lượng chính quy của họ là khó khăn và chống lại các cơ sở hạt nhân của họ là nguy hiểm, thì cùng một logic được áp dụng.
Trong chiến lược này, Obama đã không trở về những năm 1990.Thay vào đó, ông đang cố gắng đặt cược mặt trận mới. Nó không phải là biệt lập theo ý nghĩa cổ điển của nó, như Hoa Kỳ bây giờ là nước duy nhất có quyền lực toàn cầu. Ông dường như là kỹ thuật gia của một chiến lược mới, thừa nhận rằng hầu hết các kết quả trên thế giới đối với Hoa Kỳ là chấp nhận được và không có thành quả nào là vốn bất khả thi. Sự quan tâm của Mỹ nằm trong việc khôi phục sự thịnh vượng riêng của mình, sắp xếp phần còn lại của thế giới sao cho trong phạm vi giới hạn rất rộng, là chấp nhận được.
Nói cách khác, không thể quay trở lại chính sách đối ngoại của Mỹ trong những năm 1990 và không muốn và không thể tiếp tục chiến lược Hậu-9/11, Obama đang theo đuổi một chính sách mặc nhận. Ông đang giảm dần việc sử dụng lực lượng quân sự và, có hạn chế đòn bẩy kinh tế, cho phép hệ máy tiến hóa theo ý riêng của nó.
Tiềm ẩn trong chiến lược này là sự tồn tại của lực lượng quân sự nổi bậc, đặc biệt là sức mạnh hải quân.
Châu Âu không phải dễ quản lý thông qua lực lượng quân sự, và nó đặt ra mối đe dọa dài hạn nghiêm trọng nhất. Như những xung đột ở châu Âu, lợi ích của Đức có thể được lợi ích tốt hơn trong một mối quan hệ với Nga. Đức có nhu cầu năng lượng của Nga, và Nga cần công nghệ của Đức. Cả hai đều không hài lòng với sức mạnh của Mỹ, và họ cùng nhau có thể hạn chế Mỹ. Thật vậy, một sự thỏa hiệp giữa Đức và Nga là nền móng sợ hãi trong chính sách đối ngoại của Mỹ từ chiến tranh thế giới thứ I cho đến khi Chiến tranh Lạnh. Đây là sự kết hợp duy nhất đe dọa Hoa Kỳ mà có thể nhận thức được. Truy cập của Mỹ ở đây là để hỗ trợ Ba Lan, có địa thế phân chia cả hai, cùng với các đồng minh quan trọng khác ở châu Âu, và Hoa Kỳ đang làm điều này với một mức độ thận trọng rất cao.
Trung Quốc rất dễ bị tổn thương lực lượng hải quân vì cách cấu hình của các vùng ven biển cung cấp các huyệt điểm để truy cập vào bờ biển của họ. Trung Quốc lo sợ cuối cùng là một cuộc phong tỏa của Mỹ,mà hải quân Trung Quốc yếu kém sẽ không thể đối lại, nhưng điều này chỉ là một nỗi sợ hãi xa xôi. Tuy nhiên, cuối cùng nó vẫn là lợi thế của Mỹ.
Yếu huyệt của Nga nằm trong khả năng của các thành viên cũ của Liên Xô, mà nó đang cố gắng để tổ chức thành một Liên minh Á-Âu, phá hoại chương trình nghị sự hậu Xô Viết. Hoa Kỳ đã không can thiệp trong quá trình này một cách đáng kể, nhưng họ có ưu đãi kinh tế và các ảnh hưởng bí mật họ có thể sử dụng để phá hoại hoặc ít nhất là thách thức Nga. Nga nhận thức được những khả năng này và ý thức được rằng Hoa Kỳ đã chưa mang ra sử dụng chúng.
Cùng là một chiến lược giống như thế đang được đặc với Iran. Cấm vận đối với Iran không có khả năng thành công bởi vì họ có quá nhiều ngõ ngác và Trung Quốc và Nga sẽ không thừa nhận nó. Tuy nhiên, những gì Hoa Kỳ theo đuổi không phải là cho những gì họ sẽ đạt được nhưng những gì họ sẽ tránh được - cụ thể là, hành động trực tiếp. Hãy bỏ lời nói sang một bên, Mỹ cơ bản giả định rằng các lực lượng trong khu vực, đặc biệt người Thổ Nhĩ Kỳ, sẽ buộc phải đối phó với Iran, và rằng sự kiên nhẫn sẽ cho phép một sự cân bằng quyền lực được xuất hiện.
Các rủi ro của việc thụ động
Chiến lược của Hoa Kỳ dưới thời Obama là cổ điển theo nghĩa là nó cho phép hệ máy sẽ tiến triển hóa theo ý nó, do đó cho phép Hoa Kỳ giảm thiểu nỗ lực của mình. Mặt khác, sức mạnh quân sự của Mỹ là đủ dung khi tình hình phát triển không được cách thỏa mản, can thiệp và đảo ngược vẫn còn có thể. Obama cố để chống lại các cơ sở chính sách đối ngoại, đặc biệt là Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ và cộng đồng tình báo, để chống lại các cám dỗ cũ. Ông đang cố gắng xây dựng lại các kiến trúc của chính sách đối ngoại đi từ mô hình Chiến tranh thế giới II - Chiến tranh lạnh, và rằng cần có thời gian.
Sự yếu kém trong chiến lược của Obama là tình hình ở nhiều khu vực có thể đột ngột và bất ngờ chuyển hướng không mong muốn. Không giống như các hệ thống chiến tranh lạnh, mà có xu hướng phản ứng quá sớm cho các vấn đề, nó không cho thấy rõ ràng rằng hệ thống hiện tại sẽ không mất quá lâu để phản ứng. Chiến lược tạo ra khuôn khổ tâm lý lần lượt định hình trong các quyết định, và ông Obama đã tạo ra một tình huống mà Hoa Kỳ có thể không phản ứng đủ nhanh nếu các phương pháp tiếp cận thụ động bị sụp đổ bất ngờ.
