Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

Ai đã gây ra nguy cơ thiểu phát?

---(Tamnhin.net) - Đã khá muộn để vớt vát lại sự hồi phục của những nhóm ngành sản xuất chính, nhưng vẫn chưa phải quá trễ để minh chứng cho khả năng và uy tín điều hành kinh tế của Chính phủ theo cách phải chọn một trong hai: hoặc quyền lợi riêng biệt của nhóm ngân hàng, hoặc quyền lợi có tính xã hội và dân sinh của khối doanh nghiệp.
Ở hai đầu đối trọng

Một đầu cán cân kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục bị đè nén bởi quyền lợi của những nhóm lợi ích rất riêng biệt và cũng rất “đặc thù”. Vào thời điểm tháng 11/2011, khi lần đầu tiên người đứng đầu ngành ngân hàng tuyên bố trước Quốc hội là sẽ không một ngân hàng nào phải phá sản, con số doanh nghiệp phải giải thể hoặc lâm vào tình cảnh tương tự đã lên đến 50.000!
Với sức nặng từ “chỉ tiêu” tồn tại ngân hàng ở một đầu cân, đầu cân bên kia đã biến mất hoàn toàn một loại chỉ tiêu khác: tỷ lệ phá sản cho phép của doanh nghiệp. Khác hẳn với mức lợi nhuận vài ba ngàn tỷ đồng hàng năm của mỗi ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất chỉ còn duy nhất triết lý tự thân: To be or not to be!
Nhưng với công tác lập kế hoạch và giám sát điều hành, lại đã xảy ra một hiện tượng rất lạ, khi từ một cơ quan tham mưu gần gũi cho Chính phủ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư đến các quan chức trong Chính phủ mới được thành lập từ tháng 8/2011 đến nay, đều đã không nêu ra bất kỳ sự hứa hẹn nào về giải pháp khống chế hoặc giảm thiểu tỷ lệ doanh nghiệp lâm vào đường cùng.
Vào quý đầu của năm 2012, thế đường cùng của khối doanh nghiệp còn trở nên “minh bạch” hơn: chỉ theo con số công bố chính thức, đã có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp phải giải thể và ngưng hoạt động do thiếu vốn. Nhưng ở một đầu cân khác, báo cáo của Bộ KHĐT vẫn lặp lại một đánh giá quen thuộc đến nhàm chán: “Tình hình kinh tế 3 tháng đầu năm 2012 có những chuyển biến tích cực. Các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có bước phát triển”. 
“Những chuyển biến tích cực” đã phát lộ như thế nào? Bức tranh mà Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phác thảo té ra lại có một nét chấm phá rất dị biệt: ít nhất 10% số doanh nghiệp - một tỷ lệ không nhỏ chút nào - đã phải ngừng hoạt động. Còn theo nhận định của chuyên gia, trong quý 4/2011, ảnh hưởng của việc thắt chặt tín dụng đến sản xuất là rất rõ ràng khi chỉ số tăng trưởng công nghiệp giảm từ 9% xuống còn 6,8%. Đến tháng 2/2012, chỉ số này đã có một buớc thụt lùi sâu sắc về ngưỡng 4%, đặc biệt nhóm ngành chế tạo chỉ tăng 2,4% so với mức tăng 12% trong 7 tháng đầu năm 2011. Rất nhiều ngành có tỷ trọng đóng góp lớn trong tổng giá trị sản xuất thậm chí còn tăng trưởng âm.
Với thực trạng ngày càng trở nên khốn khó như thế, thật nan giải để có thể nêu ra một kết luận nào khác hơn việc những dấu hiệu của đình đốn sản xuất đã hiên hiện rõ rệt.   
Nhưng từ hơn một năm qua, kể từ khi nghị quyết 11 của Chính phủ yêu cầu về thắt chặt chi tiêu và tín dụng, trong giới điều hành chính sách và cơ quan quản lý nhà nước lại chưa hề xuất hiện một cụm từ chính thức nào thừa nhận trạng thái “đình lạm” của nền kinh tế, cho dù thực tế cấu thành những yếu tố của tình trạng nạn lạm phát treo cao và phần lớn khu vực sản xuất bị đình đốn đã quá đủ để thuyết minh cho bức tranh kinh tế - xã hội năm 2011 với gam màu đậm đặc u tối.
“Chỉ tiêu” thất nghiệp vì thế dường như cũng bị “quên lãng”. Nói đúng hơn, tỷ lệ thất nghiệp chính thức, thường được mô tả như hệ quả của con số doanh nghiệp phá sản theo thống kê chính thức, là không có gì đáng lo ngại. Nhưng chỉ cần nhìn vào cảnh hàng trăm ngàn công nhân không có tiền mua vé tàu về quê ăn tết 2012 cũng đủ thấy hoàn cảnh bĩ cực về thu nhập dẫn đến trạng thái bĩ cực về xã hội đã dâng cao đến thế nào.
Nguồn cơn nào, những cơ quan hay nhóm lợi ích nào đã gián tiếp hoặc trực tiếp gây ra hậu quả trên?
7 tháng và những “chuyển biến tích cực”
Cho đến nay, điều được gọi là “quyết tâm” của Chính phủ đối với việc kềm giữ chỉ số lạm phát dưới một con số trong năm 2012 có vẻ như không thực sự có ý nghĩa. Nếu quý 1 năm 2012 được đánh dấu như một “chuyển biến tích cực” khi lạm phát tăng tổng cộng chưa đầy 3% trong quý và đặc biệt chỉ có 0,16% trong tháng 3, thì một nghịch lý quá lớn lại đang tồn tại ngay trong lòng thể chế kinh tế: cần ưu tiên mục tiêu khống chế lạm phát như một động thái đánh đổi tăng trưởng, hay vì động thái quá “quyết liệt” như vậy mà đã vô hình trung triệt tiêu phần lớn sức sản xuất xã hội?
Thực ra đã có quá nhiều tranh luận trong giới điều hành và chuyên gia về câu hỏi và cũng là nghịch lý trên. Phương án được xem là ổn thỏa nhất là làm sao dung hòa được mục tiêu kềm giữ lạm phát và đồng thời khơi dậy khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho các ngành sản xuất.
Tuy nhiên, điều đáng nói là nếu như trạng thái “đình lạm” đã tồn tại trong suốt một thời gian dài từ giữa năm 2011 đến nay, thì cái cách mà những cơ quan có chức năng điều tiết tín dụng và tài chính nhằm phục vụ nền kinh tế như Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính lại cũng bộc lộ quá nhiều dấu hiệu đình trệ.
Những cơ hội tốt nhất để phục hồi phần nào đó sức sản xuất đã bị hai cơ quan này, đặc biệt là NHNN, bỏ qua. 5 tháng liên tiếp chỉ số lạm phát dưới 1% vào nửa cuối năm 2011 có ý nghĩa như một cơ hội hơn là một lời hứa giảm lãi suất.
Hoặc cần đặt ngược lại vấn đề là nếu lãi suất được kéo giảm từ tháng 9/2011 thì sự thể liệu có khả quan hơn? Đó cũng là thời điểm mà lần đầu tiên trong năm 2011, con số gần 50.000 doanh nghiệp phá sản và giải thể được công bố như một thực tế đầy bức xúc.
Song từ tháng 9/2011 đến nay lại đã trôi qua hơn nửa năm mà không có bất kỳ một dấu hiệu cải thiện nào của nền kinh tế, nếu không nói là tình hình còn tệ hơn khá nhiều. Suốt 7 tháng qua, trong ít nhất sáu lần người đứng đầu Chính phủ đích thân yêu cầu “giảm ngay lãi suất” thì đã có đến năm lần yêu cầu này bị người đứng đầu NHNN cố tình trì hoãn.
Cũng trong 7 tháng qua, bất chấp tình trạng chết dở sống dở của doanh nghiệp ở một đầu cân, đầu cân bên kia vẫn nhịp nhàng tung hứng hoạt động của các nhóm lợi ích vàng và ngân hàng. Hàng loạt “chuyển biến tích cực” đã phơi lộ: các doanh nghiệp và ngân hàng kinh doanh vàng thi nhau làm giá và thao túng trong mọi khâu từ nhập khẩu, sản xuất, niêm yết đến tiêu thụ…; thị trường liên ngân hàng sôi động với tình trạng lãi suất liên ngân hàng có lúc tăng đến 30%, nhưng lại chỉ nhằm phục vụ cho ý đồ gây sức ép về thanh khoản và động cơ thâu tóm lẫn nhau; bất chấp lượng vốn ứ đọng khá lớn trong hệ thống ngân hàng, lãi suất cho vay vẫn không được NHNN điều chỉnh theo cách thức áp trần hoặc bằng vào những biện pháp thực hạ, dẫn đến lượng vốn chảy vào doanh nghiệp chỉ như nước trên sa mạc…
Vào quý 1/2012, sau khi “loạn lạc” từ thị trường vàng và liên ngân hàng đã tạm lắng, sự náo động duy nhất lại thuộc về một thị trường có tính đầu cơ rất cao, kèm theo vô số đồn đoán về việc một số ngân hàng nào đó đã tung tiền nhàn rỗi để “gom hàng” và “đánh lên” chứng khoán.