Thật là khó để nhìn thấy chiến lược hiện tại như là một mô hình vĩnh viễn. Trước khi cán cân thăng bằng quyền lực được tạo ra, các cường quốc phải đảm bảo rằng sự cân bằng là có thể. Trong Châu Âu, bên trongTrung Quốc, chống lại Nga và Vịnh Ba Tư, nó không cho thấy rõ ràng sự cân bằng được bao gồm những gì. Nó rõ ràng không phải là rằng sự cân bằng trong khu vực để có các quyền hạn mới nổi lên. Vì vậy, đây không phải là một sự cân bằng quyền lực chiến lược cổ điển. Thay vào đó là một chiến lược quảng cáo đặc biệt đối với cuộc khủng hoảng tài chính và tác động về tâm lý và bởi sự mệt mỏi về chiến tranh. Những vấn đề này không thể được bỏ qua, nhưng họ không cung cấp một nền tảng ổn định cho một chính sách dài hạn, mà có thể sẽ thay thế chính sách mà Obama đang theo đuổi.
Kinh Điển - Chính sách ngoại giao kinh tế của Bắc Việt Nam: Soviet Biscuit Factories and Chinese Financial Grants: North Vietnam’s Economic Diplomacy in 1967 and 1968 (Diplomatic History April 2012) ◄
"Trường Đảng" của Tàu: China's Top Party School (FP 6-3-12)-
– Chủ tịch nước: Sớm tăng trang bị cho Cảnh sát biển (ĐV). – Nhấn mạnh vai trò cảnh sát biển VN – (BBC).
- TQ: Chính sách đối ngoại phục vụ cho phát triển, chủ quyền quốc gia – (VOA). - Thủ tướng TQ: Quân đội phải thắng các cuộc chiến tranh cục bộ – (VOA). – Bắc Kinh đòi Mỹ tôn trọng lợi ích của Trung Quốc tại Châu Á – (RFI). – TQ muốn Mỹ tôn trọng ‘lợi ích cốt lõi’ – (BBC). – China urges US to respect its interests in Asia (AFP). – Quan chức Quốc phòng Trung Quốc đề nghị thiết lập Lực lượng Cảnh sát Biển Quốc gia: Chinese Defence Official Proposes Establishing National Coast Guard (DefPro). – Tướng Lạc Nguyên của Trung Quốc: Cần có cảnh sát biển tham gia trong tranh chấp trên biển: Coast guard needed for maritime disputes (EastDay).
- Ấn, Trung đàm phán vòng đầu về vấn đề biên giới (TTXVN). - Cộng đồng hay xung đột (TVN/Foreign Affairs). – Nga có thể bán cho Trung Quốc 48 phi cơ tiêm kích – (RFI).
Nguồn: George Friedman - Stratfor
FitFormFunction, X-Cafe chuyển ngữ 21.02.2012
Đây là phiên bản đầu tiên của một loạt bài mới về các chiến lược quốc gia đến quyền lực toàn cầu và các cường quốc khu vực khác. Phiên bản này thiết lập một khuôn khổ cho việc thông hiểu trạng thái hiện tại của thế giới.
Sự phát triển của địa chính trị có chu kỳ. Quyền lực trỗi lên, sụp đổ và chuyển hóa. Thay đổi xảy ra trong từng thế hệ như một điệu ba-lê bất tận.Tuy nhiên, khoảng thời gian giữa năm 1989 và 1991 thì độc đáo nhất trong suốt một chu kỳ dài của lịch sử nhân loại kết thúc chuổi dài hàng trăm năm và cùng với nó có một chu kỳ ngắn hơn cũng đã kết thúc. Thế giới vẫn còn vang dội từ các sự kiện của thời kỳ đó.
Ngày 25 Tháng 12 năm 1991, một thời đại đã kết thúc. Vào ngày đó Liên bang Xô viết sụp đổ, và lần đầu tiên trong gần năm thế kỷ không có thế lực châu Âu nào là một cường quốc toàn cầu, có nghĩa là không có nhà nước Châu Âu nào tích hợp sức mạnh kinh tế, quân sự và chính trị trên quy mô toàn cầu. Những gì bắt đầu vào năm 1492 với việc Châu Âu càn bước vào thế giới và tạo ra một hệ thống đế quốc toàn cầu đã kết thúc. Suốt năm thế kỷ, một quyền lực Châu Âu này hoặc khác đã thống trị thế giới, dù Bồ Đào Nha hay Tây Ban Nha, Pháp, Anh hoặc Liên Xô. Ngay cả các nước thấp hơn các cường quốc châu Âu vào thời điểm đó cũng đã có một số mức độ ảnh hưởng trên toàn cầu.
Sau năm 1991, Hoa Kỳ là siêu cường còn lại duy nhất trên thế giới, sản xuất mỗi năm khoảng 25% tổng sản phẩm (GDP) của thế giới và thống trị các đại dương. Hoa Kỳ chưa từng bao giờ được xem là cường quốc thống trị toàn cầu. Trước khi Chiến tranh Thế giới thứ II, Sức mạnh nước Mỹ phát triển từ vị trí hạng rìa của hệ thống quốc tế, nhưng nó đã nổi lên trên một trạng thái đa cực. Sau Chiến tranh Thế giới thứ II, nó được tìm thấy chính mình trong một thế giới lưỡng cực, đối mặt với Liên bang Xô Viết trong cuộc chiến mà chiến thắng đối với người Mỹ khó có một kết luận tất yếu.
Trong 20 năm quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ đã không bị thách thức, nhưng uy thế của nó đã rơi khỏi cán cân bằng trong hầu hết thời gian này, và sự mất thăng bằng đó là các đặc tính cơ bản của hệ thống toàn cầu trong thế hệ vừa qua. Chưa chuẩn bị về mặt tiếng tăm hoặc tâm lý cho vị trí của nó, Hoa Kỳ đã đung đưa từ một sự lạc quan quá mức vào những năm 1990 cho rằng xung đột đáng kể là kết thúc các cuộc chiến tranh chống lại chiến binh Hồi giáo sau 9/11, cuộc chiến tranh mà Hoa Kỳ không thể tránh nhưng cũng không có thể tích hợp thành một chiến lược toàn cầu đa tầng lớp. Khi quyền lực toàn cầu được theo đuổi ở một khu vực duy nhất, toàn bộ thế giới sẽ không được cân bằng. Sự mất cân bằng vẫn là đặc tính xác định của hệ thống toàn cầu ngày hôm nay.