Nhưng trong bối cảnh nhộn nhạo của các thị trường đầu cơ từ khi Chính phủ mới được thành lập, đến nay đã có những thông tin xác thực về nguy cơ hiện hữu một phần ba doanh nghiệp ngành mía đường phải phá sản, hoặc tỷ lệ hàng tồn kho tăng vọt so với cùng kỳ năm ngoái… Bầu sữa tín dụng - “nồi cơm” của các ngân hàng, đã bị NHNN siết chặt trong một toan tính quá nặng về quyền lợi nhóm lợi ích ngân hàng và vàng mà bỏ qua lợi ích chung của cộng đồng xã hội.
Bởi thế, gần đây một số hiệp hội ngành nghề đã phải tán thán “Đến khi lãi suất giảm thì doanh nghiệp đã kiệt sức!”.
Uy tín của Chính phủ có bị tổn thương?
Trong một cuộc họp của Thủ tướng với giới chuyên gia vào tuần cuối tháng 3/2012, lần đầu tiên xảy ra sự việc chủ tịch một ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh - Ngân hàng ACB - đã chính thức bác bỏ lập luận về “khó khăn thanh khoản” do thống đốc Nguyễn Văn Bình thuyết minh, với dẫn cứ rất cụ thể: ACB hiện còn tồn đến 3 tỷ USD mà không cho vay được.
Rõ ràng, con số hàng trăm ngàn tỷ đồng tồn ứ trong hệ thống ngân hàng, chí ít cũng nằm trong nhóm G12, không phải chỉ là lời đồn đoán. Mà đó là một hiện thực, mô tả cho nghịch lý quá thâm sâu về chuyện ngân hàng dôi dư vốn, nhưng nền kinh tế và các doanh nghiệp lại bị “đói ăn”, dẫn đến hậu quả “đình lạm” trong năm 2011 và hiện tượng giảm phát hiện nay, hoặc triển vọng thiểu phát trong cả năm 2012 này.
Từ thực tế đời sống xã hội, các tầng lớp dân cư và trí thức, không phải đã không có những lời cảnh báo về giảm phát và thiểu phát. Nhiều chuyên gia đã cảnh báo về việc nếu siết quá chặt tín dụng, hệ quả tăng trưởng thấp dù sẽ góp phần “làm đẹp” con số lạm phát, nhưng về lâu dài sẽ lại là tác nhân sinh ra lạm phát. Khi đó, như một cơ thể trọng bệnh kéo dài quá lâu, khả năng hồi phục sẽ khó khăn hơn nhiều so với hiện nay. Khi đó, động lực sản xuất sẽ bị giảm về mức tối thiểu khiến cung hàng hóa trở nên khan hiếm hơn hẳn, làm cho giá cả hàng hóa có thể tăng lại. Mà như thế thì không thể nói khác hơn là bóng ma lạm phát những năm trước một lần nữa sẽ tái hiện.
Trong trường hợp sớm nhất, theo chuyên gia Phạm Đỗ Chí, lạm phát có thể bùng phát ngay từ quý 3/2012. 
“Quyết tâm kềm giữ lạm phát” của Chính phủ vì thế đang có nguy cơ bị lung lay. Nguy cơ này lại càng đậm đà sắc màu xã hội khi những nhóm lợi ích được bao cấp - điện và xăng dầu, có thể lấy lý do thiểu phát mà thoải mái tăng giá. Gần đây, những dạo đầu cho kịch bản này đã bắt đầu khởi động.
Cho đến giờ, có lẽ đã khá muộn để vớt vát lại sự hồi phục của những nhóm ngành sản xuất chính, nhưng vẫn chưa phải quá trễ để minh chứng cho khả năng và uy tín điều hành kinh tế của Chính phủ. Minh chứng đó chỉ có thể được thể hiện theo cách phải chọn một trong hai: hoặc quyền lợi riêng biệt của nhóm ngân hàng, hoặc quyền lợi có tính xã hội và dân sinh của khối doanh nghiệp.
Tại thời điểm này, thời gian không còn ủng hộ cho bất kỳ một “độ trễ” nào của minh chứng trên. Nếu dân chúng vẫn thường được ghép cho đặc tính “dễ bị tổn thương” thì Chính phủ sẽ cảm thấy thế nào nếu nhượng bộ cho sự tự tung tác của nhóm lợi ích ngân hàng mà sẽ còn gây ra nhiều hậu quả cho dân tộc trong tương lai không xa?

Viết Lê Quân
-Theo:Ai đã gây ra nguy cơ thiểu phát? 
Đình đốn và nguy cơ thiểu phát?“  VEF
(VEF.VN) - Với thực trạng ngày càng trở nên khó khăn đối với khối sản xuất, những dấu hiệu của đình đốn đã xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến thiểu phát kinh tế.

Hai đầu cán cân
Vào thời điểm tháng 11/2011, khi lần đầu tiên người đứng đầu ngành ngân hàng tuyên bố trước Quốc hội là sẽ không một ngân hàng nào phải phá sản, con số doanh nghiệp phải giải thể hoặc lâm vào tình cảnh tương tự qua một số thống kế đã lên đến gần 50.000.
Có một sự liên hệ giữa hai nhóm này khi một bên được cam kết hỗ trợ và để không đổ vỡ; còn một bên thì hàng chục ngàn DN khó khăn với nguyên nhân lớn từ lãi suất quá cao. Dường như một một đầu cán cân kinh tế đang bị đè nén bởi những vấn đề của nhóm "đặc thù" - ngân hàng?
Và trong khi lo chấn chỉnh những ngân hàng yếu kém ở một đầu cân, ở đầu cân bên kia con số về tỷ lệ phá sản cho phép của doanh nghiệp gần như không được đề cập. Khác hẳn với mức lợi nhuận vài ba ngàn tỷ đồng hàng năm của mỗi ngân hàng, doanh nghiệp sản xuất chỉ còn duy nhất triết lý tự thân: To be or not to be.
Trong khi đó, từ nhiều tháng qua các cơ quan tham mưu về phát triển kinh tế như Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại đã không nêu ra bất kỳ đề xuất nào về giải pháp hạn chế hoặc giảm thiểu tỷ lệ doanh nghiệp lâm vào đường cùng.
Vào quý đầu của năm 2012, những khốn khó của doanh nghiệp còn trở nên "minh bạch" hơn: chỉ theo con số công bố chính thức, có trên chục ngàn doanh nghiệp phải giải thể và ngưng hoạt động do thiếu vốn. Tuy nhiên, trong một đánh giá khác, Bộ KHĐT vẫn tiếp tục cho rằng: "Tình hình kinh tế 3 tháng đầu năm 2012 có những chuyển biến tích cực. Các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có bước phát triển".
Tuy nhiên, khác với "những chuyển biến tích cực" này, những con số từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam lại có một nét chấm phá rất dị biệt: ít nhất 10% số doanh nghiệp đã phải ngừng hoạt động.
Còn theo nhận định của chuyên gia, trong quý 4/2011, ảnh hưởng của việc thắt chặt tín dụng đến sản xuất là rất rõ ràng khi chỉ số tăng trưởng công nghiệp giảm từ 9% xuống còn 6,8%. Đến tháng 2/2012, chỉ số này đã có một buớc thụt lùi sâu sắc về ngưỡng 4%, đặc biệt nhóm ngành chế tạo chỉ tăng 2,4% so với mức tăng 12% trong 7 tháng đầu năm 2011. Rất nhiều ngành có tỷ trọng đóng góp lớn trong tổng giá trị sản xuất thậm chí còn tăng trưởng âm.
Với thực trạng ngày càng trở nên khốn khó như thế, lo ngại về việc những dấu hiệu của đình đốn sản xuất đã xuất hiện. Nhưng cho đến nay, các cơ quan quản lý nhà nước lại chưa hề xuất hiện một sự thừa nhận nào về trạng thái "đình lạm" của nền kinh tế.
Trong khi đó, "Chỉ tiêu" thất nghiệp vì thế dường như cũng bị "quên lãng". Nói đúng hơn, tỷ lệ thất nghiệp chính thức, thường được mô tả như hệ quả của con số doanh nghiệp phá sản theo thống kê chính thức, là không có gì đáng lo ngại. Nhưng chỉ cần nhìn vào cảnh hàng trăm ngàn công nhân không có tiền mua vé tàu về quê ăn tết 2012 cũng đủ thấy hoàn cảnh bĩ cực về thu nhập dẫn đến trạng thái bĩ cực về xã hội đã dâng cao đến thế nào.