Trong khi sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết đã kết thúc kỷ nguyên châu Âu, cũng là sự kết thúc của một kỷ nguyên có khởi nguồn 1945, và nó đã được kèm theo bởi một nhóm các sự kiện có xu hướng phụ với sự thay đổi thế hệ. Giai đoạn 1989-1991 đánh dấu sự kết thúc của phép lạ kinh tế Nhật Bản, lần đầu tiên thế giới ngạc nhiên trước tốc độ tăng trưởng bền vững của một cường quốc châu Á và đồng thời cũng ngạc nhiên trước sự sụp đổ hệ thống tài chính mạnh của họ. Sự kết thúc của phép lạ Nhật Bản và các khó khăn kinh tế của việc tích hợp Đông Đức và Tây Đức làm thay đổi cách thức nền kinh tế toàn cầu làm việc. Hiệp ước Maastricht 1991 thiết lập các giai đoạn cho nỗ lực hội nhập tại châu Âu và là khuôn khổ cho châu Âu trong thế giới hậu Chiến tranh lạnh. Quảng trường Thiên An Môn thiết lập đường hướng cho Trung Quốc trong 20 năm tiếp theo và là câu trả lời của Trung Quốc cho một đế chế Xô Viết sụp đổ. Nó tạo ra một cấu trúc cho phép phát triển kinh tế, nhưng đảm bảo sự thống trị của Đảng Cộng sản. Việc Saddam Hussein xâm lược Kuwait nhằm để thay đổi cán cân quyền lực trong vùng Vịnh Ba Tư sau khi cuộc chiến Iraq-Iran, đã thử nghiệm sự sẵn sàng tham dự chiến tranh của Hoa Kỳ sau khi Chiến tranh Lạnh.
Năm 1989-1991, thế giới đã thay đổi cách làm việc, cho dù phải đo lường theo từng thế kỷ hoặc thế hệ. Đó là một thời kỳ đặc biệt có đầy ý nghĩa mà chỉ bây giờ mới hiện rõ. Nó đã được khóa vào vị trí thay đổi dài hạn về bảo an, khi Bắc Mỹ thay thế châu Âu như là trung tâm của hệ thống quốc tế. Nhưng các thế hệ đến và đi, và chúng ta đang ở giữa sự chuyển đổi của thế hệ đầu tiên kể từ sự sụp đổ của các cường quốc châu Âu,một sự thay đổi bắt đầu từ năm 2008 nhưng ngày nay mới được tiến hành trong chi tiết.
Điều gì đã xảy ra trong năm 2008 là một trong những cơn khủng hoảng tài chính mà hệ thống tư bản toàn cầu phải chịu đựng cách định kỳ. Như là trường hợp thường xảy ra, những cơn hoảng loạn thường trướcc tiên tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị trong các quốc gia, tiếp theo là thay đổi trong quan hệ giữa các quốc gia. Trong số những thay đổi này, có ba việc là đặc biệt có tầm quan trọng, hai trong số đó liên quan trực tiếp đến cuộc khủng hoảng năm 2008. Đầu tiên là cuộc khủng hoảng tài chính châu Âu và chuyển đổi nó thành một cuộc khủng hoảng chính trị. Thứ hai là cuộc khủng hoảng xuất khẩu Trung Quốc và hậu quả của nó. Thứ ba, gián tiếp liên quan đến năm 2008, là sự thay đổi trong cán cân quyền lực ở Trung Đông với việc Iran được ủng hộ.
Cuộc khủng hoảng châu Âu
Cuộc khủng hoảng châu Âu đại diện cho sự kiện quan trọng nhất tiếp theo sau đó là sự sụp đổ tài chính của năm 2008. Chí hướng của Liên minh châu Âu là một tổ chức gắn kết Pháp và Đức cùng nhau hầu để các cuộc chiến tranh đã từng nổ ra ở châu Âu kể từ năm 1871 là không thể. Chí hướng đó cũng giả định rằng hội nhập kinh tế khi cả hai Pháp và Đức cùng tham gia là tạo ra những nền tảng cho một châu Âu thịnh vượng. Trong bối cảnh phát triển của Hiệp ước Maastricht, chí hướng của các nước châu Âu cho rằng Liên minh châu Âu sẽ trở thành một đường lối dân chủ hóa và tích hợp các nước cựu cộng sản Đông Âu vào một khuôn khổ duy nhất.
Tuy nhiên, ẩn trong ý tưởng của Liên minh châu Âu là ý tưởng cho rằng châu Âu tại một số giai đọan nào đó có thể vượt qua chủ nghĩa dân tộc và biến thành như một nước Hợp chủng Quốc châu Âu, một liên đoàn chính trị với một hiến pháp và một chính sách thống nhất trong và ngoài nước. Nó sẽ di chuyển từ một khu vực thương mại tự do với một hệ thống kinh tế thống nhất một loại tiền tệ duy nhất và rồi hội nhập chính trị tiếp tục được xây dựng xung quanh Nghị viện châu Âu, cho phép châu Âu trở thành như một quốc gia.
Từ lâu trước khi điều này xảy ra, tất nhiên, người ta đã bắt đầu nói chuyện về châu Âu như thể nó là một thực thể duy nhất. Bất kể sự khiêm tốn về các đề xuất chính thức, đã có một chí hướng mạnh mẽ của một chính thể tích hợp châu Âu. Nó có hai nền tảng. Một là kinh tế và xã hội lợi ích rõ ràng của một Châu Âu thống nhất. Nền tảng kia thì cho rằng đây là cách duy nhất mà châu Âu có thể làm cho tầm ảnh hưởng của họ thấy được trong guồng máy quốc tế. Riêng cá nhân, các quốc gia châu Âu không phải là vận động viên toàn cầu, nhưng khi hợp chung họ có khả năng để làm thành điều đó. Trong thế giới hậu Chiến tranh Lạnh, nơi mà Hoa Kỳ là quyền lực toàn cầu duy nhất không bị trói buộc, thì đây là một cơ hội hấp dẫn.
Chí hướng châu Âu đã bị đập tan trong thời hậu 2008, khi mà sự bất ổn định về cơ bản của thí nghiệm châu Âu chính nó đã được bày ra. Chí hướng này được xây dựng xung quanh Đức, nước xuất khẩu lớn thứ hai thế giới, nhưng ngoại vi châu Âu vẫn còn quá yếu để vượt qua khủng hoảng. Không phải chỉ riêng cuộc khủng hoảng đặc biệt này, châu Âu chưa được xây dựng để chịu bất kỳ cuộc khủng hoảng tài chính. Sớm hay muộn nó sẽ đến và sự thống nhất của châu Âu sẽ bị căng thẳng khi mỗi quốc gia, thực tế được thúc đẩy bởi kinh tế và xã hội một cách khác nhau, thao tác lợi ích riêng của mình hơn là trong sự lợi ích của châu Âu.
Không có thắc mắc nào cho rằng châu Âu năm 2012 hoạt động cách khác hơn là họ đã làm trong năm 2007. Một số trong các bộ phận châu Âu có khả năng sẽ, theo đường lối su hướng, trở về nhà nước cũ của Chiến tranh Lạnh, nhưng điều đó dường như không thể. Những mâu thuẫn cơ bản của các doanh nghiệp châu Âu bây giờ hiện rõ, và trong khi đó một số thực thể châu Âu sẽ có khả năng tồn tại, nó có thể sẽ không giống với châu Âu đã hình dung bởi Hiệp ước Maastricht, bỏ rơi chí hướng cao cả để thành một Liên hiệp Châu Âu. Như vậy, tiềm năng duy nhất đối trọng với Hoa Kỳ sẽ không xuất hiện trong thế hệ này.
Trung Quốc và mô hình châu Á
Tương tự như thế, Trung Quốc cũng có cuộc khủng hoảng năm 2008. Mô hình châu Á cũng không tránh khỏi phạm vi ảnh hưởng chu kỳ của tất cả các nền kinh tế, như ở Nhật Bản và sau đó trong năm 1997 ở Đông Á và Đông Nam Á, tiếp theo của sự tăng trưởng kéo dài là sự xáo trộn tài chính cách sâu sắc. Thật vậy, tỷ lệ tăng trưởng không thể hiện sức khỏe kinh tế. Cũng như nó đã xảy ra cho châu Âu, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 là sự kích hoạt cho Trung Quốc.
Vấn đề cốt lõi của Trung Quốc là hơn một tỷ người sống trong gia đình có thu nhập ít hơn 6$ đô la một ngày, và đại đa số là những người kiếm được ít hơn 3$ đô la một ngày. Bên cạnh căng thẳng xã hội, hậu quả kinh tế là nhà máy công nghiệp lớn của Trung Quốc vượt xa nhu cầu tiêu dùng của Trung Quốc. Kết quả là, Trung Quốc phải xuất khẩu. Tuy nhiên, cuộc suy thoái sau năm 2008 cắt giảm nặng nề vào xuất khẩu của Trung Quốc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tăng trưởng GDP và đe dọa sự ổn định của hệ thống chính trị. Trung Quốc phải đối mặt với vấn đề đột biến lớn trong việc cho vay ngân hàng, đầu tư mới và hỗ trợ tăng trưởng GDP mà còn thúc đẩy lạm phát tràn lan. Lạm phát đã tạo ra áp lực tăng chi phí lao động cho đến khi Trung Quốc bắt đầu để mất lợi thế cạnh tranh chính của họ so với các nước khác.
Chỉ trong một thế hệ, tăng trưởng Trung Quốc đã như là một động cơ của hệ thống kinh tế toàn cầu, cũng giống như Nhật Bản ở các thế hệ trước. Trung Quốc không bị sụp đổ cách tệ hơn so với Nhật Bản đã bị. Tuy nhiên, họ thay đổi động thái, và cũng theo đó là động thái của hệ thống quốc tế.
Nhìn về tương lai
Có ba guồng máy kinh tế lớn nếu chúng ta nhìn vào hệ thống quốc tế, hai trong số đó là - Châu Âu và Trung Quốc - đang thay đổi động thái của họ để có ít quyết đoán và ít ảnh hưởng hơn trong hệ thống quốc tế. Các sự kiện của năm 2008 đã không tạo ra những thay đổi này, những sự kiện đó chỉ đơn thuần kích hoạt các quá trình làm lộ ra những điểm yếu cơ bản của hai thực thể này.
Bên ngoài quá trình chính của hệ thống quốc tế một chút, Trung Đông đang trải qua một sự thay đổi cơ bản trong cán cân quyền lực. Việc phát động này không phải là từ cuộc khủng hoảng năm 2008, nhưng là hậu quả của sự hiện diện và chấm dứt của Mỹ trong khu vực. Với việc Mỹ rút quân khỏi Iraq, Iran đã nổi lên như là sức mạnh lớn lâu nay ở vùng Vịnh BaTư và là sự ảnh hưởng lớn ở Iraq. Ngoài ra, với sự tiếp tục tồn tại của chế độ al Assad ở Syria thông qua sự hỗ trợ của Iran, cho thấy ảnh hưởng của Iran có tiềm năng kéo dài từ phía tây Afghanistan cho đến biển Địa Trung Hải. Ngay cả khi chế độ al Assad đã giảm, Iran vẫn sẽ ở vị thế tốt để khẳng định yêu sách của mình cho tính ưu việt trong vùng Vịnh Ba Tư.
Cũng như các quá trình tung ra trong 1989-1991 nhằm định thể cho 20 năm tới, cũng từ đó, các tiến trình đang được tạo ra lâu nay đang có ảnh hưởng lớn đến thế hệ tiếp theo. Vẫn còn mạnh mẽ nhưng mất cân bằng trong các chính sách quốc nội và quốc ngọai, Hoa Kỳ đang đối mặt với một thế giới đang thay đổi mà như chưa có một sự hiểu biết rõ ràng về cách đối phó với thế giới thay đổi này, hoặc cho rằng vấn đề, làm thế nào sự thay đổi trong hệ thống toàn cầu sẽ ảnh hưởng đến họ. Đối với chiến lược Hoa Kỳ, các phân mảnh của châu Âu, việc chuyển đổi sản xuất toàn cầu trong sự trỗi dậy của đỉnh cao của nền kinh tế Trung Quốc, và sức mạnh tăng lên cách đáng kể của Iran dường như là sự kiện trừu tượng không ảnh hưởng trực tiếp đến Hoa Kỳ.