Cơ hội nào cho DN?
Cho đến nay, các chính sách lớn về điều hành nhằm kiềm giữ chỉ số lạm phát từ năm 2011 và mục tiêu lạm phát dưới 1 con số trong năm 2012 đã gây ra những hệ lụy tất yếu. Đó là sự suy giảm tăng trưởng mà nhiều chuyên gia hay gọi là một cái giá phải đánh đổi.
Nếu quý 1 năm 2012 lạm phát tăng tổng cộng chưa đầy 3% trong quý và đặc biệt chỉ có 0,16% trong tháng 3 là một điều tích cực thì một vấn đề được cảnh báo đã xảy ra: ưu tiên mục tiêu khống chế lạm phát đã ảnh hưởng đến tăng trưởng và lo lắng hơn có thể xảy ra là nếu tiếp tục các động thái "quyết liệt" sẽ triệt tiêu phần lớn sức sản xuất xã hội?
Thực ra đã có quá nhiều tranh luận trong giới điều hành và chuyên gia về vấn đề trên. Phương án được xem là ổn thỏa nhất là làm sao dung hòa được mục tiêu kềm giữ lạm phát và đồng thời khơi dậy khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho các ngành sản xuất.
Tuy nhiên, điều đáng nói là nếu như biểu hiện "đình lạm" đã xuất hiện thì những cơ quan có chức năng điều tiết tín dụng và tài chính nhằm phục vụ nền kinh tế như Ngân hàng nhà nước và Bộ Tài chính lại cũng có biểu hiện đình trệ khi chậm xoay chuyển trước thực tế của DN.
Những cơ hội tốt nhất để phục hồi phần nào đó sức sản xuất đã chậm được triển khai, hoặc đã bị bỏ qua. 5 tháng liên tiếp chỉ số lạm phát dưới 1% vào nửa cuối năm 2011 có ý nghĩa như một cơ hội hơn là một lời hứa giảm lãi suất.
Nếu lãi suất được kéo giảm từ tháng 9/2011 thì sự thể liệu có khả quan hơn? Đó cũng là thời điểm mà lần đầu tiên trong năm 2011, con số gần 50.000 doanh nghiệp phá sản và giải thể được công bố như một thực tế đầy bức xúc.
Song từ tháng 9/2011, suốt 7 tháng qua, nhiều lần người đứng đầu Chính phủ đích thân yêu cầu "giảm ngay lãi suất" nhưng mãi đến tháng 3, điều này mới được thực hiện.
Cũng trong 7 tháng qua, bất chấp tình trạng chết dở sống dở của doanh nghiệp ở một đầu cân, đầu cân bên kia vẫn nhịp nhàng tung hứng hoạt động của vàng và ngân hàng. Các doanh nghiệp và ngân hàng kinh doanh vàng thi nhau làm giá và thao túng trong mọi khâu từ nhập khẩu, sản xuất, niêm yết đến tiêu thụ...; thị trường liên ngân hàng sôi động với tình trạng lãi suất liên ngân hàng có lúc tăng đến 30%, nhưng lại chỉ nhằm phục vụ cho ý đồ gây sức ép về thanh khoản và động cơ thâu tóm lẫn nhau; bất chấp lượng vốn ứ đọng khá lớn trong hệ thống ngân hàng, lãi suất cho vay vẫn không hế hạ để DN có thể tiếp cận được.
Vào quý 1/2012, sau khi "loạn lạc" từ thị trường vàng và liên ngân hàng đã tạm lắng, sự náo động duy nhất lại thuộc về một thị trường có tính đầu cơ rất cao, kèm theo vô số đồn đoán về việc một số ngân hàng nào đó đã tung tiền nhàn rỗi để "gom hàng" và "đánh lên" chứng khoán.
Nguy cơ thiều phát dẫn đến lạm phát?
Trong một cuộc họp của Thủ tướng với giới chuyên gia vào tuần cuối tháng 3/2012, lần đầu tiên xảy ra sự việc chủ tịch một ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh - Ngân hàng ACB đã cho biết, ACB hiện còn tồn đến 3 tỷ USD mà không cho vay được. Tiết lộ chưa có tiền lệ này đã gián tiếp cho thấy, "khó khăn thanh khoản" của ngân hàng dường nhưu đã qua.
Rõ ràng, con số hàng trăm ngàn tỷ đồng tồn ứ trong hệ thống ngân hàng, chí ít cũng nằm trong nhóm G12, không phải chỉ là lời đồn đoán. Mà đó là một hiện thực, mô tả cho nghịch lý quá về chuyện ngân hàng dôi dư vốn, nhưng nền kinh tế và các doanh nghiệp lại bị "đói ăn", dẫn đến nguy cơ đình lạm. hoặc thiểu phát.
Đã có rất nhiều chuyên gia đã cảnh báo về việc nếu siết quá chặt tín dụng, hệ quả tăng trưởng thấp dù sẽ góp phần "làm đẹp" con số lạm phát, nhưng về lâu dài sẽ lại là tác nhân sinh ra lạm phát. Khi đó, như một cơ thể trọng bệnh kéo dài quá lâu, khả năng hồi phục sẽ khó khăn hơn nhiều so với hiện nay. Khi đó, động lực sản xuất sẽ bị giảm về mức tối thiểu khiến cung hàng hóa trở nên khan hiếm hơn hẳn, làm cho giá cả hàng hóa có thể tăng lại. Mà như thế thì không thể nói khác hơn là lạm phát những năm trước một lần nữa sẽ tái hiện.
Trong trường hợp sớm nhất, theo chuyên gia Phạm Đỗ Chí, lạm phát có thể bùng phát ngay từ quý 3/2012. Và như thế, liệu "quyết tâm kềm giữ lạm phát" của Chính phủ vì thế đang có nguy cơ bị lung lay?
Cho đến giờ, vẫn chưa phải quá trễ để minh chứng cho khả năng điều hành kinh tế của Chính phủ để xoay chuyển tình thế.




-Đình đốn sản xuất, cứ bình tĩnh? (VEF).

(VEF.VN) Trong khi sản xuất đang có dấu hiệu rõ rệt của đình đốn, ngưng trệ, các doanh nghiệp xuất khẩu lo bạc mặt tìm kiếm đơn hàng thì lãnh đạo Bộ Công Thương vẫn trấn an: cần bình bĩnh xem xét.

Tồn kho lớn, thị trường đi xuống
Ông Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Công Thương bày tỏ, chỉ số sản xuất công nghiệp quý I chỉ tăng 4,1% là thấp hơn rất nhiều so với tốc độ tăng cùng kỳ các năm trước. Tốc độ tăng này chưa bằng một nửa so với tốc độ của cùng kỳ quý I năm 2011 so với quý I năm 2010, khi đó, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng tới 9,6%.
Bộ này nhận định, ngành gặp nhiều khó khăn nhất hiện vẫn là công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong khi, cùng kỳ năm trước, mức tăng của ngành này là 13,4% thì quý I năm nay, chỉ tăng được 3,2%, nghĩa là thấp hơn tới 4 lần so với trước.
Trong số 32 nhóm hàng công nghiệp chế biến chính thì có đến 18 nhóm hàng có chỉ số sản xuất giảm như: xi măng, sắt thép, sản xuất sợi và dệt vải, sản xuất giày dép, sản xuất giấy nhăn, bao bì, bột giấy, giấy, bìa, sản xuất phân bón và hợp chất nitơ, sản xuất các sản phẩm khác từ plastic, sản xuất xe có động cơ, bàn ghế, giường tủ, sản xuất đồ uống không cồn, sản xuất cáp điện và dây điện, sản xuất các thiết bị gia đình...
Cùng với sự trì trệ đình đốn của sản xuất, tiêu thụ hàng hóa ngày càng chậm khiến cho lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp tồn kho ngày càng lớn.
Dệt may đang gặp khó về đơn hàng (ảnh: Phạm Huyền)
Tính đến hết tháng 2, Bộ Công Thương cho hay, sức tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ tăng 5% so với cùng kỳ, trong đó tăng chủ yếu ở nhóm hàng tiêu dùng thiết yếu như chế biến rau quả, thuỷ sản, bơ, sữa, thức ăn gia súc, đường và nhóm hàng sản xuất mỹ phẩm, xà phòng chất tẩy rửa...
Đặc biệt, có những nhóm hàng có sức tiêu thụ giảm sút rất mạnh, giảm từ 15% trở lên so với cùng kỳ như đồ uống không cồn, giấy nhăn và bao bì, sắt thép, xi măng, các sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, dây điện và cáp điện, bàn ghế giường tủ.