Cá nhân của những sự kiện này sẽ tạo ra những nguy hiểm và cơ hội cho Hoa Kỳ rằng đó là họ chưa chuẩn bị để kiềm chế. Các phân mảnh của châu Âu đặt ra câu hỏi về tương lai của nước Đức và mối quan hệ của họ với Nga. Sự chuyển động về sản xuất đến các nước có mức lương thấp sẽ tạo ra bùng nổ trong các nước mà cho đến nay được coi là vượt ra ngoài sự giúp đỡ (như Trung Quốc là vào năm 1980) và các khu vực có tiềm năng của sự bất ổn định, được tạo ra bởi sự tăng trưởng nhanh và không đồng đều. Và, tất nhiên, ý tưởng cho rằng vấn đề đối phó với Iran bằng cách thông qua lệnh cấm vận là một hình thức tự dối mình chứ không phải là một chiến lược.
Ba khu vực lớn trên thế giới thay đổi liên tục: Châu Âu, Trung Quốc và Vịnh Ba Tư. Mỗi quốc gia trên thế giới sẽ phải đưa ra một chiến lược để đối phó với thực tế mới, cũng giống như 1989-1991 chiến lược mới yêu cầu. Quốc gia quan trọng nhất, Hoa Kỳ, đã không có chiến lược sau năm 1991 và không có chiến lược cho đến ngày hôm nay. Đây là một thực tế quan trọng duy nhất nhất của thế giới. Giống như người Tây Ban Nha, những người ở trong thế hệ nằm sau chuyến đi của Columbus, thiếu ý thức thực tế rõ ràng mà họ đã tạo ra, người Mỹ không có ý thức rõ rang về thế giới mà họ tìm thấy chính mình trong đó. Thực tế này tiếp tục xác định cách thức hoạt động của thế giới.
Vì vậy, chúng tôi sẽ tiếp sang phần chiến lược của Mỹ trong 20 năm tới và xem xét làm thế nào họ sẽ định hình lại cho chính họ.-Theo:
GEORGE FRIEDMAN - TRẠNG THÁI CỦA THẾ GIỚI: MỘT KHUÔN KHỔ
Sự phát triển của địa chính trị có chu kỳ. Quyền lực trỗi lên, sụp đổ và chuyển hóa. Thay đổi xảy ra trong từng thế hệ như một điệu ba-lê bất tận.Tuy nhiên, khoảng thời gian giữa năm 1989 và 1991 thì độc đáo nhất trong suốt một chu kỳ dài của lịch sử nhân loại kết thúc chuổi dài hàng trăm năm và cùng với nó có một chu kỳ ngắn hơn cũng đã kết thúc. Thế giới vẫn còn vang dội từ các sự kiện của thời kỳ đó.--Nhân Duyên Kinh Tế Nguyễn-Xuân Nghĩa - Người Việt Ngày 20120305
"Kinh Tế Cũng Là Chính Trị"
Tự Sự, Diễn Giải và Thực Tế Kinh Tế
* Trung Quốc - Uống thuốc bổ để đạp cho khoẻ *
Thứ Hai tuần trước, ngày 27 Tháng Hai, cựu Nghị sĩ Rick Santorum, ứng cử viên Tổng thống bên Cộng Hoà, khiến chúng ta bớt tuyệt vọng: con cháu mình vẫn hy vọng trở thành tổng thống của đệ nhất siêu cường thế giới, dù chẳng hiểu gì về kinh tế nhập môn, hoặc chẳng biết xem lịch. Miễn là có nhiều đức tính khác!
Những đức tính đó, chúng ta không có nên cứ được... bàn thoải mái.
Trong đà hứng khởi chất ngất – xin viết cho đúng, chứ không phải chết ngất – ông Santorum nhấn mạnh đến nhu cầu tự túc về năng lượng, là điều chẳng sai. Nhưng ngay sau đó, ông lẫn lộn tương quan nhân quả khi phăng phăng phát biểu rằng nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế bốn năm về trước chính là giá xăng dầu.
Trong có một câu mà khơi khơi nói ra ba bốn điều nhảm thì quả là có biệt tài, nên mới đi làm chính trị.
Thứ nhất, Hoa Kỳ bị khủng hoảng về chính trị khi lãnh đạo cả hai đảng trong lưỡng viện và bên Hành pháp không giải quyết được những khó khăn kinh tế của một vụ suy trầm kéo dài và phục hồi rất chậm. Những khó khăn đó có nguyên nhân sâu xa gấp bội, mà nếu gom vào một yếu tố chính thì đấy là tình trạng chi tiêu và vay mượn quá sức. Chuyện này quá dài, ai mà nghe?
Thứ hai, nói về chuyện xem lịch, kinh tế Mỹ bị suy trầm từ Tháng 12 năm 2007, hiện tượng chu kỳ cứ tưởng là bình thường sau đợt suy trầm trước, vào Tháng Ba năm 2001. Nói lại cho rõ, kinh tế bị suy trầm bảy tháng trước khi dầu thô vọt giá lên trời rồi nâng giá xăng tại Mỹ vào mùa Thu. Vì quên tờ lịch, Santorum lẫn lộn tương quan nhân quả: xăng lên giá sau khi kinh tế đã suy.
Sở dĩ bị suy trầm và hồi phục chậm là vì nạn tiêu thụ rồi đi vay đã thổi lên bong bóng gia cư. Trái bóng bắt đầu xì từ cuối năm 2006 nên mới dẫn đến vụ khủng hoảng tín dụng "thứ cấp" năm 2007, làm hệ thống tài chính ngân hàng sụp đổ vào năm 2008 khi kinh tế đang suy trầm.