Do đó, lượng tồn kho của nhiều sản phẩm vẫn cao so với cùng kỳ năm trước. Tính tới 1/3 vừa qua, ông Hòa cho hay, tính chung cho công nghiệp chế biến, tồn kho tăng 34,9%. Một số sản phẩn có lượng tồn kho cao như  phân bón và hợp chất ni tơ tăng 62,7%; sắt, thép tăng 59,1%; bia và mạch nha tăng 48%; cáp điện và dây điện có bọc cách điện tăng 29,0%; sợi và dệt vải tăng 6,6%; đồ uống không cồn tăng 11,0%...
Theo lý giải của ông Hòa, nguyên nhân là vừa qua có kỳ nghỉ Tết dài, nhu cầu hàng công nghiệp chế biến giảm, người dân cắt giảm chi tiêu. Quý I, các công trình xây dựng chưa vào vụ nên tồn kho sắt thép, xi măng cao. Giá cả đầu vào cho sản xuất vẫn cao trong khi tiếp cận vốn khó khăn, lãi suất ngân hàng vẫn cao đối với khu vực doanh nghiệp chế biến, chế tạo, đặc biệt là đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ông Hòa cho rằng, trong bối cảnh khó khăn như vậy, bản thân các doanh nghiệp cũng đã điều chỉnh kế hoạch sản xuất, một số đơn vị giảm mức độ sản xuất nên tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp thấp. Tình hình này đã được Bộ Công Thương lường trước ngay từ cuối năm 2011, đầu năm nay nên Bộ cũng đã có triển khai các chương trình hành động hỗ trợ doanh nghiệp.
Sụt giảm đơn hàng trầm trọng
Tuy nhiên, các khó khăn của doanh nghiệp không đơn thuần là chỉ do lãi suất hay nhu cầu giảm. Các phân tích cụ thể ở từng lĩnh vực đã cho thấy sự tác động bất lợi từ các chính sách được ban hành gần đây. Ví dụ như đối với các doanh nghiệp cơ khí, việc tăng phí trước bạ và phí cấp biển số xe tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 1/1và việc đề nghị áp dụng phí lưu hành phương tiện cá nhân, phí ô tô đi vào trung tâm thành phố giờ cao điểm và phí bảo trì đường bộ đã làm giảm mạnh nhu cầu của người dân. Đây là lý do khiến cho sản xuất ô tô đã sụt giảm tới 18,9%.
Đối với ngành dệt may, tình trạng đang khá căng thẳng bởi những thị trường xuất khẩu chủ lực đang giảm sút lớn so với cùng kỳ như thị trường EU giảm từ 25 -30% so với cùng thời điểm năm 2011. Từ đầu năm đến nay, các nhà nhập khẩu EU đang chuyển dần những đơn hàng từ Việt Nam sang Campuchia, Lào và Bangladesh, nhằm tránh mức thuế nhập khẩu 10% từ Việt Nam, trong khi những quốc gia trên được hưởng tiêu chuẩn Tối huệ quốc với mức thuế suất nhập khẩu 0% của EU.
Thực tế, nhiều doanh nghiệp dệt may rất khó tìm được đơn hàng có số lượng lớn mà chỉ có các đơn hàng vài chục nghìn sản phẩm.
Không khá hơn ngành dệt may, các doanh nghiệp da giầy cũng đang như ngồi trên đống lửa vì mới ký hợp đồng xuất khẩu được đến hết quý I. Bộ Công Thương cho biết, đến nay, mới chỉ có một số doanh nghiệp là ký được hợp đồng đến hết quý II nhưng đơn hàng lại giảm từ 20% - 30% so với cùng kỳ năm trước.
Cùng đó, các doanh nghiệp ngành nhựa cũng gặp không ít khó khăn về huy động vốn đầu tư và giá nguyên liệu tăng cao khoảng 10% -15% so với cuối năm 2011.
Theo phân tích của bộ Công Thương, một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự sụt giảm trên là việc áp dụng thuế môi trường đối với sản phẩm túi nilong dùng đóng gói hàng xuất khẩu đã làm tăng chi phí cho doanh nghiệp. Sau gần 3 tháng triển khai thi hành loại thuế  môi trường đối với nilong, các doanh nghiệp sản xuất và sử dụng bao bì nhựa lúng túng buộc phải sản xuất cầm chừng, chờ đợi hướng dẫn và tìm cách thay đổi nhà thầu phụ hoặc chuyển hướng hoạt động sản xuất kinh doanh.