Gom lại ngần ấy chuyện, ta có thể kết luận như thế này: họa vô đơn chí, xăng dầu lên giá vào thời điểm bất lợi cho kinh tế Hoa Kỳ. Nó có khác với cách "tự sự" của Rick Santorum!
Bây giờ ta mới nhập đề.....
***
Khi theo dõi tin tức kinh tế, hoặc bất kỳ một tin thời sự nào, chúng ta nên chú ý đến một hiện tượng hai mặt.
Mặt nổi, thuộc loại "mì ăn liền" hay "fast food" là cách trình bày, diễn giải, gọi là "tự sự". Hoa Kỳ có một chữ cho điều đó là "narrative".
Trong nền văn hoá kỹ thuật gọi là tức thời của thông tin điện tử, lối tự sự đó dẫn đến những cảm quan ấn tượng có thể chi phối cách suy nghĩ của người khác. Các chính trị gia có biệt tài tự sự, họ mô tả và diễn giải tương quan nhân quả của một vấn đề nào đó theo chiều hướng có lợi cho triết lý hay chủ trương của họ, nhưng khiến người nào cũng có thể tưởng rằng họ bảo vệ quyền lợi của mình.
Truyền thông báo chí nhiều khi cũng chẳng khá hơn, với cách đặt tựa và loan tin của họ.
Nếu thụ động mua mì ăn liền về, ta có thể quên mất mặt kia của hiện tượng. Đó là mặt thật của vấn đề, nằm sâu bên dưới cách trình bày, tự sự. Nó là một chuỗi suy diễn rắc rối về nguyên nhân và hậu quả.
Lại có thêm một tí... nhân duyên.
***
Kinh tế Mỹ tích lũy nhiều nguyên nhân bất ổn từ đã lâu nên thể nào cũng gặp vấn đề và sẽ phải điều chỉnh. Đó là chuyện "nhân".
Cái "duyên" là yếu tố thời cơ khiến cái quả mới phát tác vào thời điểm nào đó. Xin lấy một ẩn dụ dễ hiểu, căn nhà có nền móng bấp bênh thì thể nào cũng đổ, như chỉ chờ cơn gió nhẹ. Bảo rằng cơn gió heo may làm đổ căn nhà thì không hẳn là sai, mà chắc chắn là không đúng!
Nhưng mấy ai lại đào xới vào nền móng mục nát của căn nhà trước khi cơn gió nổi lên? "Đừng lay tôi nhé, cuộc đời chung quanh!"
Kinh tế Hoa Kỳ chất đống nợ nần từ mấy chục năm, sau năm 2001 lại lâm chiến ở hai nơi mà không muốn dân chúng hy sinh đóng thuế để bảo vệ an ninh. Trong khi ấy, từ nhiều triều đại tổng thống trước, nước Mỹ lại muốn người nghèo cũng có nhà nên giải tỏa luật lệ cho dân chúng dễ có quyền sở hữu gia cư. Thị trường bèn khai thác cơ hội và làm ẩu, cho tới khi bể bóng và bể mánh tan tành.
Ngần ấy cái nhân tích lũy, dồn dập thêm nhiều cơ duyên bất lợi mới dẫn đến chuyện ngày nay.
Thí dụ vừa nêu về lời "tự sự" hàm hồ của ông Rick Santorum trong chuyện giá xăng cho thấy mặt thật của vấn đề nó rắc rối hơn một lời đốp chát, một "sound bite", trong cơn sốt tranh cử. Vì lười suy nghĩ hoặc cứ tin những gì báo chí hay các chính khách nói ra là giá trị như vàng mười, chúng ta có thể bị hố, mất tiền hoặc... phí phạm lá phiếu.
Vì đề mục của cột báo này là "kinh tế cũng là chính trị", người viết muốn kích thích sự tò mò và phản ứng suy luận của độc giả với cách nêu vấn đề về "tự sự" và "thực tế", về "nhân" và "duyên". Hoặc nói cho có vẻ Đông phương uyên bác là "lý" và "sự".
"Lý" là chuỗi nhân quả chìm sâu ở dưới, "sự" là cách diễn giải ở trên.
Và các chính khách thường là chuyên gia lý sự cùn! Nền dân chủ tuyệt vời ở chỗ cho phép ta phanh phui những kiểu lý sự cùn như vậy của lãnh đạo. Nhưng nền dân chủ cũng đòi hỏi người dân phải bảo vệ quyền làm chủ... cái đầu của mình, bằng sự chịu khó tìm hiểu. Mất công lắm.
Bây giờ, khi vèo trông lá rụng đầy sân, xin hãy nhìn qua cái lý và sự của Trung Quốc. Cho nó "phe" ("fair") – mà nếu có phê thì cũng chẳng sao....
***
Nói về sự, kinh tế Trung Quốc đã vượt Nhật Bản lên hạng nhì thế giới từ năm 2010. Và tùy nơi, từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đến tạp chí chuyên đề The Economist, hay các lò trí tuệ có khả năng tự sự cao thấp khác nhau, người ta nói đến kỳ Trung Quốc bắt kịp Hoa Kỳ. Năm 2016 hay 2018 hoặc 2025.... Giới đầu tư đang kiếm tiền tại Trung Quốc cũng rất khéo tự sự như vậy, như đã tự sự vể triển vọng ngất trời của trái bóng gia cư - trước khi nó bể.
Đó là cái "sự" ở trên, là cách miêu tả với nhiều con số cho có vẻ khách quan khoa học.
Bây giờ, hãy nói về lý, các động lực khiến kinh tế xứ này tăng trưởng mạnh như vậy từ ba chục năm qua, nhất là từ bốn năm gần đây, khi Hoa Kỳ còn bò ngang và các chính khách cãi nhau mỗi ngày. Động lực chính của "phép lạ Trung Quốc" khi cả thế giới bị "Tổng suy trầm 2008-2009" là sức đầu tư rất mạnh.