Riêng các doanh nghiệp da giày Việt Nam lại đang chịu sự tác động mạnh mẽ của xu thế chuyển dịch, thay đổi trong chính sách nhập khẩu của các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật. Đáng chú ý, các nhà nhập khẩu từ các thị trường này ngày càng đòi hỏi phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe hơn về chất lượng, môi trường, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp...
Lãnh đạo Bộ Công Thương cho rằng, đây là cơ hội để doanh nghiệp cần chuyển dịch từ gia công sang tự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm một cách có hệ thống chuyên nghiệp hơn. Các đơn vị phải tiếp tục tìm kiếm đơn hàng xuất khẩu từ thị trường mới, ví dụ như các doanh nghiệp ngành dệt may cần tích cực tìm hướng xâm nhập và gia tăng xuất khẩu vào các thị trường mới để bù đắp sự sụt giảm trên như Trung Quốc, Hàn Quốc, Angola, New Zealand, Ấn Độ, Nga. Ngành da giầy thì xúc tiến mạnh với thị trường Nam Mỹ, nghiên cứu hợp tác đầu tư sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu da giầy với các nước có tiềm năng như Ấn Độ, Brazil...
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Nam Hải khẳng định, Bộ luôn bám sát tình hình các doanh nghiệp. Các giám đốc Sở Công thương hiện cũng đã tha thiết đề nghị cần cứu các doanh nghiệp hiện đang hết sức khó khăn. Số doanh nghiệp phá sản, chết lâm sàng đang gia tăng đáng lo ngại.
"Quý 1, sơ bộ có khoảng 12.000 doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản, giải thể, nhưng ngược lại, Chính phủ đã có phân tích, số doanh nghiệp đăng ký mới cao hơn số đó. Trong vấn đề phá sản này, cần phải bình tĩnh  nhìn nhận thì mới giải quyết được tốt được. Trong khó khăn, trước tiên, các doanh nghiệp cần tái cấu trúc lại", ông Hải nói.

-Chuyện" thường ngày" tại các tập đoàn NN "chưa Thanh tra là "anh hùng" khi thanh tra ra sai phạm " ? tamnhin-


3 bệnh hiểm nghèo khiến DN 'tử vong' nhanh (VEF 6-4-12)
Hai câu chuyện về sự minh bạch (VEF). - Độc quyền vốn và lãi suất (TN). - Sáp nhập ngân hàng và góc nhìn truyền thông (VEF).NHNH: Nghị định 24 không phân biệt đối xử giữa các nhãn hiệu vàng miếng - Gafin-Vụ trưởng vụ Quản lý ngoại hối khẳng định, các loại vàng miếng thuộc sở hữu hợp pháp của người dân đều được pháp luật công nhận, được mua bán, trao đổi.
China’s rubbish problem -After a decade of double digit economic growth China produces more waste than any other country, now it needs to work out what to do with it all
- TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Doanh nghiệp Việt Nam đã kiệt sức! (TBKTSG).
Tái cơ cấu kinh tế: Đi tìm lời giải cụ thể (VnEconomy).- Trần lãi suất tiền gửi sắp hạ xuống 12% (DT).- Tìm vốn cho hạ tầng – Kỳ 2: Khó “lãi suất”, tắc “đền bù” (TT).
“Cơn sốt” vàng có kết thúc? (Infonet).  - Giá vàng trong nước sắp tương đương giá vàng thế giới? (VTC).  - Vàng “phi SJC” sẽ ra sao? (TT).

Vietnam Airlines lên kế hoạch cổ phần hóa năm 2013 (TBKTSG).- Ai đã gây ra nguy cơ thiểu phát? (Tầm nhìn).- Vay vốn ngân hàng: Doanh nghiệp nhỏ… nằm mơ! (Petrotimes).
Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng: Lo ngại những biến tướng của vàng (SGTT).  - Khó ngăn vàng nhập lậu (SGTT).- ‘Trảm’ nhiều dự án FDI tỷ đô (TP).
Người mua thị trấn 1 cư dân ở Mỹ là một doanh nhân TP.HCM (SGTT).- Nhà đầu tư Việt Nam chi 19 tỷ đồng mua một thị trấn ở Mỹ (VnEconomy).  - Hai người Việt mua thị trấn nhỏ nhất của Mỹ (VNN).- Không có chuyện bán sầu riêng non cho thương lái Trung Quốc (TN).

----

Tổng số lượt xem trang