Từ Tháng 11 2008, khi thấy hiệu ứng suy sụp từ các thị trường Âu Mỹ, lãnh đạo Bắc Kinh lập tức tăng chi gần 600 tỷ đô la rồi bơm khoảng 1.400 tỷ tín dụng vào kinh tế để bù đắp cho số thất thâu về xuất cảng. Tổng cộng, họ kích thích kinh tế với ngân khoản trị giá 2.000 tỷ đô la, 40% Tổng sản lượng nội địa GDP.
Nếu Ngân hàng Trung ương và lãnh đạo Mỹ mà cũng áp dụng bài bản Trung Quốc thì đã phải bơm quãng... 6.000 tỷ đô la! Mới có vài ngàn tỷ nhờ tăng chi và in bạc mà nước Mỹ đã cãi nhau mệt nghỉ từ bốn năm nay.
Đó là về lượng. Về phẩm thì đây là chuyện vay tiền cho heo nọc ăn nhân sâm để góp mặt với đời!
Muốn tăng GDP một đồng, Trung Quốc phải đi vay từ sáu đến tám đồng, tức là vô cùng tốn kém, với đầy phao phí và hiện tượng sản xuất thừa, tồn kho chất đống. Trước cơn "khủng hoảng", hiệu suất đầu tư kiểu vay tiền bơm thuốc bổ của Mỹ là mất bốn năm đồng thì được một đồng, và đấy là một lý do tranh luận kịch liệt. Trung Quốc thì khỏi tranh luận về lý và sự nên vẫn lừng lững đi lên... bờ vực. Vì quy luật có vay có trả, sẽ có ngày trả nợ.
Đấy là cái nhân của những suy sụp sắp tới tại Trung Quốc. Cái duyên là gì thì xin hẹn một kỳ... tự sự khác.
- Trung Quốc hạ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 2012 (TT)..- Thứ trưởng thương mại Hoa Kỳ đến Việt Nam – (RFA). - Chinese leader signals change of focus (SMH). – 2012 : Trung Quốc chủ trương giảm tăng trưởng, ổn định xã hội, phát triển quân sự – (RFI). - Trung Quốc lần đầu tiên hạ mục tiêu tăng trưởng (VTC). – “Hạ cánh mềm”GGP). – TQ hạ mức tăng trưởng xuống 7,5% – (BBC). – Đài Loan trông đợi Trung Quốc thúc đẩy kinh tế ồ ạt sau cuộc bầu cử – (VOA). –Trung Quốc: Nông dân sẽ có quyền sở hữu đất (PLTP). - Trước QH, Thủ tướng TQ nói quyền đất đai cho nông dân (VNN).
Vietnam Eyes Middle Power (Diplomat 5-3-12)Đồng bằng sông Cửu Long: Chất lượng sống sụt giảm (NLĐ 5-3-12) - Vực dậy Đồng bằng sông Cửu Long (NLĐ). - Trăn trở với bữa ăn gia đình (SGTT).- Hỗ trợ khó khăn của doanh nghiệp thuộc Vinashin (TTXVN).
- Nhiều khu kinh tế biển, kinh tế cửa khẩu: Đẹp ngoài nhưng rỗng trong (CAND).Vietnam Plans to Legalize Sports Gambling (WSJ 5-3-12)
Việt Nam cải tổ hệ thống ngân hàng? Vietnam outlines banking system overhaul (FT 5-3-12)
Myanmar nên học Việt Nam?: Vietnam: Two decades of development lessons (Myanmar Times 5-3-12)
Trung Quốc sẽ thay đổi chính sách? Chinese leader signals change of focus (SMH 6-5-12)
- Bắt buộc sáp nhập các ngân hàng yếu (VnMedia). - “Đỏ mắt” săn vốn rẻ (LĐ). - Công cụ thị trường: Liều thuốc cho ngân hàng (VEF).- Tiền chảy vào chứng khoán (TT). - Ngày đầu tiên giao dịch thêm buổi chiều – Chứng khoán “xanh” sàn (SGGP). - Chứng khoán “cháy” hàng (NLĐ). - Chứng khoán: Động lực mới và những ám ảnh còn lại (VEF). - TTCK Việt Nam: Cải tổ hay là chết? (VEF/Reuters). - Giật mình luồng tiền ồ ạt chảy vào chứng khoán (VnMedia). –Nhiều công ty chứng khoán tự rút lui (PLTP).
- Xét lại giá xăng dầu ngay trong tháng 3 (PLTP). - Tái diễn hiện tượng cửa hàng xăng dầu đóng cửa (VnMedia). - Bộ Công Thương xác nhận có hiện tượng cây xăng đóng cửa (TBKTSG). - Găm hàng chờ xăng tăng giá (NLĐ). - Xăng dầu nhập khẩu giảm 31,7% (TN). - Chưa quyết định tăng giá xăng dầu (Dân Việt).- Việt Nam giảm thuế nhập khẩu khí đốt hóa lỏng để chống lạm phát – (VOA).- Giá gas giảm, người tiêu dùng vẫn thấp thỏm lo (TTXVN/ Thanh tra).
- Không để lặp lại kịch bản đứt nguồn cung xăng dầu (TTXVN). - Khi xăng dầu chảy theo “ngõ ngách” (TBKTSG). - Xăng dầu lại lên cơn sốt(LĐ).
- Chứng khoán chiều 5/3: Cổ phiếu “cháy” hàng (VnEconomy).- Những yếu tố thổi bùng chứng khoán (SGTT). - “Sóng ngầm” thâu tóm doanh nghiệp (TT).- DNNN ở Trung Quốc và Việt Nam: Đồng sàng dị mộng (Người lót gạch/Tầm nhìn).- Mở rộng toàn tuyến quốc lộ 1A: Đầu tư dàn trải sẽ gây lãng phí lớn (TT).
-- 187 triệu USD xây trung tâm điều khiển giao thông TP HCM (VNE).- “Nhiều chủ đầu tư bất động sản chưa thực sự làm kinh doanh” ( VnEconomy).
- Chuyên đề: Vốn cho nông nghiệp: câu chuyện từ 1% FDI: Những trắc trở từ đất (TTCT).- “Lật mặt” đồng bằng sông Hồng để khai thác than? – Chưa chấp thuận, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam vẫn thăm dò(SGGP).- Đường nội + đường nhập lậu = Cuộc chiến khốc liệt (Petrotimes).- Mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo: Doanh nghiệp lợi, nông dân thì không! (DV).
- Luật không rõ, kinh doanh du lịch vướng tứ bề (SGTT).- Hỏi chuyện nữ doanh nhân quyền lực nhất châu Á (TVN). - Dự án thép ngàn tỷ gỉ sét, phơi sương (VinaCorp).- Vietnam Airlines giảm giá 50% (PLTP). - Hơn 180.000 vé máy bay giảm giá (TN)
- Quỹ đất nhà ở xã hội tại Thủ Thiêm có thể thay đổi (TBKTSG). - Dân nghèo sắp có cơ hội tiếp cận với nhà ở thành thị (VTC).- Tâm bút: Hành trình của một kinh tế gia Việt (TVN).
- Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trưởng (SGGP).- Thực phẩm giảm giá (TN). - Giảm giá nhiều mặt hàng thực phẩm (TT). - Cơ hội cuối cùng cho siêu thị nội (VEF).
- DN thủy sản sống cầm cự (VEF). – Mỹ giảm thuế chống bán phá giá đối với tôm xuất khẩu của Việt Nam – (VOA).
Cập nhật cách đây 44 phút
(TBKTSG) - Phát biểu tại hội nghị công bố kế hoạch tiết giảm chi phí quản lý và phương án tái cấu trúc của một tập đoàn kinh tế nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, tính đến thời điểm hiện tại (ngày 21-2-2012), đã có năm tập đoàn, tổng công ty cam kết tiết kiệm chi phí ..
(TBKTSG) - Phát biểu tại hội nghị công bố kế hoạch tiết giảm chi phí quản lý và phương án tái cấu trúc của một tập đoàn kinh tế nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ cho biết, tính đến thời điểm hiện tại (ngày 21-2-2012), đã có năm tập đoàn, tổng công ty cam kết tiết kiệm chi phí ..
MÙA ĐÔNG CỦA BIỂN NAM TRUNG HOA basam THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM MÙA ĐÔNG CỦA BIỂN NAM TRUNG HOA Tài liệu tham khảo đặc biệt Thứ hai, ngày 5/3/2012 TTXVN (Bắc Kinh 27/2) Theo tạp chí “ Tri thức thế giới ” của Bộ Ngoại giao Trung Quốc số ra gần đây, một nửa giang sơn của Trung Quốc là phần bao
ASEAN 2012: VAI TRÒ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC basam-THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM ASEAN 2012: VAI TRÒ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC Tài liệu tham khảo đặc biệt Thứ hai ngày 5/3/2012 TTXVN (Giacácta 26/2) Bàn về một số cơ hội, thách thức và triển vọng đặt ra cho vai trò trung tâm của ASEAN trong bối cảnh thế giới, khu vực đang có
-- BA TRIỀU ĐẠI VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI NỐI TIẾP ĐÒI LẠI VÙNG ĐẤT TẠI 10 CHÂU BỊ MẤT BỞI TRUNG QUỐC - (Văn chương +).- SẼ KHÔNG BAO GIỜ THA THỨ KẺ DÂNG ĐẤT CHO NGOẠI BANG VÀ CHUYỆN ĐÒI NHÂN CHỨNG SỐNG TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH ĐẤT ĐAI VÙNG BIÊN GIỚI – (Văn chương+).
- Cảnh sát Biển kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển (TP). - Tăng cường sức mạnh cho Cảnh sát biển Việt Nam (TN). – Cảnh sát biển cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế (PLTP).
- Nhiều bên lo ngại về quốc phòng Trung Quốc (TN). – Bắc Kinh tăng ngân sách quốc phòng: Tokyo lo ngại – (RFI). – Nhật Bản thông báo tham gia tập trận với Mỹ và Philippines – (RFI). – Nhật và Philipppines ‘lần đầu tập trận’ – (BBC). - Đối phó với một Trung Quốc mới (TVN).
- Điện mật từ Viện Mỹ tại Đài Loan: Đảo Đông Sa – Đường chiến lược yếu nhất của Đài Loan (Wikileaks/ NCBĐ). – Nghe tay cáo già Do Thái nầy phải luôn cảnh giác: - Kissinger: Không nhất thiết xảy ra xung đột Mỹ – Trung - Đối phó với một Trung Quốc mới (TVN).
- Điện mật từ Viện Mỹ tại Đài Loan: Đảo Đông Sa – Đường chiến lược yếu nhất của Đài Loan (Wikileaks/ NCBĐ). – Nghe tay cáo già Do Thái nầy phải luôn cảnh giác: - Kissinger: Không nhất thiết xảy ra xung đột Mỹ – Trung - Đối phó với một Trung Quốc mới (TVN).
- ‘Ðảng Cộng sản TQ nắm quyền lãnh đạo tuyệt đối trong quân đội’ – (VOA). – TQ ‘cần thắng cuộc chiến cục bộ’ – (BBC). – Bắc Kinh hô hào tăng cường quân sự đánh thắng “chiến tranh cục bộ” – (RFI).
- Bắc Kinh tuyên bố sẽ hạn chế các vụ giam giữ bí mật – (RFI). – CHND Trung Hoa: cuộc đấu đá nội bộ đảng hay sự suy giảm kiểm duyệt? (Newsland/ Kichbu).- Một phụ nữ Tây Tạng ‘tự thiêu ở Tứ Xuyên’ – (BBC). – Thêm một người Tây Tạng tự thiêu tại tỉnh Tứ Xuyên – (RFI). – Tin từ Tây Tạng: Một người mẹ có 4 con tự thiêu – (VOA).
--Đấu đá nội bộ Trung Quốc: Chinese infighting: Secrets of a succession war (FT 4-3-12) -- Vụ Vương Lập Quân và nhiều vụ khác... Fugitive Chinese businessman Li Jun details struggle over power and property(WP 4-3-12)Dân chủ và Ấn Độ: In India, the world’s largest democracy, some see system as a handicap (WP 3-4-12) -- Bạn nào có thời giờ thì nên đọc cuốn Behind the Beautiful Forevers của Katherine Boo về Ấn Độ, hay tuyệt vời!------